ĐI T̀M CÁI TÔI ĐĂ MẤT
(Tuỳ bút chính trị - 2006)
Nguyễn Khải
1.
Năm 70 tuổi tôi bắt đầu chán viết, người ră ra, đọc sách cũng nằm, đọc được mười lăm phút chữ nghĩa đă loè nhoè, chả rơ ḿnh đang đọc cái ǵ. Rồi ngủ. Ngủ như chim, một chớp mắt đă tỉnh, tiếp tục đọc nốt cái nửa trang đọc dở vẫn cứ lờ mờ v́ chả c̣n nhớ họ viết cái ǵ trong cái nửa trang vừa đọc. Cũng năm ấy tôi được trao giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt 2. Mừng th́ rất mừng nhưng tôi đă nhận ra ngay đây là tấm bia mộ sang trọng cắm lên một đời văn đă tới hồi phải kết thúc. Thế là lại buồn, ra vào ngẩn ngơ cả tháng. Rồi quyết định ra chơi ngoài Bắc, trở lại quê ngoại là nơi tôi đăng kư ṭng quân năm 1946, cũng là nơi tôi tập tọng viết những bài báo kháng chiến đầu tiên in litô vào năm 1949. Nó mở đầu cho nhiều chục năm tiếp theo, vừa là anh bộ đội vừa là nhà báo nhà văn. Cái thị xă quạnh quẽ, tơi tớp, tối tăm, toàn một màu xanh và đen những năm nào, giờ đă biến hoá thành một quận của Hà Nội hay Sài G̣n hôm nay. Lại nhớ tới những dăy phố ngắn ngủi, nhà thấp, hè hẹp, rợp bóng nhăn, mặt người hiền lành, dáng đi thong thả, thị xă như cái làng lớn, đi một đoạn đường phải chào hỏi không biết bao nhiêu là người v́ toàn người quen cả. Năm chục năm sau, trở lại cái thị xă của tuổi mới trưởng thành, mà là trở về lần thứ ba (hai lần trước cách đây đă hơn hai chục năm) , cái mảnh đất thân thuộc đă hoá ra xa lạ. Đạp xe cả ngày chả gặp người quen nào, hoặc có gặp nhưng đă là hai ông già ở tuổi bảy mươi làm sao nhớ lại gương mặt của nhau cái thời mới mười tám đôi mươi. Lần về thứ hai vẫn c̣n ba người quen cũ, một người là Thuận, đại tá về hưu, một người là Tùng, trung đội phó, một người là Mễ, tiểu đội trưởng là những cấp chỉ huy đầu tiên của tôi trong cuộc sống quân ngũ. Lần này về gặp anh Thuận, cũng là ông chủ báo đầu tiên của tôi, anh hơn tôi vài tuổi. C̣n hai người kia đều mới mất ở tuổi ngoài bảy mươi cả. Đường phố không quen, mặt người không quen, c̣n lại một ông bạn thân tối ngày đi họp, đủ các thứ hội hè để ông đến họp, vẫn là cái khát khao của người đă già, đă nghỉ hưu có dịp gặp lại bạn cũ, tṛ chuyện là chính, nhắc lại chuyện ngày xưa là chính, rồi than thở, đủ thứ than thở, chuyện nhà chuyện nước. Cũng buồn nhỉ? Chuyện người già có vui bao giờ, người đă xong một việc có làm ǵ cũng không thể vui. V́ tôi là người có gốc địa phương nên tỉnh uỷ có gặp và mời ăn một lần cho phải phép. Nhưng nh́n những gương mặt quan chức của tỉnh hôm nay mà kinh ngạc. Mặt người nào cũng đầy những múi thịt, sần sùi, nói nhiều, cười to, lời lẽ nhạt nhẽo, dung tục, và không bao giờ nh́n thẳng vào mặt ḿnh để nói, cứ như là đang nói với một ai khác ngồi cạnh ḿnh hoặc ngồi sau ḿnh. Bữa sắp về Hà Nội, bí thư tỉnh uỷ lại mời gặp, không phải là gặp chính thức mà là cùng ngồi ăn sáng với ông v́ ông cũng đang bận. Buổi gặp vừa h́nh thức vừa khó chịu v́ chỉ có người lănh đạo của tỉnh nói, nói như người rao hàng, mắt nh́n đâu đâu, bụng nghĩ đâu đâu. Tôi chỉ c̣n nhớ một chuyện, có một ông tướng, là danh tướng, người địa phương, có đem một giống hoa lạ từ Hà Nội về, tự tay ông trồng ở vườn hoa của tỉnh uỷ v́ phải chọn đúng ngày, đúng giờ, cả đúng hướng nữa mới đem lại thịnh vượng, hạnh phúc cho dân trong tỉnh. Thật vậy sao?
