Page 1 of 4 1234 LastLast
Results 1 to 10 of 40

Thread: Tác giả / Tác phẩm

  1. #1
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Tác giả / Tác phẩm

    Tác giả / Tác phẩm
    Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước và mối t́nh đầu

    - Đoàn Dự ghi chép





    Thưa quư bạn, đầu tháng 06/2010, bạn bè ở nước ngoài có mail cho Đoàn Dự một bài của ông Nam Minh Bách ở Virginia, cháu gọi Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước bằng bác họ. Thấy bài này có nhiều điểm đặc biệt có lẽ nhiều người chưa biết về vị Nhạc sĩ tài hoa, sáng tác những bản nhạc rất hay, bản nào cũng trở thành bất hủ nhưng rất kín tiếng đó, Đoàn Dự bèn nghiên cứu thêm rồi mạn phép ông Nam Minh Bách thuật lại để quư bạn rơ. Sau đây là lời kể của tác giả Nam Minh Bách với sự đóng góp bổ sung của Đoàn Dự. Xin mời quư bạn thưởng thức.

    Dương Thiệu Tước & mối t́nh thời đi học
    Năm 2000, tôi về thăm Hà Nội, bạn bè cho đọc một bài báo trên tờ Công An, bài này đă từng làm dư luận dân chúng Hà Nội lúc đó xôn xao. Nhân dịp năm thứ 5 kỷ niệm ngày vĩnh biệt Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, ông được ca ngợi là một Nhạc sĩ đă có công ḥa hợp cổ nhạc và tân nhạc, đặt nền móng cho tân nhạc Việt Nam phát triển mạnh mẽ cho tới ngày nay. Và trong mấy ḍng tiểu sử, bài báo đó có nhắc tới mối t́nh đầu của chàng trai “con cụ Thương tá Hưng Yên Dương Tự Nhu” và nàng con gái con cụ Tổng đốc Hưng Yên Vi Văn Định. Chàng và nàng yêu nhau thắm thiết và hai gia đ́nh đă trao đổi trầu cau, nhưng t́nh duyên của họ dang dở v́ có một chàng trai bằng cấp đầy ḿnh nhào vô, loại được anh chàng Nhạc sĩ tài hoa nhưng lúc đó chưa nổi tiếng này ra khỏi ṿng chiến.
    Theo báo Công An, con người có diễm phúc chiếm được nàng là chàng bác sĩ tây học từ Paris trở về, họ Hồ Đắc, con của một vị đại thần lớn nhất triều đ́nh Huế.
    Sau khi tờ báo tung ra, gia đ́nh Hồ Đắc phản ứng ngay lập tức. Bà Vi Kim Phú - tức Hồ Đắc Di phu nhân, con gái của vị cựu Tổng đốc Hưng Yên và Thái B́nh Vi Văn Định ngày trước - nói rằng nhà báo nói láo ăn tiền, bà không hề có chuyện nhận trầu cau, sêu tết hay đính hôn với Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước bao giờ cả.
    Báo Công An im lặng không trả lời, v́ họ Hồ Đắc cả thời Pháp thuộc lẫn thời này vẫn rất mạnh, chính tờ báo này đă từng có bài đề cao Quận công Hồ Đắc Trung - Thượng thư bộ Lễ, “quốc trượng” (bố v&#7907... vua Khải Định, thân sinh của Bác sĩ Hồ Đắc Di - là nhà chí sĩ ái quốc. Bác sĩ Hồ Đắc Di trước đây là người sáng lập đồng thời cũng là Khoa trưởng Đại Y khoa Hà Nội. C̣n “lệnh ái” Hồ Thể Lan - con gái của Bác sĩ Hồ Đắc Di - năm 2000 đang là Vụ trưởng Vụ Báo chí và cũng là vợ của Vũ Khoan, Bí thư Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng chính phủ CS Hà Nội.
    Nhưng tờ báo không xin lỗi, cũng không đính chính, bởi v́ họ chỉ lầm có... một nửa. Tổng đốc Vi Văn Định có hai người con gái. Người em là Vi Kim Phú, lấy Bác sĩ Hồ Đắc Di năm 1935 khi mới 17 tuổi. Người chị là Vi Kim Ngọc, lấy Giáo sư Nguyễn Văn Huyên, Tiến sĩ Văn chương Đại học Sorbonne, từ Pháp về, cưới vào năm 1936, khi nàng 20 tuổi. Báo Công An lầm ở chỗ người trả lại trầu cau cho Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước là bà chị, vợ ông Nguyễn Văn Huyên, chứ không phải bà em, vợ Bác sĩ Hồ Đắc Di. Cả hai chị em đều đẹp lộng lẫy như nhau và đều nổi tiếng Bắc Hà về nhan sắc cũng như về gia thế. Đến năm 1944, một người cháu nội của ông Vi Văn Định tên Vi Nguyệt Hồ, 15 tuổi, được gả cho Bác sĩ Tôn Thất Tùng (sau này làm Thứ trưởng Bộ Y tế Việt Minh). Năm 1946, khi bà Vi Nguyệt Hồ sinh con trai đầu ḷng ở vùng thượng du Bắc Việt, ông Hồ đến thăm và đặt tên là Tôn Thất Bách (sau này cũng là bác sĩ, mới mất tại Hà Nội cách đây hai năm).
    (H́nh 2 : Bác sĩ Hồ Đắc Di)
    (H́nh 3 : Chú rể Huyên và cô dâu Kim Ngọc)

    Dân chúng Hà Nội không ai lạ ǵ ông Nguyễn Văn Huyên, Bộ trưởng Giáo dục 30 năm của chính phủ Phạm Văn Đồng. Hồi thập niên 30, họ gọi ông Nguyễn Văn Huyên và người bạn của ông tên Nguyễn Mạnh Tường là “Nghè Huyên” và “Nghè Tường”, v́ hai ông đều đậu tiến sĩ bên Pháp.
    Báo Công An nói lộn về người nhận trầu cau của Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước. Bà Vi Kim Phú (bà em), phu nhân của cố Bác sĩ Hồ Đắc Di phản ứng. Thiên hạ bàn tán quá v́ họ biết người trả trầu cau là bà Vi Kim Ngọc (bà ch&#7883..., vợ của ông “Nghè Huyên” họ Nguyễn. Đến lượt con cháu họ Nguyễn ra tay. Chỉ con cháu thôi, bởi v́ năm 2000 những người trong cuộc đă thành thiên cổ. Bà Nguyễn Kim Hạnh, con gái của ông bà Nguyễn Văn Huyên-Vi Kim Ngọc, xuất bản cuốn sách “Hồi ức về Nguyễn văn Huyên”, trong đó có trích những đoạn nhật kư của thân mẫu, tức bà Kim Ngọc:
    “Cha mẹ tôi làm đám cưới với nhau vào ngày 12/4/1936. Mẹ tôi ghi lại những ngày đầu quen biết giữa cha và mẹ trong nhật kư như sau:
    “Em đi chơi cùng cha mẹ vào Huế, khắp Trung Kỳ rồi Lục tỉnh Cao Mên, Thái Lan... Nhiều khách quốc tế trầm trồ khen ngợi em là giai nhân”.
    “Đôi ta gặp nhau ở Huế, trong lễ hội Nam Giao. Sau đó em tiếc không từ biệt anh. Khi lên xe, cha đưa thư của anh do anh Toại trao giùm (tức bác Phan Kế Toại, chồng cô Măo là chị của cha tôi - K.Hạnh) cho em xem. Đó là thư cầu hôn giữa anh và em ”.
    “Sau đó bà ngoại mấy lần nhận điện từ Hà Nội gửi vào cầu hôn.Khi có thư trực tiếp của anh viết cho ông ngoại gửi lời thăm em “người đáng yêu nhất” th́ em mới nhận lời cho nhà trai xuống Thái B́nh cầu hôn”.
    Tác giả Kim Hạnh ghi tiếp:
    “Mẹ tôi kể là năm mẹ tôi 16 tuổi, ông ngoại tôi nhận lời gả mẹ tôi cho người họ Dương Thiệu. Năm 19 tuổi, khi biết điều này, mẹ tôi nhất định đ̣i ông tôi phải trả lại sêu tết ba năm. V́ mẹ tôi không chấp nhận cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Mẹ tôi ghét cay ghét đắng chuyện năm thê bảy thiếp trong chế độ phong kiến”.
    “Năm 1977, sau khi cha tôi mất được 2 năm, mẹ tôi viết: “Ước mơ của em khi đôi tám xuân xanh là quyết chọn người tài đức mới trao thân. Nếu không gặp được nam nhi hào hùng đó th́ ở một ḿnh suốt đời. Thế mà em đă măn nguyện”.
    Và trang sau, nhật kư nhắc tới Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước:
    “Năm 1976, được tin của một người bạn cũ ở Đà Lạt nói rằng có gặp ông Dương Thiệu Tước và vợ của ông là bà Minh Trang lên chơi Đà Lạt”.
    Đoạn này rất sơ lược, h́nh như vô t́nh nhớ tới th́ ghi nhật kư vậy thôi, không có ǵ quan trọng.
    Trong cuốn “Hồi ức về Nguyễn văn Huyên”, nói về Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, tác giả Kim Hạnh ghi: “Bác Tước là cháu nội cụ Nghè Dương Khuê, chúng tôi thường gọi là bác Cả Tước, không thể ví với người đă đậu Tiến sĩ Văn chương Đại học Sorbonne, Bộ trưởng Giáo Dục 30 năm. Năm 1954, bác di cư vào trong Nam, làm chủ sự Ban Âm nhạc Đài Phát thanh Sài G̣n, cả đời sống thanh bạch và rất lương thiện”.

    Rất rơ, như vậy người quen biết Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước là “bà chị” Vi Kim Ngọc, vợ ông Nguyễn Văn Huyên, chứ không phải “bà em” Vi Kim Phú, vợ của Bác sĩ Hồ Đắc Di. Bây giờ chúng ta thử xem xét về vị Nhạc sĩ tác giả Đêm Tàn Bến Ngự, Ơn Nghĩa Sinh Thành..., nhất là bản Ngọc Lan được ông sáng tác với nhiều kỷ niệm. Ông thường giải thích với các ca sĩ là hai chữ Ngọc Lan viết hoa, nhưng ít người hiểu, đa số đều nghĩ rằng ông ca ngợi loài hoa ngọc lan.

    Tiểu sử Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước

    Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước (1915-1995) quê ở làng Vân Đ́nh, huyện Sơn Lăng, phủ Ứng Ḥa, tỉnh Hà Đông (nay là một quận của Hà Nội). Xuất thân trong một gia đ́nh Nho học truyền thống, ông là cháu nội cụ nghè Vân Đ́nh Dương Khuê, nguyên Đốc học tỉnh Nam Định, tác giả bài hát nói “Hồng Hồng Tuyết Tuyết” danh tiếng, đến nay các nghệ sĩ hát ả đào vẫn c̣n sử dụng. Và ông cũng là bác ruột của Nhạc sĩ Dương Thụ hiện nay.
    Thuở nhỏ ông học tại Hà Nội. Trong thập niên 1930, ông gia nhập nhóm nghệ sĩ tài tử Myosotis (Hoa Lưu ly) gồm Thẩm Oánh, Lê Yên, Vũ Khánh... Dương Thiệu Tước cũng là người có sáng kiến soạn “nhạc Tây theo điệu ta”. Những nhạc phẩm đầu tay của ông thường viết bằng tiếng Pháp. Mặc dầu theo học nhạc Tây, nhưng nhạc của ông vẫn thắm đượm tinh thần dân tộc. Trong một tác phẩm viết tay, ông ngỏ ư: “Theo tôi, tân nhạc Việt Nam phải thể hiện rơ cá tính Việt Nam. Để đạt được điều này, người sáng tác phải hiểu rơ nhạc Việt qua cách học nhạc cụ cổ truyền cũng như hát được các điệu hát cổ truyền”.
    Ông di cư vào Nam năm 1954. Tại Sài G̣n, ông làm chủ sự Pḥng Văn nghệ Đài Phát thanh Sài G̣n, đồng thời được mời làm giáo sư dạy Tây Ban Cầm tại trường Quốc Gia Âm Nhạc. Sau năm 1975, nhạc của ông bị cấm và ông cũng không được dạy tại trường Quốc Gia Âm Nhạc nữa.
    Vợ chính thất cũng là vợ đầu của ông là bà Lương Thị Thuần, hiện con cái đang sống tại Đức và Hoa Kỳ. Vợ sau của ông là bà Minh Trang, một ca sĩ nổi tiếng thập niên 1950, có con riêng là ca sĩ Quỳnh Giao. Đầu thập niên 1980, ông về chung sống với bà Nguyễn Thị Nga tại quận B́nh Thạnh, có một con với bà này và được bà chăm sóc chu đáo.
    Ông mất ngày 01 tháng 08 năm 1995 tại Sài G̣n. Gần đây, sau thời kỳ đổi mới, nhạc của ông đă được lưu hành lại trên khắp nước Việt Nam và ông rất được ca ngợi.
    Các sáng tác nổi tiếng của ông gồm: Áng Mây Chiều, Bến Xuân Xanh, Bóng Chiều Xưa, Cánh Bằng Lướt Gió, Chiều (phổ thơ Hồ Dzếnh), Đêm Tàn Bến Ngự, Kiếp Hoa, Ngọc Lan, Ôi Quê Xưa, Ơn Nghĩa Sinh Thành, Thuyền Mơ, Tiếng Xưa, Ước Hẹn Chiều Thu.

    Mối t́nh đầu
    Năm đó là đầu thập niên 1930, ở tỉnh lỵ Hưng Yên, chàng 18 tuổi và nàng 17 tuổi. Chàng là con cụ Thương tá Dương Tự Nhu, sau này lên Bố chánh (coi về hành chánh; c̣n tổng đốc th́ trông coi toàn bộ, cả dân sinh, an ninh lẫn các quan lại trong tỉnh; Bố chánh tương đương với phó tỉnh trưởng hành chánh - ĐD), và nàng là con cụ Tổng đốc Vi Văn Định. Tư dinh hai nhà gần nhau, phía trước là một chiếc hồ rộng lớn, ngăn đôi bởi một con đường nhỏ, hai bên hồ thông nhau bằng một con lạch, có một chiếc cầu gỗ vồng cao lên bắc ngang qua, sơn màu đỏ. Quang cảnh rất tĩnh mịch, rất nên thơ, nhất là khi có ánh trăng êm dịu tỏa xuống.
    Chiếc cầu đỏ trên hồ là nơi trẻ con vui chơi, câu cá khi băi trường. Chàng học ở Hà Nội. Nàng học tại tỉnh nhà. Hai dinh thự gần nhau, mỗi lần chàng về, họ gặp nhau. Nàng đang tuổi dậy th́, cực kỳ xinh đẹp, c̣n chàng th́ khôi ngô tuấn tú, đang học trung học, cháu nội của cụ nghè Dương Khuê, sử dụng được 7 loại nhạc cụ kể cả nhạc “Tây” lẫn nhạc “ta”, trong đó thông thạo nhất là Tây Ban Cầm (Guitare) và Hạ Uy Di Cầm (Guitare Hawaienne), lại hát rất hay, có tiếng ở Hà Nội.
    Việc ǵ xảy ra là phải xảy ra, chàng và nàng yêu nhau thắm thiết với sự trong trắng và bồng bột của mối t́nh đầu. Họ Vi biết rơ cậu cả cháu nội cụ Dương Khuê này, gia đ́nh quan Bố chánh Dương Tự Nhu bèn đem trầu cau sang đính ước.
    Nhưng mối t́nh trong sáng đó có những đám mây đen kéo tới. Nhà gái dần dần biết Dương học Tú tài chỉ là phụ mà việc Dương ưa thích nhất là học âm nhạc tại trường Ecole Francaise de Musique en Extrême Orient tại Hà Nội, cùng với Nguyễn Xuân Khoát. Khoát chuyên về Dương cầm, c̣n Dương chuyên về Tây Ban Cầm. Đồng thời, bà mẹ vợ tương lai với trực giác nhạy cảm của phụ nữ cũng nhận ra nguy cơ cho con gái: anh chàng này đẹp trai quá, đàn hát lại hay, sẽ là một tai họa cho con ḿnh.
    Trong khi đó, trường Ecole Francaise de Musique en Extrême Orient sau ba năm hoạt động phải đóng cửa v́ kinh tế khủng hoảng, Dương lâm vào cảnh dang dở. Phía bên nhà gái có những bà đă bắt đầu chê bai: “Cậu Tước mặt mày sáng rỡ, đẹp trai như Phan An Tống Ngọc mà chỉ có bằng Diplôme, thi rớt Tú tài”.
    Rồi họ Vi chuyển từ Hưng Yên sang làm Tổng đốc Thái B́nh. Xa mặt cách ḷng, đúng lúc ấy th́ “nghè Huyên” có sự gặp gỡ. Và rồi, ngày 14-02-1936 nàng lên xe hoa về nhà chồng. Lúc ấy nàng 20 tuổi c̣n chàng 21 tuổi.

    Chàng buồn, bèn đem tâm hồn ḿnh viết thành bản nhạc “Ngọc Lan” bất hủ (xin nhắc lại: nàng tên Vi Kim Ngọc): Ngọc Lan, ḍng suối tơ vương, mắt thu hồ dịu ánh vàng. Ngọc Lan, nhành liễu nghiêng nghiêng, tà mấy cánh phong, nắng thơm ngoài song... Nhưng măi tới năm 1953 bản nhạc này mới được xuất bản và phổ biến rộng răi với giọng ca Thái Thanh tại Hà Nội.
    Nói tóm lại, chàng sinh năm 1915, yêu nhau năm 1934, tan vỡ năm 1935, nh́n người yêu đi lấy chồng năm 1936, lúc ấy chàng 21 tuổi. C̣n nàng, sinh năm 1916 (kém chàng 1 tuổi), yêu nhau năm 17 tuổi và lấy chồng năm 20 tuổi.
    Suy cho cùng, hôn nhân có lẽ là do duyên số nhưng một người tính t́nh nghệ sĩ, không coi trọng bằng cấp như Dương Thiệu Tước, giả sử nếu lọt vào làm rể gia đ́nh ông Vi Văn Định th́ cũng khó sống. Ông là người Nùng, con trai của quan Tri châu Vi Văn Lư. Đối với người dân tộc thiểu số, quan Tri châu cũng giống như “ông vua” ở vùng thượng du. Họ kính trọng ngài và tuân lời ngài răm rắp chứ không cần biết Toàn quyền Pháp hay triều đ́nh Huế là ai cả. Ngoài ra, chức vị này có tính cha truyền con nối. Khi Vi Văn Lư qua đời, Vi Văn Định nối nghiệp và được Pháp chuẩn y cho giữ chức Tri châu. Nhưng Vi là “ông trời con”, dân chúng người Tày, người Nùng cả vùng Cao Bằng, Lạng Sơn vừa sợ vừa coi ngài như ông thần. Ngài lập rất nhiều chiến công cho... thực dân Pháp: dẹp giặc nổi loạn, đánh giết nghĩa quân yêu nước chống Pháp... Công lao và uy tín mỗi ngày một lớn, người Pháp sợ nếu cứ để như thế, e rằng ngài sẽ xưng hùng xưng bá, chiếm riêng cho ḿnh vùng thượng du hiểm trở để lập triều đ́nh theo kiểu Nùng Trí Cao ngày trước th́ rất nguy hiểm. Bởi vậy họ “điệu hổ ly sơn”, thăng chức cho ngài, đưa ngài về làm tổng đốc các tỉnh đồng bằng để ngăn ngừa hậu hoạ. Bây giờ chúng ta thử xem sau khi về dưới xuôi, ngài vẫn “hét ra lửa” như thế nào và lư do tại sao sau khi Việt Minh cướp chính quyền năm 1945, các ông Phạm Quỳnh, Ngô Đ́nh Khôi, Khái Hưng, Tạ Thu Thâu v.v... đều bị giết chết, c̣n ngài, một tên đại Việt gian, đại tàn ác như thế mà vẫn tồn tại măi đến năm 1975, khi ngài 96 tuổi (ngài sinh năm 1879, mất cùng năm với ông con rể lớn Nguyễn Văn Huyên).
    Cụ Đặng Hữu Thụ, nguyên Chánh thẩm Ṭa Thượng thẩm Sài G̣n trước năm 1975, hiện định cư tại Pháp, quê ở làng Hành Thiện, Nam Định, kể:
    “Vi Văn Định là người Nùng, làm Tổng đốc Hưng Yên, sau đó làm Tổng đốc Thái B́nh, nổi tiếng hống hách nên dân chúng rất sợ. Vi bắt quan lại dưới quyền phải cởi giày để ở ngoài văn pḥng mỗi khi vào ra mắt Vi, phạt chánh tổng, lư trưởng phải ăn bèo tây (bèo lục b́nh) khi Vi ra lệnh vớt mà sai thời hạn hoặc vớt không hết, vẫn c̣n sót lại ở các sông ng̣i (bèo lục b́nh phát triển rất mạnh, nhất là về mùa hè, phải vớt kẻo tắc sông ng̣i - ĐD). Vi cấm các hàng rong từ 12:30 đến 14:30 là giờ của Vi ngủ trưa, không được rao hàng khi quẩy gánh hàng qua dinh Vi. Có một anh hàng phở gánh, quên mất luật lệ, khi đi qua dinh, rao lớn, bị Vi ra lệnh cho lính bắt vào, nện cho một trận rồi bắt phải gánh gánh phở đi ṿng chung quanh sân dinh, rao từ trưa đến tối mới cho về.
    Vi có người con trai là Vi Văn Lê, đang học Luật tại Pháp, là bạn của ông Nguyễn Thế Truyền, đảng viên đảng Việt Nam Độc Lập do ông Tạ Thu Thâu lănh đạo. Năm 1929, Lê gia nhập đảng Việt Nam Độc Lập. Cây đắng mà sinh trái ngọt chăng?
    Khi Tổng đốc Hà Đông Hoàng Trọng Phu hưu trí, Vi Văn Định đổi qua thay thế, trong dân gian truyền tụng câu: “Hoàng trùng đi, Vi trùng lại. Suy đi xét lại, Vi hại hơn Hoàng”. Hoàng trùng ám chỉ Hoàng Trọng Phu, Vi trùng ám chỉ Vi Văn Định. Hoàng Trọng Phu là con trai Tổng đốc Hoàng Cao Khải và là con rể Tổng đốc Đỗ Hữu Phương ở Nam Kỳ, toàn những tay sai khét tiếng của Pháp cả, nhưng “Vi hại hơn Hoàng” th́ chúng ta đủ hiểu Tổng đốc Vi Văn Định đáng sợ như thế nào”.
    Khi việc cướp chính quyền xảy ra năm 1945, Vi bị Việt Minh bắt nhưng ông Hồ chẳng những không giết mà c̣n cho tạm lánh trong một biệt thự ở Hà Nội, đăi ngộ như thượng khách chỉ v́ Vi là một “ông vua Nùng” mà ông Hồ và đảng của ông vẫn c̣n cần đến. Cũng có người cho rằng sở dĩ ông Hồ tha chết cho Vi, v́ Vi là nhạc phụ của hai nhà đại khoa bảng đang phục vụ trong chính phủ Việt Minh là Bác sĩ Hồ Đắc Di (được Toàn quyền Pháp ở Đông Dương Decoux phong giáo s&#432... và Tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên. Ngoài ra, Vi c̣n là ông nội của tiểu thư Vi Nguyệt Hồ, vợ của Bác sĩ Tôn Thất Tùng, Thứ trưởng Y tế VM nữa. Bác sĩ Tôn Thất Tùng tốt nghiệp Y khoa tại Pháp, rất nổi tiếng về môn giải phẫu tim và gan.

    Những mối t́nh sau
    - Bà Lương Thị Thuần: Sau khi mối t́nh đầu tan vỡ, Dương rất buồn. Rồi phụ thân Dương Tự Nhu cũng mất sớm, gia đ́nh có bề sa sút. Sau khi hết tang và Dương cũng tạm có công ăn việc làm tại Hà Nội (điều khiển ban nhạc trong các tiệm khiêu vũ và cộng tác với Đài Pháp Á cùng Nguyễn Xuân Khoát), gia đ́nh bèn cưới cho ông người vợ chính thức là bà Lương Thị Thuần, nhưng người ta ít biết về bà này và cũng không hiểu nguyên nhân của sự ly tán. Hiện nay các con của bà đang sống tại Đức và Hoa Kỳ.

    - Bà Minh Trang: Tên thật là Nguyễn Thị Ngọc Trâm, sinh năm 1921 (kém Dương 6 tuổi) tại Huế. Thân phụ bà là ông Nguyễn Hy, một công chức cao cấp trong Bộ Lại (tương đương với Bộ Nội v&#7909... của triều đ́nh Huế. Thân mẫu bà là con gái của công chúa Mỹ Lương (thường gọi là Bà Chúa Nhứt), chị cả của Vua Thành Thái.
    Trong nhà Bà Chúa Nhứt có riêng một ban nhạc (loại nhạc cung đ́nh) tới mấy chục người và một ban ca Huế. V́ thân phụ thường phải đi công cán xa trong thời gian lâu, có khi đem cả gia đ́nh đi theo nên cô bé Ngọc Trâm thường ở nhà bà ngoại. Nhờ vậy, ảnh hưởng của ca nhạc đă thấm sâu vào tâm hồn cô bé từ thời thơ ấu. Mới bảy tuôåi cô đă thuộc ḷng những đoạn ca Huế trong các tiết điệu Nam Ai, Nam B́nh, Kim Tiền, Lưu Thủy...
    Tuy thân phụ là người Quảng Ngăi nhưng thân mẫu là người Huế, ḍng dơi hoàng tộc, nên “tính chất Huế ” và “giọng nói Huế” hoàn toàn chiếm hữu con người cô bé Ngọc Trâm. (Chúng ta nên nhớ Dương Thiệu Tước là người Bắc nhưng nhiều tác phẩm của ông, như bản Đêm Tàn Bến Ngự chẳng hạn, mang đặc tính chất Huế th́ đủ hiểu ông yêu “người vợ Huế” đó như thế nào).
    Thuở nhỏ, Ngọc Trâm theo học tại trường Jeanne d' Arc, một trường ḍng danh tiếng ở Huế và bắt đầu làm quen với những phím đàn dương cầm do các sơ dạy đồng thời cũng học hát nữa. Lên trung học, cô theo gia đ́nh ra Hà Nội. Vào khoảng năm 1941, thân phụ trở về nhậm chức tại Bộ Lại ở Huế, cô lại theo về Huế và học tại Lycée Khải Định (sau này, từ thời Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm, đổi tên là trường Quốc học Hu&#7871....
    Tại Lycée Khải Định, cô gặp Giáo sư Ưng Quả - thầy dạy môn Văn chương Việt Nam và cũng là người dạy tiếng Việt cho Thái tử Bảo Long. Hai thầy tṛ tâm đầu ư hợp. Mặc dầu Giáo sư Ưng Quả là người góa vợ, đă có hai con trai, nhưng hai gia đ́nh rất môn đăng hộ đối: cha của Giáo sư Ưng Quả là con trai của Tuy Lư Vương; cha của Ngọc Trâm là con của Diên Lộc Quận công. Hai bên tiến tới hôn nhân và sinh được hai người con, một trai, một gái. Người con trai tên Bửu Minh (vai chú của Vua Bảo Đại) người con gái tên Công tằng Tôn nữ Đoan Trang (tức ca sĩ Quỳnh Giao sau này). Bà Ngọc Trâm dùng tên hai người con ghép lại làm tên trong ngành âm nhạc của ḿnh.
    Năm 1951, Giáo sư Ưng Quả đang làm Giám đốc Nha Học chánh Trung Phần th́ đột nhiên bị bệnh, qua đời. Bà Minh Trang đem hai con vào Sài G̣n sinh sống và kiếm được chân vừa làm xướng ngôn viên vừa làm biên tập viên tin tức (tiếng Pháp) trong Đài Pháp Á (France-Asie).
    Sự việc sau đó bà Minh Trang trở thành ca sĩ hết sức t́nh cờ. Trong một chương tŕnh ca nhạc hằng tuần của Nhạc sĩ Đức Quỳnh trên Đài Pháp Á, ca sĩ chính không đến hát được, bắt buộc Minh Trang phải “hát giùm” thế chỗ. Bà chỉ thuộc có mỗi một bản nhạc Đêm Đông của Nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương là tiếng Việt, c̣n ngoài ra là thuộc tiếng Pháp (bà rất giỏi tiếng Pháp). Mà chương tŕnh của Đức Quỳnh lại là tiếng Việt, vậy là Minh Trang bèn hát “Đêm Đông”.
    Nhờ giọng ca thiên phú và cái “duyên” bất ngờ nói trên, dần dần Minh Trang trở thành một ca sĩ chính của Đài Pháp Á (sau này là Đài Phát Thanh Quốc Gia tức Đài Sài G̣n). Từ đấy, Minh Trang c̣n đi hát phụ diễn trên các sân khấu, một dạng tŕnh diễn rất thịnh hành hồi đó tại các rạp chiếu bóng trước khi cuốn phim chính được tŕnh chiếu.
    Tiếng hát của Minh Trang bay ra Hà Nội và được các Nhạc sĩ đương thời ngoài đó, như Vũ Thành, Hoàng Giác, Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước, Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Thiện Tơ v.v... yêu mến và họ thường gởi tác phẩm vào cho Minh Trang hát mặc dầu chưa biết mặt.
    Trong một lần Thủ hiến Bắc Việt Nguyễn Hữu Trí tổ chức hội chợ tại Hà Nội, ông mời Minh Trang và nhiều nghệ sĩ khác ra hát với phần nhạc đệm của Ban Việt Nhạc. Người đứng đầu Ban Việt Nhạc là Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, người mà Minh Trang rất ngưỡng mộ. Họ gặp nhau và tiến tới hôn nhân.
    Hai nghệ sĩ Minh Trang-Dương Thiệu Tước kết hôn năm 1951 tại Sài G̣n nhưng vẫn sống cách xa nhau cho đến năm 1954, khi ông Dương Thiệu Tước di cư vào Nam, họ sống với nhau. Họ sinh được năm người con, một trai, bốn gái: Dương Hồng Phong, Vân Quỳnh, Vân Khanh, Vân Ḥa, Vân Dung. Cũng như Bửu Minh và Đoan Trang, các con của ông bà đều được theo học trường Quốc Gia Âm Nhạc với sự d́u dắt của Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước.
    Sau này, Quỳnh Giao và Vân Quỳnh trở thành ca sĩ. Dương Hồng Phong tốt nghiệp vĩ cầm tại trường Quốc Gia Âm Nhạc c̣n, Bửu Minh th́ du học tại Pháp năm 1961 và nay giữ địa vị pianiste chính trong ban đại ḥa tấu “Staatsphihlarmo nic Rheinland Plalz” của Đức.
    Sau biến cố tháng 04-1975, hai cô con gái lớn đă lập gia đ́nh th́ theo gia đ́nh nhà chồng ra đi. Ông bà Dương Thiệu Tước và hai cô nhỏ bị kẹt ở lại. Ngoài ra, người con trai duy nhất của ông bà là ông Dương Hồng Phong - được gọi đi sĩ quan Thủ Đức năm 1972 - bị bắt tại mặt trận và cũng đang kẹt trong tù tại Chu Lai. Cùng lúc đó, với số lương 64 đồng/tháng nhưng Giáo sư Dương Thiệu Tước dạy Guitare classique trong trường Âm nhạc-Kịch nghệ (trường QGAN ở đường Nguyễn Du, mới đổi tên) cũng không được dạy nữa, nhạc th́ bị cấm, cuộc sống vô cùng khó khăn.
    Năm 1978, Thiếu úy Dương Hồng Phong được ra tù, bà nghĩ đến việc phải rời đất nước. Tới chuyến, Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước lúc ấy đang ốm nên không thể đi. Tiền bạc có bao nhiêu th́ đặt cọc hết rồi, ông đành hy sinh ở lại.
    Bà Minh Trang cùng ba con đến Thái Lan vào cuối năm 1979, sau đó được định cư tại Virginia.
    Hiện nay, bà và các con ở Quận Cam, riêng Bửu Minh ở Đức và Dương Hồng Phong ở New York.
    Năm nay, bà đă 89 tuổi (bà sinh năm 1921) nhưng tương đối vẫn c̣n khỏe mạnh. Bà nói: “Tôi thích nghe nhạc và theo dơi tin tức thời sự, không cần nấu nướng ǵ cả, v́ các con ở gần “có bát canh cần nó cũng đem cho”.
    Năm 1995, khi ông mất, bà và mấy người con - kể cả ca sĩ Quỳnh Giao - có về dự đám tang.

