Nguyễn Thu Trâm8406 - Đối với phần lớn người từ miền Bắc di cư vào Nam năm 1954 th́ sự kiện ngày 01 tháng 11 năm 1963 măi măi là một cơn ác mộng. Nhất là bản tin ngắn được phát đi vào khoảng 10 giờ sáng ngày 02 tháng 11, loan báo về cái chết của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm và cố vấn Ngô Đ́nh Nhu đă thực sự làm suy sụp tinh thần của hầu hết đồng bào di cư, nhất là đồng bào công giáo. Đối với hầu hết người Bắc di dân th́ cái chết của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm và sự cáo chung của nền Đệ Nhất Cộng Ḥa là một hồi chuông báo tử cho nền cộng ḥa ở miền Nam. Những giáo dân di cư, trong đó có cả ông nội tôi, đă mường tượng một ngày quân đội cộng sản tiến vào Sài g̣n, và một cuộc “di cư” nữa để lánh nạn cộng sản sẽ diễn ra sau đó.
Suốt những ngày tiếp theo của tháng 11 kinh hoàng năm đó, gia đ́nh ông bà chúng tôi cùng tất cả giáo dân, giành hầu hết thời gian đến nhà xứ để cầu nguyện cho Tổng Thống và bào đệ Ngô Đ́nh Nhu, những đại ân nhân đă giúp cho gia đ́nh chúng tôi cùng hơn một triệu đồng bào khác thoát được hiểm họa cộng sản ở miền Bắc, bởi sau hai năm miền Bắc cải cách ruộng đất, với chính sách tố khổ, cộng sản đă mang đến bao nỗi tang thương và kinh hoàng cho những người dân xứ Bắc.
Chắc sẽ có nhiều người đặt vấn đề rằng với thời gian 300 ngày để di cư, th́ cứ tùy nghi ra đi chứ cần ǵ phải có ai giúp đở? Sự thật hoàn toàn không đúng như vậy, v́ chính quyền của Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa, tức chính quyền cộng sản của ông Hồ Chí Minh luôn t́m mọi cách để ngăn chặn người ta di cư sang xứ tự do ở miền Nam, bằng nhiều h́nh thức đe dọa, bưng bít thông tin, kể cả khủng bố tinh thần và tuyên truyền xuyên tạc chính sách di cư cũng như xuyên tạc về chế độ Cộng Ḥa để giảm thiểu số người di cư vào vùng tự do đến mức thấp nhất. Nhân ngày hiệp kỵ lần thứ 49 của Cố Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, 01 tháng 11 năm 2012, như một nén hương ḷng, để ghi tạc công đức của Cụ Ngô, chúng tôi xin thuật lại hành tŕnh lánh nạn cộng sản lần thứ nhất của gia đ́nh chúng tôi, cũng như của hơn một triệu đồng bào miền Bắc, theo nhật kư hành tŕnh của ông tôi, nguyên là một Chánh Tổng ở Văn Giang, Hải Hưng.
Sau khi quân đội pháp đầu hàng ở Điện Biên Phủ, Hiệp định Genève được kư kết giữa chính phủ của Hồ Chí Minh và chính phủ Cộng Ḥa Pháp, chia đôi Việt Nam thành hai miền, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến. Từ vỹ tuyến 17 trở ra thuộc Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa, tức là Cộng Sản Việt Nam. Từ Vĩ tuyến 17 đến Cà Mau thuộc Quốc Gia Việt Nam. Việc đất nước phải bị chia cắt làm hai miền với hai thể chế chính trị khác nhau là một thảm họa của dân tộc Việt Nam, mà ít nhất đă một lần xăy ra trong lịch sử của đất nước khi Trịnh – Nguyễn Phân Tranh kéo dài hơn 100 năm từ 1627 cho đến năm 1789 khi Hoàng Đế Quang Trung kéo đại binh ra Bắc đánh tan 20 vạn quân Thanh vào khuya tối mùng 5 Tết Kỷ Dậu 1789 mới hoàn toàn chấm dứt 100 năm chiến tranh giữa Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn mang bao nhiêu đau thương tang tóc cho dân Việt giữa hai bờ sông Gianh. Có một điều khác biệt trong lần chia cắt đất nước lần này là giới tuyến không c̣n là sông Gianh mà là sông Bến Hải, và “Họa trung hữu phúc”, cũng “nhờ” Hồ Chí Minh kư hiệp ước chia cắt đất nước mà ít nhất là một nữa dân tộc Việt ở bờ nam sông Bến Hải đă không phải chịu sự thống trị sắt máu của cộng sản ngót 21 năm từ 1954 cho đến 1975.
Ít nhất cũng hơn 1 triệu người Bắc chúng tôi cũng tránh được họa cộng sản trong ngần ấy năm, nhờ vào Điều 14 phần (d) của Hiệp định Geneva cho phép người dân ở mỗi phía di cư đến phía kia và yêu cầu phía quản lư tạo điều kiện cho họ di cư trong ṿng 300 ngày sau thoả hiệp đ́nh chiến, tức việc di cư sẽ chấm dứt vào ngày 19 tháng 5 năm 1955. Dân Hà Nội có 80 ngày, Hải Dương có 100 ngày, c̣n Hải Pḥng, điểm cuối cùng tập trung để di cư có 300 ngày để di cư.