Trong mấy ngày xuống xă vừa vui vừa buồn. Ai cũng giàu có hơn trước, nấu cơm bằng nồi cơm điện, tối xem tivi mầu, giờ rảnh th́ xem phim bộ. Mỗi xóm đều có cửa hàng cho thuê băng vidéo, có gái điếm cho ngủ chịu đến mùa trả bằng thóc, có cờ bạc, có hút thuốc phiện và chích heroin, thành phố có ǵ ở làng quê đều có, cả hay lẫn dở, dở nhiều hơn hay. Tôi về một xă, xă cho tôi ở nhà một anh bưu tá, lúc rảnh rỗi hỏi chuyện ǵ anh cũng bảo không biết. Ở xă ba ngày, đảng uỷ, uỷ ban không ai tiếp cả. Có một buổi tối có một anh chàng to béo đến chơi với gia đ́nh, cả vợ lẫn chồng nhà chủ ăn nói thưa gửi, bộ điệu khúm núm. Anh ta ngồi ưỡn người trên ghế tựa, hai chân xoạc rộng, hai bàn tay đặt lên bụng, nói hỏi trống không, thỉnh thoảng đưa mắt nh́n tôi nhưng không hỏi ǵ, chào cũng không, mắt nh́n cứ lừ lừ, mà hắn chỉ đáng tuổi con tuổi cháu. Tôi cứ nghĩ tay này hẳn là dân buôn bán ở tỉnh có họ hàng ǵ với anh chủ nhà, tạt qua chốc lác rồi đi. Nhưng anh bưu tá lại bảo đó là ông chủ tịch xă. Lại một ngạc nhiên nữa! Mấy ngày sau lại về một xă thuộc phía Bắc tỉnh. Cách đây đă ba chục năm tôi đă đi đi về về xă đó khoảng một năm để viết về một anh chủ tịch xă chưa tới ba mươi tuổi trong cái thời có cao trào lập hợp tác xă nông nghiệp. Ngồi chơi ở phố huyện kề liền xă bất ngờ lại gặp người quen cũ của mấy chục năm trước. Hiện giờ ông ấy đă ngoài sáu chục tuổi, có cửa hiệu chụp ảnh ở ngay phố, to béo, rềnh ràng, chuyện ǵ cũng biết, lại biết cách thuật lại về mọi cái biết của ḿnh một cách sống động, tươi rói, nghe chuyện mà tưởng như chính ḿnh cũng được chứng kiến. Nhà văn mà gặp được một người như thế là có thể nghĩ ngay một cuốn sách sẽ viết, viết cũng nhanh thôi, v́ mọi vật liệu đă sẵn sàng. Bao nhiêu chuyện sui sẻo, buồn bă của chuyến đi bất thần được đền bù quá hậu hĩ nhân một lần gặp lại người quen cũ. Đang mừng khấp khởi liền bị mấy ông xă nhảy vô phá đám, đi một bước có trưởng công an xă theo một bước, vừa là người hướng dẫn vừa là người bảo vệ. Chỉ được tṛ chuyện với người đă được xă giới thiệu và ăn ngủ tại nhà ông bí thư xă. Nhưng tôi đâu có chịu thua hoàn toàn. Xuống cái xă bị ghẻ lạnh th́ tôi chơi với dân, viết về một ông nông dân bị giời hành, được bạn bè khen là rất khá. Về cái xă được chiều chuộng quá mức tôi viết được cái bút kư “Mất toi một cuốn sách”. Sang tuổi 70, mọi hoạt động của con người đều chậm, đều kém, riêng cái chuyện viết lách của tôi vẫn giữ được phong độ gần như xưa, vẫn viết rất nhanh, riêng cái nh́n th́ trào lộng nhiều hơn, ngậm ngùi nhiều hơn. Nó là thứ hương vị thơm ngát chắt ra từ hơn bảy mươi năm được làm người.