    - Bà Nguyễn Thị Nga
    Năm 1982, trong một cuộc nói chuyện về âm nhạc ở Sài G̣n, ông Dương Thiệu Tước gặp lại bà Nguyễn Thị Nga, một học viên cũ tại trường QGAN ngày trước, người vẫn hâm mộ và thầm yêu “thầy”. Nay bà Nga đă có một cơ sở buôn bán rất tốt về các sản phẩm âm nhạc nhưng vẫn c̣n độc thân. Ông về sống với bà và có với nhau được một con trai.
    Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước mất ngày 01 tháng 08 năm 1995, tại Sài G̣n, thọ 80 tuổi. Các tác phẩm của ông vẫn c̣n tồn tại và sẽ măi măi bất hủ với thời gian, trong đó có bản Ngọc Lan. <

  2. #2
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Tác giả / Tác phẩm

    Tác giả / Tác phẩm
    Nhất Linh, kẻ sĩ thời đại

    Chu Nguyễn





    Xây dựng nền tảng và kiến trúc sự thịnh vượng cho nền văn học chữ quốc ngữ không thể quên được công lao của hai nhóm nhà văn tiền phong: nhóm Nam Phong tạp chí (1917-1934) và Tự Lực văn đoàn (1932-1945).
    Đề cập tới Nam Phong tạp chí là nhắc tới Phạm Quỳnh. C̣n ghi công Tự Lực văn đoàn th́ đứng đầu bảng vàng phải kể nhà văn Nhất Linh.


    Nhất Linh tên thực là Nguyễn Tường Tam sinh năm 1906 (có tài liệu ghi 1905), ra đời ở Cầm Giàng, Hải Dương nhưng tổ quán ở Hội An: làng Cẩm Phổ, phủ Điện Bàn, Quảng Nam, xuất thân từ một gia đ́nh có truyền thống Nho học nhưng bản thân ông được giáo dục theo Tây học: tốt nghiệp trường Bảo hộ, Hà Nội và sang Pháp du học đậu cử nhân khoa học (1927-1930).
    Là một nhà khoa bảng nhưng Nhất Linh không theo con đường làm quan như đa số trí thức thời ông, mà chọn văn nghiệp và dự định đầu tiên của ông khi từ Pháp về là ra một tờ báo trào phúng nhưng không thành v́ không xin được giấy phép.
    Năm 1932 khi đang dạy ở trường tư Thăng Long, Hà Nội, ông mua lại tờ Phong Hóa của Phạm Hữu Ninh và tờ báo được cải tổ và canh tân, quy tụ được những cây viết trẻ thời đó (gồm hai em của Nhất Linh là Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long và Thạch Lam Nguyễn Tường Lân. Ngoài ra, c̣n có hai thân hữu của Nhất Linh là Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu và Khái Hưng Trần Khánh Gi&#432....
    Phong Hóa bộ mới được đón nhận nồng nhiệt v́ tiêu biểu cho một xu hướng và phong cách văn nghệ mới từ nội dung tới h́nh thức, từ hội họa cho tới thi ca và tiểu thuyết. Tờ báo cũng có sắc thái đặc biệt là trào phúng, không khô khan như phần đông các tờ báo trước nó hoặc đồng thời với nó.
    Khí thế văn nghệ đang lên cao, Nhất Linh thành lập Tự Lực văn đoàn (1933). Buổi đầu văn đoàn gồm sáu cây viết: Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Thế Lữ và Tú Mỡ. Sau thêm Xuân Diệu và Trầân Tiêu (em của Khái Hưng). Ngoài ra, c̣n có các họa sĩ tài danh như Nguyễn Gia Trí và Nguyễn Cát Tường góp mặt.
    Khuynh hướng tiến bộ và nụ cười sắc sảo châm biếm thực dân và phong kiến của Phong Hóa khiến chính quyền Pháp lo ngại nên ra lệnh đóng cửa. Nhất Linh cho ra đời tờ Ngày Nay (1936) và nhà xuất bản Đời Nay để thực hiện sứ mạng canh tân văn học.
    Tự Lựïc văn đoàn đă góp công lớn xây dựng nền văn học chữ quốc ngữ, với nhiều tác phẩm thơ ca, tiểu thuyết giá trị, của văn đoàn và của những cây viết ngoài văn đoàn nhưng được văn đoàn giới thiệu như Đoàn Phú Tứ, Huy Cận và Vũ Đ́nh Liên. Văn đoàn c̣n tổ chức giải thưởng văn chương hằng năm để khuyến khích sự sáng tác và giúp đỡ các cây bút có tài như Tế Hanh, Nguyễn Bính, Anh Thơ, Nguyên Hồng, Thanh Tịnh và Bùi Hiển...
    Trước 1945, trong ṿng chưa đầy 10 năm (1932-1942), Nhất Linh tỏ ra là nhà tổ chức có tài, người chỉ huy khéo léo, đă góp phần quan trọng trong việc xây dựng thời kỳ thịnh vượng của văn học chữ quốc ngữ giai đoạn 32-45, hay nói như linh mục Thanh Lăng: Nhất Linh “là thủ lănh, là tổng thống trong cái nước cộâng ḥa văn học từ 1932-1945”.
    Cá nhân Nhất Linh c̣n là một nghệ sĩ đa tài, thổi saxophone rất hay, từng học Mỹ thuật, mẫn cảm nghệ thuật bén nhạy (khám phá ra tài năng Tú Mỡ và Huy Cận...), lại có suy tư thâm trầm của một triết nhân và ḷng ưu thời mẫn thế. Nổi bật nhất, ông là cây viết tiểu thuyết hàng đầu trong nền văn học mới và gây ảnh hưởng cho nhiều thế hệ cầm bút ở Việt Nam.
    Nhất Linh cũng như một vài trí thức tâm huyết hồi đầu thế kỷ XX, có chủ trương cải tạo xă hội và nuôi giấc mộng giải phóng dân tộc khỏi gông cùm ngoại bang và tệ đoan phong kiến.
    Chí lớn của Nhất Linh đă được Thế Lữ ám chỉ trong bài Nhớ rừng trong tập Mấy vần thơ (Đời Nay xuất bản 1935) mà thi sĩ ghi rơ: “Tặng Nguyễn Tường Tam” và “Lời con hổ trong vườn bách thú”. Thế Lữ cũng đă dùng cả bài Giây phút chạnh ḷng tặêng tác giả Đoạn Tuyệt với những lời ca ngợi nhân vật Dũng “đem chí b́nh sinh dăi nắng mưa”.
    Con hổ Nhất Linh cuối cùng cũng ra khỏi ṿng kiềm tỏa và bước vào lănh vực chính trị từ đầu thập niên 1940. Ông đă từng tham gia chính phủ liên hiệp 1946 và giữ chức bộ trưởng ngoại giao. Nhưng vốn là người khẳng khái và nhiệt t́nh với lư tưởng quốc gia, nên khi nhận thấy hoàn cảnh “bó thân về với triều đ́nh” không cho phép ông thực hiện tâm nguyện nên đă từ bỏ chức vụ và xuất ngoại.
    1951 ông trở về Hà Nội và tuyên bố từ bỏ chính trị. Trong nhiều năm ông sống ẩn dật ở Đà Lạt làm bạn với suối Đa Mê và vui với lan rừng.
    1958 trước nhu cầu của đất nước, Nhất Linh trở lại Sài G̣n ra tờ Văn Hóa ngày nay và từng làm chủ tịch của Văn Bút Việt Nam.
    1963 Nhất Linh bị chính phủ Đệ nhất cộng ḥa bắt giam v́ bị nghi hoạt động lật đổ chính phủ. Nhất Linh vốn là người có tiết tháo của nhà nho, mang niềm tự hào của kẻ sĩ, của chí sĩ, nên đă uống thuốc độc tự tử vào ngày 07 tháng 07 năm 1963 như di ngôn: “Đời tôi để lịch sử xử. Tôi không chịu để ai xử tôi cả”.
    Cái chết của Nhất Linh là cái chết của một nghệ sĩ, một kẻ sĩ thời đại theo đúng tôn chỉ mà tinh hoa Nho giáo từng dạy đấng trượng phu: “bần tiện bất năng di, phú quư bất năng dâm, uy vũ bất năng khuất” (nghèo không đổi chí, giàu không dâm dật, dùng vơ lực không thể khuất phục nổi).

    Nhất Linh là kẻ sĩ của thời đại
    Đầu thế kỷ XX, Nho học suy tàn và bóng dáng kẻ sĩ hội đủ tính chất truyền thống của dân tộc và đạo lư của người xưa chỉ c̣n xuất hiện rải rác đó đây. Tuy nhiên, dáng dấp hiên ngang của họ ở Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Trần Quư Cáp, Ngô Đức Kế... đă nổi bật giữa lớp người thế tục tầm thường.
    Thuở Nho học c̣n thịnh, Nguyễn Công Trứ đă viết bài Kẻ sĩ để vinh danh nhân vật tiêu biểu cho đời sống tinh thần của xă hội cũ. Chân dung kẻ sĩ được mô tả lúc xuất cũng như lúc xử như sau:
    - Nếu gặp thời th́ mang học thức và tài năng của ḿnh (sở tồn) để dùng vào việc trị quốc b́nh thiên ha (sở dụng). Khi chưa gặp thời th́ kẻ sĩ nuôi dưỡng “khí hạo nhiên”, vui với cảnh hàn vi, giữ tấm thân trong sáng làm gương cho xóm làng, chống cái sai trái, phù chính nghĩa theo tôn chỉ: “Chướng bách xuyên nhi đông lưu, hồi cuồng lan ư kư đảo” (khơi trăm sông cho chảy về đông, ngăn sóng dữ đang dội ngược chiều) hay gọi tắt như Nguyễn Công Trứ là làm công việc “hồi cuồng lan nhi chướng bách xuyên”.
    Kẻ sĩ thời xưa thường trọng tiết tháo, và coi thường danh lợi như Chu Văn An, dâng sớ Thất trảm không được Trần Dụ Tông chuẩn tấu nên cáo quan về mở trường dạy học, Nguyễn Đ́nh Chiểu cam phận làm cụ đồ ở Ba Tri, mang tài học ra dạy lớp hậu sinh và trứ tác các tác phẩm để nêu gương đạo lư.
    Nhất Linh là một kẻ sĩ khá hiếm hoi trong giai đoạn giao thời những năm cuối của tiền bán thế kỷ XX. Dù học vấn cao, ôm chí lớn, con đường tiến thân làm một dân chi phụ mẫu quá dễ dàng nhưng ông đă cự tuyệt quan trường mà làm công việc “lập ngôn” nghĩa là hoạt động xây dựng văn hóa mới (về điểm này Vũ Hoàng Chương trong câu đối viếng Nhất Linh đă có nhận xét chính xác: “tiền Phong hóa, hậu Văn hóa ư trung lập ngôn”, nghĩa là trước ra tờ Phong hóa, sau ra tờ Văn hóa để làm việc lập ngôn).
    Khi thời thế chuyển vần, Nhất Linh đă hy sinh sự nghiệp văn học để mưu đồ mục tiêu cấp thiết là giải phóng dân tộc. Nhưng thiếu thiên thời, địa lợi và nhân ḥa nên 1946 ông phải rời đất nước ra đi. Tuy ra đi nhưng tấc ḷng “vọng quốc” vẫn canh cánh trong tim và cho dù có lúc muốn gác bỏ việc thế nhân nhưng v́ thời thế nên lại phải v́ đời dấn thân cho tới lúc chết.
    Nếu Khuất Nguyên khi xưa tự trầm ở sông Mịch La để tấm gương cho kẻ sĩ muôn đời, th́ sự nghiệp và cuộc đời của một kẻ sĩ thời đại như Nhất Linh vĩnh viễn ở măi trong ḷng người và trong sử sách như Vũ Hoàng Chương nhận xét trong hai vế đối khóc nhà văn đàn anh như sau:

    Sổ thập niên, bút mặc thành danh, nhất khả đoạn, nhị khả tuyệt nhi tam bất hủ.
    Song thất dạ, vân tiêu, lạc phụng, tiền phong hóa, hậu văn hóa ư trung lập ngôn.
    (Mấy chục năm bút mực thành danh, chữ “Nhất” có thể đứt, chữ “Nhị” có thể mất, nhưng chữ “Tam” th́ trường tồn.
    Đêm song thất (7 tháng 7) mây tan, phượng sa xuống đất, trước có tờ Phong hóa, sau có tờ Văn hóa làm việc dạy đời).

    Câu đối khéo v́ vế thứ nhất nhắc tới các bút hiệu của Nguyễn Tường Tam như Nhất Linh và Nhị Linh và tác phẩm Đoạn Tuyệt nổi tiếng của ông.
    C̣n vế thứ hai nhắc tới nhà xuất bản Phượng Giang (đúng là Phượng Giàng- Giàng là tên đất Cẩm Giàng) do Nhất Linh chủ trương sau 1950 và hai tờ Phong hóa (1932) và Văn hóa (1958) của nhà văn lỗi lạc.
    Câu đối cũng nói rơ vai tṛ và sự nghiệp của Nhất Linh trong nền văn học mới.
    Tác phẩm của Nhất Linh trong đó có một số chưa công bố và trước khi được xuất bản đă cho đăng từng kỳ trên Phong hóa hoặc Ngày nay, nên năm viết và năm in có chỗ khác biệt:
    - Thôn dă (1922)
    - Hai chị em (1923)
    - Nho phong (1925)
    - Hồng nương (1925)
    - Người quay tơ (1927)
    - Anh phải sống (viết chung với Khái Hưng 1933-1934)
    - Gánh hàng hoa (viết chung với Khái Hưng 1933-1934)
    - Đời mưa gió (viết chung với Khái Hưng 1934)
    - Nắng thu (1934-1942)
    - Đoạn tuyệt (1934-1935)
    - Lạnh lùng (1936-1937)
    - Tối tăm (1937)
    - Hai buổi chiều vàng (1937)
    - Đôi bạn (1938-1939)
    - Bướm trắng (1939-1940)
    - Viết và đọc tiểu thuyết (1952-1961)
    - Xóm cầu mới (1958)
    - Gịng sông Thanh thủy (1960-1961)
    - Mối t́nh chân (1961)
    - Thương chồng (1961)

    -------------
    * Tài liệu tham khảo chính:
    Vũ Ngọc Phan (Nhà văn hiện đại), Phạm Thế Ngũ (Việt Nam văn học sử giản ước tân biên), Vơ Phiến (Truyện Miền Nam), Hà Minh Đức (Tự lực văn đoàn-Trào lưu và Tác gi&#7843..., Nhiều tác giả (Nhất Linh-Người nghệ sĩ-Người chiến s&#297... và bài của Phan Cự Đệ giới thiệu tác phẩm Đôi Bạn.

  3. #3
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Tác giả / Tác phẩm

    Tác giả / Tác phẩm
    Tú Duyên, họa sĩ thủ ấn

    - Nguyễn thị Hàm Anh






    Họa sĩ Tú Duyên sinh ngày 20/12/1915 tại làng Bát Tràng, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội. Bát Tràng là ngôi làng cổ chuyên nghề gốm. Như Phù Lăng, Thổ Hà... trải qua bao thăng trầm, nay đă phục hồi lại ḍng gốm cổ truyền.
    Là con thứ tư trong một gia đ́nh Nho gia, ông ưa thích hội họa từ nhỏ. Từ năm lớp Nhất, ngồi trong lớp, ông đă có thói quen vẽ các giáo sư đứng lớp, trong đó có thầy Bùi Kỷ. Khi lớn lên cần một nghề nghiệp, ông đă chọn bộ môn hội họa. Quyết định cũng có phần ảnh hưởng bởi tranh Đông Hồ và gốm Bát Tràng, quê hương đă tạo nên rất nhiều cảm hứng.
    Năm 1935, ông theo lớp “chuẩn bị thi vào Cao Đẳng Mỹ Thuật” của trường Mỹ Thuật Đông Dương trong ba năm rồi sau đó tự học hỏi, t́m ṭi thêm. Thầy của họa sĩ bấy giờ là cụ Nam Sơn Nguyễn Văn Thọ dạy biết vẽ và dạy tay nghề. C̣n th́ sau đó mỗi người phải tự t́m ra đường đi riêng rẽ của ḿnh.
    Trên tường nhà, họa sĩ vẫn treo một bức ảnh đen trắng phóng to. Ngồi chính giữa là cụ Nam Sơn Nguyễn Văn Thọ. Cùng lớp bấy giờ có Nguyễn Sỹ Ngọc, Nguyễn Thị Kim... Nguyễn Văn Tỵ th́ mất rồi. Sau đó là Trần Đ́nh Thọ...
    Năm 1939, họa sĩ chuyển vào định cư ở Sài G̣n. Tới năm 1940 th́ lập pḥng vẽ. Cũng năm ấy, ông đoạt giải thưởng vẽ huy hiệu “Pḥng thủ thụ động Đông Dương”. Ai vào thời đó cũng đều biết, v́ khi c̣i hụ, chỉ những người nào có đeo huy hiệu này mới được ra đường. Năm 1942, ông tham gia hội chợ của Nhật-Pháp tại Hà Nội rồi tùy theo công việc cứ đi đi về về Sài G̣n-Hà Nội luôn. Từ năm ấy trở đi, ông bắt đầu vẽ nhiều cho các báo.
    Năm 1942, họa sĩ vẽ thủ ấn họa trước, đến 45 mới sang lụa. Mộc bản cũng như sơn mài, sơn dầu... đều là những môn thi ở trường. Mộc bản ai cũng thích nhưng ít người theo đuổi v́ chán, ít thời giờ. Họa sĩ Thịnh Del đậu đầu khóa về môn đó cũng kêu mộc bản rắc rối mà lại khó bán. Năm 1936, Hà Nội xuất bản một tập đặc san tranh mộc bản để kỷ niệm lễ dựng bia cho thi hào Nguyễn Du có các tác phẩm của Nguyễn Văn Tỵ, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Gia Trí... Mỗi vị một tranh.
    Họa sĩ Tú Duyên bị vẻ đẹp của mộc bản thu hút nên đă t́m kiếm, chọn đó làm con đường đi của ḿnh. Quả mỗi bản gỗ đă thật là công tŕnh với các nét khắc chi chít, tỉ mỉ. Họa sĩ dùng dao khắc cũng khéo léo, điêu luyện như cầm cọ. Ông tự khắc lấy các mộc bản của ḿnh, chỉ về sau này tay yếu mới phải nhờ đến thợ.
    Tranh cổ truyền Việt Nam như tranh Đông Hồ, tranh Hàng Trống...: Lư Ngư Vọng Nguyệt, Thầy Đồ Cóc, Chuột Vinh Quy... có nội dung và đường nét nhất định lưu truyền từ đời này sang đời khác. Màu sắc cũng giống nhau không thay đổi. Nếu một bức tranh có năm màu th́ cần năm bản gỗ, bốn màu cần bốn bản gỗ... và toàn các bản dương. Tranh có bao nhiêu màu buộc in bấy nhiêu lần.
    C̣n Thủ ấn họa chỉ cần hai bản khắc: một bản dương khắc nổi, một bản âm khắc ch́m và in một lần đă đủ màu. Họa sĩ không dùng cọ mà chỉ chấm màu lên các đầu ngón tay, cạnh bàn tay hay ḷng bàn tay xoa trên bản khắc theo ư muốn rồi đặt lụa lên, dùng mặt âm trước làm phông. Sau khi xoa màu xong, mặt này đă thể hiện gần hết ư tưởng của tranh; sau đó mới dùng mặt dương để điểm xuyết thêm... Cứ tha hồ chọn lựa đủ màu với mức độ đậm nhạt, dày mỏng... rồi sau đó lại dùng bàn tay để ấn, vỗ, xoa, miết... trên mặt lụa để chất màu thấm lên. V́ chỉ dùng tay để tạo nên các hiệu quả về màu sắc khác nhau như thế nên gọi là Thủ ấn họa. Xong một bức th́ xóa hết màu trên mặt gỗ đi, lại bắt đầu xoa màu cho bức khác.
    Họa sĩ thường chỉ dùng một bản khắc khổ chữ nhật 0m5x1m trong khi mộc bản của Nhật Bản nhỏ hơn, chỉ độ một phần hai hay một phần tư thôi.
    Hiện Bảo tàng Mỹ thuật Sài G̣n đang giữ 52 bản khắc gỗ và 9 bức tranh thủ ấn họa trên lụa như Trần B́nh Trọng, Đánh ghen, Tiễn chồng... Mặc dù vẽ rất nhiều tranh nhưng bức Trần B́nh Trọng của họa sĩ Tú Duyên vốn có tên Thà Làm Quỷ Nước Nam được nhiều người nhớ nhất với nét vẽ cuồn cuộn toát ra chí khí lẫm liệt của vị anh hùng.
    Chính họa sĩ Tú Duyên cũng ưa thích bức ấy và bức Khuyến Học. Các bức khác: Trần B́nh Trọng, Trầu Cau, Tiễn Chồng, Trung Thu... mỗi bức in vài chục bản. Hiện nay nhà ông c̣n một bức Trần B́nh Trọng, trong bảo tàng cũng lưu một. Thật ra, Trần B́nh Trọng và Nguyễn Trăi là hai bức đi đôi với nhau nhưng chỉ có Trần B́nh Trọng là phổ biến. Bức ấy in ra là nhận huy chương ngay.
    Trong một lần đến thăm, ông bày 3 bức tranh b́nh hoa sen trên bàn cho tôi xem. Quả thật đường nét như nhau nhưng cả ba bức đều có màu sắc khác hẳn, gửi gắm trong đó tất cả cảm xúc dạt dào từng lúc của người họa sĩ. Trong tấm tranh này, cánh sen hồng phơn phớt như đôi má mùa xuân nhưng nơi bức kia là mảng nắng phiêu diêu và bức nọ màu xanh thoảng bay như một hồi ức nhạt nḥa. Sự phối hợp, chồng chất các nét và mảng màu tạo nên những màu sắc thật kỳ ảo, huyền diệu mà cây cọ khó tạo nên. Rơ ràng mỗi bức tranh đều mang những sắc thái, những rung cảm khác nhau khiến từng bức có giá trị riêng biệt, không bức nào giống bức nào. Một bản khắc gỗ cho ra nhiều bức tranh với cách phối màu khác nhau, nhưng thông thường họa sĩ chỉ làm khoảng hai, ba tấm hoặc chín tấm là cùng v́... hết hứng.
    Thủ ấn họa đă thoát khỏi h́nh vóc cổ truyền, nâng tính nghệ thuật lên cao để mang những đường nét, sắc màu mới mẻ; chuyên chở được những t́nh cảm và rung động riêng của người nghệ sĩ thời đại và truyền đạt được những rung cảm ấy đến người thưởng lăm.
    Dù sao, theo thời gian, kỹ thuật thủ ấn họa cũng có nhiều thay đổi, cải biến. Bức Phan Thanh Giản đầu tiên in tay năm 1942 được bốn mươi bản. Bấy giờ màu và giấy c̣n khó khăn nên họa sĩ chỉ dùng màu bột pha keo với chỉ một màu đen, xanh hoặc đỏ in trên loại giấy thô nhám như giấy chậm, tức là loại giấy học sinh ngày xưa hay dùng để thấm mực khi viết bài. Sau này, từ năm 50 trở đi dùng sơn dầu và pha trộn nhiều màu khác nhau cho một bức tranh. Như thế màu đẹp hơn và chất liệu cũng bền hơn. Báo Tây rất thích, họ mua nhiều làm kỷ niệm. Bây giờ th́ dùng sơn tube cả. Trong những chuyến về đồng bằng sông Cửu Long chơi, nhiều họa sĩ miền Tây cũng vẽ thế nhưng họ gọi là ấn thủ họa và bản khắc là cao su hay thạch cao chứ không dùng gỗ mít nặng như họa sĩ Tú Duyên, tuy vẫn in trên lụa.
    Tranh thủ ấn họa của họa sĩ Tú Duyên tạm chia thành ba thời kỳ: Lần thứ nhất cho đến năm 1953 họa sĩ trong giai đoạn t́m ṭi thể nghiệm với các bức tranh mang đường nét mộc mạc, đơn giản; màu sắc c̣n sặc sỡ ảnh hưởng tranh mộc bản cổ với các đề tài từ truyền thuyết như các bức: Lưu B́nh Dương Lễ, Trầu Cau... Giai đoạn thứ hai từ 1960 màu sắc ḥa hợp nhẹ nhàng, bay bướm. Các bộ tranh thủ ấn họa trên lụa như Kiều mười sáu tấm và Chinh Phụ Ngâm mười tấm dần dần được hoàn thiện trong thời kỳ này để vừa có vẻ mạnh mẽ như sơn dầu, lại dịu dàng tươi mát như thủy thái họa. Sau này, họa sĩ chuyển sang vẽ tranh lụa cũng như mở rộng nhiều đề tài mới.
    Về nội dung tranh vẽ. Giới thưởng ngoạn cũng chia tranh của ông thành ba mảng lớn: Tranh có đề tài về danh nhân lịch sử như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trăi, Nguyễn Huệ, Phù Đổng Thiên Vương... Tranh có đề tài lấy từ ca dao tục ngữ , truyền thuyết và các tác phẩm văn học... như các bức “Chàng tuổi trẻ vốn ḍng hào kiệt. Xếp bút nghiên theo việc đao cung”, “Ba gian nhà rạ bà x̣a. Đẹp duyên coi tựa chín ṭa nhà lim”, “Chẳng tham vải lụa anh dày. Tham dăm ba chữ cho tày thế gian”, Đàn Nguyệt, Lưu B́nh Dương Lễ... va tranh có đề tài phong cảnh miêu tả sinh hoạt của dân chúng. Tuy nhiên, việc phân chia như vậy chỉ có tính chất đại khái v́ ngoài đó, họa sĩ c̣n vẽ nhiều đề tài mới như Cứu Lúa tả cảnh gặt lúa mùa lũ, bức Anh Lực Điền say thuốc lào dưới rặng tre, bức Ông Già Nam Bộ kéo đàn dưới đêm trăng, Giặc Đến Nhà tả cảnh gà mẹ che chở đàn gà con chống trẻ với lũ diều hâu, bức Đánh Cờ tả hai người ngồi trước bàn cờ, một già thảnh thơi và một trẻ đang đăm chiêu suy nghĩ...
    Vừa mang tính chất cổ truyền vừa cách tân một cách đặc biệt cả về kỹ thuật lẫn nội dung như vậy nên tranh thủ ấn họa của họa sĩ Tú Duyên đă tạo nên một nét đặc sắc riêng trong làng hội họa và mang về cho họa sĩ nhiều giải thưởng.
    Ngoài ra, khi nhắc đến Tú Duyên, người ta thường nghĩ ngay đó là một họa sĩ của tranh lụa bởi v́ không sơn mài, không sơn dầu, trong suốt con đường nghệ thuật của ḿnh, ông chỉ trung thành với lụa và thủ ấn họa. Sau này ông hay vẽ tranh lụa với màu hoặc với mực đen. Đặc biệt bộ Kiều tranh lụa ba mươi tám bức được nước ngoài mua để quay phim.
    Trong nhiều năm qua, mỗi sáng, chiều ông đều đi bộ ra bờ sông kư họa cảnh vật để chuẩn bị cho một cuộc triển lăm tranh lụa và kư họa cuối đời với đề tài “Sóng du lịch bến Bạch Đằng”. Thời gian ở nhà để vẽ và tiếp bạn bè ghé chơi. Hiện nay, gia tài của ông đă có hơn năm mươi quyển sổ phác thảo. Sau này, khi sức khỏe yếu, mắt đă kém, ông vẫn duy tŕ thói quen ra bờ sông hóng mát nhưng do con trai chở xe gắn máy hoặc đi bằng taxi.
    Mỗi lần tôi đến thăm, ông đều giở các bức kư họa ra xem. Tôi lật từng trang giấy, ngắm các đường nét của tàu bè, nhà cửa, cây cối, con người, tượng đức Thánh Trần... mà thật sự ngưỡng mộ sức làm việc mạnh mẽ và bền bỉ của nhà họa sĩ “cửu thập” này. Ông đă miệt mài làm việc hơn nửa thế kỷ nay để những bức “tranh Tú Duyên” với nét vẽ mềm mại uốn lượn đầy cá tính không thể lầm lẫn với bất kỳ một họa sĩ nào khác, trở nên quen thuộc với giới thưởng ngoạn, nằm trong nhiều bộ sưu tập cũng như các nhà bảo tàng mỹ thuật. Riêng bảo tàng thành phố cũng lưu giữ mười bốn bức tranh qua các thời kỳ của ông.
    Hiện ở nhà ông vẫn c̣n mười bản khắc gỗ và năm mươi quyển sổ kư họa. Mong muốn cuối đời của ông là biến tư gia thành nơi trưng bày các tác phẩm của ḿnh. Căn nhà màu vàng nhạt ấy vẫn giữ nguyên vẻ cũ kỹ quen thuộc, trong suốt bao nhiêu năm không hề sửa sang, không quét vôi mới. Bụi ngâu, dâm bụt và giàn hoa leo um tùm, những chùm hoa trắng phớt tím rung rinh trong gió nên khách lạ có thể không để ư hàng chữ đồng nhỏ bên trên: Tú Duyên: Họa sĩ-ngành thủ ấn họa. Một chiếc tủ kính gỗ nâu với lọ cúc vàng như bức b́nh phong cổ kính chắn ngang lối vào khiến gian nhà hơi tối. Có lẽ thị lực vốn từ lâu đă rất kém khiến họa sĩ có cảm giác dễ chịu trong bóng râm dịu dàng.
    Chiếc sơ mi ngắn tay gọn gàng, chân đi đôi guốc mộc quai nhựa. Bảy mươi tuổi vốn được xem là “cổ lai hy”. Thế nhưng ông cụ ngoài chín mươi tóc trắng hoa râm, da mặt ít nhăn nheo trong gian pḥng ấy vẫn khỏe mạnh và minh mẫn. Không mập mạp, không gầy g̣, vẫn dáng người nhỏ nhắn, doi doi. Họa sĩ lanh lẹn qua lại trong gian pḥng nhỏ để giở các bức tranh hay kư họa xếp lớp chồng trên bàn, những bản khắc gỗ dựng ở góc, chỉ cho khách xem các bức tranh lụa treo kín tường. Trên giá và bàn là các bức phác thảo dang dở. Giọng nói của họa sĩ vẫn trong, lanh, mau mắn, không hề là thanh âm của một cụ già mệt mỏi bởi tuổi tác.
    Họa sĩ Tú Duyên vừa mất ngày 3/5/2012, thọ 98 tuổi. Bây giờ đi ngang ngôi nhà đó, tôi như vẫn thấy h́nh dáng ông đang cần mẫn cúi xuống khung tranh rộng đặt trên bàn. Ông gác chiếc cọ lên thành đĩa, cầm bông g̣n thấm nước quệt trên mặt lụa. Trong gian pḥng ánh sáng d́u dịu đó, mặc ḍng người xe rộn ră xuôi ngược như mắc cửi ngoài đường, thành phố sôi động trong cuộc sống tốc độ đến quay cuồng, người họa sĩ già vẫn lặng lẽ tạo dựng nên một góc tự t́nh quê hương nhỏ bé, một cơi riêng tư cho Phạm Ngũ Lăo ngồi đan sọt bên lề đường; con trâu, gịng sông, lũy tre yên b́nh trong ca dao, hội Đạp Thanh xanh biếc cỏ non với hai Kiều e lệ... để dâng hiến cho cuộc đời, cho nghệ thuật, cho người yêu thích cái Đẹp những tác phẩm mang nặng hồn dân tộc. Mong sao những nỗ lực, tâm huyết của họa sĩ sẽ được kế thừa, phát huy như chính ông đă kế thừa, phát huy để làm hồi sinh một nghệ thuật tranh khắc gỗ từng vàng son lâu dài.