Ngày 4/6/1954, trước khi Hiệp định Geneve được kư kết 6 tuần, Pháp đă kư một Hiệp định với Quốc gia Việt Nam, công nhận Quốc gia Việt Nam hoàn toàn độc lập. Theo đó chính phủ Quốc gia Việt Nam sẽ tự chịu trách nhiệm với những hiệp định quốc tế được kư bởi Pháp trước đó nhưng có liên quan tới họ, cũng như không c̣n bị ràng buộc bởi bất cứ hiệp ước nào do Pháp kư sau này.
Ông Trần Văn Đỗ, trưởng đoàn đại diện của Quốc gia Việt Nam nhất quyết không kư vào Hiệp định Genève v́ không chấp nhận việc chia cắt Việt Nam và đại diện phái đoàn Quốc Gia Việt Nam ra một tuyên bố riêng:
“... Chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận một cách chính thức rằng Việt Nam long trọng phản đối cách kư kết Hiệp định cùng những điều khoản không tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt. Chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận rằng Chính phủ tự dành cho ḿnh quyền hoàn toàn tự do hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực hiện Thống nhất, Độc lập, và Tự do cho xứ sở."
Tuy vậy, lời phản kháng và đề nghị của đại diện Quốc gia Việt nam đă không được Hội nghị bàn tới. Ngoại trưởng Trần văn Đỗ từ Genève tuyên bố với các báo chí như sau: "Từ khi đến Genève, phái đoàn không bao giờ được Pháp hỏi về ư kiến về điều kiện đ́nh chiến, đường phân ranh và thời hạn Tổng tuyển cử. Tất cả nhưng vấn đề đó đều được thảo luận ngoài Hội nghị, thành ra phái đoàn Việt Nam không làm thế nào bầy tỏ được quan niệm của ḿnh".
Tuy lên tiếng phản đối, nhưng sau khi hiệp định được kí kết, Chính phủ và quân đội Quốc Gia Việt Nam vẫn cùng quân Pháp tập kết về phía nam vĩ tuyến 17. Ngày 28 tháng 4 năm 1954, Uỷ Ban Bảo vệ Bắc Việt Nam của Quốc Gia Việt Nam t́m cách kêu gọi dân chúng di cư vào Nam để lánh nạn cộng sản. Một kế hoạch di cư được đặt ra và một Uỷ Ban Di Cư được thành lập. Ngày 30 tháng 7 năm 1954, Thủ Tướng Ngô Đ́nh Diệm phát biểu cổ vũ dân chúng miền Bắc di cư vào miền Nam để lánh nạn cộng sản.
Một ngày sau khi Hiệp định được kư kết, tức ngày 22 Tháng Bảy, Thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm ra lệnh treo cờ rủ toàn Miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào để bày tỏ quan điểm chống đối sự chia đôi đất nước.
Ngày 22 tháng 7 năm 1954, Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi đồng bào cả nước: "Đấu tranh để củng cố hoà b́nh, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ cũng là một cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ”., và khẳng định: “Trung, Nam, Bắc đều là bờ cơi của nước ta, nước ta nhất định thống nhất, đồng bào cả nước nhất định được giải phóng”. Đây là lần đầu tiên, Hồ Chí Minh bày tỏ lập trường của Quốc Tế Cộng Sản về chiến lược nhuộm đỏ cả Đông Dương, và quyết tâm dùng bạo lực cách mạng, dùng máu xương của đồng bào Việt Nam trong một cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn để mở rộng quyền thống trị của Hồ Chí Minh và của chế độ cộng sản trên toàn bộ đất nước.
Sở dĩ chúng tôi phải nêu lại những sự việc trên là để quư độc giả cũng như các lănh đạo của cộng sản Việt Nam hiện nay thấy được rằng việc chia cắt đất nước là tội ác của Hồ Chí Minh và Thực dân Pháp, chứ hoàn toàn không có sự can dự của Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam hay của Thủ Tướng Ngô Đ́nh Diệm.
Sau đó, hậu thân của Quốc gia Việt Nam là Việt Nam Cộng ḥa, với sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ đă từ chối tổ chức tuyển cử thống nhất Việt Nam. Năm 1956, Việt Nam Cộng Ḥa được thành lập trên cơ sở Quốc Gia Việt Nam. Tổng thống Việt Nam Cộng Ḥa Ngô Đ́nh Diệm tuyên bố: “Chúng tôi không từ chối nguyên tắc tuyển cử tự do để thống nhất đất nước một cách hoà b́nh và dân chủ" nhưng "nghi ngờ về việc có thể bảo đảm những điều kiện của cuộc bầu cử tự do ở miền Bắc”. Đây là một nhận định vô cùng sáng suốt của Cố Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, bởi theo thể thức “đảng cứ dân bầu” của cộng sản, th́ chắc chắc toàn thể cử tri miền Bắc buộc phải dồn phiếu cho Hồ Chí Minh, bởi họ biết rằng chỉ có làm như thế họ mới mong được yên phận, chứ nếu chọn lựa theo lương tri của họ, để bầu cử cho chính phủ Quốc Gia Tự Do, th́ chắc chắn họ sẽ bị quy kết là Việt Gian, rồi cả gia đ́nh, họ tộc sẽ bị đấu tố bị tru diệt. Trong khi đó ở miền Nam tự do, người ta có quyền lựa chọn ngay cả việc chống đối lại chính phủ mà không bao giờ sợ phải bị trả thù, không bao giờ bị đấu tố, th́ thiếu ǵ những thành phần thân cộng hoặc những kẻ phá thối, sẳn sàng bỏ phiếu cho Hồ Chí Minh để thủ tiêu nền Cộng Ḥa c̣n non trẻ.
Bookmarks