2.
Tôi là một đứa trẻ khi bước vào đời có nhiều điều thua thiệt nhưng tôi đă biết níu chặt lấy thời thế mà leo dần lên. Tôi nói thế chả phải v́ cái thói cơ hội, thời này có mấy ai thích nói ḿnh thành tài là nhờ cách mạng. Nhưng có nhiều người được cách mạng ôm hẳn vào ḷng nâng niu, vỗ về mà vẫn không nên người th́ sao? Là v́ họ c̣n thiếu một yếu tố nữa, thiếu cái đó dầu họ có được bước trên thảm đỏ, kẻ nâng người dắt một đời vẫn không ra con người tử tế. Mà tôi th́ có, có dư thừa. Ấy là cái tính hài hước bẩm sinh, trước hết là biết giễu ḿnh, theo dơi từng bước đi, từng câu nói của chính ḿnh bằng cái nh́n của người khác vừa nghiêm khắc vừa bỡn cợt. Sau ḿnh đến người, tôi cũng hay nh́n ra cái khía cạnh buồn cười ở người khác dầu họ xuất hiện dưới cái vỏ trang trọng đến thế nào. Cái buồn cười là cái trái nghịch trong cùng một người, kẻ vô luân nói chuyện đạo đức, tên ăn cắp dạy dỗ phải bảo vệ của công, người hống hách lại là tên nịnh bợ bậc nhất. Nếu tán rộng ra th́ c̣n vô vàn chuyện buồn cười mà ta bắt gặp ở mọi nơi, trong mọi thời gian của cuộc sống. Anh dốt thường làm ra vẻ thông thái, thằng nhát rất thích xuất hiện như người anh hùng, một chính khách đầu óc rỗng tuếch luôn tỏ ra uyên bác bằng những lời nói vô nghĩa. Nếu những người đó có được một chút hài hước, có khả năng tự ngắm ḿnh trong khi diễn tṛ th́ họ sẽ biết cách tự kiềm chế trong một giới hạn nào đó.
Muốn có cái ḿnh không thể có không chỉ là chuyện buồn cười mà c̣n là căn bệnh không thể cứu chữa của nhân loại. Các triết gia, giáo chủ cũng không thoát khỏi cái tṛ cười ấy. Họ muốn cho nhân loại cái họ không thể có, muốn cứu nhân loại bằng những phương tiện nhiều lắm chỉ đem lại mê say tự huyễn hoặc mà thôi. Học thuyết xă hội hay tôn giáo khôn ngoan phải là học thuyết mở, có thể là thế này mà cũng có thể là thế khác, luôn luôn biến hoá, lấy sự biến hoá của thời thế và con người làm mục tiêu tối thượng để tự điều chỉnh. Học thuyết là do con người làm ra, một trí tuệ sáng láng nhất vẫn cứ bị ràng buộc bởi nhiều ṿng tự giác và không tự giác của thời thế, của cuộc đời. Bởi v́ họ không thể là Thượng Đế để biết hết vô vàn nguyên nhân những tác động qua lại, uốn éo, bất ngờ của nó đưa đẩy mọi sự vật tới những thay đổi rất nhỏ, không mấy ai chú ư, cuối cùng là những biến thiên cực lớn. Chả có học thuyết nào dự đoán đúng những ǵ sẽ xảy ra trong tương lai và cũng chẳng thể dự đoán được cái kết cuộc của nhiều sự việc đang xảy ra trong hiện tại. Mọi lời tiên tri đều có tính mê sảng, đồng cốt. Dành cả một thời thanh xuân để tin vào những lời tiên tri ấy, về già nh́n lại cái tài sản tinh thần thâu góp một đời chỉ là một cái kho chứa đủ tạp nham chẳng có một chút giá trị ǵ.