    Nguyễn thị Hàm Anh
    (Tư liệu do họa sĩ Tú Duyên cung cấp)

    Viết từ Sài g̣n - Thoibao Online

  4. #4
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Tác giả / Tác phẩm

    Tác giả / Tác phẩm
    Thụy Khuê / Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc
    ( Tiếng Quê Hương, Virginia, 2012)
    P1





    Tiểu sử:
    Tên thật là Vũ Thị Tuệ
    Sinh năm1944 tại Nam Định .
    Viết tiểu luận văn học từ 1985
    Đă in bài trên các báo Tự Do (Pháp & B&#7881..., Văn Học (Hoa K&#7923..., Thông Luận (Pháp), Thế Kỷ 21 (Hoa K&#7923..., Người Việt (Hoa K&#7923..., Diễn Đàn (Pháp), Hợp Lưu (Hoa K&#7923..., Phụ Nữ Diễn Đàn (Hoa K&#7923......
    Cộng tác với đài RFI (Radio France Internationale) trong chương tŕnh Văn Học Nghệ Thuật (1990-2009).



    Thụy Khuê

    Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm


    Nhân Văn Giai Phẩm là phong trào đ̣i hỏi tự do dân chủ của văn nghê sĩ và trí thức miền Bắc, có tầm vóc lớn lao, khởi xướng đầu năm 1955 và bị chính thức dập tắt vào tháng 6 năm 1958.
    Từ 1959 cho đến nay, hai nguồn tư liệu tương đối đầy đủ về phong trào Nhân Văn Giai Phẩm (NVGP) vẫn chỉ là: Cuốn Trăm hoa đua nở trên đất Bắc (THĐNTĐB) của Hoàng Văn Chí, do Mặt Trận Tự Do Văn Hoá, in ở Sàig̣n năm 1959 và cuốn Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước toà án dư luận (BNVGPTTADL) của Nxb Sự Thật, in ở Hà Nội, cùng năm 1959.


    Từ thập niên 90 trở đi, ở ngoài nước, có thêm một số tư liệu mới, rải rác dưới dạng tự thuật, bút kư... của những nhà văn đă tham gia phong trào Nhân Văn Giai Phẩm như Phùng Quán, Phùng Cung, Hữu Loan, Hoàng Cầm... và hồi kư Trần Dần (Văn Nghệ, Californie, 2001). Những tư liệu này góp phần làm sáng tỏ thêm về Nhân Văn Giai Phẩm, giúp các nhà nghiên cứu sau này có thể xây dựng lại bối cảnh toàn diện của phong trào tranh đấu cho tự do sáng tác độc đáo trong lịch sử văn học Việt Nam thế kỷ XX.
    Ngày 13/4/1999, trong dịp nhà thơ Lê Đạt sang Pháp lần thứ nh́, chúng tôi đă đề nghị ghi âm ông, mong ông soi rơ những chỗ chưa được các tài liệu trước nói đến, hoặc nói sai. Buổi nói chuyện -được thu thanh với chủ đích giữ lại làm tài liệu văn học sử- vừa mang tính cách cá nhân, vừa có tính cách hệ thống về phong trào Nhân Văn Giai Phẩm. Chúng tôi đă đồng ư với nhà thơ là sẽ chỉ công bố tài liệu sau khi ông qua đời, bởi lúc đó ông cho biết, ông không có ư định viết hồi kư.
    Đầu năm 2004, nhân dịp kỷ niệm 50 năm trận Điện Biên Phủ 1954-2004, chúng tôi dự định làm một chương tŕnh đặc biệt kỷ niệm 50 năm phong trào Nhân Văn Giai Phẩm (nếu coi 1954 như thời điểm manh nha sự gặp gỡ giữa các văn nghệ sĩ chủ trương phong trào), v́ vậy đă cố gắng liên lạc với nhà thơ Lê Đạt qua điện thoại viễn liên Paris-Hà Nội, nhưng không thể thực hiện một cuộc phỏng vấn mới, bởi chỉ qua vài lời đối thoại là đường dây bị nhiễu ngay. Sau nhiều tháng phân vân, cuối cùng, với sự đồng ư của nhà thơ Lê Đạt, chúng tôi quyết định phát thanh trên RFI, toàn bộ buổi nói chuyện thu thanh ngày 13/4/1999 tại Paris, do đó mà tập tài liệu văn học sử này đến với người nghe và người đọc sớ hơn dự tính.


    Đây là lần đầu tiên, một tư liệu trực tiếp qua lời thuật của một thành viên cột trụ trong Nhân Văn Giai Phẩm được công bố. Bên cạnh nhân chứng của Lê Đạt, c̣n có nhân chứng của hai nhân vật chủ chốt khác trong phong trào, đó là buổi phỏng vấn ngắn nhà chính trị và văn hoá Nguyễn Hữu Đang, ghi âm qua điện thoại viễn liên Paris-Hà Nội tháng 8/1995, nhân dịp chúng tôi hỏi ông về việc ông tổ chức ngày lễ Độc Lập 2/9/1945. Đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng có thể ghi âm được ông Nguyễn Hữu Đang. Tất cả những cố gắng về sau đều vô hiệu: bởi chỉ nói vài câu là đường dây điện thoại bị nhiễu ngay. Những buổi nói chuyện với nhà thơ Hoàng Cầm được ghi âm tản mạn trong khoảng thời gian từ 1995 đến 2000, và truyền thanh trên RFI, trong những dịp khác nhau. Các bạn sẽ lưu ư thấy sự trả lời của Nguyễn Hữu Đang, Hoàng Cầm qua điện thoại viễn liên Paris-Hà Nội, không đạt mức độ tự do triệt để như trường hợp tṛ truyện trực tiếp với Lê Đạt ở Paris. Nhưng tựu trung cả ba chứng nhân cùng đồng quy ở điểm nói thẳng, nói thật cho nên có những câu hỏi cùng đặt ra cho Hoàng Cầm và Lê Đạt ở những thời điểm và hoàn cảnh khác nhau nhưng những câu trả lời gần như tương tự. Phần phát biểu của nhà thơ Lê Đạt, cho đến nay, là chứng từ quan trọng và đầy đủ nhất về lịch sử Nhân Văn Giai Phẩm.



    *


    Hoàng Văn Chí, tức Mạc Định, soạn giả Trăm hoa đua nở trên đất Bắc (Mặt Trận Tự Do Văn Hoá xuất bản tại Sài G̣n) cho biết: "Ở Hà Nội ra đi đầu năm 1955, tôi đă hẹn với các bạn ở lại là hễ có dịp sẽ nói lên tiếng nói của họ", "Tôi làm việc một ḿnh", "Tôi liên lạc được với một ủy viên trong Ủy ban kiểm soát đ́nh chiến. Họ đi Hà Nội như đi chợ. Mỗi tuần họ cắp về Sài G̣n cho tôi tất cả báo chí xuất bản ở Hà Nội", " Tôi làm việc trong hai năm 56-58". "Bộ Thông tin và nói chung, chính quyền Sài G̣n không hề giúp. Lư Trung Dung đến chào Bộ Thông tin, yêu cầu mua cho một số, nhưng chẳng mua một cuốn nào". "Mặt Trận Bảo Vệ Tự Do Văn Hoá ở Việt Nam là một chi nhánh của một tổ chức quốc tế, tên là Congress for Cultural Freedom, trụ sở trung ương ở 104 boulevard Haussmann, Paris. Bác sĩ Lư Trung Dung làm chủ tịch. Tội nghiệp, chỉ v́ làm chủ tịch Mặt Trận Bảo Vệ Tự Do Văn Hoá mà phải đi cải tạo đến nay (1986) chưa được thả". "Trước khi đưa in, Lư Trung Dung nghe nói có người gần ông Diệm ngờ rằng tôi soạn cuốn Trăm hoa đua nở là có ư xúi dục trí thức miền Nam bắt chước trí thức miền Bắc nổi lên chống lại chế độ. V́ vậy nên Lư Trung Dung bàn với tôi nên để bút hiệu Mạc Định là soạn giả. Chỉ kư tên Hoàng Văn Chí vào bài Tựa" (Phỏng vấn cụ Hoàng Văn Chí, Từ Nguyên thực hiện, bán nguyệt san Tự Do số 50, ngày 16/11/1986, phát hành tại B&#7881....


    Hoàng Văn Chí đă nói rơ lư do và điều kiện ra đời của tập THĐNTĐB. Nhưng tại sao Hoàng Văn Chí lại đặc biệt lưu ư đến phong trào Nhân Văn Giai Phẩm? Ai là những người "ở lại" mà Hoàng Văn Chí đă hứa sẽ nói lên tiếng nói của họ? Nếu t́m sâu hơn về liên hệ gia đ́nh giữa Hoàng Văn Chí và Phan Khôi, có thể chúng ta thấy câu trả lời: Sở Cuồng Lê Dư có ba người con gái -và v́ bà Lê Dư là em ruột Phan Khôi- cho nên ba cô này là cháu ruột Phan Khôi. Cô đầu gả cho Vũ Ngọc Phan, cô thứ nh́ lấy Hoàng Văn Chí và cô út là vợ Tướng Nguyễn Sơn. Riêng nữ sĩ Hằng Phương, vợ nhà phê b́nh Vũ Ngọc Phan, đă viết bài đả kích thậm tệ Nhân Văn Giai Phẩm. Và rất có thể, người em ruột Hằng Phương, tức bà Hoàng Văn Chí, là một trong những động cơ thúc đẩy Hoàng Văn Chí thu thập tài liệu và viết về Nhân Văn Giai Phẩm.
    Tác phẩm của Hoàng văn Chí, cho đến nay vẫn là tác phẩm hoàn chỉnh nhất về phong trào. Phần lớn những tác nhân chính đều có mặt, với một tiểu sử khá chính xác và những bài viết tiêu biểu của họ trong thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm. Nhược điểm duy nhất: v́ không phải là người trong cuộc, và ông đă rời miền Bắc từ đầu năm 1955, khi phong trào mới manh nha, cho nên có những điểm sai mà ngày nay qua chứng nhân của những người trong cuộc, chúng ta có thể đính chính lại được.



    Tập tài liệu tựa đề Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước toà án dư luận do Nxb Sự Thật (nay là Nxb Chính Trị Quốc Gia), in tháng 6, năm 1959, tại Hà Nội, là cuốn sách tập hợp những bài viết hoặc diễn văn tố cáo, lên án, buộc tội Nhân Văn Giai Phẩm. Cuốn sách có một chương nhỏ, in lại "những lời thú tội" của các thành viên Nhân Văn Giai Phẩm, c̣n toàn thể dành cho phía công tố "phát hiện tội", với những lời lẽ vô cùng khiếm nhă, khó thể mường tượng được, từ miệng, hoặc từ ng̣i bút của giới được gọi là "trí thức văn nghệ sĩ" đối với các đồng nghiệp và bạn hữu của ḿnh đă tham gia Nhân Văn Giai Phẩm. Nó ghi lại một thời kỳ mà nhân cách con người đă đạt tới đáy sâu của sự tha hoá.
    Tập tư liệu dày 370 trang này c̣n hữu ích về mặt lịch sử và văn học sử, nó mở ra nhiều khía cạnh của vấn đề NVGP: về tầm vóc của phong trào, về không khí đàn áp thời đó, về mức độ khốc liệt của lớp đấu tranh Thái Hà mà sau này, nhà thơ Lê Đạt sẽ mô tả một cách tường tận.
    Những bài luận tội có tính cách hạ nhục NVGP của 83 văn nghệ sĩ, và các đoàn thể, báo chí, nhân dân cũng như các vị trong ban chấp hành trung ương Đảng, với những tên tuổi như: Tố Hữu, Nguyễn Đ́nh Thi, Phạm Huy Thông, Trần Hữu Tước, Đặng Thai Mai, Nguyễn Huy Tưởng, Hồng Cương, Nguyễn Văn Bổng, Hoài Thanh, Hoàng Trung Thông, Hồ Đắc Di, Vũ Đức Phúc, Quang Đạm, Bàng Sĩ Nguyên, Ngụy Như Kontum, Hằng Phương, Lương Xuân Nhị v.v... phản ảnh rất rơ nhân cách của người tố. Ví dụ cách viết của Nguyễn Huy Tưởng, Đặng Thai Mai, không giống cách viết của Tố Hữu, Nguyễn Đ́nh Thi, Phạm Huy Thông... Cho nên, có thể nói, chính với những "văn bản tố", các tác giả đă để lại nhân cách trí thức của ḿnh trong kư ức dân tộc. Sau cùng nhờ cách sắp xếp thứ tự "những tên đầu sỏ" trong cuốn sách mà chúng ta biết được thứ tự "tội" nặng, "tội" nhẹ, cùng hoạt động của mỗi người.

    *



    Hành tŕnh Nhân Văn Giai Phẩm


    Với những tư liệu và nhân chứng hiện hành, ngày nay chúng ta có thể tóm tắt lịch tŕnh hoạt động của phong trào NVGP như sau:


    Tháng 3/1955, trong quân đội, nổi lên một phong trào tranh đấu do Trần Dần, Tử Phác chủ trương (với sự cộng tác của Lê Đạt, Hoàng Cầm và các văn nghệ sĩ khác...): Một mặt, lên tiếng phê b́nh tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Một mặt, đưa ra đề nghị cải cách chính sách văn nghệ trong quân đội, chủ yếu đ̣i trả quyền lănh đạo văn nghệ về tay văn nghệ sĩ.
    Tố Hữu viết:
    "Cuộc tấn công vào chế độ ta và Đảng ta đă bắt đầu trên mặt trận văn nghệ từ đầu năm 1955, ngay khi hoà b́nh vừa lập lại.
    Trong khi bọn gián điệp c̣n giấu mặt chờ đợi thời cơ, và bọn tờ-rốt-kít Trương Tửu, Trần Đức Thảo tích cực chuẩn bị lực lượng ở trường Đại học, th́ bọn Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt, hai tên phản Đảng ẩn nấp trong báo Văn Nghệ của Hội Văn Nghệ cùng bọn Trần Dần, Tử Phác cũng là những tên phản Đảng trong pḥng Văn nghệ quân đội, đă kết thành một bè phái chống Đảng trong Văn nghệ.
    Như lời thú nhận của Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, cuộc phê b́nh tập thơ Việt Bắc là do cái bè phái ấy sắp đặt, để đánh vào sự lănh đạo và đường lối văn nghệ của Đảng, đường lối phục vụ chính trị cách mạng, phục vụ công nông binh, và để đề xướng cái "điệu tâm hồn" ruỗng nát của chủ nghĩa cá nhân tư sản, mở cửa cho lối sống tự do sa đọa.
    Đương nhiên cái "điệu tâm hồn" ấy của Lê Đạt xướng lên không thể nào hoà được với cái điệu lớn của cách mạng, và cũng rất tự nhiên nó chỉ hoà được với "tiếng sáo tiền kiếp" lóc gân của tên mật thám Trần Duy.
    Cũng lúc ấy, bọn Trần Dần , Tử Phác -những đứa con hư hỏng của Hà nội cũ- nay lại trở về với "cảnh cũ người xưa" bỗng cảm thấy đời sống trong quân đội "nghẹt thở", chỉ v́ thiếu cái tự do trở lại đời sống trụy lạc cũ. Đối với chúng, đời sống trong quân đội cách mạng chỉ c̣n là "những sợi dây xích trói buộc phải phá mà ra". Được tiêm thêm ít nhiều chất phản động của Hồ Phong, Trần Dần gióng lên "tiếng trống tương lai" chửi cán bộ chính trị là "người bệnh", "người ṛi", "người ụ". Cùng Tử Phác, khiêu khích những anh em khác, hắn tổ chức một cuộc đấu tranh "buộc lănh đạo thực hiện mọi yêu cầu" của họ.
    Họ đ̣i thực hiện những ǵ? "Trả quyền lănh đạo văn nghệ về tay văn nghệ sĩ. Thủ tiêu chế độ chính trị viên trong các đoàn văn công quân đội. Thủ tiêu mọi chế độ quân sự hiện hành trong văn nghệ quân đội. Thành lập trong quân đội một chi Hội văn nghệ trực thuộc Hội văn nghệ, không qua Cục Tuyên Huấn và Tổng Cục Chính Trị". Tóm lại là thủ tiêu sự lănh đạo của Đảng và kỷ luật của quân đội đối với họ" (Tố Hữu, Nh́n lại 3 năm phá hoại của nhóm "Nhân Văn-Giai Phẩm", BNVGPTTADL, trang 22-24). V́ vụ việc này, Trần Dần bị giam trong trại từ 13/6 đến 14/9 để kiểm thảo. Trong thời gian bị giam, Trần Dần viết trường ca Nhất định thắng mà Hoàng Cầm và Lê Đạt đều có bản thảo.


    Cùng thời điểm đó, báo Nói Thật của Hoàng Công Khanh trích đăng bài Sự chia tay giữa văn nghệ và chính trị của Lỗ Tấn.


    Nhưng phải đến tháng 2 năm 1956, phong trào mới chính thức công khai, với sự xuất hiện của Giai phẩm mùa xuân, do Hoàng Cầm và Lê Đạt chủ trương, đăng các tác phẩm của Trần Dần, Văn Cao, Sĩ Ngọc, Tử Phác, Phùng Quán, Nguyễn Sáng, Tô Vũ... Giai phẩm mùa xuân, ngoài bài Nhất định thắng của Trần Dần xem như cái sườn chính, c̣n có bài thơ Ông b́nh vôi của Lê Đạt, và Cái chổi quét rác rưởi của Phùng Quán. Lúc đó, Trần Dần và Tử Phác, đang tham gia cải cách ruộng đất tại Yên Viên, Bắc Ninh, và theo Hoàng Cầm th́ Trần Dần không hề biết việc đăng bài thơ Nhất định thắng. Bài thơ của Trần Dần đă gây tai họa cho nhà thơ và tờ giai phẩm. Báo vừa phát hành, Lê Đạt bị gọi ngay lên Tuyên huấn để kiểm thảo. Giai phẩm mùa xuân bị tịch thu. Trần Dần và Tử Phác bị bắt. Trần Dần cứa cổ tự vận nhưng không chết[1].
    Hồng Cương viết: "Nhân cơ hội đó, tất cả các lực lượng đối lập với chủ nghĩa xă hội đều ngóc đầu dậy chống lại sự lănh đạo của Đảng và chính phủ. Bọn phản động trong Công Giáo hành động phá rối trật tự ở Nghệ An, Nam Định v.v..." (sđd, trang 17).


    Tuy vậy, nhà cầm quyền miền Bắc vẫn chưa có thái độ dứt khoát với những người làm Giai phẩm mùa xuân.


    Ngày 26/5/1956, Mao Trạch Đông phát động phong trào "Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng". Ngày 28/6/1956, Ba Lan nổi dậy. Theo chính sách của Tàu, Đảng Lao động (tiền thân của đảng Cộng sản) cũng nới rộng chính sách văn hóa chính trị: Tháng 8/1956, Hội Văn Nghệ đứng ra tổ chức lớp 18 ngày, học tập dân chủ trong văn nghệ, học tập chống tệ sùng bái cá nhân (Staline) của Liên Xô. Trong lớp học này, sự phê phán chính sách văn nghệ của nhà nước khá mạnh mẽ, đặc biệt Nguyễn Hữu Đang đứng ra đọc bài tham luận "nảy lửa" chỉ trích đường lối văn nghệ của Đảng.


    Ngày 29/8/1956, Giai Phẩm Mùa Thu (tập I) ra đời, có bài Phê b́nh lănh đạo văn nghệ của Phan Khôi, bài Bệnh sùng bái cá nhân trong lănh đạo văn nghệ của Trương Tửu...



    Ngày 15/9/1956, bán nguyệt san Nhân Văn số 1, do Hoàng Cầm, Lê Đạt, Nguyễn Hữu Đang, Trần Duy, chủ trương, với Phan Khôi chủ nhiệm và Trần Duy thư kư toà soạn, ra đời với những bài chủ chốt: Con người Trần Dần của Hoàng Cầm, bài thơ Nhân câu chuyện mấy người tự tử của Lê Đạt, và bức tranh Nguyễn Sáng vẽ Trần Dần với vết sẹo trên cổ...

    30/9/1956 Nhân Văn số 2.

    8/10/1956 tái bản Giai Phẩm Mùa Xuân.

    15/10/1956 Nhân Văn số 3, đăng bài Nỗ lực phát triển dân chủ của Trần Đức Thảo...

    Cuối tháng 10/1956, Giai phẩm mùa thu (tập II) ra đời, có những bài Những người khổng lồ của Trần Duy, Chống tham ô lăng phí của Phùng Quán, Cũng những thằng nịnh hót của Hữu Loan...
    Đồng thời ở đại học, các giáo sư Trương Tửu, Trần Đức Thảo... huy động sinh viên cho ra tờ Đất Mới số 1, với Phùng Quán, Bùi Quang Đoài... Đất Mới ra được một số th́ bị đ́nh bản.
    Hồng Cương viết: "Sự chống đối của chúng không c̣n tính chất văn nghệ nữa mà đă trở thành một cuộc chống đối vế chính trị công khai. Nhóm Giai Phẩm chống Đảng về văn nghệ đă biến thành nhóm phá hoại chính trị trắng trợn "Nhân Văn-Giai Phẩm". (...) Từ Nhân Văn số 4 trở đi (...) th́ chúng đă chuyển hẳn sang chống đối về chính trị, kích động quần chúng biểu t́nh chống lại Đảng và chính phủ ta nhân lúc Quốc Hội ta đang họp." (sđd, trang 18-19).



    05/11/1956 Nhân Văn số 4, đăng bài Thành thật đấu tranh cho tự do dân chủ của Trần Duy, Con ngựa già của chúa Trịnh của Phùng Cung...

    10/11/1956 Hungary nổi dậy.

    20/11/1956 Nhân Văn số 5, đăng bài Bài học về Ba-lan và Hun-ga-ri của Lê Đạt, kư tên Người Quan Sát, bên cạnh bài xă luận Hiến pháp Việt nam 1946 và Hiến pháp Trung hoa của Nguyễn Hữu Đang. Thi sĩ máy của Như Mai...

    Tháng 11/1956 Giai phẩm mùa thu tập III đăng các bài Văn nghệ và chính trị của Trương Tửu, Muốn phát triển học thuật của Đào Duy Anh...

    Tháng 12/1956 Giai phẩm mùa đông, đăng bài Nội dung xă hội và h́nh thức tự do của Trần Đức Thảo; đăng tiếp Văn nghệ và chính trị của Trương Tửu...

    09/12/1956, Hồ Chí Minh kư sắc lệnh băi bỏ quyền tự do báo chí.

    15/12/1956, Lệnh đóng cửa Nhân Văn, số 6 đang in, bị chận lại.