3.
Tính hài hước là cái thứ mà người cộng sản ghét nhất v́ nó có thể biến mọi chuyện thiêng liêng thành tṛ cười. Một học thuyết không thể chứng minh sự đúng đắn của nó trong thực tiễn th́ trước sau sẽ biến thành tôn giáo. V́ tôn giáo là niềm tin, là thói quen, là tập quán, là vâng phục, là ở thế giới này chỉ có một chân lư, ngờ vực nó, đặt quá nhiều câu hỏi về nó chỉ là kẻ phản đồ, phải bị trục xuất khỏi cộng đồng, phải bị cách ly, bị ngồi tù để tránh mọi sự truyền nhiễm có thể. Học thuyết xă hội đă phải đội lốt tôn giáo để tồn tại th́ mọi thứ thuộc về nó đều là thiêng liêng. Lănh tụ thành thần thánh, lời nói bài viết của họ thành kinh bổn, cuộc sống cá nhân và xă hội của họ đầy ắp những chuyện phi thường. H́nh ảnh của Lenin và Stalin, của Mao Trạch Đông và Kim Nhật Thành và lời nói của các vị ấy bao trùm lên toàn bộ cuộc sống tinh thần của các quốc gia họ cầm quyền, làm ǵ, nói ǵ, nghĩ ǵ đều không thoát ra khỏi cái bóng che ấy. Bài hát về lănh tụ trang nghiêm như thánh ca, người hát có dáng điệu sùng bái như tín đồ. Cái thế giới cá nhân của các công dân đă bị đốt cháy, đă thành tro bụi và tan biến trong hương khói của đền đài. Trong không khí ngùn ngụt lửa cháy cùng với tiếng sóng hoan hô khi gần khi xa không lúc nào dứt, vậy những người làm việc bằng trí tuệ sẽ t́m đâu ra một khoảng trời yên tĩnh và tự do để suy nghĩ về những công tŕnh một đời của riêng ḿnh. Người cộng sản sẽ không bao giờ hiểu được cách làm việc cá nhân, đơn độc, xa rời quần chúng, xa rời các phong trào cách mạng có tính địa phương của các nhà trí thức thấm đẫm “tư tưởng tư sản” ấy. Phải cải tạo họ bằng các chuyến đi thực tế, bằng các lớp học chính trị ngắn hoặc dài ngày, và bằng cả những lần được gặp gỡ thân mật với lănh tụ để có thêm ḷng tin vào những lư do phải tự phủ định, để khẳng định sự nghiệp vĩ đại của quần chúng. Phải bỏ hẳn những tư tưởng triết học và thế giới quan phù hợp với cách nghĩ, cách nh́n, cách đánh giá của riêng ḿnh, đă được chứng minh qua những trải nghiệp của bản thân để nhập vào ḍng tư tưởng chính thống, cái triết học chính thống, cách nh́n nhận và đánh giá chính thống, xét cho cùng chả liên quan bao nhiêu tới cái tâm sự đang ấp ủ, tới những điều cần phải viết, và trên hết, máu thịt hơn hết là những phát hiện độc đáo của riêng ḿnh trong lịch sử, trong văn hoá, trong nhân sinh. Mất những cái đó th́ c̣n sống tiếp làm ǵ, c̣n viết tiếp làm ǵ nên một số đă phải đổi nghề, bỏ nghề sáng tạo sang nghề cạo giấy, làm một anh công chức hiền lành, mẫu mực, vừa có quyền vừa có lợi. Cái danh cái lợi cũng có sức quyến rũ người ta lắm, qua nhiều năm tháng nó đă trở thành ư nghĩa quan trọng nhất để sống, sống với vợ con, với bạn bè, với xóm làng, với xă hội. C̣n một số nhỏ v́ không làm nghề ǵ khác ngoài cái nghề văn chương nên đă đầu quân về các nhà xuất bản, tuần báo, tạp chí tiếp tục làm nghề nhưng phải viết trong khuôn phép đă quy định, cũng có đôi lúc đă tự buông thả theo những cảm xúc tự nhiên hoặc bất chợt bị mê hoặc bởi những h́nh tượng nghệ thuật quá đẹp đă trở thành những nạn nhân oan uổng của nhiều vụ án văn tự, nghĩ lại mà tiếc cho nhiều người, mộng mơ nhiều th́ tài năng cũng nhiều đều bị thui chột ngay từ những năm c̣n trẻ.