    Từ 20 đến 28/2/1957, Đại hội văn nghệ lần thứ hai họp tại Hà Nội với gần 500 đại biểu, Trường Chinh kêu gọi đấu tranh "đập nát" phong trào NVGP.
    Tuy vậy, Đảng Lao Động vẫn giữ thái độ tương đối ḥa hoăn với văn nghệ sĩ, bởi v́ bên Trung quốc vẫn c̣n đang tiếp tục phong trào "Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng", cho nên đến đầu tháng 4/1957 Hội Nhà Văn chính thức được thành lập (trước đây là Hội Văn Ngh&#7879..., Tô Hoài làm Tổng thư kư, kiêm giám đốc nhà xuất bản Hội Nhà Văn và một số thành viên cũ của Nhân Văn như Hoàng Cầm, Hoàng Tích Linh vẫn được bầu vào ban chấp hành. Ngày 10/5/1957, hội cho ra tuần báo Văn, với Nguyễn Công Hoan (chủ bút), Nguyễn Tuân (phó chủ bút), Nguyên Hồng (tổng thư kư). Ban đầu báo Văn cũng đi theo đường lối chính thống. Nhưng khi trên báo Học Tập (của đảng) Thế Toàn lên tiếng chê báo Văn "nghèo nàn", "xa rời thực tế cách mạng", Nguyên Hồng trả lời trên báo Văn số 15 (16/8/1957), phê b́nh Thế Toàn là "quan liêu", "trịch thượng", Văn dần dần thay đổi thái độ, chẳng bao lâu một số cây bút cũ trong NVGP lại thấy xuất hiện trên báo Văn. Văn số 21(27/9/1957) đăng bài thơ Lời mẹ dặn của Phùng Quán, số 24(18/10/57), đăng kịch thơ Tiếng hát của Hoàng Cầm, số 28 (15/11/1957), đăng bài Hăy đi măi của Trần Dần. Số 30 (29/11/1957) in hư hoạ của Trần Duy chế giễu chế độ văn nghệ của Đảng.

    Cuối năm 1957, Mao Trạch Đông hạ lệnh đánh phái hữu. Theo Hoàng Cầm: Huy Cận và một người nữa được cử đi học tập ở Trung Quốc trở về: Đảng liền thay đổi đường lối, chủ trương đàn áp mạnh hơn. Tờ Văn ngừng ở số 36(10/1/1958), có đăng bài Ông Năm Chuột của Phan Khôi.
    Để "trừ khử nọc độc Nhân Văn", Đảng tổ chức hai lớp học tập đấu tranh chống "bọn NVGP" ở Thái Hà Ấp, mà tài liệu chính thức gọi là hai cuộc "hội nghị":
    "
    Đầu năm 1958, có hai cuộc hội nghị của anh chị em công tác văn nghệ, nghiên cứu nghị quyết của Bộ Chính Trị Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam, kết hợp với hai bản Tuyên Ngôn và Tuyên Bố của hội nghị các Đảng Cộng Sản và các Đảng Công Nhân họp ở Mạc Tư Khoa cuối năm 1957. Hội nghị đầu, tháng 2 năm 1958, gồm 172 người dự. Hội nghị sau, tháng 3 năm 1958, gồm 304 người dự.
    Qua hai cuộc hội nghị ấy, tất cả những "nhân vật" bỉ ổi đă được phát hiện (...) Cái ổ chuột "Nhân Văn- Giai Phẩm" bị vạch trần trước ánh sáng của dư luận.


    Qua sự phát hiện của hai cuộc hội nghị nói trên, chúng ta được biết nhóm phá hoại "Nhân Văn Giai Phẩm" bao gồm những tên đầu sỏ, những "cây bút" đă viết "hoặc nhiều hoặc ít" cho "Nhân Văn Giai Phẩm" như:
    Thụy An, Nguyễn Hữu Đang, Trần Thiếu Bảo, Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Phan Khôi, Trần Duy, Trần Dần, Lê Đạt, Tử Phác, Đặng Đ́nh Hưng, Hoàng Cầm, Sĩ Ngọc, Chu Ngọc, Văn Cao, Nguyễn Văn Tư, Phùng Quán, Hoàng Tích Linh, Trần Công, Trần Thịnh, Phan Vũ, Hoàng Huê, Huy Phương, Vĩnh Mai, Như Mai tức Châm Văn Biếm, Hữu Thung, Nguyễn Khắc Dực, Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Yến, Thanh B́nh, Yến Lan, Nguyễn Thành Long, Trần Lê Văn, Lê Đại Thanh v.v...
    Nhưng đó không phải là tất cả (c̣n những tên chưa ra mặt). Và cũng không phải tất cả những "cây bút" trên đây đều có những hành động phá hoại giống nhau, hoặc phá hoại với những mức độ giống nhau. Có bọn đầu sỏ, có bọn phụ hoạ..." (sđd, trang 309-310).
    Những tên tuổi trên đây có lẽ đă không xếp đặt một cách t́nh cờ mà theo một trật tự "tội" nặng, nhẹ, đă được thẩm định từ trước.


    Theo Lê Đạt, thực chất hội nghị đầu là dành cho 172 đảng viên, đi để học tập cách "phát hiện" và tố giác, để chuẩn bị cho hội nghị sau (gồm 304 người, cả đảng viên lẫn quần chúng và những người ngoài đảng tham gia NVGP), dốc toàn lực đấu tranh chống NVGP.
    "Trận chiến đấu chống bọn phá hoại NVGP" đă kết thúc bằng hội nghị của ban chấp hành hội Liên Hiệp Văn Học Nghệ Thuật Việt Nam, họp lần thứ ba tại Hà Nội ngày 4/6/1958 với bài báo cáo tổng kết của Tố Hữu, và Nghị quyết của của ban chấp hành hội Liên Hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam lên án "bọn" NVGP. Ngày 5/6/1958, tại Hà Nội, hơn 800 văn nghệ sĩ thảo bàn nghị quyết gọi là "Nghị quyết của 800 văn nghệ sĩ" phụ hoạ với nghị quyết của Hội Liên Hiệp. Sau đó trong tuần lễ từ 21/6 đến 3/7/1958, các ban chấp hành Hội Nhạc Sĩ, Hội Mỹ Thuật, Hội Nhà Văn, lần lượt thi hành các biện pháp kỷ luật đối với các thành viên của Hội đă tham gia NVGP:


    Hội Nhà Văn khai trừ Hoàng Cầm, Hoàng Tích Linh ra khỏi ban chấp hành.
    Hội Mỹ Thuật, cảnh cáo Sĩ Ngọc, "chấp nhận cho Sĩ Ngọc và Nguyễn Sáng rút khỏi ban chấp hành".
    Hội Nhạc Sĩ "chấp nhận cho Văn Cao, Nguyễn Văn Tư rút khỏi ban chấp hành".
    Last edited by alamit; 20-05-2012 at 01:16 AM.

  5. #5
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Tác giả / Tác phẩm

    Tác giả / Tác phẩm
    Thụy Khuê / Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc
    ( Tiếng Quê Hương, Virginia, 2012)
    P2




    Cả ba hội quyết định:
    - Khai trừ Phan Khôi, Trương Tửu, Thụy An ra khỏi Hội Nhà Văn, Trần Duy ra khỏi Hội Mỹ Thuật.
    - Khai trừ trong thời hạn một năm Hoàng Cầm và Phùng Quán ra khỏi hội nhà văn. Khai trừ ba năm Trần Dần, Lê Đạt ra khỏi Hội Nhà văn, ba năm Tử Phác và Đặng Đ́nh Hưng ra khỏi Hội Nhạc sĩ. Và cảnh cáo một số hội viên khác đă tích cực hoạt động trong nhóm NVGP.

    Đó mới chỉ là biện pháp kỷ luật của các hội văn nghệ đối với các thành viên của hội. Ngoài ra, người ta cũng chỉ biết sơ lược một số dữ kiện khác, như Thụy An, Nguyễn Hữu Đang, Trần Duy, Phùng Cung (bị bắt tháng 5/61)... bị kết án từ 12 đến 15 năm tù. Các giáo sư đại học như Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh... bị cách chức và bị quản thúc. C̣n những biện pháp trừng phạt đối với toàn bộ văn nghệ sĩ, trí thức, sinh viên và quần chúng đă ít nhiều tham gia, đă đọc, đă mua báo, hoặc đă ủng hộ phong trào NVGP, th́ hiện nay chưa có một ước lượng nào gần với sự thật.





    Mục đích hoạt động của phong trào


    Theo lời buộc tội của Tố Hữu, công tác được "phân phối" như sau:
    - Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm hoạt động ở Hội Nhà Văn.
    - Trần Duy, Sĩ Ngọc, Nguyễn Sáng ở Hội Mỹ Thuật.
    - Chu Ngọc, Hoàng Tích Linh ở Hội Nghệ Sĩ Sân Khấu
    - Tử Phác, Văn Cao, Nguyễn Văn Tư, Đặng Đ́nh Hưng ở hội Âm Nhạc.
    Tố Hữu cho rằng: Phan Khôi, Trương Tửu, Trần Đức Thảo, là những "nhà tư tưởng của phong trào". Thụy An, Nguyễn Hữu Đang liên lạc, huy động và khuyến khích anh em. Trần Thiếu Bảo (chủ nhà in Minh Đức) in các Giai phẩm, giúp đỡ tiền bạc và phương tiện để phát hành báo Nhân Văn. Nhà in Minh Đức c̣n là trụ sở của các cuộc họp báo Nhân Văn và Đất Mới.


    Theo lời buộc tội của Nguyễn Đ́nh Thi, th́ chủ trương của NVGP dựa trên 6 điểm:
    1. Cho chủ nghĩa Cộng Sản là không nhân văn, là chà đạp con người. Coi những người cộng sản là chà đạp con người. Coi những người cộng sản là những người khổng lồ không tim (Trần Duy). Văn học xă hội chủ nghĩa là công thức, giả tạo, đẻ ra những thi sĩ máy (Như Mai). Đ̣i quyền tự do cá nhân, tự do sống đời sống t́nh cảm riêng tư cuả mỗi con người: "Đem bục công an máy móc đặt giữa tim người. Bắt t́nh cảm ngược xuôi theo luật đi đường nhà nước" (Lê Đạt).
    2. Phản đối chuyên chính, đ̣i dân chủ, tự do trên mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá. Đả kích mậu dịch, quản lư hộ khẩu, các bộ máy nhà nước. Đ̣i tự do đối lập.
    3. Chống sùng bái cá nhân. Cho sự lănh đạo của Đảng là Đảng trị, là độc đoán, mâu thuẫn với quyền lợi căn bản của con người. Bài Ông b́nh vôi của Lê Đạt có những câu:
    "Những kiếp người sống lâu trăm tuổi
    Y như một cái b́nh vôi
    Càng sống càng tồi
    Càng sống càng bé lại."
    4. Đề cao chủ nghĩa quốc gia, tư sản, đả kích Liên xô, cho sự giáo dục con người ở Liên xô là rập khuôn, văn học nghệ thuật Liên xô là công thức.
    5. Chống chính sách cải cách ruộng đất.
    (Xin mở ngoặc: Ngày 30/10/1956, trước Mặt Trận Tổ Quốc Hà Nội, luật sư Nguyễn Mạnh Tường đọc bài diễn văn quan trọng tựa đề "Qua những sai lầm trong cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lănh đạo", nội dung phân tích những sai lầm của chế độ, đi từ sai lầm cải cách ruộng đất ở thôn quê, sang sai lầm trong chế độ mậu dịch ở thị thành, đến chính sách kinh tế mang tính cách bóc lột. Ông truy nguyên nguồn gốc những sai lầm và tŕnh bày những nguyên tắc mới để sửa sang lại guồng máy luật pháp, chính trị, văn học, kinh t&#7871....
    6. Về văn nghệ, chủ trương phát triển "Trăm hoa đua nở trăm nhà đua tiếng". Chối bỏ sự lănh đạo của Đảng, nêu cao khẩu hiệu "Trả lại văn nghệ cho văn nghệ sĩ".
    (6 điểm kê khai theo bài tố cáo của Nguyễn Đ́nh Thi, sđd, trang 114).




    Những nguy cơ xụp đổ chế độ cũng được bàn đến, Hồng Cương viết:
    "Hạ được tập thơ Việt Bắc và hạ được Tố Hữu xuống là hạ được cả giá trị văn nghệ kháng chiến xuống và hạ được sự lănh đạo văn nghệ của Đảng và Chính phủ xuống. (...) Chúng vu khống chế độ ta là cộng sản thời trung cổ (communisme du moyen âge), là cộng sản phong kiến (communisme féodal), chế độ ta là cộng sản suy đồi (dégénérescence du communisme), chúng xuyên tạc và nguyền rủa chỉnh huấn của ta là đồi trụy tinh thần (avilissement de l'esprit), là nô dịch hoá tư tưởng (esclavage de la pensée). Chúng chế giễu chính sách đăi ngộ của ta là "bổng lộc" vua ban, huân chương của ta là "mề đay" của đế quốc. Không khác ǵ Phan Khôi đă ví chế độ ta với một triều đại phong kiến nào đó." (Hồng Cương, sđd, trang 128, 129).


    Chính Hữu trong bài tố cáo Lê Đạt, nói đến cái họa Nhân Văn số 5: "... Lê Đạt đă viết "Bài học về Ba-lan và Hung-ga -ri" trong Nhân Văn số 5, kư tên "Người quan sát" đăng ngay bên cạnh bài xă luận kích động quần chúng của Nguyễn Hữu Đang "Hiến Pháp Việt Nam 1946 và Hiến pháp Trung Hoa", trong đó có những đoạn nói đến quyền công dân được tổ chức biểu t́nh tuần hành thị uy. Bài của Lê Đạt đưa ra những nhận định nguy hiểm cho t́nh h́nh nước ta lúc đó: "... Nhưng tốc độ và mức độ sửa chữa không kịp với đ̣i hỏi của t́nh thế và yêu cầu của quần chúng nên càng thúc đẩy sự công phẫn và phong trào đấu tranh tự phát của quần chúng..." Hai bài báo đó là những lời kêu gọi làm loạn. Đạt và nhóm Nhân Văn đă hỗn xược buộc Đảng và chính quyền ta phải chọn lấy một trong hai con đường: hoặc "lập tức" mở rộng tự do dân chủ, để cho chúng và bọn thù địch khác phá hoại, và cải thiện "ngay" sinh hoạt cho nhân dân, nếu không quần chúng sẽ biểu t́nh." (Chính Hữu, sđd, trang 130, 131).




    *


    Những người xây dựng nên phong trào


    Nhiều người đă khuất, thế hệ trẻ ngày nay ít ai biết rơ về con người, về những hoạt động của họ. Những nhà văn mà Hoàng Văn Chí ghi lại tiểu sử và tác phẩm trong cuốn THĐNTĐB, được nhiều người biết đến hơn. Qua những bài buộc tội trong tập tài liệu BNVGPTTADL, chúng ta cũng có thể biết thêm được về tư tưởng và hành động của mỗi cá nhân và "tội trạng" nặng nhẹ của mỗi người.


    Thụy An là người phụ nữ duy nhất -ở trong hay ở ngoài phong trào- bị kết án là "gián điệp". Bà là một trường hợp đặc biệt, theo Lê Đạt và Nguyễn Hữu Đang, bà không ở trong NVGP, vậy mà tên bà được nêu lên hàng đầu trong "hàng ngũ phản động" với nhăn hiệu "Con phù thuỷ xảo quyệt" và những lời lẽ độc địa nhất dành cho bà: "Như vắt ngửi thấy máu, Thụy An như rắn ḅ tới các câu lạc bộ Hội Nhà văn phun nọc độc mạt sát chế độ ta bần cùng hoá nhân dân" (Bàng Sĩ Nguyên, sđd, trang 120).
    Vụ án Thụy An có phải là một vụ án chính trị? Hay là một sự quy kết oan uổng? Lê Đạt sẽ soi tỏ một số nghi vấn chung quanh sự kiện này.


    Trước hết Thụy An là ai? Thụy An hay Thụy An Hoàng Dân tên thật là Lưu Thị Yến. Cho đến nay chúng ta chỉ biết sơ về bà qua những ǵ Vũ Ngọc Phan đề cập đến trong Nhà văn hiện đại : Là một nhà thơ, nhưng bà là người đi tiên phong trong địa hạt tiểu thuyết với cuốn Một linh hồn (1943). Nhà phê b́nh họ Vũ nhận định: "Một linh hồn cũng đáng kể là cuốn tiểu thuyết xuất sắc nhất của phụ nữ Việt Nam từ trước đến nay, tác giả đă giàu tưởng tượng, truyện lại xây dựng một cách vững vàng, chắc chắn". Bà đă từng làm chủ nhiệm những tờ Đàn Bà Mới (Sài G̣n), Phụ Nữ Tân Văn (Sài G̣n), và Đàn Bà (Hà Nội). Là phóng viên chiến tranh, bà đă tham dự nhiều cuộc nhảy dù ra mặt trận để cung cấp tài liệu cho báo chí. Bà đă từng giữ chức giám đốc Việt Tấn Xă.


    Mới đây chúng tôi liên lạc với nhà văn kiêm nhà báo Bùi Thụy Băng, con trai thứ nh́ của Thụy An, hiện làm chủ nhiệm kiêm chủ bút nguyệt san Atlanta Việt báo, ông vừa hoàn tất tập tài liệu "Thụy An, 1945, 1954, 1975". Tập tài liệu đồ sộ này sẽ được đăng dần trên Atlanta Việt báo và trên mạng Intrenet. Qua Bùi Thụy Băng, chúng tôi được biết thêm những chi tiết sau đây: Lưu Thị Yến sinh năm 1916 tại Hà Nội, là con ông bà Lưu Tiến Ích và Phùng Thị Tôn, quê gốc làng Hoà Xá, quận Vân Đ́nh, tỉnh Hà Đông. Thủa nhỏ học trường Hàng Cót, Hà Nội. Năm 1929, 13 tuổi, Yến đă được đăng thơ trên tờ Nam Phong. 16 tuổi được giải thưởng văn chương của Triều đ́nh Huế. Vào khoảng 1930-32, cô Yến được cha mẹ cho học tư thêm với một ông thầy người Quảng B́nh. (Trong điện thư ngày 15/9/2004, ông Bùi Thụy Băng cho biết: "Người thày giáo đề cập ở đây là Tướng Vơ nguyên Giáp. Năm 1930, ông ngoại của tôi đă mướn người thầy giáo sử địa Vơ Nguyên Giáp về nhà kèm má tôi học. Năm 1933, má tôi theo thầy vô Nam - có thể để đi sang Trung hoa. Nhưng má tôi lại gặp ba tôi ở Sài G̣n và hai người lấy nhau"). Và trong bài tiểu sử Thụy An, Bùi Thụy Băng viết:
    "Ông thầy giáo trẻ ấy đă bị tṛ Yến cùng các bạn trêu chọc là "Anh đồ Nghệ". Hơn thế, Yến c̣n làm thơ nhạo báng dí dỏm:
    ...Khéo ghét anh đồ xứ Nghệ
    Hơn ḿnh mấy tí tuổi đầu (trích "Sao lại mùa thu " của Thụy An) (...)
    Hơn thế nữa, chính người thầy giáo trẻ ấy lại là một chiến sĩ hoạt động trong bóng tối. Chúng ta hăy lắng nghe lời thơ giới thiệu của Thụy An về người anh hùng đó:
    ... Hung hăn vọng vào tiếng bể
    Hờn căm rít ngọn gió Lào
    Anh mang trùng dương giận dữ
    Anh mang hoang dại khô khan.
    và như:
    Mắt anh hừng trí bốn phương
    Tay run nắm hồn dân tộc
    Tóc x̣a vương hận núi sông
    Môi bậm tay tai nghe rên xiết
    Áo cơm dọa dưới cùm gông!...
    Thật sự, Thụy An đă hấp thụ tư tưởng cách mạng qua Thầy đồ Nghệ
    ... Rồi anh bắt đầu dẫn dắt
    Dạy em khui lửa bất b́nh
    Oán hận réo sôi ḷng đất
    Công lư tù đầy uất uất
    Miếng cơm nghẹn họng nhân sinh... (Sao lại mùa thu)".
    (Trích tiểu sử Thụy An, do Thụy Băng viết).

    Người chồng của Thụy An là giáo sư Bùi Nhung, em ruột ông Bùi Kỷ và bà Trần Trọng Kim. Bùi Nhung có bút hiệu là Băng Dương. Thụy An sinh được 6 người con: An Dương (1934), Thụy Băng (1937), Thư Linh (38), Dương Chi (39), Ngọc Trinh (43) và Châu Công (45). Ông Bùi Nhung hai lần làm giám đốc đài phát thanh Hà Nội từ 48-49, và 51-52; rồi giám đốc đài phát thanh Hải Pḥng năm 1954. Thụy An - Băng Dương sống ly thân từ 1949, nhưng không ly dị v́ cả hai đều theo đạo công giáo. Người ta cũng nói đến quan hệ giữa bà và ông Đỗ Đ́nh Đạo, một nhân vật quan trọng của Việt Nam Quốc Dân Đảng cùng cái chết có nhiều nghi vấn của ông Đỗ Đ́nh Đạo.
    Trong thời kỳ NVGP, Phan Khôi nhận Thụy An là con nuôi. Theo cả hai bên nhân chứng, buộc tội cũng như bênh vực, th́ bà thường xuyên ra vào các hội văn nghệ, bà đă có ảnh hưởng không nhỏ đối với một số văn nghệ sĩ tham gia NVGP. Bà liên lạc, nâng đỡ tinh thần, tích cực giúp đỡ anh em Nhân Văn, đặc biệt gia đ́nh Lê Đạt. Theo Lê Đạt và Nguyễn Hữu Đang th́ Thụy An không viết ǵ cho báo Nhân Văn. Nhưng có thể Thụy An viết cho báo khác, v́ Vũ Đức Phúc trong bài tố cáo, có nói đến "những nhân vật như một anh nghiện hút, ăn cắp (trong "Ông Năm Chuột" của Phan Khôi), một con đĩ, một tên ăn cướp (trong "Bích-xu-ra" của Thụy An), một tên việt gian cao cấp, một tên sĩ quan trong quân đội địch trung thành với đế quốc (trong "Trường hợp ṭng quân của thiếu uư Lâm" cũng của Thụy An), lại trở thành những người đáng thương, đáng yêu, những người yêu nước đáng học tập" (BNVGPTTADL, trang 118).
    Trả lời câu hỏi: Thụy An bị bắt ở đâu? Bùi Thụy Băng, trong cuộc nói chuyện điện thoại với chúng tôi, ngày 16/12/2004, cho biết: "Tôi nghe nói bà cụ tôi bị bắt ở Hoà Xá. Nhưng theo lời ông cụ tôi th́ bị bắt ở Phủ Lư. Tại sao lại như vậy? Bởi v́ khi thấy lâm nguy, biết ḿnh bị theo dơi, Thụy An thường di chuyển giữa Hà Nam-Phủ Lư (quê chồng) và Hoà Xá-Vân Đ́nh (quê ḿnh) để trốn tránh".
    Thụy An bị giam tại Hoả Ḷ Hà Nội từ tháng 3/1957 đến đầu năm 1960, bà bị đưa ra ṭa, rồi sau đó bị chuyển đi trại giam khác. Vào Hoả Ḷ chưa được 3 tháng bà đă tự chọc mù một mắt. Con người đă viết những câu thơ "Tay run nắm hồn dân tộc, tóc x̣a vương hận núi sông" lại một lần nữa kư tên dưới hành động của ḿnh: lần này dưới những chữ đ̣i tự do, dân chủ cho dân tộc vừa lấy lại được quyền tự chủ.
    Việc bà chọc mắt, được nhiều người thân xác nhận, trong đó có Lê Đạt. Bùi Thụy Băng cho biết: "Trong số những bài viết về bà cụ tôi, có bài của Trần Minh, tựa đề "Nhân văn giai phẩm, một tư trào, một tội ác" đăng trong Giai phẩm (Việt Báo) xuân Tân Tỵ 2001, là chính xác nhất. Với những chi tiết mà chính tôi trước đây cũng không biết: Vào Hoả Ḷ chưa được 3 tháng th́ bà cụ tôi chọc mắt. Lư do là bởi phải ra toà án nhân dân, đứng trước lá cờ đỏ sao vàng, người ta bắt bà cụ tôi phải cúi xuống, nhưng bà cụ không cúi. Vào nhà giam, không có bút viết, th́ bà cụ tôi lấy cái đinh guốc, viết lên tường lời phản kháng chọc mù mắt để không phải nh́n thấy chế độ này nữa. Sau này có một người cũng bị giam tại căn pḥng đó, đọc được và ghi lại, một vài nhà văn có chép lại câu này trên sách báo".
    Ngày 21/1/1960 bà bị đưa ra toà cùng với Nguyễn Hữu Đang và bị kết án 15 năm tù. Tháng 10/1974 Thụy An được thả theo diện "Đại xá chính trị phạm trong hiệp định Paris", cùng diện với Nguyễn Hữu Đang. Được trả về quản thúc ở nguyên quán làng Hoà Xá, trên xe tù bước xuống, Thụy An bị ném đá. Năm 1976, nhờ em trai, là Lưu Duy Trác xin cho vào Nam đoàn tụ với gia đ́nh, bà được vào sống với mẹ tại Gia Định.
    Về biệt hiệu Thụy An Hoàng Dân, Bùi Thụy Băng giải thích: Phan Khôi và Thụy An là hai người bạn vong niên từ lâu, Thụy An kém Phan Khôi khoảng gần 30 tuổi. Biệt hiệu Chương Dân của Phan Khôi và Hoàng Dân của Thụy An, là cùng để tưởng niệm đến một người anh hùng, có tên là Chương Hoàng Dân hay Hoàng Chương Dân.






    Trong "sổ đoạn trường", Nguyễn Hữu Đang, đứng thứ nh́ sau Thụy An. Ông sinh ở Thái B́nh, sớm tham gia các phong trào ái quốc. Trước 1942, ông hoạt động trong phong trào Truyền Bá Quốc Ngữ. Năm 1942, khi ảnh hưởng Việt Minh lên cao, ông tham gia Văn Hóa Cứu Quốc. Từ 1954, Nguyễn Hữu Đang liên lạc mật thiết với Trần Thiếu Bảo (sau này là chủ Nxb Minh Đức). Trong thời kỳ toàn quốc kháng chiến, ông đứng ra tổ chức Thanh Niên Xung Phong và sau đó làm Thanh tra B́nh dân học vụ. Năm 1947, Nguyễn Hữu Đang chính thức vào Đảng. Nhưng vài năm sau, ông bắt đầu chán nản, tự ư bỏ cơ quan. Năm 1951, ông ly khai Đảng, và từ đó, khi ở Cầu Bố, khi ở Hậu Hiền, ông lên tiếng đả kích đảng, chống đối cách mạng. Vai tṛ của Nguyễn Hữu Đang trong tờ Nhân Văn sẽ được xác nhận rơ ràng qua lời tường thuật của Lê Đạt. Theo lời buộc tội của Mạnh Phú Tư th́ "Nguyễn Hữu Đang là linh hồn của tờ Nhân Văn, Đang t́m kiếm, kiếm giấy, thu xếp việc ấn loát và viết bài, nhưng lại kư tên người khác, che lấp những nguồn tài chính, những người cung cấp phương tiện bằng h́nh thức nêu danh những người góp tiền in báo có một nhân lên gấp mười". (Mạnh Phú Tư, sđd, trang 50). Lê Đạt sẽ trở lại những thông tin này, với cái nh́n của người trong cuộc. Trong bản tự kiểm thảo, Trần Dần cũng đă xác định: "Nếu không có Đang, không ai có thể tập hợp anh em được. Sẽ không có tham luận với những đề nghị: gặp Trung ương, ra báo... mà cũng sẽ không có tờ Nhân Văn".
    Theo Lê Đạt, Nguyễn Hữu Đang bị bắt trong lúc đang xẩy ra lớp đấu tranh Thái Hà, trên đường t́m cách vào Nam.




    Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt, ba nhà thơ cùng nhạc sĩ Tử Phác, là những người dấy lên phong trào. Tuy vậy Hoàng Cầm dường như vẫn được nhà cầm quyền xử nương nhẹ hơn; v́ Hoàng Cầm nổi tiếng từ trước kháng chiến? v́ Hoàng cầm là tác giả những bài thơ hào hùng trong kháng chiến? hay v́ Hoàng Cầm có thái độ cam chịu hơn? Do đó Trần Dần, Lê Đạt trở thành hai khuôn mặt nhà thơ "phản động nhất nước".


    Hoàng Cầm sinh năm 1921 tại làng Lạc Thổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Hải Dương. Trước kháng chiến ông đă nổi tiếng với ba vở kịch thơ Viễn khách, Kiều Loan và Lên đường. Trong kháng chiến, thơ Hoàng Cầm càng nổi bật với các bài Đêm liên hoan, Tâm sự đêm giao thừa, và trường ca Bên kia sông Đuống. Thời kỳ NVGP, Hoàng Cầm là người đầu tiên xin ra khỏi quân đội, cùng với Lê Đạt xây dựng nên các tờ Giai Phẩm và Nhân Văn. Hoàng Cầm giữ vai tṛ liên lạc và cổ động các văn nghệ sĩ, thúc giục Văn Cao làm thơ cho Giai Phẩm, ông đem bài thơ Nhất định thắng của Trần Dần ra in v.v... Những sáng tác của ông trong thời kỳ này không nhiều, được ghi lại có bài thơ "Em bé lên 6 tuổi" viết về hoàn cảnh đau thương của một em bé con địa chủ, bố bị đấu tố, mẹ bỏ đi Nam:
    "Chị Đội bỗng lùi lại
    nh́n đứa bé mồ côi,
    cố t́m vết thù địch,
    chỉ thấy một con người".
    Và vở kịch thơ Tiếng hát, mượn h́nh ảnh tiếng hát để nói về nghệ thuật và tự do, để xác định "không thể cưỡng bức được nghệ thuật". Bài viết có tính cách tiêu biểu của Hoàng Cầm trong giai đoạn này là bài Con người Trần Dần, in trong Nhân Văn số 1, biện hộ cho Trần Dần. Nhưng tác phẩm chủ yếu của ông là Về Kinh Bắc, viết sau Nhân Văn, trong thời gian 57-58, phản ảnh ư chí quật cường của nhà thơ trước cơn băo tố dập vùi.