4.
Trong suốt ba chục năm chiến tranh, mỗi người Việt Nam đă quên hẳn những nhu cầu vật chất và tinh thần của riêng ḿnh để được cùng sống như mọi người, cùng cảm nghĩ như mọi người, sống cùng sống chết cùng chết. Học thuyết Mác và vai tṛ lănh đạo của Đảng Cộng Sản được tôn vinh đến tuyệt đối. V́ số phận cá nhân gắn liền với tập thể với dân tộc, trùng hợp khít khao với các mục tiêu chính trị của đảng cầm quyền và những tham vọng của người lănh đạo. Nhưng cả mấy thế hệ cùng tham gia chiến tranh, sống trong một môi trường xă hội, chính trị của một đất nước đang có chiến tranh cũng là một tai hoạ khôn lường. Trong chiến tranh tập thể gạt phắt cá thể sang một bên, có thể giẫm đạp lên nó cũng chả mất mát ǵ, v́ chiến tranh đ̣i hỏi sự nhất trí, cần sự ra lệnh đúng lúc của nhiều cái đầu chứ không có thời gian bàn luận, sai đúng có sự tham gia của nhiều cái đầu. Vả lại nếu người lănh đạo tính toán sai lập tức sẽ bị đối phương trừng phạt ngay, không sớm tỉnh ngộ th́ cả sự nghiệp có thể bị đổ vỡ. Đến thời hoà b́nh th́ chỉ c̣n dân chúng đối mặt với chính quyền, quyền lợi khác nhau, nguyện vọng khác nhau, có trăm ngàn thứ khác nhau trong một cộng đồng: dân tộc, tôn giáo, văn hoá, điều kiện sống… trong một thời gian dài tạm quên đi, tạm gác lại để lo việc lớn, lúc này nhất loạt trỗi dậy, đ̣i hỏi và mỗi cá nhân đều thấy cái ḿnh đ̣i là quan trọng nhất, bức thiết nhất. Độc lập có rồi, tự do có rồi, vậy cái hạnh phúc của mỗi chúng tôi nhà nước định quên sao? Nhưng người dân phải t́m ra cơ hội nào để nói, đến chỗ nào để nói, dùng phương tiện ǵ để nói. Nói với tổ chức, với các đoàn thể ḿnh là một hội viên, không ai nghe cả. Nói trên báo chí không báo nào dám đăng. Viết kế sách, thỉnh nguyện gửi lên các cấp có thẩm quyền th́ chả bao giờ nhận được trả lời. Vậy phải làm ǵ nhỉ? Làm loạn không dám, biểu t́nh đúng pháp luật cũng chưa có tiền lệ. Người đứng đắn bộc lộ sự không bằng ḷng của ḿnh tại các cuộc họp lập tức bị những kẻ cơ hội trấn áp tức th́, bị cơ quan an ninh ghi vào sổ đen, thăng chức nên lương từ nay không thể, chỉ c̣n đợi ngày về hưu thôi. Nhưng dân chúng vẫn có cách xả nỗi bất b́nh của họ bằng cách sáng tạo ra nhiều chuyện tiếu lâm chính trị. Trong cả nước không đâu có nhiều chuyện tiếu lâm bằng Hà Nội v́ nó là thủ đô hành chính, mọi chuyện cung đ́nh vừa thật vừa giả tràn gập các quán cà phê mỗi ngày. Không ra được báo viết th́ làm báo mồm vậy, lời nói bay đi lấy đâu làm bằng, tưởng như vô hại mà hại vô kể. V́ nó sẽ thành dư luận, không ai bắt giam được dư luận, giết được dư luận, cái dư luận hỗn tạp, vô sở cứ mở rộng măi ra, bao trùm mọi việc mọi người trở thành mặt bằng mới để đặt ra các tiêu chuẩn sống cho một thời. Cái tiêu chuẩn mới có tên gọi là “mặc kệ nó”. Nó là người khác, là nhà nước, là bất cứ ai, bất cứ việc ǵ không có quan hệ trực tiếp tới các lợi ích cá nhân ḿnh. Cái cá thể sau một thời gian dài nhập vào cái tập thể đă tự tách ra khỏi nó để t́m lại ḿnh. Nhưng cách t́m lại ấy thường thuộc về phía tiêu cực của con người, lấy lợi ích bản thân làm mục tiêu nên không tạo ra được sự thăng hoa, sự tự do chân chính, là môi trường cho mọi sáng tạo độc đáo, vừa thấm đẫm tính cá nhân vừa thấm đẫm tính thời đại ở yếu tố tiền phong của nó. Ở đây tôi muốn nói thêm, tự do được nuôi dưỡng tự nhiên trong môi trường dân chủ là tự do của cống hiến, c̣n tự do vừa thoát ách chuyên chế thường có tính phá hoại, trả thù, để bù lại những năm tháng bị tước đoạt. Cứ so sánh về tự do của một xă hội dân chủ nhiều trăm năm như Hoa Kỳ và tự do vừa giành được của nước Nga Xô Viết là đủ rơ. V́ nó không được chuẩn bị, không được giáo dục, mọi bản năng của con người được xổng ra nhất loạt sẽ gây hỗn loạn cho cộng đồng, nhiều hơn là xây dựng. Dân chủ và tự do phải có thời gian để làm quen, để học cách sử dụng và bảo vệ, phân được ranh giới giữa cá nhân và cộng đồng. thành pháp luật, thành tập quán mới có thể đơm hoa kết trái được.
5.
Một đất nước bị xâm lược, rồi bị nô dịch, dân chúng thành nô lệ không được pháp luật che chở, làm người cũng khó nói ǵ tới ư thức cá nhân trong mỗi con người. Ư thức cá nhân là ư thức về cái riêng biệt của ḿnh, về cái có thể cống hiến của ḿnh cho cộng đồng không giống với một ai do có một cách cảm nhận riêng, một cách suy nghĩ riêng, từ đó… Những cái giá trị cá nhân chỉ được nh́n nhận, được tôn vinh ở những xă hội tương đối tự do, các mối quan hệ giữa người với người tương đối tốt đẹp. Ở xă hội tư bản mà chúng ta vốn có thành kiến là rất xấu xa lại thường hay cho những tiếng kêu cứu, bảo vệ những giá trị truyền thống của cá nhân, v́ đồng tiền đang làm mất phẩm giá của con người, phá vỡ nền tảng đạo đức, làm rối loạn các mối quan hệ xă hội. Con người được sống no đủ, trong tiện nghi mà vẫn đối địch với nó, muốn thoát ly khỏi nó v́ không được thoả măn những nhu cầu về tinh thần. Ta hay lấy những chuyện đó để làm chứng một cách hả hê cho sự tha hoá của con người sống dưới chế độ tư bản. Vậy các công dân của chế độ xă hội chủ nghĩa th́ sao? Chả có ai kêu ca ǵ. Nhà văn là người có trách nhiệm chăm lo cuộc sống tinh thần của đồng loại cũng không kêu. Có một nhà văn Nga [Vladimir Dudinzev / Владимир Дудинцев - chú thích của Diễn Đàn] viết cuốn sách Người ta không chỉ sống bằng bánh ḿ [Не хлебом единым - chú thích của Diễn Đàn] bị cả giới văn nghệ Liên Xô phê phán. Ông đă viết sai v́ các nước xă hội chủ nghĩa rất coi trọng cuộc sống tinh thần của các công dân. Họ đọc sách rất nhiều, trên xe