    Trần Dần là một trường hợp đặc biệt bất phục ṭng và đă chịu sự trù dập nặng nề. Hăng say tham gia kháng chiến, thời kỳ Điện Biên Phủ, ông viết Người người lớp lớp. Yêu người con gái ở phố Sinh Từ, gia đ́nh đă di cư vào Nam, bất chấp sự ngăn cấm của đảng, Trần Dần vẫn kết hôn với người yêu. Những câu thơ "Tôi bước đi không thấy phố, không thấy nhà, chỉ thấy mưa sa, trên màu cờ đỏ" đă trở thành biểu tượng của một thời.
    Bị bắt. Cứa cổ. Trần Dần biểu dương bi kịch NVGP. Mấy tháng sau, Đảng phát động "Trăm hoa đua nở": trên Giai phẩm mùa thu tập I, Phan Khôi viết bài Phê b́nh lănh đạo Văn nghệ, bênh vực Trần Dần, và bài Ông b́nh vôi bênh vực Lê Đạt. Trên Nhân Văn số 1, Hoàng Cầm viết bài Con người Trần Dần, và Nguyễn Sáng vẽ chân dung Trần Dần với vết sẹo trên cổ. Đảng phải xét lại trường hợp Trần Dần: Trần Dần được thả và ngày 2/10/56 Hội Văn Nghệ phải viết bài tự kiểm thảo đăng trên các báo. Đến cuối năm 1957, báo Văn in bài Hăy đi măi của Trần Dần, tính cách tranh đấu vẫn c̣n quyết liệt:
    "Tôi có thể mặc thây ngàn tiếng chửi tục tằn
    Trừ tiếng chửi sống không sáng tạo".
    Trong bài tự kiểm thảo, Trần Dần viết: "Những sáng tác của tôi đều là cái loại đả kích vào các chính sách của Đảng cả. Nếu đọc cả một đống như thế, người ta sẽ cảm thấy sự lănh đạo của Đảng là một sự ngột ngạt không thể nào sống nổi". "Người sáng tác phải có quyền và có gan như người viết sử thời xưa, vua chém đi 6 người, đến người thứ 7 vẫn chép sử đúng như sự thật, vua đành chịu vậy", (trích Những lời "thú tội" của Trần Dần, sđd, trang 312).




    Lê Đạt là người duy nhất, từ trong nội bộ của đảng đứng lên đ̣i hỏi tự do dân chủ. Là một cán bộ hoạt động ở ngành Tuyên huấn, Lê Đạt được xếp vào loại "đầu sỏ", "nguy hiểm" như Nguyễn Hữu Đang.
    Theo lời tố của Xuân Diệu: "Đă rơ rệt như ban ngày, tập Giai phẩm mùa xuân 1956 phất lá cờ đầu tiên chống Đảng, chống chế độ, và Lê Đạt là nhà lư luận trong đó. Lê Đạt mở đầu Giai phẩm với cái tuyên ngôn: "Trích thơ gửi người yêu" (...) và bài thơ tuyên ngôn thứ hai "Mới" đăng trong Giai phẩm (...) Lê Đạt đưa ra cái tà thuyết rạch đôi các sự vật làm hai: hễ cái ǵ mới là cách mạng, hễ cái ǵ cũ là đeo kính vào viện hàn lâm, là mệt mỏi, lối ṃn, vết già nua, lề đường han rỉ..(...) Lê Đạt là một người chủ chốt của báo Nhân Văn, tham mưu cho cả tờ báo, tự tay sửa chữa nhiều bài đả kích chế độ ta rất cay độc (...) Đứng lên lập nhóm Giai phẩm mùa xuân. Cùng với Nguyễn Hữu Đang làm bộ óc của báo Nhân Văn, đứng làm "nhà lư luận" của bọn chống Chế độ (...) Sau khi báo Nhân Văn bị cấm, Lê Đạt liên lạc cấu kết với Thụy An, Lê Đạt đóng vai tṛ quan trọng trong việc lũng đoạn Hội Nhà Văn, Lê Đạt tích cực dùng ng̣i bút viết lối văn hai mặt; Lê Đạt luôn luôn giữ một cương vị đứng chủ trường phái; măi đến trong lớp học văn nghệ lần thứ hai (tháng 3 và 4/1958) vẫn c̣n t́m cách quay quắt. Cho nên, xét Lê Đạt, ta phải nh́n thấy cho hết, rằng Lê Đạt chống đối ta, phá hoại ta từ trong bản chất giai cấp thù địch" (trích bài Những biến hoá của chủ nghĩa cá nhân trong thơ Lê Đạt, trong tập Dao có mài mới sắc của Xuân Diệu, 1963, các trang 86, 87, 89 và 95).
    Chính Lê Đạt cũng xác nhận vai tṛ của ḿnh trong bài tự kiểm thảo: "Tôi tham gia Nhân Văn với ư thức là người lănh đạo lư luận của tờ báo v́ tôi cho tôi vững vàng hơn Nguyễn Hữu Đang. Ban biên tập lúc đó gồm có 4 người: Nguyễn Hữu Đang, Trần Duy, Hoàng Cầm và tôi. Để tấn công quan điểm vô sản chuyên chính của Đảng, tôi vận động Thanh Châu viết bài Mậu Dịch, tôi góp ư, vẽ tranh một người đẽo chân cho vừa giày mậu dịch. (...) Nhân Văn bị đóng cửa nhưng tư tưởng Nhân Văn, tư tưởng chống đối vẫn chưa hết. Sau một thời gian các báo ngớt đánh, t́nh h́nh trở lại b́nh thường, chúng tôi lại vẫn gặp nhau đả kích Đảng, cho là độc đoán". (trích Những lời "tự thú" của Lê Đạt, sđd, trang 318, 319).
    Thơ Lê Đạt trong thời kỳ NVGP, có những câu đă in sâu vào kư ức dân tộc:
    Đem bục công an đặt giữa trái tim người
    Bắt t́nh cảm ngược xuôi theo luật đi đường nhà nước
    Có những lời lẽ tiên tri:
    Lịch sử muôn đời duyệt lại
    Không ai lừa được cuộc đời



    Trần Thiếu Bảo, chủ trương Nxb Minh Đức, trách nhiệm ấn loát và phát hành những tờ Nhân Văn, Giai Phẩm, Đất Mới, quê quán ở Thái B́nh. Ông mở hiệu sách Minh Đức (sau trở thành nhà xuất bản) ở Thái B́nh, đến 1954, rời về phố Phan Bội Châu, Hà Nội. Trần Thiếu Bảo không theo cách mạng ngay từ đầu và có tiếng là Mạnh Thường Quân đối với văn nghệ sĩ. Cùng với Nguyễn Hữu Đang, Trương Tửu, tổ chức lễ kỷ niệm Vũ Trọng Phụng (thời ấy, Vũ Trọng Phụng c̣n bị liệt vào thành phần phản động). Theo lời buộc tội, Nxb Minh Đức đă "lợi dụng chuyện khai thác vốn cổ" để tái bản những sách "có hại" của Tự Lực Văn Đoàn như Tiêu sơn tráng sĩ v.v... Nxb Minh Đức cũng là trụ sở các cuộc họp báo Nhân Văn.


    Trương Tửu-Nguyễn Bách Khoa, là nhà phê b́nh, nhà văn, giáo sư đại học và lư thuyết gia. Ông bước vào làng văn với loạt bài phê b́nh những tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn trên báo Loa, Hà Nội, năm 1935. Là nhà phê b́nh đầu tiên sử dụng phương pháp phê b́nh Mác xít một cách có hệ thống và có tính sáng tạo, đặc biệt trong những tác phẩm như: Nguyễn Du và truyện Kiều (Hàn Thuyên, 1942), Tâm lư và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (Hàn Thuyên 1944), Kinh thi Việt Nam, (Hàn Thuyên 1950)... Ông c̣n là tác giả những tập tiểu thuyết tranh đấu và xă hội. Khi Mặt trận Dân Chủ của Việt Minh bắt đầu hoạt động, Trương Tửu viết bài đả kích Mặt Trận Dân Chủ trên các báo Quốc Gia và Thời Thế. Trương Tửu tuyên bố: "Văn nghệ không làm chính trị để giữ sự độc lập của trí thức". Cùng với Nguyễn Đức Quỳnh, ông thành lập nhóm Hàn Thuyên theo khuynh hướng Cộng Sản Đệ Tứ, in sách của Lương Đức Thiệp, Thái Văn Tam, Nguyễn Tế Mỹ, Nguyễn Hải Âu, Hồ Hữu Tường và Nguyễn Bách Khoa (tức Trương Tửu). Năm 1945 , Hồ Hữu Tường ra Bắc gặp Trương Tửu, thành lập Ủy Ban Văn Hoá Bắc Bộ. Ngày 10/9/1945, Trương Tửu cho xuất bản cuốn Tương lai văn nghệ Việt Nam, trong đó ông đă nhắc đến "cái hôm nay đen tối và chật hẹp", và mượn lời André Gide, khuyên các văn nghệ sĩ, hăy "reo rắc vào tâm trí mọi người chất men bất phục ṭng và phản kháng". Tuy vậy khi toàn quốc kháng chiến, ông cũng theo cách mạng trong 9 năm. Sau 54, ông dạy học.
    Trong thời kỳ NVGP, Trương Tửu viết hai bài quan trọng "Bệnh sùng bái cá nhân trong giới lănh đạo văn nghệ" và bài "Văn nghệ và chính trị". Hoài Thanh tố cáo: "Trong ba tập Giai phẩm liên tiếp nó đả kích thậm tệ vào toàn bộ cán bộ Đảng phụ trách công tác văn nghệ, phủ nhận tính chất mác xít, tính chất vô sản của Đảng. Vẫn một lối huênh hoang và bịp bợm cũ, nó làm như chỉ có nó mới là triệt để cách mạng. Một mặt nó bóp méo, bịa đặt sự việc để vu khống... Một mặt khác nó xuyên tạc lời nói của các lănh tụ. Nó trích dẫn lời Mác đả kích chính quyền phản động cũ để gián tiếp đả kích chính quyền ta". (Hoài Thanh, Thực chất của tư tưởng Trương Tửu, BNVGPTTADL, trang 66).
    Nguyễn Vĩnh tố cáo: "Trong bài "Bệnh sùng bái cá nhân trong giời lănh đạo văn nghệ" (Giai phẩm mùa thu, tập I), Trương Tửu giả vờ công nhận "Đảng lănh đạo văn nghệ là một tất yếu lịch sử" để rồi đ̣i trả lại "quyền điều khiển chuyên môn cho những người chuyên môn". Trong bài "Văn nghệ và chính trị ", Trương Tửu tiến lên một bước, xuyên tạc bài "Tổ chức Đảng và văn học có đảng tính" của Lê nin (...) Làm như vậy, Trương Tửu có thâm ư tách rời văn nghệ ra khỏi chính trị, xúi dục văn nghệ sĩ thoát ly đường lối văn nghệ của Đảng, thoát ly sự lănh đạo của Đảng" (Nguyễn Vĩnh, sđd, trang 115, 116).
    Bàng Sĩ Nguyên phát hiện: "Tửu đă nói ǵ khi giảng dạy? Tửu đă vu khống Đảng là hiện tượng tha hoá. Trường đại học có Đảng trị. Có Đảng cụ thể và Đảng trừu tượng, cụ thể bao giờ cũng có sai lầm, vậy mỗi giai đoạn cần có một Đảng mới". (...) Con người mới là con người ở nông thôn chống thu mua, ở thành thị chống mậu dịch, trí thức chống chính sách báo chí. Tửu gây ư thức thoát ly sự lănh đạo của Đảng. Cụ thể là tấn công vào cán bộ lănh đạo của Đảng trong đại học. Tửu đề cao quá đáng Vũ Trọng Phụng (...) để nói rằng "không có Đảng lănh đạo nhà văn vẫn viết được những tác phẩm có giá trị và văn nghệ sĩ c̣n sáng suốt hơn Đảng, cố vấn cho Đảng, phát hiện vấn đề cho Đảng biết." (Bàng Sĩ Nguyên, sđd, trang 119-120).

  6. #6
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Tác giả / Tác phẩm

    Tác giả / Tác phẩm
    Thụy Khuê / Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc
    ( Tiếng Quê Hương, Virginia, 2012)
    P3






    Trần Đức Thảo, triết gia, giáo sư đại học. Đỗ vào trường Normale Supérieure rue d'Ulm ở Pháp năm 1936, thủ khoa ban văn chương. Đậu thạc sĩ (agrégé) triết học. Thời kỳ ở Pháp, ông cộng tác với J.P. Sartre, tham gia nhóm Les Temps Modernes. Sau này ông kiện Sartre về một cuốn sách viết chung mà Sartre không muốn xuất bản. Những năm 44-45, ông hoạt động cho Hội Việt kiều. Phạm Huy Thông, giáo sư thạc sĩ, bạn học cùng thời với Trần Đức Thảo ở Pháp, được cử viết bài đánh Trần Đức Thảo. Phạm Huy Thông cho biết: Khi phái đoàn Việt Minh Đồng Chí Hội sang Pháp năm 1946, Trần Đức Thảo đả kích phái đoàn, cho chính sách ngoại giao của Việt Minh là đầu hàng và phản bội, và đảng Cộng Sản Pháp có đầu óc đế quốc thực dân. Trần Đức Thảo chống lại hiệp định sơ bộ 6/3/1946. Năm 1949, tại Đại Hội Hoà B́nh Thế Giới ở Paris, Trần Đức Thảo lên tiếng cảnh cáo đại biểu Liên Xô và đại biểu Pháp là phản bội các dân tộc thuộc địa.
    Phạm Huy Thông viết: "Ngay từ năm 1945, Thảo công kích những người đem tư tưởng Mác xít truyền bá cho kiều bào, công nhân, cho rằng công nhân không có văn hoá, không tiếp thu được, hay tiếp thu "máy móc" th́ "nguy hiểm" (!). C̣n đối với đảng Cộng Sản Pháp, th́ Thảo có một lập luận phản động rằng: đảng Pháp, tuy có uy tín đấy, nhưng tŕnh độ lư luận Mác xít khó ḷng cao, v́ hầu hết những cương vị cao trong đảng đều do công nhân nắm (!)" (Phạm Huy Thông, sđd, trang 69). Năm 1951, Trần Đức Thảo trở về nước, làm giáo sư đại học. Năm 1956, ông tham gia phong trào NVGP. Phạm Huy Thông viết về người bạn cũ của ḿnh: "Thật ra "thành tích" học thuật cũng như "thành tích" chính trị của Thảo ở Pháp trước đây, nh́n lại toàn là những "thành tích" bất hảo (...). Trong thư gửi hội nghị học tập của trường đại học, Hoàng Cầm có viết: "Tôi nhớ rất rơ: trước Nhân Văn số 4, trong một buổi họp ở nhà Trần Duy, 55 đường Trần Quốc Toản, lần đầu tiên Trần Đức Thảo đến họp. Vấn đề hôm ấy do Trần Duy nêu ra là: Ta nên chuẩn bị cái hướng số 4 như thế nào? Một số như Trần Dần và tôi phát biểu là: "Thêm một bài về tự do dân chủ thôi!" Trần Đức Thảo nói: "Tôi thấy cần phải bớt vấn đề văn nghệ đi, nếu cần th́ rút bớt cả sáng tác, để bàn nhiều về chính trị, v́ t́nh h́nh trong nước và thế giới có nhiều tài liệu khác nữa".
    Ta thấy đường lối chính trị của nhóm Nhân Văn là do Trần Đức Thảo trực tiếp và chủ yếu vạch ra. (Về vai tṛ của Trần Đức Thảo trong tờ Nhân Văn, Lê Đạt sẽ xác định lại.)
    Mượn cớ "phát huy tự do dân chủ" Thảo đă bày vẽ cho chân tay của ḿnh trong sinh viên đả kích sự lănh đạo của Đảng ở nhà trường (...), giáo sư Nguyễn Lân, phụ trách môn giáo dục học, trường đại học sư phạm đă phát biểu: "Tôi c̣n rùng ḿnh khi nghĩ đến hoạt động của bọn Trần Đức Thảo. Nếu bọn chúng thực hiện được ư muốn th́ không những giáo sư đảng viên, mà đầu của những người lương thiện trung thành với chế độ như tôi cũng đều treo lên ngọn cây." (Phạm Huy Thông, sđd, trang 74 và 134).
    Sau khi Nhân Văn bị cấm, Trần Đức Thảo vẫn tiếp tục hoạt động, che chở và giúp đỡ các sinh viên. Ông mở diễn đàn tự do ở đại học để truyền bá tinh thần tự do dân chủ. Hai bài viết quan trọng của ông trong thời kỳ NVGP là bài Nội dung xă hội và h́nh thức tự do đăng trong Giai phẩm mùa đông tập I, lên án những sai lầm trong cải cách ruộng đất và bài Nỗ lực phát triển tự do dân chủ đăng trên Nhân Văn số 3, tháng 10/1956, được coi như bản đề cương tranh đấu cho tự do dân chủ của nhóm NVGP. Trần Đức Thảo viết:
    "Cái tự do mà họ tức là những người lao động trí thức và chân tay muốn phát triển là tự do của toàn dân phê b́nh lănh đạo. Cái tự do đó là quyền của người công dân đă được hoàn toàn công nhận và bảo đảm trong chế độ ta. Tự do không phải là cái ǵ có thể ban ơn. Người trí thức hoạt động văn hóa cần tự do như khí trời để thở, có tự do th́ mới đẩy mạnh được sáng tác văn nghệ, nghiên cứu khoa học, cải tiến kỹ thuật. Phát triển tự do là nhu cầu thiết thân, đồng thời là nhiệm vụ số một của người trí thức cũng như của toàn dân. H́nh thức tự do là tự do cá nhân, cá nhân phục ṭng tập thể nhưng tập thể cũng phải có cá nhân xây dựng. Xét đến t́nh h́nh thế giới mới đây, lư tưởng tự do cá nhân lại là lư tưởng của những ngày tiến tới, lư tưởng của chủ nghĩa Cộng Sản bây giờ, đă bắt đầu trở thành một thực tế lịch sử ở Liên Xô", kư tên Trần Đức Thảo.


    Học giả Đào Duy Anh đóng góp tiếng nói của ḿnh trong Giai phẩm mùa thu tập III, với bài Muốn phát triển học thuật, nội dung phân tích những sai lầm trong nguyên tắc dùng chính trị để lănh đạo học thuật. Ông viết: "Sự xâm phạm của những cán bộ chính trị vào địa hạt chuyên môn, cố nhiên là rất trở ngại cho công tác chuyên môn, nhất là công tác nghiên cứu khoa học. Cái điều kiện không thể thiếu được để cho học thuật phát triển là tự do tư tưởng, tự do thảo luận. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh hai h́nh thức hạn chế tự do tư tưởng tác hại nặng nhất đối với học thuật là bệnh giáo điều và biến chứng của nó là bệnh sùng bái cá nhân. Ở nước ta th́ các bệnh giáo điều và sùng bái cá nhân lại c̣n trầm trọng hơn khiến người ta, vô luận bàn về vấn đề ǵ, cũng đều phải bắt đầu dẫn những đề án của Marx, Engel và Lénine, hoặc những ư kiến của Staline hay các lănh tụ khác. Bệnh giáo điều và bệnh sùng bái cá nhân lại dẫn thẳng đến cái tệ tư tưởng độc tôn, hễ thấy ai có ư kiến ǵ vượt ra ngoài những công thức cũ, những khuôn khổ sẵn th́ người ta chụp ngay cho những cái mũ dễ sợ như danh hiệu "cải biến chủ nghiă" chẳng hạn, để bịt mồm, bịt miệng người khác.
    Tư tưởng không tự do th́ không thể tự do thảo luận được. Mặc dầu không ai cấm tranh luận, các nhà lănh đạo vẫn thường nói nên mở rộng tranh luận, nhưng trong thực tế th́ sự tranh luận đă bị thủ tiêu từ gốc rồi. Nghiên cứu hay nghị luận một vấn đề ǵ, người người chỉ nơm nớp lo sợ, không khéo th́ trật ra ngoài đường lối tư tưởng chính thống độc tôn. Đối với những người ấy công tác học thuật trở thành tṛ xiếc leo dây.Con đường học thuật phải là con đường cái thênh thang cho mọi người tự do đi lại chứ không phải là sợi dây căng cho mọi người làm xiếc. Phải trừ bỏ những bệnh giáo điều và sùng bái cá nhân để trả lại tự do cho học thuật".


    Phan Khôi, chủ nhiệm báo Nhân Văn. Nhà văn và nhà cách mạng lăo thành Phan Khôi như một vị tiền bối đứng ra che chở cho các anh em văn nghệ trẻ. Cùng thời với Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh... Phan Khôi sinh năm 1887 tại làng Bảo An, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, là con trai Tri phủ Phan Trân, và là cháu ngoại Tổng đốc Hoàng Diệu. Năm 1907, Phan Khôi ra Hà Nội tham gia phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, ít lâu sau, phong trào bị đàn áp, ông trở lại Quảng Nam, hoạt động trong phong trào Văn Thân cùng với Huỳnh Thúc Kháng. Bị Pháp bắt, Phan Khôi học tiếng Pháp trong tù. Ra tù, ông bắt đầu cuộc đời viết văn làm báo.
    Trong nửa thế kỷ, từ Nam ra Bắc, ng̣i bút sắc bén của Phan Khôi tung hoành trên các báo: Nam Phong, Lục Tỉnh Tân Văn, Đông Pháp Thời Báo, Thần Chung, Phụ Nữ Tân Văn, Trung Lập, Thực Nghiệp Dân Báo, Hữu Thanh, Phụ Nữ Thời Đàm, Tràng An, Sông Hương... Từ 1920 đến 1925, ông dịch Kinh Thánh cho Hội Tin Lành. Tác phẩm đầu tiên của Phan Khôi là tập Nam Âm Thi Thoại, kư bút hiệu Chương Dân, in năm 1920 ở Hà Nội (năm 1936, tái bản tại Huế, đổi tên là Chương Dân Thi Thoại). Bài thơ T́nh già của Phan Khôi đăng lần đầu tiên trên báo Phụ Nữ Tân Văn, tháng 3/1932, được coi như bài thơ mở đường cho phong trào thơ mới.
    Bởi địa vị văn học, địa vị cách mạng và thái độ đối lập của Phan Khôi, cho nên ông có một vị trí riêng và đồng thời ông cũng đă phải chịu những sự phỉ báng nặng nề thô bỉ.
    Về hoạt động chính trị, Phan Khôi luôn luôn là một khuôn mặt đối lập với Việt Minh. Tháng 6/1946, phái đoàn Trung ương của Việt Minh về Quảng Nam, mở cuộc mít tinh để giải thích Hiệp định sơ bộ 6/3/1946, Phan Khôi lên diễn đàn, công kích hiệp định sơ bộ. Tham gia Việt Nam Quốc Dân Đảng, Phan Khôi được bầu làm chủ nhiệm chi bộ Nam Ngăi. Nguyễn Công Hoan viết: "Đêm 12/7, trong khi hắn (chỉ Phan Khôi) đương họp bàn với bọn đầu sỏ Quốc Dân Đảng ở 80 đường Quan Thánh, th́ xẩy ra việc Công an ta đến khám toà báo Việt Nam của đảng ấy tại trụ sở ấy. Bọn phản động ở trong nhà nổ súng ra để chống cự. Tức th́ Công an buộc ḷng phải bắt bớ người. Trong số những người bị bắt có Phan Khôi.
    Song, Phan Khôi lại một lần nữa được Chính phủ tha cho về để suy nghĩ tội lỗi mà hối cải." (Nguyễn Công Hoan, Hành động và tư tưởng phản động của Phan Khôi cho đến thời kỳ toàn quốc kháng chiến, báo Văn Nghệ số đặc biệt thứ hai chống NVGP, số 12, tháng 5/1958, trang 14).
    Về thái độ của Phan Khôi đối với Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Công Hoan viết:"Cách mạng tháng Tám cải tử hoàn sinh cho hai mươi nhăm triệu nhân dân Việt Nam, trong đó có Phan Khôi. Nhưng cái tên già này rất vô ơn với Cách mạng tháng Tám.
    Cho đến năm hoà b́nh, 1954, chưa bao giờ hắn viết, hoặc nói mà dùng danh từ "Cách mạng tháng Tám". Chính hắn đă khoe điều ấy bằng cả sự hằn học với người tâm phúc của hắn. Hắn nói rằng trước kia hắn dùng ba tiếng "cướp chính quyền", mà cũng ngượng mồm. Hắn nói rằng lúc đó, Pháp đổ rồi, Nhật hàng rồi, chính phủ Trần Trọng Kim tê liệt rồi, chính quyền bỏ rơi, th́ ta "lượm" được, chứ "cướp" ở tay ai?" (bài đă dẫn, Văn Nghệ, trang 12)
    Về thái độ của Phan Khôi đối với Hồ Chí Minh, Nguyễn Công Hoan viết: "Hôm họp Hội nghị văn hoá, Hồ chủ tịch có đến. Khi nói về tiểu thuyết, Người có một nhận xét để khuyên nhủ anh em cầm bút là "tiểu thuyết của ta có vạch được tội ác của chế độ phong kiến và đế quốc, nhưng chưa đề ra phương pháp cải tạo. Như vậy là kém phần xây dựng". Trong khi mọi người rất phục Hồ chủ tịch sáng suốt cả về lĩnh vực văn nghệ, th́ tên Quốc Dân Đảng già, vốn bản chất là đối kháng, dè bỉu Hồ chủ tịch, cho là Người chỉ giỏi chính trị, chứ không biết về văn nghệ. Hắn bàn tán với bạn hữu rằng Hồ chủ tịch nói sai. "Văn nghệ chỉ có nhiệm vụ tŕnh bày, c̣n xây dựng là nhiệm vụ của chính trị, của nhà cầm quyền" (bài đă dẫn, Văn nghệ, trang 15).
    Phan Khôi không tự ư đi theo kháng chiến mà "bị mời" đi kháng chiến, Đào Vũ viết: "Kháng chiến bùng nổ. Phan Khôi đi theo kháng chiến. Nói cho đúng hơn, chúng ta đưa Phan Khôi đi theo kháng chiến từ đầu chí cuối", "tôi biết rằng cơ quan đối với y bao giờ cũng dành những ưu tiên lớn", theo Nguyễn Công Hoan, "Phan Khôi đi với kháng chiến, không lúc nào hắn không ngớt chửi bới kháng chiến", Đào Vũ viết: "Phan Khôi bấy nay không ưa ǵ Đảng của chúng ta. Vốn là hay xỏ xiên vặt, y gọi Đảng ta là "cái Đảng" thế này thế khác. Có người vặn lại: sao lại gọi là "cái Đảng", tiếng "cái" ấy có cần thiết ǵ đâu? Phan Khôi sẽ thủng thỉnh trả lời: tiếng "cái" ấy cũng như "le, la, les" của tiếng Pháp mà thôi." (Đào Vũ, Tính cách vô lại và bộ mặt chính trị nhơ nhớp của Phan Khôi ngày nay, Văn Nghệ số 12, tháng 5/1958).

    Là nhà Hán học, nhưng lư luận khúc triết và đanh thép theo phương pháp luận phương Tây, những bài bút chiến của Phan Khôi với Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh... đă gây không khí sôi nổi trên văn đàn những năm 30. Tài năng, nhân cách và kiến thức đă đưa Phan Khôi lên địa vị "Ngự sử văn đàn" của thời ấy.
    Khi toàn quốc kháng chiến. Miễn cưỡng lên Việt Bắc, Phan Khôi dịch sách chữ Hán, chữ Pháp, sang tiếng Việt.