điện, xe buưt, trong công viên, đứng xếp hàng từng dăy dài mua thực phẩm, mua vé xem vũ kịch, nghe âm nhạc họ đều mở sách đọc rất chăm chú, tưởng đâu như cuộc sống đích thực của họ là ở các trang sách. Chỉ có những giây phút ch́m đắm trong sự đọc họ mới có cơ hội ngẫm nghĩ về thân phận của ḿnh, của đồng loại, t́m lại cái bản gốc cá nhận đang lưu lạc ở một góc khuất nào đó của riêng ḿnh. Rời khỏi trang sách là rơi ngay vào ṿng quay của trăm ngàn công việc chả có nghĩa lư ǵ ngoài sự mưu sinh để tồn tại. Những ngày nghỉ, những giờ tạm gọi là rảnh rỗi họ cũng không được ngồi một ḿnh, ngẫm nghĩ một ḿnh, có bao nhiêu buổi lễ kỷ niệm lớn nhỏ, những phong trao cam kết thi đua và vô vàn cuộc họp của ngành của giới đă choán hết phần thời gian c̣n sót lại… Cuộc sống tập thể đă nhấn ch́m cuộc sống cá nhân, cuộc sống trong chiến tranh đă xoá nhoà mọi thói quen của cuộc sống thời b́nh. Lúc nào cũng có kẻ thù ŕnh rập đâu đó để t́m cớ lật đổ chế dộ bằng vũ trang, hay bằng diễn biến hoà b́nh. Lúc nào cũng được đồng chí trong chi bộ, bàn bè cơ quan giám sát mọi tư tưởng và hành vi để ngăn chặn mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân của mỗi thành viên. Lúc nào cũng phải đề pḥng, phải đề cao cảnh giác cách mạng, không tin cậy bất cứ ai, kể cả bạn bè. Chỉ có một điều lạ, là trong hoàn cảnh sống không có một tí tự do nào cho cá nhân mà chúng tôi vẫn sống được, lại c̣n viết văn làm thơ được!
6.
Suốt 80 năm sống dưới ách đô hộ của Pháp, chúng ta vẫn đặt được những viên gạch đầu tiên cho nền văn xuôi Việt Nam. Những truyện ngắn, tiểu thuyết, phóng sự, tuỳ bút của thời ấy được in trên các tuần báo hoặc xuất bản thành sách nay đọc lại vẫn thích thú, vẫn làm ta cảm động. Nhiều truyện được đọc từ tuổi niên thiếu vẫn ám ảnh ta tới tận lúc tuổi già, và một loạt các nhà thơ, nhà phê b́nh văn học của cái thời gọi là thuộc địa đă trở thành những tên tuổi lớn tồn tại măi măi trong ḷng nhiều thế hệ bạn đọc. Làm thân nô lệ mà vẫn trỗi lên thành những tài năng lớn là sao? Không chỉ trong văn chương mà c̣n cả trong mỹ thuật, trong kịch nghệ. Không chỉ trong văn nghệ mà trong cả khoa học, giáo dục, trong kinh doanh theo kiểu tư bản và trong nhiều nghề truyền thống. Tất cả đều được bắt đầu từ những năm đầu thế kỷ, được phát sáng, được bộc lộ mạnh mẽ các tài năng cá nhân và họ đă trở thành người khai sáng, người mở đường, thành tổ nghề, không chỉ có tài lớn mà c̣n có đức lớn, là những nhân cách kiểu mẫu cho con cháu, cho giống ṇi, đều là chuyện có thật cả, không thể bóp méo hoặc bác bỏ. Mà giải thích về nó cũng rất đơn giản. Chế độ tư bản của Pháp và Châu Âu tiến bộ hơn, văn minh hơn chế độ phong kiến tập quyền của Châu Á tới vài thế kỷ, là khoảng cách giữa hai thời đại, nói như cụ Phan Chu Trinh. Thời Pháp thuộc bọn thực dân chỉ cấm, bỏ tù, xử bắn những người dám chống đối nó, trước hết là những người cộng sản. Cuộc sống của dân chúng vẫn lầm than như thời xưa, như thời phong kiến, khổ nhất vẫn là nông dân, nhưng xă hội có thêm nhiều nghề mới do công cuộc khai thác tài nguyên ở thuộc địa, h́nh thành dần nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, có đô thị và các trung tâm buôn bán, có các đường lớn xuyên quốc gia và liên tỉnh, có cầu cống và đường sắt, có báo hàng ngày, có tuần báo và tạp chí. Tiếng nói của công chúng sau nhiều thế kỷ câm bặt đă được cất lên bày tỏ thân phận và nguyện vọng của ḿnh, dẫu c̣n yếu ớt nhưng đă gây được tiếng vang trong cả nước. Dầu xă hội phát triển một cách nhem nhuốc, đau đớn nhưng vẫn hơn cái thời tù mù, tối tăm của thời phong kiến. Thời thế là vị tư lệnh tối cao, không có học thuyết nào, một thiên tài chính trị nào dám chống lại những mệnh lệnh của nó. Dám chống lại nó học thuyết sẽ tiêu tan, các chính khách th́ thân bại danh liệt. Chế độ thực dân tuy tàn bạo nhưng nó là sản phẩm của thời đại này nên nó vẫn có khả năng ươm cấy nhiều nhân tố tích cực, có giá trị bền vững cho những xứ sở nó đô hộ. C̣n những vương triều phong kiến dẫu được cai trị bởi các bậc minh quân thánh trí vẫn là những xă hội hủ lậu và thuộc về quá khứ. Tài giỏi như Khang Hy, Càn Long nếu c̣n trị v́ Trung Quốc tới cuối thế kỷ 19 mà không chịu thay đổi thể chế đă quá cũ kỹ th́ vẫn cứ thua, có khi c̣n thảm bại hơn v́ ḷng kiêu hănh bệnh tật của họ. Cách tổ chức xă hội của giai cấp tư sản dẫu có xấu xa tới tận đâu cũng vẫn tạo được những môi trường tự do và dân chủ hơn, mở ra những cơ hội mới cho sự phát triển tài năng của mọi cá nhân và của cả cộng động. Lại lấy thêm một ví dụ về nước Nga trong non một thế kỷ qua. Dưới chế độ Xô Viết, người dân Nga được nhà nước chăm lo hoàn toàn từ khi sinh đến khi chết, nhưng họ vẫn không thích, vẫn thấy ngột ngạt v́ đó là cuộc sống không phải lo nghĩ của một trại tập trung, con người bị đánh số, bị xếp theo khuôn, theo hàng, chỉ nh́n thấy đám đông chứ không thể nh́n ra từng con người riêng biệt, kể cả trong triết học và văn chương. C̣n thời bây giờ là một xă hội mạnh ai nấy lo, người người lấn chen nhau, tranh cướp nhau v́ những tham vọng không được ḱm nén, kỷ cương cũ bị xoá bỏ, kỷ cương mới chưa kịp h́nh thành, mọi sự đều phải làm lại từ đầu từ quốc kỳ, quốc ca, quân kỳ… Nhưng xem ra chả có mấy ai than thở về hiện trang hỗn loại, họ cảm thấy thoải mái, bằng ḷng với cuộc sống đầy bất trắc của hiện tại v́ lần đầu tiên họ được lựa chọn cách sống của ḿnh, thắng thua tự ḿnh gánh chịu, cũng là lần đầu họ biết nhận ra cái “bản lai diện mục” của chính họ.
Bookmarks