    Thời kỳ NVGP, Phan Khôi đứng ra nhận chức Chủ nhiệm kiêm chủ bút tờ Nhân Văn để bao che cho các cây bút trẻ. Trong bài Phê b́nh lănh đạo Văn Nghệ, với tác phong Ngự sử văn đàn, Phan Khôi nghiêm khắc lên án chế độ quản lư tư tưởng: Ông chỉ trích Trường Chinh ăn nói bừa băi, chất vấn gắt gao Tố Hữu, Hoài Thanh, Nguyễn Đ́nh Thi, những người chủ chốt trong việc kết tội Trần Dần. Sau khi tách bạch hai giai cấp: Lănh đạo văn nghệ và Quần chúng văn nghệ, Phan Khôi phê b́nh triệt để ba vấn đề thực tiễn:
    1 -Vấn đề tự do của văn nghệ sĩ: Sau khi đưa ra những dẫn chứng cụ thể về việc lănh đạo nghiệt ngă bắt bẻ người viết phải theo đúng đường lối, Phan Khôi hỏi lănh đạo: chính trị muốn đạt đến cái mục đích của nó th́ cứ dùng khẩu hiệu, biểu ngữ, thông tri, chỉ thị không được hay sao mà phải cần dùng đến văn nghệ sĩ, rồi ông cánh cáo: "Lănh đạo đă xâm phạm mỗi ngày một hơn vào quyền riêng nghệ thuật của văn nghệ sĩ."
    Những lời khẳng khái nổi tiếng của Phan Khôi: "Nhược bằng bắt hết mọi người viết, phải viết theo lối với ḿnh th́ rồi đến một ngày kia, hàng trăm thứ hoa cúc đều phải nở ra cúc vạn thọ hết". Hoặc phê Đảng: "Đảng giáo dục Xuân Diệu làm cách mạng chứ có giáo dục Xuân Diệu làm thơ đâu!"
    2 -Về vụ Giai phẩm mùa xuân, Phan Khôi chất vấn ban chủ toạ hội Văn nghệ: "Hỏi độc tội một Trần Dần thôi là cái ngón chính tri tài t́nh lắm đấy, để cô lập Trần Dần và phân hóa những người trong Giai Phẩm, cái ngón ấy đă thành công".
    "Tôi c̣n nhớ có vị bắt lỗi trong bài thơ Trần Dần có chữ Người viết hoa, lấy lẽ rằng chữ Người viết hoa chỉ để xưng Hồ chủ tịch, thế mà Trần Dần lại viết hoa chữ Người không phải để xưng Hồ chủ tịch. Tôi ngồi nghe mà tưởng như ở trong chiêm bao, chiêm bao thấy ḿnh đứng ở một sân rồng nọ, ông Lê mỗ tố cáo ông Nguyễn mỗ trước ngai vàng: "Trong phép viết chỉ có chữ nào thuộc về Hoàng thượng mới phải đai, thế mà tên Nguyễn mỗ viết thư cho bạn dám xài những chữ không phải thuộc về Hoàng thượng. Nhân may cho tôi, tôi tỉnh ngay ra là ḿnh đang ngồi ở trong pḥng họp hội Văn nghệ".
    3 -Về vụ giải thưởng văn học năm 54-55, ba tác phẩm Mưa sao của Xuân Diệu, Truyện anh Lục của Nguyễn Huy Tưởng và Nam Bộ mến yêu của Hoài Thanh đều chiếm giải. Phan Khôi phê b́nh: "Cả ba ông Xuân Diệu, Nguyễn Huy Tưởng, Hoài Thanh đều có tác phẩm dự thi mà đều ở trong ban trung khảo. Nếu ở trong ban trung khảo mà thôi c̣n khá, thử điều tra lại hồ sơ, th́ ba ông c̣n ở ban sơ khảo nữa, sao lại có thể như thế? Trường thi phong kiến xưa, tuy có ám muội ǵ bên trong, chứ bên ngoài họ vẫn sạch tiếng. Một người nào có con em đi thi th́ người ấy có được cắt cử cũng phải hồi tỵ, không được chấm trường. Bây giờ đến cả chính ḿnh đi thi mà cũng không hồi tỵ, một lẽ là ở thời đại Hồ Chí Minh, con người đă đổi mới, đă liêm chính cả rồi, một lẽ trắng trợn v́ thấy mọi cái miệng đă bị vú lấp."


    Phan Khôi viết truyện Ông b́nh vôi, ngẫu hứng từ bài thơ Ông b́nh vôi của Lê Đạt, chủ đích bênh vực Lê Đạt, đồng thời nhạo báng lănh tụ, gọi lănh tụ là Ông Cọp, Ông Trưởng, Ông Đầu Rau, Ông Tre, Ông B́nh Vôi... như những bài vị mà người dân thường phải để chân dung trong nhà. Trong bài Ông Năm Chuột, Phan Khôi đ̣i hỏi phải trả văn nghệ lại cho văn nghệ, chuyên môn cho chuyên môn qua lời người thợ bạc: "người ta cái ǵ biết ít th́ nên nghe chứ không nên nói, tôi không nói chuyện văn chương chữ nghĩa với ông, cũng như ông không dạy nghề làm thợ bạc cho tôi."
    Theo bài viết của Đoàn Giỏi đăng trên báo Văn Nghệ số ra ngày 15/8/1958 th́ tháng 12 năm 1957, Phan Khôi c̣n đưa đến nhà xuất bản Hội Nhà Văn một tập bản thảo dầy, tên là Nắng chiều gồm nhiều bài bút kư, tạp văn, viết từ đầu kháng chiến Việt Bắc đến năm 1957. Đoàn Giỏi trích một số đoạn để đả kích, nhờ vậy mà độc giả biết được đại cương nội dung những tác phẩm đó. Theo Đoàn Giỏi, ngay trong hai bài đầu, tựa đề Cầm vịt và Tiếng chim, Phan Khôi đă khẳng định "Xă hội không có đấu tranh giai cấp, của ai người nấy ăn. Vấn đề đấu tranh giai cấp chỉ là kiểu ŕnh phần ăn của kẻ khác". Về bài viết Cây cộng sản, Đoàn Giỏi tự hỏi: Tại sao Phan Khôi lại đem cây cứt lợn, cũng gọi là cây chó đẻ, và cây bọ xít, toàn là những tên không nhă tư nào hét, để gọi nó là Cây cộng sản và cỏ cụ Hồ? Đến bài giới thiệu Nguyễn Trường Tộ, Phan Khôi viết: "Vua th́ như thế, c̣n đám quan liêu từ triều đ́nh đến các tỉnh phần nhiều là hủ nho, đám sĩ phu ở dân gian càng đông hơn, cũng đều hủ nho. Dưới vua, hai hạng người này nắm quyền lợi một nước trong tay họ, họ cấu kết với nhau để giữ lấy quyền lợi th́ c̣n ai mà làm ǵ được". Đoàn Giỏi bị kiểm thảo về tội vờ đả kích Phan Khôi để công bố những nét đại cương của một tác phẩm bị cấm. Bản thảo tập Nắng chiều hiện nay c̣n hay mất? Đó là một nghi vấn văn học chưa được soi tỏ.

    Paris 12/2004

    [1] Một nhà phê b́nh (xin giấu tên), cho biết: Trần Dần bị mật giam ở một nơi gần Hà Nội. V́ sợ bị thủ tiêu, cho nên ông đă phải dùng dao cạo cứa cổ, với chủ ư làm ầm lên. Chính tướng Nguyễn Chí Thanh đă ra lệnh "cứu" Trần Dần.

    © Copyright Thụy Khuê 2004

  7. #7
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Tác giả / Tác phẩm

    Tác giả / Tác phẩm
    Cuộc đời và Sân khấu Nghệ sĩ trong “Đời thường” và “Đời trên sân khấu”!

    soạn giả Nguyễn Phương






    Bầu Xuân và soạn giả Nguyễn Phương

    Ngày xưa, người ḿnh có thành kiến xem nghệ sĩ thuộc về thành phần “xướng ca vô loại”. Họ nghĩ nghệ sĩ sống phóng túng, không có nơi ăn chốn ở cố định, ngày này tháng kia lang thang theo đoàn hát, khi ăn quán, lúc ngủ đ́nh, cuộc sống phiêu bạt theo kiểu thương hồ “gạo chợ nước sông” nên người ta đánh giá là hạng người không có “căn cơ”. Lại thêm hồi đó người ta nghĩ kép hát bội, đă bội th́ tất nhiên ăn ở bạc t́nh v́ hai chữ “bội bạc” thường đi đôi với nhau.
    Trong xă hội, thành phần nào, giai cấp nào, người giàu hay người nghèo, giới nào cũng có người tốt kẻ xấu, tuy nhiên giới nghệ sĩ là những người nổi tiếng, được nhiều người biết danh biết mặt, được báo chí, đài phát thanh thường xuyên nhắc đến, do đó tiếng lành đồn xa, tiếng dữ cũng đồn xa, người ta biết và nhớ nhiều chuyện bê bối của một số nghệ sĩ nào đó rồi nghĩ đa số nghệ sĩ cũng xấu như vậy.


    Tôi hành nghề soạn giả và viết báo về nghệ thuật sân khấu tính chung đă hơn sáu mươi năm, thường nhiều năm sống chung với nghệ sĩ lang thang theo bước chân lưu diễn của đoàn hát nên cũng thấy được mặt phải và mặt trái của nhiều nghệ sĩ sân khấu. Ngẫm lại, tôi thấy vai “nhân vật” hát trên sân khấu đă ảnh hưởng không nhỏ đối với tánh t́nh của nghệ sĩ.
    Thử gẫm xem... một cô gái mỗi đêm phải nhập vai làm vợ một người khác nhau, khi th́ là nữ hoàng trung trinh tiết liệt, khi là một nữ hoàng đa t́nh làm nghiêng ngửa cơ đồ của một đấng quân vương; cũng là cô gái đó đêm này hoặc đêm khác hát vai vợ một tên tướng cướp hay con gái điếm, hoặc là một nữ sinh mới biết yêu bị t́nh phụ, một cô Lan bị phụ t́nh trong tuồng Hồn Bướm Mơ Tiên, một Mai Đ́nh trong vở Hàn Mạc Tử hay vai vợ hoặc vai người t́nh trong tuồng Vợ và T́nh của Nguyễn Thành Châu, một Phàn Phượng Cơ hay một Tạ Nguyệt Hạo trong tuồng San Hậu, mỗi vai nữ một số phận khác nhau, tánh t́nh khác nhau, tâm trạng khác nhau, phương cách hành sự khác nhau. Cô đào diễn vai nào, nhân vật nào cũng đều phải toàn tâm toàn ư nhập vai tuồng, khi th́ hiền phụ, vai khác th́ lẳng lơ trắc nết, có khi là nhân vật ác phụ, đốt chồng hại con, khi th́ đi tu, khi là nữ tướng, nhân vật tuồng có khi đi vào trong giấc mộng của cô đào và cả ban ngày khi tập tuồng, cô cũng phải sống với tâm trạng của một người khác, không phải đích thực tâm trạng của cô.
    Diễn viên, dù nam hay nữ, hằng ngày đều phải sống trong hai tâm trạng của hai người khác nhau, một người trong đời thực và một người trong đời mộng (nhân vật trên sân khấu). Thời gian sống với tâm trạng của nhân vật tuồng (khi diễn tuồng, lúc tập tuồng) dài hơn khi sống với tâm trạng thật của ḿnh, nên nhiều khi diễn viên sân khấu cứ tưởng lầm ḿnh là nhân vật mà anh thường thủ diễn.
    Nghệ sĩ Hùng Cường là một người như vậy. Trong các tuồng xă hội cận đại trên sân khấu Dạ Lư Hương, nghệ sĩ Hùng Cường thường đóng vai thiếu tá. Để cho đẹp trên sân khấu, Hùng Cường đặt may nhiều y phục sĩ quan, có cả cấp bậc đính trên cổ áo hay trên vai áo, có huy chương chiến công đủ loại, có mũ, nón sắt, giày botte nghĩa là đúng theo quân phục của một sĩ quan hiện dịch. Anh mặc nguyên bộ y phục thiếu tá lái xe đến đậu trước văn pḥng của ông bầu Xuân, anh xuống xe, bước vào cửa văn pḥng th́ bỗng có một đại úy đứng bật dậy chào anh theo đúng lễ nghi quân cách. Hùng Cường đưa tay chào lại và cười như cấp trên ban nụ cười cho thuộc cấp. Anh đại úy trẻ không nhận ra ông thiếu tá mà anh vừa chào là thiếu tá giả nên vẫn đứng nghiêm cho đến khi Hùng Cường xô cửa văn pḥng của ông bầu Xuân, bước vô.
    Bầu Xuân đang nói chuyện với một ông khách rất đẹp trai. Đứng sau lưng ông khách là hai anh vạm vỡ, mặc quần tây đen áo sơ mi trắng. Nghệ sĩ Hùng Cường bước vô, anh tưởng ông khách là một kép hát mới ở các đoàn hát tỉnh lên xin gia nhập đoàn Dạ Lư Hương, anh ngó bầu Xuân, đứng nghiêm chào theo kiểu nhà binh: “Chào ông Bầu, ông thấy đẹp không?”
    Một trong hai anh đứng sau lưng ông khách, hỏi: “Tại sao anh thấy ổng mà không chào?”
    Hùng Cường hỏi lại: “Tôi không biết ổng là ai, tại sao tôi phải chào ổng?”.
    - Anh là thiếu tá hả? Ở binh chủng nào?
    - Nhảy dù! Được hông? Anh không thấy cấp hiệu và phù hiệu nhảy dù trên áo đây sao?
    Ông khách đứng lên: “Ông bầu, thôi ḿnh về, khi khác sẽ gặp lại”.
    Bầu Xuân: “Dạ, xin trung tướng về... Dạ xin trung tướng tha lỗi cho anh Hùng Cường, anh không biết...”
    Ông khách gạt ngang: “Không sao... không sao…”. Ông bỏ đi nhanh ra cửa, hai anh cận vệ là hai người đứng sau lưng ông trung tướng nh́n Hùng Cường lom lom rồi cũng bước ra theo. Anh đại úy ngồi ngoài là người lái xe cho ông trung tướng nên cũng ra về luôn.
    Sau khi ông khách ra về, soạn giả Thiếu Linh và tôi vào văn pḥng, Hùng Cường vẫn c̣n đứng đó, dường như chưa kịp hoàn hồn. Ông bầu Xuân kể cho chúng tôi nghe chuyện Hùng Cường mặc y phục thiếu tá và cứ tưởng ḿnh là thiếu tá thật nhưng lại không biết ông Trung tướng Chỉ huy Trưởng Vùng 3 nên không chào.
    Hùng Cường cười hô hố: “May mà tôi không nói bậy. Tôi nhớ trong tuồng, lúc Thiếu tá Hoàng thấy các anh lính quên chào, ra lịnh: các anh hít đất 100 cái cho tôi. Tôi thấy ba người đứng trong pḥng ông bầu, lại cứ tưởng ba anh lính trong tuồng “Người Yêu của Hoàng Thượng”, tính nói giỡn, biểu ba anh đó hít đất nhưng tôi ngưng kịp. Nếu không th́ chết bà rồi. Ai dè ông Tướng Chỉ huy Trưởng Vùng 3 mà tới văn pḥng đoàn hát để làm ǵ chứ!”
    Bầu Xuân cho biết ông đă nhiều lần dùng cơm chung với hai ông bà trung tướng tại tư gia của ông, v́ bầu Xuân có chung vốn hợp tác với bà tướng để sản xuất mấy bộ phim, ông tướng nhân dịp đi ngang qua văn pḥng Dạ Lư Hương nên ghé nói chuyện xă giao thôi.
    Soạn giả Thiếu Linh và tôi bàn chuyện tuồng tích với ông bầu, độ nửa giờ sau chúng tôi về, Hùng Cường cũng ra về luôn. Khi Hùng Cường bước vô xe hơi, chưa bật démarreur th́ xe quân cảnh chạy tới, đậu chắn trước đầu xe, một thượng sĩ quân cảnh bước tới chào Thiếu tá Hùng Cường và yêu cầu tŕnh giấy tờ. Hùng Cường nói anh là nghệ sĩ đóng tuồng chớ không phải là thiếu tá thật. Quân cảnh nói anh mạo danh thiếu tá v́ anh mặc y phục thiếu tá ở ngoài đường, gần khu dân sinh chớ không phải trên sân khấu. Hùng Cường đang giằng co căi tới căi lui, th́ ông thượng sĩ ra hiệu hai quân cảnh xuống xe jeep, lôi Hùng Cường ra, đưa báng súng định đánh, Hùng Cường sợ quá la lên: “Đừng đánh, tôi theo các ông”. Hùng Cường bị xô té chúi nhủi, bị lôi lên xe jeep. Chúng tôi chạy trở vô văn pḥng cho bầu Xuân biết, ông bầu ra th́ xe quân cảnh chở Hùng Cường chạy xa rồi.
    Nhiều người ở khu dân sinh chứng kiến chuyện xảy ra và nghe đối thoại giữa ông thượng sĩ quân cảnh và Hùng Cường, nói với ông bầu Xuân: “Ông bầu phải mau mau t́m cách cứu Hùng Cường, chớ giả mạo thiếu tá đi ngoài đường, coi chừng bị đưa ra ṭa án binh đó chớ không phải chuyện thường đâu”.
    Bầu Xuân cằn nhằn: “Cái ông Hùng Cường này có duyên nợ với cảnh sát và ṭa án mà... Hồi ổng đi gánh hát Ngọc Kiều, khi hát đóng vai tướng, tưởng ḿnh là tướng thật, nên khi kêu 'quân sĩ' mà một em vệ sĩ đứng hầu 'dạ' một tiếng nhỏ, ổng giận đá em vệ sĩ đó té xuống sân khấu ở rạp Nguyễn Văn Hảo. Ba má em vệ sĩ Nguyễn Mỹ đó là kép Bảy Vân và đào Năm Đặng, được các kư giả kịch trường ủng hộ, giúp tiền cho gia đ́nh em Nguyễn Mỹ kiện Hùng Cường ra ṭa. Hùng Cường phải ra hầu ṭa nhiều lần đến nỗi đoàn hát Ngọc Kiều phải mướn kép hát khác đóng thay cho Hùng Cường khi đoàn hát lưu diễn miền Trung. Hùng Cường bị phạt tiền v́ tội hành hung người khác và bồi thường tiền thuốc và danh dự cho em vệ sĩ đó.
    Lần khác, Hùng Cường hát trên sân khấu Kim Chung, ổng ca rớt vọng cổ, bèn vô cánh gà, đá bể thùng đờn của nhạc sĩ mù Văn Vĩ. Các anh em nhạc sĩ hùn tiền thưa Hùng Cường ra ṭa, lần đó Hùng Cường bị bắt xuống bót quận nh́, bị phạt và bồi thường tiền mua ampli và đờn khác đền cho nhạc sĩ mù Văn Vĩ. Lần này Hùng Cường mặc quân phục thiếu tá, đi khơi khơi ngoài đường, bị ghép tội mạo danh thiếu tá th́ khó mà gỡ tội lắm”.
    Tuy nói vậy nhưng bầu Xuân cũng đích thân đến nhà bà trung tướng để nhờ bà nói với ông trung tướng xin tha cho Hùng Cường. Ông trung tướng không biết việc quân cảnh xét giấy tờ của thiếu tá giả Hùng Cường là do t́nh cờ hay do cận vệ của ông báo cho quân cảnh biết Hùng Cường có hành vi sai phạm khi mặc quân phục sĩ quan đi ngoài đường như vậy? Ông cho Thiếu tá Thái, tùy viên quân sự của ông, đến Nha Quân Cảnh để t́m hiểu sự việc và giải quyết. Thiếu tá Thái trở về báo cáo là Quân Cảnh không truy tố Hùng Cường về tội giả mạo sĩ quan cấp tá nhưng cũng không thể thả ra ngay v́ Hùng Cường trong tuổi quân dịch, anh không có bằng cấp ǵ cả nên được đưa lên Trung Tâm Ba để theo lớp huấn luyện lính tân binh quân dịch.
    Bầu Xuân phải đôn Nghệ sĩ Dũng Thanh Lâm lên đóng thế vai cho Hùng Cường, ông hy vọng chạy chọt cho Hùng Cường làm lính kiểng...
    Thiếu Linh nói: “Hùng Cường thường khoe đậu tú tài đôi, nếu trong tuổi quân dịch th́ sẽ đi học Trường Sĩ quan Thủ Đức hay trường Đà Lạt chớ có phải học lớp tân binh trên Trung Tâm Ba đâu mà sợ...”
    Ông Bầu Xuân cười: Nghệ sĩ đóng vai giáo sư nên cứ tưởng ḿnh là giáo sư thật. Khi đóng vai học sinh th́ cứ tưởng ḿnh là tú tài một hay tú tài hai. Có người tưởng ḿnh là tiến sĩ trong khi đó chưa hề có bằng thành chung, chưa đi thi tú tài mà đă có bằng tiến sĩ rồi.
    Đời thật và đời sân khấu nó hay lẫn lộn qua lại đó mà! Khi bị người khác khám phá ra sự giả mạo th́ chỉ có việc cười trừ và trả lời: Cuộc đời là vô thường mà. Có đó rồi mất đó. Thật, thật hay giả giả, cũng vậy thôi.
    Đời là thế! Thế mới là đời!

    Nguyễn Phương, 2012

  8. #8
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Tác giả / Tác phẩm

    Tác giả / Tác phẩm
    Kiếm kho tàng trong lăng tẩm Huế Soạn giả Hoa Phượng trả nợ bà Bầu Thơ

    Soạn giả Nguyễn Phương






    Năm 1961, bà Bầu Thơ đưa đoàn hát Thanh Minh-Thanh Nga đi lưu diễn miền Trung. Các soạn giả thường trực phải theo đoàn để tập tuồng mới. Hà Triều, Hoa Phượng, Kiên Giang, Nguyễn Phương ở chung một pḥng trong khách sạn. Trước đây trong những chuyến lưu diễn các tỉnh miền Hậu Giang, chúng tôi 4 người cũng ở chung một pḥng, thường đi ăn điểm tâm chung, ăn cơm hội cùng một mâm, đến địa phương nào chúng tôi cũng t́m chỗ đi du ngoạn hoặc t́m thưởng thức những món ngon vật lạ. Nhưng trong chuyến lưu diễn miền Trung kỳ này, đến Nha Trang th́ Hà Triều và Hoa Phượng tách ra đi chơi riêng, hai anh sa đà trong việc bài bạc được tổ chức ngay trong đoàn hát.
    Cô Năm Hay, em ruột của bà Thơ, bày ra việc đánh tứ sắc trong pḥng khách sạn với Út Trà Ôn, Hoàng Giang và bà bầu Thơ; Hữu Th́n, con bà bầu, tổ chức binh xập xám với các soạn giả Hoàng Việt, Hà Triều, Hoa Phượng.
    Ba ngày liên tiếp, các danh thủ “đỏ đen” sát phạt nhau tận t́nh. Hà Triều, Hoa Phượng thua 15.000 đồng. Hai anh bán đứt cho bà bầu Thơ một vở tuồng để có tiền trả nợ cờ bạc. Tôi rủ Hà Triều, Hoa Phượng và Kiên Giang ra quán ở băi biển, nhậu rượu, giúp cho Hà Triều, Hoa Phượng mượn tửu binh giăi phá thành sầu. Hoa Phượng cười hề hề sảng khoái, nói: “Thua bạc, bán đứt tuồng cho bà bầu được hai chục ngàn đồng. Mười lăm ngàn trả nợ, c̣n lại năm ngàn, tôi bao các anh ăn xài cho hết, vậy là vui rồi! Tôi sẽ viết một tuồng, dài 40 trang, như vậy mỗi trang giấy đánh máy tuồng của tôi đáng giá 500 đồng”.
    Mấy ngày sau, Hoa Phượng rủ tôi và Kiên Giang đi viếng Tháp Bà, đền thờ thần Ponagar, rồi ra bờ sông Cái Nha Trang, đứng trên cầu đá chụp h́nh Cù Lao Xóm Bóng. Tôi đinh ninh Hoa Phượng sẽ viết một tuồng với cốt truyện về thần nữ Thiên Y A Na, truyện Vua Chế Bồng Nga hoặc chuyện Huyền Trân Công Chúa. Hoa Phượng nói chưa xài hết năm ngàn th́ chưa có tính tới chuyện viết tuồng trả nợ. Anh rủ chúng tôi đi thăm Hải học viện, viếng Nha Trang thành và định đi đến thăm Lầu Bảo Đại tức biệt thự Cầu Đá trên đỉnh núi Cảnh Long nhưng chúng tôi chưa kịp đến xem Biệt Thự Cầu Đá th́ đoàn hát di chuyển qua các tỉnh Phan Thiết, Qui Nhơn, sau đó ra hát ở Huế.
    Sân khấu được dựng trên băi đất trống sát bờ sông Hương, gần Phu Văn Lâu và Nghênh Lương Đường. Thay v́ ở khách sạn Thuận Hóa, bốn soạn giả chúng tôi mướn ghe để ngủ trên sông Hương, ghe đậu gần ṿng bao của sân diễn. Tôi đă quên chuyện Hoa Phượng phải viết tuồng trả nợ cho bà Bầu nên khi ra hát ở Huế, tôi hoạch định một chương tŕnh đi du ngoạn, viếng chùa Thiên Mụ, vô thăm các lăng tẩm các vua triều Nguyễn, đi ăn cơm âm phủ, ăn cơm hến, đi chợ Đông Ba và vào nội thành Huế kiếm xem các rạp hát bội của vua.
    Chúng tôi được hướng dẫn viên du lịch của địa phương đưa đến xem nhà hát bội ở cung Diên Thọ dành riêng cho Hoàng Thái Hậu và các bà Mẹ khác của vua. Nhà hát này được gọi là Thông Minh Đường, xây cất bên phải sân, sát cửa Chính Điện, trước được gọi là Hữu Túc Đường, đối diện với Tả Túc Đường tức là nhà Tả Trà, nơi dùng để đăi trà các quan khách.
    Nhà hát Duyệt Thị Đường được xây dựng từ thời vua Minh Mạng thứ 7 (năm 1826). Duyệt Thị Đường ở ngoài tường phía đông điện Quang Minh, nằm trong phạm vi Cấm Thành. Đây là nhà hát lớn nhất trong các nhà hát ở Hoàng Cung. Chiều dài của nhà hát Duyệt Thị Đường từ trước cửa đến sát vách sau sân khấu dài 40 thước, bề ngang 16 thước. Sân khấu để tŕnh diễn h́nh vuông, mỗi bề 8 thước, sân khấu cao hơn mặt bằng của khán pḥng 8 tất nên khán giả ngồi ở các hàng ghế đầu có thể thấy rơ suốt mặt bằng của sân khấu. Trong khán pḥng có hai hàng cột gỗ lim thật lớn chống đỡ. Trần nhà và vách phông trong của sân khấu được chạm nổi cảnh trăng sao, tinh tú, mặt trời, biểu hiện vũ trụ.
    Cách mặt tiền sân khấu độ ba thước, ngay giữa khán pḥng có hai ghế chạm trổ h́nh con rồng nơi tay vịnh để cho vua và hoàng hậu ngồi xem hát. Phía sau là hai hàng ghế bọc nệm gấm dành cho các vị quan đại thần và khách của vua. Chỗ ngồi của các vị quan khách là hai dăy ghế trường kỷ đặt dọc dài từ dăy cột lớn đến sát vách hai bên phải trái của sân khấu. Sau hai hàng ghế dành cho vua, hoàng hậu và các quan đại thần, hai bên sân khấu có cầu thang gỗ để lên trên gác cao bằng gỗ đen bóng, nơi dành cho khán giả là các bà các mệ trong nội cung. Trên hai gác lầu này, bên mặt có một giá gỗ treo vài chục chuông bằng đồng đen lớn nhỏ khác nhau. Trên gác bên trái có giá giàn đờn đá và nhiều mỏ.
    Minh Khiêm Đường là nhà hát bội dành để hát cho vua Tự Đức, Hoàng hậu, các nội thị hầu cận và các quan thân cận của vua xem. Minh Khiêm Đường nằm trong khuôn viên của Khiêm Lăng (tức lăng mộ của vua Tự Đức), được xây dựng năm 1864, nằm giữa khoảng Ḥa Khiêm Điện (nơi vua Tự Đức làm việc) và Lương Khiêm Điện (nơi vua Tự Đức ăn ngủ, nghỉ ngơi mỗi khi lên chơi ở Khiêm Cung).
    Có một đêm, Nha Du Lịch tổ chức tại nhà hát Duyệt Thị Đường một chương tŕnh múa cung đ́nh và đờn ca nhă nhạc cho du khách xem. Chúng tôi mua vé vào xem. Văn hát, về đến đoàn Thanh Minh-Thanh Nga, chúng tôi thấy vắng mặt Hà Triều. Có người nghĩ Hà Triều đi ăn khuya ở các quán cơm âm phủ hay cơm hến. Có người nghĩ anh ta bắt bồ được với một nàng Huế nào đó nên đi chơi hoang một đêm. Lần đầu tiên chúng tôi mới đến Huế nên không dám thả rong ban đêm để kiếm Hà Triều, đành nói cho bà bầu Thơ biết để bà nhờ thầy bảy Liêm quản lư của đoàn hát báo cho cảnh sát địa phương biết để nhờ cảnh sát giúp.
    Hôm sau, 9 giờ sáng, khi các nghệ sĩ đang tập tuồng th́ cảnh sát địa phương dẫn Hà Triều đến gặp bà bầu Thơ. Cảnh sát cho biết nhân viên cảnh vệ trong Lăng thấy Hà Triều ngủ ngồi trong vách Nhà Bia trong lăng Minh Mạng. Hỏi ra họ biết là soạn giả của đoàn hát, đêm rồi coi hát trong Duyệt Thị Đường, khi về đi lạc nên phải ngủ tạm nơi Nhà Bia để chờ sáng. Bà Bầu xin đóng tiền phạt nhưng cảnh sát cười: Người lạ đi lạc ban đêm trong lăng tẩm là chuyện thường, có chi mô mà phạt?
    Các nghệ sĩ cười Hà Triều, có người nói cốt tử của Hà Triều thuộc về hoàng tộc nên ra Huế ngủ đêm trong lăng vua là hạnh phúc lắm. Hà Triều cười: “Mấy cha nói hạnh phúc th́ thử ngủ một đêm trong lăng th́ sẽ biết nó ra sao! Lạnh thấy mẹ! Lại c̣n bị muỗi chích, bù mắc với kiến cắn nổi mận đầy ḿnh đây nè... May mà đêm hôm có gói thuốc và cái ống quẹt này, ph́ phà suốt đêm cho nó đỡ buồn. Ngủ gà ngủ gật trong lăng, chết c̣n sướng hơn!”
    Hoa Phượng bỗng phá cười thật lớn: “Cám ơn, Hà Triều! Mầy ngủ quên trong lăng làm cho tao nảy ra ư tuồng để viết trả nợ cho bà Bầu”.
    Bà Bầu Thơ nghe Hoa Phượng nói vậy, bà hỏi liền: “Chú nói chú có ư tuồng mới, vậy đó là tuồng ǵ? Tuồng xă hội hay tuồng hương xa?”
    - Dạ, chỉ mới có cái tựa, nhưng mà nội trong một tuần lễ là tôi sẽ viết xong.
    - Tựa ǵ? Nói cho tôi biết, được hông?
    - Dạ, được chớ chị Năm... Tựa tuồng là Giấc Mộng Giữa Hoàng Lăng. Tựa tuồng vừa được Hà Triều gợi hứng bằng cái chuyện ngủ trong lăng vua nhưng cốt chuyện mới tượng h́nh, tôi xin phép vắng mặt trong một tuần để thai nghén cái chuyện này mới được.

    Hoa Phượng lặn đâu mất trong bốn ngày hát chót ở kinh thành Huế. Khi hát ở tỉnh Quảng Ngăi được ba bữa chúng tôi mới thấy Hoa Phượng trên xe đ̣ từ Huế vô. Anh ta đă có cốt chuyện và bắt đầu viết vở Giấc Mộng Giữa Hoàng Lăng.

    Câu chuyện tuồng như sau:
    Tướng cướp Vi Hạc Linh bồng thây vợ là Lạc Thy Kim vô hoàng lăng để chôn. Anh ta bất măn v́ vua khi sống th́ được ở trong cung điện nguy nga, khi chết được an táng trong hoàng lăng tráng lệ. C̣n dân nghèo sống th́ chui rúc trong cḥi lá, khi chết không mảnh đất chôn thây, nên Vi Hạc Linh muốn cho vợ anh sau khi chết cũng được ngang hàng với các v́ vua đang an nghỉ nơi chốn hoàng lăng. Y sĩ Sa Tần đang lẫn trốn trong hoàng lăng v́ bị hoàng hậu Thúy Nhi đuổi bắt, ông ta dùng thuốc cứu sống Lạc Thy Kim. Lúc đó Ư Mỹ Thơ, vợ của Sa Tần, mang b́nh nước đến cho Sa Tần mang theo khi vượt qua sa mạc. Ư Mỹ Thơ đẹp đến nỗi Vi Hạc Linh quên ơn của Sa Tần, muốn cướp đoạt Ư Mỹ Thơ và phụ rẫy vợ nhà. Sa Tần đi khỏi hoàng lăng, hoàng hậu Thúy Nhi đến, Vi Hạc Linh biết Sa Tần v́ không tuân lịnh thuốc chết vua Sĩ Tước Hoa theo lịnh của hoàng hậu nên mới bị truy sát. Vi Hạc Linh nhận thực hiện kế của hoàng hậu, giết vua Sĩ Tước Hoa để lấy ngôi vua lại cho con trai của bà. Khi giết được vua Sĩ Tước Hoa, Vi Hạc Linh cướp luôn ngôi vua và giết hoàng hậu Thúy Nhi và hoàng tử. Có quyền thế trong tay, Vi Hạc Linh cướp luôn vợ của y sĩ Sa Tần.
    Ư Mỹ Thơ không theo Vi Hạc Linh được v́ c̣n vợ của Hạc Linh là Lạc Thy Kim. Vi Hạc Linh bèn cho lịnh đưa vợ đến, định giết đi để chiếm cho được Ư Mỹ Thơ. Lúc đó Sa Tần xuất hiện, nói rằng ông ta có phương thuốc Trường sinh nhưng cần đôi mắt của người vợ chung thủy, tự nguyện hiến mắt để làm thuốc cho chồng. Lạc Thy Kim đến, Vi Hạc Linh giả đau, cần đôi mắt của vợ để chữa trị. Lạc Thy Kim thương chồng, hiến đôi mắt để y sĩ Sa Tần làm thuốc cho Vi Hạc Linh. Thuốc đă chế xong nhưng khi bỏ đôi mắt của Lạc Thy Kim vào th́ sấm nổ vang, đôi mắt bay lên trời và y sĩ Sa Tần cũng biến mất.
    Sau khi Lạc Thy Kim hiến đôi mắt, Vi Hạc Linh bỏ vợ vô rừng sâu để cho thú dữ ăn thịt. Bà khóc v́ sự bội phản của ông chồng. Nước mắt của người vợ hiền nhỏ xuống làm cho khối đá nơi bà ngồi vỡ tan. Một vị thần bị nhốt trong khối đá đó với lời nguyền là khi nào có nước mắt của người vợ hiền nhỏ xuống th́ vị thần sẽ được giải thoát khỏi bị giam cầm trong đá. Nước mắt của Lạc Thy Kim cứu được vị thần. Ông cho bà được ba điều ước: 1- giàu có với vàng bạc châu báu đầy kho, 2- làm nữ vương cai trị một vùng đất rộng lớn ph́ nhiêu, 3- có một cái hộp thần kỳ, bất cứ kẻ nào muốn xâm phạm đến quyền lực và tài sản của bà, chỉ cần mở nắp hộp ra là sẽ tiêu diệt kẻ đó.
    Vi Hạc Linh biết có một vương quốc giàu sang mới ra đời, anh ta đem quân đến định xâm chiếm, bất ngờ gặp lại vợ cũ là Lạc Thy Kim. Lạc Thy Kim mở nắp hộp ra định giết Vi Hạc Linh trả thù người chồng bội phản th́ tiếng sấm nổ vang, tất cả đều biến mất, hiện lại cảnh hoàng lăng, Vi Hạc Linh c̣n bồng xác vợ, anh ta qua một giấc mộng dài để thể hiện dục vọng của con người trước sắc đẹp và quyền thế. Ư Mỹ Thơ là tượng đá trên vách hoàng lăng, vị thần và y sĩ là một người, tất cả đă đi vào giấc mộng của Vi Hạc Linh để nói lên mặt trái của những lời ơn nghĩa lúc đầu hôm và khiến cho con người sống thật với ḷng ḿnh cho đến khi tàn mộng đẹp.

    Soạn giả Hoa Phượng có biệt tài viết những đoạn văn mượt mà, làm tăng thêm chất văn học cho các tuồng của anh. Dưới đây là đoạn văn thể hiện miệng lưỡi của kẻ háo sắc minh biện cho dục vọng của ḿnh:
    - Vi Hạc Linh (nói với vợ của Sa Tần): Ư Mỹ Thơ! Nếu ta muốn bắt buộc khanh th́ chắc chắn là ta bắt buộc được. Nhưng không! Ta muốn nói cho khanh hiểu rằng: bất cứ người đàn ông nào, khi bước ra khỏi ngưỡng cửa của gia đ́nh, đều mang tâm trạng của một con thú trở về rừng cũ. Và sự chung t́nh của vợ nhà chỉ có giá trị bằng một sợi dây xích có tâm hồn. Những đêm rừng ngóng mỏ đợi cô đơn, thú nhớ xích nhưng ngại ṿng dây ràng buộc. C̣n khanh, khanh hăy nghĩ kỹ đi. Nếu khanh chết, có ai chịu bỏ một số thời giờ vô ích, ngồi tán dương người tiết phụ hay chăng? Trong khi đó th́ gả Sa Tần lo cưới vợ để yên bề gia thất. Tại sao khanh cứ măi tôn thờ đạo đức, không hay rằng thời gian đă biến nó thành chiếc áo vá quàng. Luân lư của sanh linh phải tùy thuộc chiếc ngai vàng, mà hoàng đế là kẻ cầm cân nảy mực. Ư Mỹ Thơ, tất cả trân châu bảo ngọc, đợi chờ khanh để bay đến cổ tay khanh và vị hoàng đế như ta cũng phải cúi ḿnh hôn gót ngọc của người giai nhân tuyệt sắc.

    Và đây là lời phỉnh gạt của Vi Hạc Linh, nói dối với vợ là Lạc Thi Kim để xin đôi mắt luyện thuốc trường sinh:
    - Vi Hạc Linh (nói với vợ là Lạc Thy Kim): Khanh có biết khi ta đội chiếc vương miện này th́ ta nhớ đến ǵ chăng? Ta hồi tưởng lại một đêm mưa như trút, sấm chớp liên hồi; từ sa mạc xa xôi, ta gh́ lưng ngựa phi nhanh về xóm cũ. Vết thương trên ngực này vẫn loang máu đỏ, mặc t́nh cho đàn chó hoang buông những tiếng sủa vô tư. Ngựa ṃ về ngôi nhà cũ với ngọn đèn xanh leo lét hiền từ. Qua phên rách ta thấy khanh ngồi chống tay ủ rũ. Lạc Thy Kim! Tất cả những h́nh ảnh đó đă nói lên ḷng người thiếu phụ...
    (Ca vọng cổ)
    1- đang thắt thẻo mong chồng... Trong đêm khuya đối ngọn đèn mờ, nàng lắng nghe từng tiếng động trong mưa. Như một linh hồn ḍ dẫm lối hư vô. Thương làm sao mái tóc buông hờ như gịng suối con lặng lờ chảy luồn qua hoang vắng.
    - Kim: Tâu hoàng thượng, những lúc ấy không phải thần thiếp buồn thân ḿnh đơn chiếc, mà chính là lo cho người đang lăn lóc giữa rừng gươm.
    - Linh (ca câu 2): Ngày ngày làm bạn với xe tơ cùng tiếng thoi đưa d́u dịu tấu thành một bản đàn độc điệu u trầm... Tuổi xuân trôi theo tiếng nhạc âm thầm mà khanh không một lời than thân trách phận. Kẻ làm chồng như ta thật là vinh hạnh. Nhưng mà, Lạc Thy Kim ơi, khanh càng tỏ ra kiên nhẫn th́ ta càng cảm thấy ḷng ḿnh đau đớn xót xa.
    - Kim: Đă là vợ chồng, sao hoàng thượng c̣n nghĩ đến những việc đó làm chi cho sanh ra phiền muộn. Đời người ta cũng có khi trầm khi bổng đâu phải bản đàn độc điệu như tiếng thoi đưa. Nếu nghĩ đến ngày cay đắng thuở xưa th́ t́nh nghĩa ngày nay xin đừng phai lạt.
    - Linh (ca câu 3): Làm sao ta quên được h́nh bóng của khanh khi ta đội chiếc vương miện này. Ngai vàng kia không phải là bức rào ngăn đôi chồng vợ. Nên ta vội vàng cho triệu khanh về để cùng chung hưởng những ngày phú quư. Nhưng mà định mạng trớ trêu có lẽ đây là lần gặp mặt sau cùng. Khanh ở lại hoàng cung c̣n ta th́ trở về nơi cát bụi, ngàn năm sương khói lạnh lùng.
    - Kim: Hoàng thượng, tại sao hoàng thượng lại thốt ra những lời trăn trối trong khi sức khỏe vẫn khang cường?
    - Linh: Y sĩ Sa Tần vừa báo cho ta biết, ta vướng phải một chứng bịnh vô phương điều trị, nội ngày nay sẽ gặp mặt các tiên vương. Trừ phi khanh bằng ḷng cho ta đôi mắt th́ Sa Tần mới cứu ta thoát chết...

    Đầu thập niên 60, dưới chế độ Việt Nam Cộng Ḥa, soạn giả được tự do sáng tác nên chỉ trong 7 ngày cao hứng, soạn giả Hoa Phượng đă sáng tác được vở tuồng Giấc Mộng Giữa Hoàng Lăng, vừa có tác phẩm hay để cho đào kép thi tài ca diễn, vừa có những đêm hát lư thú cho khán giả giải trí mua vui và cũng là một cách trả số nợ 20.000 đồng một cách rất có ư nghĩa.
    Nếu chuyện xảy ra sau năm 1975, khi bắt buộc phải viết tuồng theo định hướng chính trị của đảng th́ 10 anh Hoa Phượng hợp lại cũng không thể nào viết được một tuồng cải lương theo định hướng cho ra hồn!

    Nhớ thời vàng son của cải lương.
    Nguyễn Phương, 2012

  9. #9
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Tác giả / Tác phẩm

    Tác giả / Tác phẩm
    Cuộc đời và Sân khấu (2) Nghệ sĩ “ngủ trong thật”, “thức trong mộng”!

    Soạn giả Nguyễn Phương



    Trong giới nghệ sĩ cải lương không phải chỉ có một trường hợp ngộ nhận thân phận của ḿnh giữa cuộc đời thường và đời trên sân khấu như chuyện đă kể về vụ nghệ sĩ Hùng Cường, v́ đóng vai Thiếu Tá trong tuồng nhiều lần rồi lầm tưởng ḿnh là Thiếu Tá thật nên khi Thiếu Tá giả Hùng Cường gặp ông Trung Tướng thật mà không chịu chào chỉ v́ ông Tướng đó mặc thường phục như bao nhiêu thường dân khác.
    Nghệ sĩ danh ca Hữu Phước của đoàn hát Thanh Minh-Thanh Nga cũng đă có lần sống với thân phận giả mà cứ tưởng là thật nên bị nhốt trong quân lao ba ngày trong những ngày xảy ra cuộc đảo chánh Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm ngày 1 tháng 11 năm 1963.


    Các nghệ sĩ đào chánh, kép chánh thường mua sắm những trang phục, đạo cụ sân khấu riêng để tăng thêm sắc đẹp và sức hấp dẫn trên sân khấu. Ví dụ các nữ nghệ sĩ Phùng Há, Bảy Nam, Kim Thoa, Thanh Tùng, Út Bạch Lan, Thanh Nga... khi hát tuồng Tàu, thường mua những trang phục hát Tàu từ các đoàn hát Quảng ở Hồng Kông, có thêu h́nh rồng, h́nh chim phụng, h́nh các đóa hoa bằng mắt gà hoặc hột cườm trên các loại nhung, gấm thật đẹp. Các nam diễn viên khi hát tuồng xă hội cũng sắm những trang phục hợp thời trang, đắc tiền để mặc diễn các vai công tử, giám đốc, thầy thông, thầy kư. Ngoài ra, họ cũng mua sắm hoặc đặt làm những thanh kiếm Nhật, kiếm Tàu hoặc súng lục giống y như các loại vũ khí thật để diễn tuồng, tăng thêm oai vệ. Khi đoàn hát Thanh Minh-Thanh Nga hát các vở tuồng chiến tranh cận đại như tuồng Triều Tiên Vong Quốc Sử, Lửa Hờn, Mộng Đẹp Nửa Đời Hoa, nghệ sĩ Hữu Phước thủ diễn vai sĩ quan, anh đặt may các quân phục đẹp và đặt anh Chín Siểng (chuyên viên làm đạo cụ sân khấu) làm cho anh một khẩu súng ngắn giống y như khẩu súng Browning 12 mà các sĩ quan quân đội thường dùng. Súng Browning giả có thể bắn ra tiếng nổ và tóe lửa ở đầu súng v́ có gắng ng̣i pháo và khởi động bằng 4 cục pin AAA để trong báng súng. Khán giả tưởng Hữu Phước có súng thật v́ anh mang súng xệ xệ bên hông và trả lời khi có người hỏi: “Moi là đại úy mật vụ!”.
    Trong những năm đầu thập niên 60, dân chúng và nghệ sĩ rất sợ oai quyền của các ông sĩ quan Mật Vụ Miền Trung đang hoạt động ở Sài G̣n. Khi nghe nói đến tên các ông Hiếu, Thái đen, Ngọc Điệp... Các nghệ sĩ sợ xanh mặt v́ có nhiều tin đồn rằng những ai bị Mật Vụ Miền Trung bắt th́ ngoài việc bị đánh đập dă man khi điều tra, c̣n bị bỏ bao bố đem đến cầu Trịnh Minh Thế để liệng xuống sông Sài G̣n. Một số nghệ sĩ và soạn giả bị nghi là VC nằm vùng bị bắt và nhốt trong khám đặc biệt trong Thảo Cầm Viên Sài G̣n. Trong giới nghệ sĩ c̣n có tin đồn rằng các nghệ sĩ Út Bạch Lan, Thành Được, Hùng Cường, Hữu Phước, Mộc Linh, Ngọc Điệp, Phan Hương... đều đă được Sở Mật Vụ Miền Trung mời và được cho ra về b́nh yên v́ họ gia nhập vào Sở Mật Vụ Miền Trung để làm “điềm chỉ viên”. Tất cả chỉ là tin đồn, tin đồn và rất nhiều tin đồn... không ai biết tin đó là thật hay giả, và cũng không ai dám hỏi trực tiếp các nghệ sĩ đó. Mọi người đều cẩn thận không dám đến gần những nghệ sĩ bị nghi là nhân viên mật vụ. Trong bối cảnh như vậy, khi thấy Hữu Phước đeo súng (tuy giả nhưng ai biết được) th́ người ta tin Hữu Phước là nhân viên của Mật Vụ Miền Trung thật.
    Sau ngày đảo chánh 1 tháng 11 năm 1963, khi chúng tôi thu thanh xong tuồng cải lương của ban Phương Nam trên lầu Đài Phát Thanh ở cuối đường Phan Đ́nh Phùng, chúng tôi bước xuống tầng dưới, chưa kịp ra đường lộ th́ hai anh công an đến c̣ng tay Hữu Phước dẫn ra xe jeep, họ đưa Hữu Phước về nhà ở đường Trần Khắc Chân để khám xét. Họ lấy được khẩu súng giả rồi chở Hữu Phước về giam ở Tổng Nha Cảnh Sát.
    Ba ngày sau, Hữu Phước được thả ra, chúng tôi lại hỏi thăm, Hữu Phước cho biết v́ cây súng giả và những lời nói chơi, anh em trong đoàn hát gọi Hữu Phước là đại úy (nhân vật trong tuồng Triều Tiên Vong Quốc Sử của soạn giả Mộng Vân), Hữu Phước vui nên cũng thường tự xưng là “đại úy Hữu Phước” khi tán láo với anh em, do đó Hữu Phước bị bắt cùng với các ông Thái Đen, Ngọc Điệp, Mộc Linh. Sau Công an và An ninh Quân đội xét Hữu Phước không có hồ sơ hay lănh lương của Sở Mật Vụ Miền Trung nên anh được tha về để Hữu Phước tiếp tục làm vua làm tướng trên sân khấu.

    Tưởng ḿnh có căn tu, danh ca vọng cổ trở thành Ḥa Thượng:
    Cuối năm 1958, đoàn Thanh Minh đi lưu diễn ở miền Trung, đêm hát đầu tiên ở thị trấn Blao Đà Lạt. Ông chủ mua dàn hát là em của bà chủ hăng Trà Blao, tên Đỗ Hữu, nên đoàn hát được cho ở trong một trang trại gần vườn trồng trà của công ty Trà Blao-Đỗ Hữu.
    Nghệ sĩ Thanh Tao, Hoàng Giang, Hữu Phước, Nguyễn Phương, Kim Quang và Y tá Be hợp thành một nhóm, ăn cơm hội chung một mâm, ở thành một khóm tromg láng trại. Ngoài sinh hoạt chung của đoàn hát, những khi đi uống cà phê, đi du ngoạn, sáu người chúng tôi đều đi chung. Bên bờ hồ Blao, có một quán cà phê nhỏ xinh xinh, cô bán quán cũng xinh xinh nên chúng tôi thường đến quán đó uống cà phê, ăn điểm tâm sáng hoặc uống trà, thưởng thức đặc sản của thị trấn Blao.
    Cô chủ quán tên Hương, đẹp người đẹp nết, nói năng nhỏ nhẹ dễ thương, nên quán rất đông khách. Hữu Phước rất mến cô Hương, anh mua hai vé thượng hạng mời cô Hương và bà nội của cô xem hát.
    Đêm đầu tiên, đoàn Thanh Minh hát tuồng Mục Liên Thanh Đề. Danh ca Thanh Tao thủ vai ḥa thượng Mục Kiền Liên, nên bữa trưa anh ra tiệm hớt tóc mướn thợ cạo đầu trọc láng bóng.

    Chuyện tuồng như sau:
    Ḥa Thượng Mục Kiền Liên đi tu đắc đạo, trong khi đó mẹ của Mục Kiền Liên là bà Thanh Đề tuy vẫn hành thiện tích phước nhưng một hôm bà có điều chi bất măn một ông ḥa thượng nên bà lấy thịt chó cho các tu sĩ khất thực ăn. Khi bà chết, bà bị đày xuống 10 tầng địa ngục. Ḥa thượng Mục Kiền Liên thấy mẹ bị hành tội nơi ngục A Tỳ, ông muốn cởi xiềng xích, làm tắt lửa dầu sôi để cứu mẹ nhưng ông chưa đủ phép thần thông và đạo hạnh để cứu mẹ.
    Ḥa thượng Mục Kiền Liên đến miền Thiên Trúc xin Phật Tổ Như Lai giúp phép báu. Cảm thông ḷng hiếu thảo của Mục Kiền Liên, Phật Thích Ca ban cho Tràng Phan và Tích Trượng để Mục Kiền Liên xuống 10 tầng địa ngục xin Diêm Chúa Tần Quảng Vương cho gặp mẹ. Ḥa thượng đă cảm hóa mẹ, bà mẹ ăn năn những lỗi lầm trước, sám hối tu thân. Bà được ḥa thượng Mục Kiền Liên cứu độ, thoát khỏi ách trầm luân.

    Nghệ sĩ Thanh Tao mặc áo ḥa thượng, đội măo tỳ lư, tay cầm thiền trượng, nước da trắng trẻo, dáng người cao ráo, đẹp trai, đầu cạo láng bóng, nét mặt thanh tú, đôi mắt toát lên nét nhân hậu, nghệ sĩ Thanh Tao trong vai Ḥa thượng làm cho khán giả tưởng tượng như có một vị chân tu hiển hiện trước mắt của họ.
    Cô Hương và bà nội của cô ngồi ghế thượng hạng, gần sân khấu nên thấy rơ h́nh ảnh vị chân tu Mục Kiền Liên và nghe rơ lời ca của Ḥa thượng Thanh Tao:
    “Cơi Thiên Trúc miền Tây Phương lạc cảnh,
    Chùa Lôi Âm vang động mấy hồi chuông,
    Mục Kiền Liên trong lớp áo nâu ṣng
    Đang kính cẩn quỳ dưới chân Phật Tổ.
    Đệ tử là Mục Kiền Liên xin cúi đầu đảnh lễ trước đấng từ bi thần thông quảng đại, đệ tử xin thành tâm phủ phục trước liên... đài. Trải mấy ngày đêm qua muôn dặm đường dài. Cúi xin Phật Tổ ban tràng phan tích trượng để đệ tử t́m xuống tận Âm cung, kể từ ngày xa cách mẫu thân, nay âm dương cách biệt đôi đường, đệ tử quyết ḷng xuống điện Minh Vương để được báo đền t́nh thâm mẫu tử”.

    Câu chuyện về ḷng hiếu đạo của con đối với mẹ được các danh ca Thanh Tao, Hữu Phước chuyển đạt bằng giọng ca trầm ấm chan chứa thâm t́nh, thêm nhờ kỹ thuật sân khấu thể hiện cảnh thiên đường nơi Thiên Trúc đẹp một cách huyền ảo, cảnh địa ngục A Tỳ âm u ghê rợn, Ḥa thượng Mục Kiền Liên cầm thiền trượng sáng chói hào quang khiến cho khán giả say mê như được lạc vào tiên cảnh.
    Khán giả rất hài ḷng về đêm hát, ra về không tiếc lời khen ngợi. Nhiều khán giả c̣n đến cửa hậu trường để nh́n mặt vị ḥa thượng đẹp trai trên sân khấu. Cô Hương và bà nội của cô trước khi ra về cũng vào hậu trường cám ơn Hữu Phước và chào ông ḥa thượng đẹp trai Thanh Tao.
    Đêm đó nhóm nghệ sĩ chúng tôi mượn một cái bếp ḷ nhỏ, mua củi đốt lên để sưởi cho ấm v́ trang trại rộng lớn, vách ván không ngăn được cái lạnh của núi rừng cao nguyên. Chúng tôi bày rượu và khô nai nướng ra, ngồi quanh ngọn lửa hồng uống rượu cho ấm trước khi t́m một giấc ngủ ngon lành.
    Gần hai giờ khuya, bỗng có tiếng xe jeep chạy vô trang trại. Ánh đèn pha xe hơi rọi thẳng nơi chúng tôi ngủ. Chúng tôi thấy một cảnh sát viên xuống xe, đến nói chuyện với ông bà bầu Nghĩa rồi kéo xuống trang trại nơi chúng tôi ở. Ông thượng sĩ cảnh sát cho biết mẹ của ông và cô Hương (con gái ông) đi xem hát về, sau khi ăn khuya, bà cảm thấy khó chịu. Bệnh càng lúc càng tăng, bà như bị ngộp thở, tay chân lạnh cóng. Cô Hương gọi điện thoại báo cho cha biết. Ông thượng sĩ lái xe về thăm mẹ th́ bà có vẻ như hấp hối, bà nói: Bà muốn nghe tụng kinh trước khi bà nhắm mắt.
    Trong những năm cuối thập niên 50, thị trấn Blao c̣n là một thị trấn nhỏ, nhà của dân chúng và các cửa tiệm bán trà đặc sản của Blao ở hai bên đường Quốc lộ 1, từ đầu dốc đến cuối dốc độ hơn nửa cây số là hết phố xá, dân cư. Nối tiếp là đồn điền trồng trà hoặc rừng thông. Nhà của những người lao công hái trà, lao công làm trong nhà máy chế biến trà th́ cất rải rác trong đồn điền trà hoặc b́a rừng thông. Nơi đây chỉ có nhà thờ Băo Lộc, các giáo xứ Thanh Xá, Ḥa Phát, Thánh Tâm chớ không có chùa hay Tịnh xá Phật giáo nên không kiếm đâu ra một ông Ḥa thượng để tụng kinh theo ư muốn của bà.
    Trước sự thành tâm khẩn khoản rước Ḥa thượng của đoàn hát về tụng kinh cho mẹ của ông thượng sĩ cảnh sát, nghệ sĩ Thanh Tao không biết phải làm sao. Bà Bầu Thơ khuyên anh Thanh Tao cứ đi niệm Phật là đủ rồi, anh nên mặc áo cà sa, đội mũ ḥa thượng, vác cây thiền trượng và mang chuông mơ theo như ḥa thượng thiệt đi làm đám tụng kinh. Nghệ sĩ Thanh Tao do dự, anh rất khổ tâm v́ anh chỉ biết niệm Nam Mô A Di Đà Phật, biết đọc một đoạn kinh Bát Nhă Ba La Mật Đa như trong tuồng hát, c̣n ngoài ra không thuộc kinh kệ nào khác, không biết kinh Pháp Hoa, không thuộc chú Văn Sanh, anh sợ phụ ḷng gia chủ nhất là bà cụ đang hấp hối, muốn nghe kinh Phật để được siêu thăng tịnh độ, anh dối gạt bà cụ là có tội với Phật, Trời.
    Hoàng Giang, Hữu Phước và tôi nói vô, ḿnh đi cầu siêu, đọc kinh hay chỉ niệm Phật cho người hấp hối với tấm ḷng thành th́ đó là làm một việc thiện. Nếu anh Thanh Tao đi tụng niệm theo yêu cầu của ông thượng sĩ th́ nhóm chúng tôi theo ủng hộ tinh thần cho anh.
    Nghệ sĩ Thanh Tao bèn vô mặc áo cà sa, đội mũ ḥa thượng, xách cây thiền trượng. Chúng tôi mang theo chuông, mơ, nhang, đèn cầy, mặc thêm áo ấm rồi lên xe của ông thượng sĩ. Y tá Be là y tá riêng của Hữu Phước, anh mang theo ba lô thuốc của anh đi theo ông chủ Hữu Phước, cùng đến nhà bà nội cô Hương.
    Nhà bà cụ ở phía sau quán trà bên bờ hồ Blao. Sương đêm dày đặt, đứng cách nhau năm thước cũng khó mà thấy nhau. Ông thượng sĩ rồ máy xe, bật đèn pha rọi đường cho chúng tôi vào nhà. Cô Hương nghe tiếng xe hơi, biết cha cô về. Khi thấy ông Thanh Tao trong trang phục ḥa thượng bước vô nhà, cô chắp tay vái, niệm phật rồi la: “Nội ơi, Ḥa thượng Mục Kiền Liên đến tụng kinh cho nội ḱa”. Chúng tôi nghe bà cụ lắp bắp: “Nam mô... Phật”.
    Bà cụ nằm trên một cái giường đặt sát vách. Gần đó để bàn thờ Phật bà Quan Âm. Trên bàn thờ Phật có một cái đèn cóc cháy sáng leo lét. Bà cụ thở một cách khó nhọc, tay chân lạnh. Ông thượng sĩ định đỡ cho bà cụ ngồi dậy nhưng ḥa thượng Thanh Tao nói để cho bà nằm yên, anh đốt đèn cầy trên bàn Phật, thắp nhang rồi vái lạy Phật, sau đó ngồi xếp bằng trên chiếu dưới đất trước bàn thờ, gơ mơ nhẹ nhẹ, tụng kinh Bát Nhă Ma La Mật Đa. Tiếng tụng kinh khi lớn khi nhỏ, nghe đúng như âm điệu tụng kinh của vị ḥa thượng chân tu đang làm pháp đàn.
    Y tá Be và Hữu Phước hỏi thăm cô Hương về bệnh t́nh đột ngột của bà cụ, cô Hương cho biết khi chiều dùng cơm xong, bà cụ than là bị ợ chua, khó chịu. Văn hát về nhà, bà cụ ăn hai viên bánh trôi nước, bánh cúng ban chiều, sau đó bà kêu nhức đầu, khó thở. Ḥa thượng Thanh Tao tụng kinh cho bà cụ nghe để ổn định tinh thần. Y tá Be nói riêng với tôi và Hữu Phước là theo anh chẩn đoán th́ bà cụ bị chứng bịnh ăn không tiêu, anh có mang theo trong ba lô thuốc tiêu mặn (giống như Alka Selzer), anh pha một ly thuốc tiêu mặn cho bà cụ uống.
    Ông Ḥa thượng Thanh Tao cứ ê a tụng kinh, thái độ trang nghiêm thành khẩn làm cho bà cụ, ông Thượng sĩ và cô Hương thêm tin tưởng là Phật Bà Quán Âm sẽ cứu khổ cứu nạn cho bà cụ và gia đ́nh.
    Độ hơn nửa giờ sau, bà cụ bớt khó thở, bà ngồi dậy được và đến lạy trước bàn thờ Phật. Ông Thượng sĩ mừng quá, nói con gái nấu cháo cho chúng tôi ăn trước khi ông lái xe đưa chúng tôi trở về đoàn hát. Y tá Be cho bà cụ uống thêm một viên laxatif mùi cam cà nhuyễn. Bà uống vô khen ngon, không biết đó là thuốc nhuận tràng.
    Chúng tôi đến ăn sáng ở quán cà phê bờ hồ Blao, cô Hương cho biết đêm đó bà cụ đi tiêu được, sau đó bà ngủ đến sáng. Bà tin tưởng nhờ thời kinh của Ḥa thượng Mục Kiền Liên tụng đêm qua mà bà thoát chết. Ông Thượng sĩ thấy mẹ khỏi bịnh, khoe với bà con trong khu phố là nhờ Ḥa thượng Mục Kiền Liên tụng kinh mà mẹ của ông được tai qua nạn khỏi, thoát chết trong gang tất. Khán giả và dân chúng trong khu phố đổ xô đến láng trại để xem mặt Ḥa thượng Mục Kiền Liên, người đă tụng kinh cứu mẹ của ông Thượng sĩ. Họ đến xem hát thật đông để được nh́n mặt và nghe tiếng nói lời ca của Ḥa thượng Mục Kiền Liên.
    Khán giả xem hát thường lẫn lộn giữa cái giả trên sân khấu và cái thật ở ngoài đời. Cả gia đ́nh ông Thượng sĩ và cả nghệ sĩ Thanh Tao cũng tưởng ḷng thành của anh khi đọc kinh mà Phật Bà cứu độ cho bà cụ tai qua nạn khỏi.
    Nghệ sĩ Thanh Tao tin anh có duyên nghiệp với đạo Phật nên khi đoàn hát trở về Sài G̣n, anh rời khỏi đoàn hát, xuống tóc quy y và tu hành ở Chùa Nghệ sĩ ở G̣ Vấp.
    Nghệ sĩ Thanh Tao trở thành vị ḥa thượng đầu tiên của Chùa Nghệ sĩ G̣ Vấp với pháp danh Ḥa thượng Thích Quảng Minh.
    Ḥa thượng Thích Quảng Minh, thế danh Lê Thanh Tao, sanh năm 1914, mất ngày 11 tháng 9 năm 1987, hưởng thọ 73 tuổi, được an táng tại nghĩa trang Nghệ sĩ G̣ Vấp.

    Nhớ một thời sống hoang mang giữa thật và giả, sống giả mà cứ tưởng là thật!
    Nguyễn Phương, 2012

  10. #10
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Tác giả / Tác phẩm

    Tác giả / Tác phẩm
    Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông kể về “Phiên gác Đêm Xuân”:


    Vào năm 1956, đơn vị tôi đóng quân ở Chiến khu Đồng Tháp Mười, được xem là mặt trận tiền tiêu nóng bỏng vào thời bấy giờ. Khi ấy, tôi mang cấp bực Trung úy, mới 24 tuổi đời, c̣n bạch diện thư sinh. Tuy hồn vẫn c̣n xanh nhưng tâm t́nh đă nung trong lửa chín ở quân trường. Chính tại Đồng Tháp Mười, vùng đất địa linh nhân kiệt, đă gợi hứng cho tôi sáng tác những bản hùng ca như Súng Đàn, Vui Ra Đi, một thuở được hát vang trong Chiến dịch Thoại Ngọc Hầu. Rồi tiếp sau đó là các bản nhạc Phiên Gác Đêm Xuân, Chiều Mưa Biên Giới, Sắc Hoa Màu Nhớ được ra đời cũng tại vùng đất thiêng này. Khi đi vào vùng hỏa tuyến, là chàng trai trẻ độc thân, với một mối t́nh nho nhỏ thời học sinh mang theo trong ba-lô, tôi bước nhẹ tênh vào cuộc chiến đầu đời.
    Ngày đó Đồng Tháp Mười c̣n là đồng không mông quạnh, lau sậy ngút ngàn, dân cư thưa thớt, sống co cụm trên những g̣ đất cao giữa vùng đồng lầy nước nổi quanh năm. Người ở hậu phương lúc bấy giờ nh́n về Đồng Tháp Mười như là vùng đất bí hiểm với những huyền thoại Lúa Ma nuôi quân đánh giặc, về Tổng Đốc Binh Kiều, Thiên Hộ Vương thời chống Pháp qua những trận đánh lẫy lừng ở Găy Cờ Đen, G̣ Tháp mà chiến tích được tạc vào bia đá ở Tháp Mười Tầng c̣n lưu lại đến ngày nay. Mùa xuân năm đó, đơn vị tôi đóng trên G̣ Bắc Chiêng, có tên là Mộc Hoá, nằm sát biên giới Việt Nam-Campuchia, sau này là Tỉnh lỵ Kiến Tường. Đơn vị của tôi đă có những cuộc giao tranh đẫm máu vào những ngày giáp tết trên những địa danh Ấp Bắc, Kinh 12 và tuyến lửa Thông B́nh, Cái Cái, Tân Thành. Dù vậy, mùa xuân vẫn có cánh én bay về trên trận địa và hoa sen Tháp Mười vẫn đua nở trong đầm dù bị quần thảo bởi những trận đánh ác liệt. Cứ mỗi độ xuân về, sông Vàm Cỏ lại mang về từng đàn tôm cá từ biển hồ Tông Lê Sáp, vượt vũ môn theo đám lục b́nh trôi về vùng Tam Giác Sắt, như nhắc nhở Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Đồng Tháp Mười lập danh sách cho những người được về quê ăn Tết. V́ c̣n độc thân nên tên tôi được ưu tiên ghi vào Sổ Nhật Kư Hành Quân và ở lại đơn vị trong những ngày Tết. Dù không ai nghĩ có đánh nhau ngày đầu năm nhưng quân lệnh phăi được tuân hành nghiêm chỉnh. Trước ba ngày Tết, tôi được lệnh lên chốt tiền tiêu, tăng cường cho cứ điểm, mang theo chiếc ba-lô với chút hành trang lương khô, cùng tấm ảnh của người em gái hậu phương, cũng là cơ duyên sau đó để tôi viết nên bài t́nh ca Sắc Hoa Màu Nhớ.
    Tiền đồn cuối năm, đêm 30 Tết, trời tối đen như mực, phút giao thừa lạnh lẽo hắt hiu, không bánh chưng xanh, không hương khói gia đ́nh. Tôi ngồi trên tháp canh quan sát qua đêm tối, chỉ thấy những bóng tháp canh mờ nhạt bao quanh khu yếu điểm như những mái nhà tranh, chập chờn dưới đóm sáng hỏa châu mà mơ màng về mái ấm gia đ́nh đoàn tụ lúc xuân sang. Thay cho lời chúc Tết là tiếng kẻng đánh cầm canh và tiếng hô mật khẩu lên phiên gác. Vào đúng thời điểm giao thừa, ngọn đèn băo dưới chiến hào thắp sáng lên như đón chào năm mới th́ cũng là lúc những tràng súng liên thanh nổ rền từ chốt tiền tiêu. Khi ấy vào buổi tinh mơ của trời đất giao ḥa, vạn vật như ḥa quyện vào trong tôi, có hồn thiêng của sông núi, có khí phách của tiền nhân. Tôi nghe tâm hồn nghệ sĩ của ḿnh rộn lên những xúc cảm lạ thường, làm nảy lên những cung bậc đầu tiên của bài Phiên Gác Đêm Xuân:
    “Đón giao thừa một phiên gác đêm
    chào Xuân đến súng xa vang rền.
    Xác hoa tàn rơi trên báng súng
    ngở rằng pháo tung bay
    ngờ đâu hoa lá rơi…”
    Rồi mơ ước rất đời thường:
    “Ngồi ngắm mấy nóc cḥi canh
    mơ rằng đây máinhà tranh
    mà ước chiếc bánh ngày xuân
    cùng hương khói vương niềm thương…”
    Bài Phiên Gác Đêm Xuân được ra đời trong hoàn cảnh như thế, cách đây nửa thế kỷ, đánh dấu một chuỗi sáng tác của tôi về đời lính như Chiều Mưa Biên Giới, Mấy Dặm Sơn Khê, Sắc Hoa Màu Nhớ, Khúc T́nh Ca Hàng Hàng Lớp Lớp, Xin Đừng Trách Anh, Lá Thư Người Lính Chiến, Anh Trước Tôi Sau, Lời Giă Biệt… vân vân. Sau ngày 30 tháng Tư năm 75, các bản nhạc này cùng chung số phận tan tác như cuộc đời ch́m nổi của tôi.
    C̣n với hăng dĩa Continental:
    Vào năm 1960, tôi và người bạn cao niên tên là Huỳnh Văn Tứ, một nhà doanh nghiệp có tiếng ở Sàig̣n, cùng đứng ra sáng lập hăng dĩa Continental và Sơn Ca. Ông Huỳnh Văn Tứ phụ trách Giám Đốc Sản Xuất, nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông phụ trách Giám Đốc Nghệ Thuật. Chủ trương của chúng tôi là nhắm vào hai bộ môn Tân Nhạc và Sân Khấu Cải Lương Ca Cổ. Về lănh vực Tân Nhạc, tôi cho ra đời hàng trăm chương tŕnh mang dấu ấn của hăng Continental, Sơn Ca, Premier. Chính hăng Continental, Sơn Ca đă đi tiên phong trong việc thực hiện Album riêng cho từng cá nhân ca sĩ, như Khánh Ly với Sơn Ca số 7, Lệ Thu với Sơn Ca số 9, Thái Thanh và Ban Hợp Ca Thăng Long với Sơn Ca số 10 và nhiều Album cho Phương Dung, Thanh Tuyền, Giao Linh, làm vinh danh những tài năng này ở thập niên 60 và 70. Riêng về bộ môn Sân Khấu Cải Lương Ca Cổ , tôi đă thực hiện hàng trăm chương tŕnh Tân Cổ Giao Duyên và trên 50 vở tuồng cải lương kinh điển nổi tiếng như Nửa Đời Hương Phấn, Đoạn Tuyệt, Tiếng Hạc Trong Trăng, Sân Khấu Về Khuya, Mưa Rừng… vân vân. Chính trong thời gian này, tôi tạo thêm hai bút danh nữa là nhạc sĩ Phượng Linh và soạn giả Đông Phương Tử, nhằm phục vụ cho bộ môn Cải Lương Sân Khấu và Tân Cổ Giao Duyên. Bút danh Phượng Linh để sáng tác phần nhạc đệm và bài ca tân nhạc lồng trong các vở tuồng cải lương, phối hợp với giàn cổ nhạc gồm những danh cầm như Văn Vỹ, Năm Cơ, Hai Thơm. C̣n bút danh Đông Phương Tử là soạn các bài tân cổ giao duyên và đạo diễn thâu thanh các vở tuồng cải lương. Tiếc thay, những công tŕnh tâm huyết đó đă bị gạt ra bên lề xă hội sau biến cố lịch sử 30 tháng Tư năm 1975.
    Nói về những nhạc phẩm sau này, nhạc sĩ NVĐ tâm sự Sau tháng 4/1975, tôi đi học tập “cải tạo” 10 năm. Khi trở về nhà, tôi mang theo nhiều chứng bệnh trầm trọng, tinh thần và thể xác bị suy sụp. Suốt 30 năm qua, tôi không tham gia bất cứ hoạt động nào ở trong nước cũng như ngoài nước. Vào năm 2003, nhà nước Việt Nam có cho phép lưu hành 18 bài hát của tôi, gồm: Hải Ngoại Thương Ca, Nhớ Một Chiều Xuân, Về Mái Nhà Xưa, Khi Đă Yêu, Đom Đóm, Thầm Kín, Vô Thường, Niềm Đau Dĩ Văng, T́nh Cố Hương, Cay Đắng T́nh Đời, T́nh Đầu Xót Xa, Khúc Xuân Ca, Kỷ Niệm Vẫn Xanh, Truông Mây, Bài Ca Hạnh Phúc, Bông Hồng Cài Áo, Trái Tim Việt Nam, Núi và Gió.
    Rất tiếc một số bài hát tâm đắc không được nhà nước cho phép. Tôi hy vọng rồi đây theo thời gian mọi việc sẽ tốt đẹp hơn. Đặc biệt trong lănh vực văn hoá, văn nghệ, tôi nghiệm rằng những ǵ có giá trị nghệ thuật, dù bị vùi dập v́ sự ganh tỵ hay hiểu lầm, sẽ có ngày được mang trả lại vị trí đích thực của nó. Tôi chỉ tiếc đời người ngắn ngủi mà tôi đă phí phạm quăng thời gian dài 30 năm. Thật lấy làm tiếc!

    Với Giao Linh có nhiều kỷ niệm khó quên. Tôi nhớ lại, vào một sáng Chúa Nhựt năm 1965, nhạc sĩ Thu Hồ đưa đến nhà tôi một cô bé gầy g̣ ốm yếu. Cô đến bằng chiếc xe máy mini Velo Solex, nhưng không đủ sức đẩy xe qua thềm nhà tôi, phải nhờ nhạc sĩ Thu Hồ giúp đở. Cô bé ngồi im lặng như đóng băng không nói năng chi, trong khi nhạc sĩ Thu Hồ thao thao bất tuyệt về khả năng âm nhạc tiềm ẩn trong người cô. Tôi nh́n cô bé 16 tuổi, vóc dáng nhỏ nhắn, không phát triển như những cô gái cùng trang lứa, nghĩ thầm làm sao cô bé này có đủ hơi sức để hát ḥ. Tôi gợi chuyện vui để cho cô bắt chuyện, qua đó khám phá cái duyên ngầm sân khấu mà trong nghề nghiệp gọi là tổ đăi cho người nghệ sĩ. Nhưng cô bé vẫn không cười không nói, nên buổi gặp gở đầu tiên đó, tôi không dự cảm được ǵ về cô. Tuy nhiên, để không phụ ḷng nhạc sĩ Thu Hồ, tôi cho một cái hẹn thử giọng cô bé Đỗ Thị Sinh tại pḥng thu âm của hăng dĩa Continental. Thật bất ngờ, Giao Linh, cái tên nghệ nhân sau này của cô bé Đỗ Thị Sinh, đă gây sửng sốt bằng chất giọng khỏe khoắn. Cô hát vượt qua tầm cữ quăng tám một cách dễ dàng với làn hơi ngân nga dịu dàng truyền cảm. Hăng dĩa Continental chấp nhận, tôi lên chương tŕnh đào tạo, và chỉ sau một thời gian ngắn, tên tuổi ca sĩ Giao Linh bừng sáng trên ṿm trời nghệ thuật, sánh vai cùng đàn anh đàn chị đi trước. Khi ấy Giao Linh vừa tṛn 17 tuổi. Riêng cái tên mỹ miều “Nữ Hoàng Sầu Muộn” mà người đời ban tặng cho Giao Linh, chỉ v́ cô không mỉm môi cười th́ Giao Linh măi măi mang theo, dù từ lâu rồi cô đă có một gia đ́nh rất hạnh phúc.

    Truờng hợp Thanh Tuyền cũng có nhiều kỷ niệm đặc biệt. Đó là vào năm 1964, tôi đi nghỉ dưởng sức ở Đàlạt. Bạn bè thân hữu ở Đài Phát Thanh đến thăm hỏi, có giới thiệu giọng hát cô bé Như Mai nhiều triển vọng. Cô là nữ sinh Trường Bùi Thị Xuân, hàng tuần có tham gia hát ở Đài Phát Thanh Đàlạt. Rồi nhân dịp nghỉ hè, Trường Bùi Thị Xuân tổ chức phát thưởng bế giảng năm học, mời tôi đến dự lễ. Đến phần văn nghệ, người dẫn chương tŕnh giới thiệu “nữ sinh Như Mai hát tặng cho khách quư đến từ Saig̣n”. Giọng cô nữ sinh Bùi Thị Xuân lảnh lót cất lên, khỏe khoắn đầy nội lực thanh xuân, âm vang làm rộn ră cả sân trường. Tôi nghe cháy bỏng một ước mơ, một hy vọng mà cô bé như muốn ngỏ cùng ai. Khi chấm dứt bài hát, Như Mai ngước nh́n tôi. Tôi hiểu ư nên mời cô bé lên gặp tôi trên khán đài và hỏi: “Cháu có muốn trở thành ca sĩ không?”. Như Mai xúc động gật đầu. Sau đó tôi gập thân sinh của Như Mai và bàn chuyện đưa cô bé về Saig̣n để đào tạo thành ca sĩ. Khi ấy, tôi c̣n độc thân, ngày ngày ăn cơm chợ, tối tối ngủ ở đơn vị, thật không tiện chút nào để đở đần một cô gái trẻ xa nhà như vậy. Thế nên, sau khi bàn bạc với Ban Giám Đốc Hăng Dĩa Continental, tôi nhờ nhạc sĩ Mạnh Phát lên Đàlạt rước Như Mai về Saig̣n, tá túc trong gia đ́nh của ông, cũng là gia đ́nh của đôi nghệ sĩ tài danh Minh Diệu-Mạnh Phát thời bấy giờ. Mọi phí tổn ăn ở do Hăng Đĩa Continental đài thọ. Tôi lên chương tŕnh đào tạo và đặt tên mới cho Như Mai là Thanh Tuyền, ư muốn nói là gịng suối xanh của Cao nguyên Đàlạt. Chỉ trong ṿng 8 tháng có mặt ở thủ đô Saig̣n, Thanh Tuyền đă có đĩa và băng nhạc giới thiệu với người yêu nhạc. Như con chim lạ từ xứ sương mù, một bông hoa rừng c̣n đẫm ướt hơi sương, Thanh Tuyền nhanh chóng chiếm được sự mến mộ của người yêu nhạc thủ đô, sánh vai cùng đàn anh đàn chị trên Đài Phát Thanh, trên sân khấu Đại Nhạc Hội, pḥng trà ca nhạc, được báo giới Sàig̣n không tiếc lời ca ngợi. Năm ấy, Thanh Tuyền vừa đúng 17 tuổi.
    Riêng đối với tôi vẫn c̣n xanh măi một kỷ niệm về ngày khởi đầu đi hát của Thanh Tuyền tại Sài G̣n. Theo chương tŕnh, Thanh Tuyền hát ra mắt lần đầu tiên ở pḥng trà Bồng Lai và Vũ trường Quốc Tế đường Lê Lợi Saigon. Tôi đích thân đi mua son phấn để cho Thanh Tuyền trang điểm khi đi hát. Tôi thật bất ngờ khi biết Thanh Tuyền chưa từng sử dụng hộp phấn cây son trước đó. Khi đến giờ tŕnh diễn, tôi đưa Thanh Tuyền đến Viện Thẩm Mỹ, Salon Make Up, nhưng các cửa tiệm đều đóng cửa v́ trời đă khuya. Quá lo lắng, tôi kéo Thanh Tuyền chạy men theo đường Lê Lợi mong t́m người quen giúp đở. Nhưng không gập được ai mà thời gian lại gấp rút nên thầy và tṛ đành ngồi bệt ngay trên vỉa hè Lê Lợi. Nhờ ánh sáng đèn đường, tôi đánh phấn tô son cho Thanh Tuyền mà trước đó, tôi cũng chưa từng biết ǵ về cây son hộp phấn Chanel. Rồi Thanh Tuyền chạy bay lên lầu pḥng trà Bồng Lai để kịp giờ tŕnh diễn, c̣n tôi nện gót trên lề đường Lê Lợi, ḷng ngập tràn cảm xúc khi tiếng hát Thanh Tuyền cất lên, đánh dấu ngày khởi nghiệp của ca sĩ Thanh Tuyền giữa thủ đô Sàig̣n hoa lệ. Đến bây giờ, sau 40 năm ngồi nhớ lại, tôi dám đoan chắc rằng, đây là người thiếu nữ duy nhứt trong đời mà tôi đă kẻ lông mày, “tô son trét phấn” rồi tung con chim Sơn Ca vào bầu trời bao la, bởi v́ cô là… của muôn người.

    Với Hà Thanh

    Lần đầu tiên, tôi được gập cô Hà Thanh là vào năm 1963 tại Đài Phát Thanh Sàig̣n ở số 3 đường Phan Đ́nh Phùng ngày xưa, bây giờ là đường Nguyễn Đ́nh Chiễu. Khi ấy, tôi là Trưởng Ban TIẾNG THỜI GIAN của Đài Sàig̣n với các ca sĩ như Lệ Thanh, Khánh Ngọc, Trần văn Trạch, Minh Diệu, Mạnh Phát, Thu Hồ, Anh Ngọc v.v. Ngày đó cô Hà Thanh từ Huế vào Sàig̣n thăm người chị gái lập gia đ́nh với một vị Đại tá đang làm việc ở Sàig̣n. Chính nhạc sĩ Mạnh Phát cho tôi biết về cô Hà Thanh nên tôi nhờ Mạnh Phát liên lạc mời cô Hà Thanh đến hát với Ban Tiếng Thời Gian. Đây là lần đầu tiên tôi được tận tai nghe tiếng hát Hà Thanh, hát nhạc sống và hát thật ngoài đời với ban nhạc của tôi, không nghe qua làn sóng phát thanh hay qua băng đĩa nhạc. Điều này giúp cho tôi có cơ sở nhận định chính xác về giọng hát Hà Thanh. Tôi hiễu ngay đây là giọng ca thiên phú, kỹ thuật tốt, làn hơi diễm căm tuyệt đẹp, là một v́ sao trong những v́ sao hiếm hoi ở đĩnh cao nghệ thuật nhưng chưa có cơ hội phát tiết hết hào quang của ḿnh. Ngay sau đó, tôi có mời Hà Thanh thâu thanh cho Hăng đĩa Continental. Nếu tôi nhớ không lầm th́ bản nhạc đầu tiên tôi trao cho Hà Thanh là bài VỀ MÁI NHÀ XƯA do tôi sáng tác. Lần đó, cô Hà Thanh hát thật tốt, toàn ban nhạc và Ban Giám Đốc Hăng Continental rất hài ḷng, khen ngợi. Sau ngày đó, cô Hà Thanh từ giă trở về lại Huế, trở về lại với Cố đô trầm mặc, tĩnh lặng, không sôi nổi như Thủ Đô Saig̣n, là cái nôi của âm nhạc thời bấy giờ.
    Sau khi Hà Thanh trở về Huế, tôi có nhiều suy tư về giọng hát đặc biệt này. Tôi ví von, cho đây là v́ sao c̣n bị che khuất, chưa toả hết ánh hào quang, v́ chưa có hoàn cảnh thuận lợi để đăng quang, nếu phó mặc cho thời gian, cho định mệnh, có thễ một ngày kia sẽ hối tiếc. V́ vậy tôi đem việc này ra bàn với Ban Giám Đốc Hăng đĩa Continental để mời cô Hà Thanh vào Sàig̣n cộng tác. Chính tôi viết thư mời cô Hà Thanh vào Sàig̣n với những lư lẽ rất thuyết phục, rất văn nghệ, rất chân t́nh. Và cô Hà Thanh đă vào Sàig̣n sau khi đă tranh đấu gay go với gia đ́nh bố mẹ, vốn giữ nề nếp cỗ xưa của con người xứ Huế. Ngày đó Hà Thanh vào Sàig̣n, hoà nhập vào đời sống người Sàig̣n, vào nhịp đập âm nhạc Sàig̣n, vốn đứng đầu văn nghệ cả nước. Hà Thanh đi thâu thanh cho Đài Sàig̣n, Đài Quân Đội và nhận được lời mời tới tấp của các Hăng đĩa băng nhạc như Sóng nhạc, Việt Nam, Tân Thanh, Tứ Hải và hầu hết các Trung Tâm ở Thủ Đô Sàig̣n, chứ không phải chỉ riêng cho Hăng dĩa Continental và Sơn Ca của tôi. Ngày đó, tiếng hót của con chim Sơn Ca đất Thần Kinh đă được vang thật xa, đi vào trái tim của hàng triệu người yêu mến tiếng hát Hà Thanh.

    Cô Hà Thanh hát hầu hết các tác phẩm của tôi. Bài nào tôi cũng thích, cũng vừa ư, có lẽ v́ vậy mà tôi không nghĩ đến chuyện viết bài đặc biệt cho riêng cô. Tôi nhớ lại một chuỗi những sáng tác trong thời binh lửa chiến tranh như Chiều Mưa Biên Giới, Sắc Hoa Màu Nhớ, Khúc T́nh Ca Hàng Hàng Lớp Lớp, Mấy Dặm Sơn Khê, Lá Thư Người Lính Chiến,Phiên Gác Đêm Xuân, Anh Trước Tôi Sau, Lời Giă Biệt vân vân, đều rất hợp với tiếng hát Hà Thanh và cô hát rất thành công. Tôi cho rằng Hà Thanh không chỉ hát mà c̣n sáng tạo trong khi hát. Hà Thanh đă tạo thêm những nốt luyến láy rất truyền cảm, rất mỹ thuật làm cho bài hát của tôi thêm thăng hoa, trong giai điệu cũng như trong lời ca. Tôi cho rằng khi hát cô Hà Thanh đă sống và cùng đồng điệu sẻ chia với tác gỉa khi tŕnh bày một bản nhạc có tầm vóc nghệ thuật.
    Tôi cho rằng Hà Thanh có giọng hát thiên phú, cô hát rất thoải mái dễ dàng, không cầu kỳ, không cường điệu, không g̣ bó nhưng nó cuốn hút ta đi trong cái bềnh bồng không g̣ ép đó. Tôi cám ơn tiếng hát của Hà Thanh đă mang lại cho các bài hát của tôi thêm màu sắc, thêm thi vị, bay bổng. Trước khi đến với Hà Thanh, tôi cũng rất ngưởng mộ tiếng hát của cô Thái Thanh, Lệ Thanh, Khánh Ngọc và nhiều người khác đă gieo khắp phương trời tiếng ḷng của tôi, cũng như về sau này có thêm các cô học tṛ như Thanh Tuyền, Giao Linh đă giúp cho ông Thầy truyền tải đến trái tim người yêu nhạc. Nhưng đặc biệt, tiếng hát Hà Thanh đă để lại trong tôi nhiều kỹ niệm tốt đẹp, bền bỉ tuy thời gian ngắn ngủi kể từ khi cô bỏ đi lấy chồng để tôi độc hành trên đường nghệ thuật. Sau biến cố 1975, tôi không c̣n dịp hợp tác với cô Hà Thanh như trước đây. Nhưng thỉnh thoảng tôi được nghe cô hát một sáng tác mới của tôi ở hải ngoại, tôi vẫn cảm thấy tiếng của cô vẫn đậm đà phong cách ngày xưa, vẫn một Hà Thanh diễn cảm, sang trọng, sáng tạo trong khi hát, mặc dù thời gian chia cách đă 40 năm qua.

    Thoibao Online

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 2 users browsing this thread. (0 members and 2 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 4
    Last Post: 21-07-2011, 09:47 AM
  2. Replies: 14
    Last Post: 13-07-2011, 06:23 AM
  3. Replies: 1
    Last Post: 24-01-2011, 05:43 PM
  4. Phải Phá Bỏ Cái Ṿng Lẩn Quẩn!
    By Hoai Nam in forum Tin Việt Nam
    Replies: 1
    Last Post: 20-12-2010, 10:40 AM
  5. Replies: 6
    Last Post: 11-12-2010, 05:34 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •