Page 1 of 7 12345 ... LastLast
Results 1 to 10 of 68

Thread: QLVNCH/SƯ ĐOÀN BỘ BINH 4 VÙNG CHIẾN THUẬT & CÁC TRẬN ĐÁNH LỊCH SỬ

  1. #1
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    QLVNCH/SƯ ĐOÀN BỘ BINH 4 VÙNG CHIẾN THUẬT & CÁC TRẬN ĐÁNH LỊCH SỬ





    QLVNCH/SƯ ĐOÀN BỘ BINH 4 VÙNG CHIẾN THUẬT & CÁC TRẬN ĐÁNH LỊCH SỬ









    SƯ ĐOÀN 1 BỘ BINH

    wikipedia



    Sư đoàn 1 Bộ binh là một đơn vị thiện chiến của Quân lực Việt Nam Cộng ḥa, được thành lập năm 1959 và giải thể năm 1975. Đây là một đơn vị quân đội lớn, từng tham dự nhiều trận quan trọng trong Chiến tranh Việt Nam, lập được nhiều thành tích, và là sư đoàn bộ binh đầu tiên mà tất cả quân nhân được mang dây biểu chương ba màu của Bảo Quốc Huân Chương. Đặc biệt, Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 1 của sư đoàn là đơn vị duy nhất của Quân lực Việt Nam Cộng ḥa nhận Presdential Unit Citation của Hoa Kỳ v́ thành tích chiến đấu dũng cảm. [1]

    Tổ chức

    Năm 1959, Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng ḥa (QLVNCH) tái tổ chức các sư đoàn dă chiến 1, 2, 3, 4 và 6 sư đoàn khinh chiến 11, 12, 13, 14, 15, 16 thuộc quân đội Quốc gia Việt Nam thành 7 sư đoàn bộ binh, gồm Sư đoàn 1, Sư đoàn 2, Sư đoàn 5, Sư đoàn 7, Sư đoàn 21, Sư đoàn 22 và Sư đoàn 23 Bộ binh. Mỗi sư đoàn với quân số 10.500 quân nhân. [2]

    Sư đoàn 1 Bộ binh đặt bộ tư lệnh tại Huế, thuộc Quân đoàn I, Quân khu I, và gồm có các đơn vị trực thuộc: Bộ Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh, ba trung đoàn bộ binh tác chiến (Trung đoàn 1, 3, 51 và 54), Đại đội Hắc Báo Trinh sát/Viễn thám Sư đoàn 1 Bộ binh, Thiết đoàn 7/Lữ đoàn 1 Kỵ binh, ba tiểu đoàn pháo binh 105 mm, một tiểu đoàn pháo binh 155 mm và một số đơn vị yểm trợ: Đại đội 101 Quân cảnh, Tiểu đoàn Quân Y Sư đoàn 1 Bộ binh, Tiểu đoàn 1 Công binh, và các đơn vị truyền tin, vận tải, quân cụ, quân nhu. [3]


    Các tư lệnh sư đoàn
    Danh sách các tư lệnh[4] từ đến
    Đại tá Lê Văn Nghiêm 15.01.1955 15.12.1955
    Đại tá Nguyễn Khánh 15.12.1955 14.08.1957
    Đại tá Tôn Thất Đính 14.08.1957 09.08.1958
    Đại tá Nguyễn Văn Chuân 09.08.1958 30.07.1959
    Đại tá Tôn Thất Xứng 30.07.1959 02.12.1960
    Đại tá Nguyễn Đức Thắng 02.12.1960 01.10.1961
    Đại tá Nguyễn Văn Thiệu 01.10.1961 08.12.1962
    Đại tá Đỗ Cao Trí 08.12.1962 22.11.1963
    Đại tá Nguyễn Văn Hiếu 22.11.1963 12.12.1963
    Đại tá Trần Thanh Phong 12.12.1963 19.02.1964
    Đại tá Nguyễn Chánh Thi 19.02.1964 21.10.1964
    Đại tá Nguyễn Văn Chuân 21.10.1964 14.03.1966
    Chuẩn tướng Phan Xuân Nhuận 14.03.1966 18.16.1966
    Thiếu tướng Ngô Quang Trưởng 18.16.1966 23.08.1970
    Thiếu tướng Phạm Văn Phú 23.08.1970 12.11.1972
    Chuẩn tướng Lê Văn Thân 12.11.1972 31.10.1973
    Đại tá Nguyễn Văn Điềm 31.10.1973 30.04.1975


    Các trận đánh tiêu biểu

    Chiến dịch Pegasus (1968)
    Trận Mậu Thân (1968)
    Trận Lam Sơn 719 (1971)
    Trận Quảng Trị (1972)

    Năm 1975

    Tháng 3 năm 1975, Sư đoàn 1 Bộ binh cùng Liên đoàn 15 Biệt động quân, chịu trách nhiệm bảo vệ hướng Tây và Nam tỉnh Thừa Thiên. Trong lúc hành quân, sư đoàn được lệnh rút về cửa Tư Hiền để thực hiện lệnh tái phối trí Quân đoàn I. Theo kế hoạch rút quân, Sư đoàn 1 Bộ binh cùng các đơn vị phụ thuộc sẽ tập hợp tại cửa Tư Hiền, vượt đầm Cầu Hai, qua đèo Hải Vân rồi theo Quốc lộ 1 về Đà Nẵng. [5] Kế hoạch này không tiến hành như dự kiến, v́ ngày 21 tháng 3 năm 1975, Sư đoàn 324B và Sư đoàn 325 của Quân đội Nhân dân Việt Nam, cùng Trung đoàn Trị Thiên của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, đồng loạt tấn công dọc theo tuyến pḥng thủ sông Bồ kéo dài đến Phú Lộc. Tại các trận tuyến Mơ Tàu, núi Bông và các cao điểm nơi có mặt Trung đoàn 1, 51, 54 thuộc Sư đoàn 1 Bộ binh, giao tranh xảy ra quyết liệt và gây thiệt hại nặng cho các đơn vị tấn công. [6] Khi các đơn vị Sư đoàn 1 Bộ binh về đến cửa Tư Hiền, Duyên đoàn 13 Hải quân chịu trách nhiệm đưa quân qua sông bị khó khăn và không làm tṛn trọng trách đó nên Sư đoàn 1 Bộ binh tan ră tại đây, và chỉ có khoảng 4.000 quân nhân về được đến Đà Nẵng. [7]

    Các tư lệnh Chỉ huy nổi tiếng

    Nguyễn Khánh
    Tôn Thất Đính
    Nguyễn Văn Thiệu
    Đỗ Cao Trí
    Nguyễn Chánh Thi
    Ngô Quang Trưởng
    Phạm Văn Phú


    SƯ ĐOÀN 1 BỘ BINH
    Mekong Republic



    Bộ Tư lệnh Sư đoàn đặt tại trại Mang Cá, Huế (đến cuối năm 1971), chịu trách nhiệm Tiểu khu Quảng Trị-Thừa Thiên, là một trong những đại đơn vị đầu tiên của QLVNCH, thành lập ngày 1 tháng 1/1955 bởi ba liên đoàn Chiến thuật Lưu động, với tên ban đầu là Sư đoàn 21 Dă chiến rồi Sư đoàn 1 Dă chiến, sau đổi thành Sư đoàn 1 Bộ binh (1959). SD 1 BB là sư đoàn bộ binh đầu tiên mà tất cả quân nhân được mang giây biểu chương Bảo quốc Huân chương màu tam hợp. SD 1 BB tan hàng ngày 25 tháng 3/1975 tại cửa Tư Hiền và trên đường rút về Đà Nẵng.

    Ngay sau khi thành lập, SD 1 BB được giao phó trọng trách bảo vệ giới tuyến và hai tỉnh Quảng Trị-Thừa Thiên. Trong giai đoạn từ 1955-1956, lực lượng chính của Sư đoàn được phối trí như sau: Một trung đoàn trách nhiệm từ phía bắc sông Thạch Hăn đến phía nam sông Bến Hải, Bộ Chỉ huy đặt tại Đông Hà, trung đoàn thứ hai bảo vệ các quận phía nam sông Thạch Hăn đến địa giới hai tỉnh Trị-Thiên, Bộ Chỉ huy đặt tại La Vang, trung đoàn thứ ba trách nhiệm tỉnh Thừa Thiên, Bộ Chỉ huy đặt tại cây số 17 ở phía bắc Huế.

    Vào đầu năm 1957, theo sự phân nhiệm của Bộ Tổng Tham mưu, Sư đoàn 16 Khinh chiến sau thời gian hoạt động tại B́nh Định-Phú Yên được điều động ra tỉnh Quảng Trị, trách nhiệm pḥng thủ từ Bến Hải cho đến phía nam tỉnh lỵ Quảng Trị, c̣n Sư đoàn 1 Dă chiến trách nhiệm các cụm tuyến trọng điểm ở vùng núi tây nam Quảng Trị và tỉnh Thừa Thiên. Đầu năm 1959, Sư đoàn 16 Khinh chiến được giải tán cùng với ba sư đoàn Khinh chiến khác, 1/3 quân số của sư đoàn này sát nhập vào Sư đoàn 1 Dă chiến thành Sư đoàn 1 Bộ binh.
    Từ 1959 đến tháng 10/1971, SD 1 BB trở lại khu trách nhiệm ban dầu và lực lượng được phối trí như giai đoạn 1955-1956. Từ 1965 trở đi, vùng hoạt động các trung đoàn gần như cố định: TRD 2 BB trách nhiệm khu vực giới tuyến bao gồm Đông Hà, Cam Lộ, Gio Linh, TRD 1 BB trách nhiệm các quận phía nam tỉnh Quảng Trị, TRD 3 BB trách nhiệm khu vực tỉnh Thừa Thiên. Đến tháng 6/1968, TRD 54 BB được thành lập, trách nhiệm pḥng thủ phía nam Thừa Thiên, Bộ Chỉ huy đặt tại hậu cứ Long Thọ c̣n Bộ Chỉ huy Hành quân đồn trú tại Phú Thứ. Năm 1967, SD 1 BB cùng các đơn vị tăng phái tấn công, phá vỡ hạ tầng cơ sở và toàn bộ lực lượng Cộng sản tại quận Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên.

    Tháng 10/1971, Sư đoàn 3 Bộ binh được thành lập với thành phần ṇng cốt là các tiểu đoàn của TRD 2 BB chuyển sang, trách nhiệm pḥng thủ từ phía nam Bến Hải đến địa giới Quảng Trị-Thừa Thiên. Lúc bấy giờ SD 1 BB chỉ c̣n lại ba trung đoàn được phối trí như sau: TRD 1 BB trách nhiệm khu vực bắc Thừa Thiên, Bộ Chỉ huy Trung đoàn đặt tại căn cứ Ḥa Mỹ, TRD 3 BB trách nhiệm khu vực chánh tây Thừa Thiên, Bộ Chỉ huy Hành quân đặt tại căn cứ An Đô, TRD 54 BB trách nhiệm phía nam Thừa Thiên, Bộ Chỉ huy Hành quân đặt tại căn cứ La Sơn.

    Từ đầu năm 1972, Bộ Tư lệnh Sư đoàn và các đơn vị yểm trợ, cùng hậu cứ TRD 54 BB dời về căn cứ Giạ Lê, cách Huế khoảng 5 km về phía nam, do Sư đoàn 101 Nhảy dù Hoa Kỳ chuyển giao. Đến mùa Hè 1972, do t́nh h́nh chiến trường, TRD 1 BB được điều động hợp lực cùng với TRD 54 BB án ngữ tuyến tây nam Huế, Bộ Chỉ huy Hành quân Trung đoàn đặt tại căn cứ Hải Cát (cạnh lăng Minh Mạng, quận Nam Ḥa), hậu cứ Trung đoàn về đóng chung với Bộ Tư lệnh Sư đoàn tại Giạ Lê. Đầu năm 1973, SD 1 BB có thêm trung đoàn cơ hữu thứ tư, đó là TRD 51 BB biệt lập.

    Từ mùa Hè 1972 đến tháng 3/1975, SD 1 BB dưới quyền ba vị tư lệnh: Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Chuẩn tướng Lê Văn Thân và Chuẩn tướng Nguyễn Văn Điềm, đă giữ vững pḥng tuyến tây nam Huế, vô hiệu hóa hoạt động của Sư đoàn 324B CSBV và ba trung đoàn của Mặt trận B5 tăng cường.

    Tháng 3/1975, trong khi SD 1 BB cùng LD 15 BDQ đang hành quân trong vùng trách nhiệm tây nam tỉnh Thừa Thiên, th́ được lệnh rút về cửa Tư Hiền để tái phối trí. Theo kế hoạch rút quân, các đơn vị phụ thuộc SD 1 BB sẽ tập hợp tại cửa Tư Hiền, vượt đầm Cầu Hai để tàu vào đón. Trung đoàn 1, 51 và 54 BB đă giao tranh quyết liệt với SD 324B, 325 CSBV cùng Trung đoàn Trị Thiên dọc theo tuyến pḥng thủ sông Bồ kéo dài đến Phú Lộc, tại các trận tuyến Mơ Tàu, núi Bông. V́ hệ thống truyền tin Bộ binh bị Cộng quân xâm nhập, cuộc đón quân của Sư đoàn 1 BB khá gay go. Tại cửa Tư Hiền, Thiếu tá Trương Văn Phương, Chỉ huy trưởng Duyên đoàn 13, nhận lệnh trực tiếp từ Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại làm cầu bằng cách cột những chiếc ghe vào nhau để SD 1 BB vượt đầm. Sáng ngày 25 tháng 3/1975, tại cửa Tư Hiền biển động mạnh, cầu phao tại cửa sông cũng chưa hoàn tất kịp để sử dụng. Đến trưa th́ thủy triều lên cao, không làm sao ra tàu được. Lúc đó, Cộng quân biết được có các cuộc chuyển quân nên bắt đầu pháo kích dồn dập vào vị trí các điểm hẹn để tàu đến đón. SD 1 BB đành tự túc rút qua đèo Hải Vân rồi theo quốc lộ 1 về Đà Nẵng. Dọc đường, binh sĩ bỏ đơn vị đi t́m gia đ́nh, vũ khí vất đầy hai bên quốc lộ. SD 1 BB, một trong những đại đơn vị ưu tú của QLVNCH tan hàng từ đây! Do hỗn loạn diễn ra, chỉ có khoảng 1/3 binh sĩ về được đến Đà Nẵng. Phần Chuẩn tướng Nguyễn Văn Điềm, Tư lệnh SD 1 BB, thoát ra biển bằng một ghe nhỏ, được HQ 7 vớt. Sau đó, quân số c̣n lại được lập thành hai tiểu đoàn, một cho TRD 2 BB và một cho TRD 56 BB của Sư đoàn 3 Bộ binh, trách nhiệm pḥng thủ khu vực Bà Rịa-Vũng Tàu.

    Chiến trường tham dự
    ● Biệt khu 11 Chiến thuật (1964)
    ● Biệt khu Chiến thuật (1964)
    ● Huế (1/1968)
    ● Hạ Lào (2/1971)
    ● Căn cứ hỏa lực SD 1 BB (4/1972)
    ● Quân khu 1 (5/1972)
    ● Huế (5/1972)
    ● Quân khu 1 (3/1975)
    ● Đà Nẵng (3/1975)

    Đơn vị trực thuộc
    DD 1 TS
    DD 101 QC
    LD HAC BAO
    PB SD 1 BB
    TD 7 KB
    TD 1 CB
    TD 1 QY
    TRD 1 BB
    TRD 3 BB
    TRD 51 BB
    TRD 54 BB

    Tiểu sử Đơn vị trưởng
    ● Trung tướng Nguyễn Đức Thắng
    Đại tá Trưởng pḥng 3 Bộ Tổng Tham mưu (1962), thăng cấp Chuẩn tướng (8/1964), Thiếu tướng (11/1965), Tổng ủy viên (ngang hàng Tổng trưởng) Xây dựng Nông thôn (6/1966 ...
    ● Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu
    Đại tá giữ chức Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Hành quân thay Trung tướng Dương Văn Minh (1961), sau khi Bộ Tư lệnh Hành quân giải tán được trao ...
    ● Đại tướng Đỗ Cao Trí
    Thăng chức Thiếu tướng (7/1963), Tư lệnh SD 1 BB kiêm xử lư thường vụ Tư lệnh QD 1-QK 1 (9/1963), thăng chức Trung tướng (2/11/1963), sau đó đảm nhận ...
    ● Thiếu tướng Trần Thanh Phong
    Đại tá Tư lệnh SD 1 BB kiêm Tư lệnh Biệt khu 11 Chiến thuật (3/11/1963), Tư lệnh SD 5 BB kiêm Tư lệnh Biệt khu 32 Chiến thuật (17/10/1964), ...
    ● Trung tướng Nguyễn Chánh Thi
    Thiếu tá Chỉ huy phó Liên đoàn Nhảy dù, chỉ huy ba tiểu đoàn TD 1, 5 và 6 ND đánh dẹp nhóm B́nh Xuyên trong chiến dịch Hoàng Diệu ...
    ● Thiếu tướng Nguyễn Văn Chuân
    Tạm đảm nhận chức vụ Tư lệnh QD 1-QK 1 (14/3/1966 đến 9/4/1966) trong cuộc Biến động miền Trung, bị Hội đồng Kỷ luật Đặc biệt cho giải ngũ (7/1966) ...
    ● Trung tướng Ngô Quang Trưởng
    Trung tá Tham mưu trưởng SD ND (1965), thăng cấp Đại tá Tư lệnh SD 1 BB (1966), Chuẩn tướng (1967), Thiếu tướng (1968), giữ chức vụ Tư lệnh QD ...
    ● Thiếu tướng Phạm Văn Phú
    Thiếu tướng Phạm Văn Phú xuất thân là sĩ quan Nhảy dù của Quân đội Pháp.

    Ngày 14 tháng 3/1954, Trung úy Phạm Văn Phú chỉ huy một đại đội của ...
    ● Chuẩn tướng Lê Văn Thân
    Nguyên là sĩ quan Pháo binh, Trung tá tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Thừa Thiên (1968), Đại tá Tư lệnh phó SD 7 BB (1971), Phụ tá Tư lệnh ...
    ● Chuẩn tướng Nguyễn Văn Điềm
    Tử nạn khi chiếc trực thăng chở Ban Tham mưu SD 1 BB bị trúng đạn tại B́nh Sơn, Quảng Ngăi (29/3/1975).

    Chuẩn tướng Nguyễn Văn Điềm đă phục vụ tại ...

    Được biết...
    ● Nguyễn Văn Hiếu - Trung tá Tham mưu trưởng SD 1 BB (6/1963)
    ● Vũ Văn Giai - Thiếu tá Trưởng pḥng 2 SD 1 BB (1964)
    ● Trần Văn Cẩm - Tham mưu trưởng SD 1 BB (1966-1969)
    ● Phan Xuân Nhuận - Tạm đảm nhận chức vụ Tư lệnh SD 1 BB thay Thiếu tướng Nguyễn Văn Chuân trong cuộc Biến động miền Trung (3/1966)
    ● Phạm Văn Đính - Là người thượng kỳ VNCH trên kỳ đài Thành Nội Huế năm 1968 theo yêu cầu của Chuẩn tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh SD 1 BB
    ● Huế - 2 giờ sáng ngày 31 tháng 1/1968 Cộng quân đồng loạt pháo kích vào Bộ Tư lệnh SD 1 BB, Bộ Chỉ huy Tiểu khu Thừa Thiên, Trung tâm Huấn luyện Đống Đa
    ● TIEU DOAN 34 PHAO BINH - Nguyên là Tiểu đoàn Pháo binh trừ bị của Quân đoàn 1, sau khi thuộc PB SD 1 BB đổi tên thành TD 10 PB (1969)
    ● Nguyễn Văn Toàn - Đại tá Tư lệnh phó SD 1 BB, thăng cấp Chuẩn tướng (1969)
    ● Vũ Văn Giai - Tư lệnh Tiền phương SD 1 BB (9/1969 đến 9/1971)
    Giữ chức vụ Tư lệnh phó SD 1 BB (9/1969)
    ● TIEU DOAN 5/2 BO BINH - Nguyên trực thuộc SD 1 BB (1971)
    ● TRUNG DOAN 2 BO BINH - Tham dự chiến dịch Hạ Lào khi c̣n là đơn vị cơ hữu của SD 1 BB (2/1971)
    ● Hạ Lào - Trưa ngày 20 tháng 3/1971, TRD 2 BB xin Bộ Tư lệnh Tiền phương SD 1 BB ở Khe Sanh bằng mọi cách phải di tản ba tiểu đoàn c̣n lại
    ● TIEU DOAN 9 TQLC - Trong cuộc hành quân Lam Sơn 810 tháng 5/1971, TD 9 TQLC trực thuộc Lữ đoàn 369 TQLC, tăng phái cho SD 1 BB
    ● SU DOAN 3 BO BINH - Ngày 3 tháng 1/1973, Trung tướng Ngô Quang Trưởng tăng cường TRD 51 BB của SD 1 BB cho Tướng Hinh để tấn công vào khu vực căn cứ West, đồi 1460
    ● Trương Tấn Thục - Tư lệnh phó SD 1 BB (1975)
    ● TRUNG DOAN 2 BO BINH - Tháng 3/1975, sau khi Quân đoàn 1 triệt thoái khỏi Đà Nẵng, SD 3 BB rút về tỉnh Phước Tuy tái bổ sung từ thành phần c̣n lại của SD 1 BB
    ● Tư Hiền - Tháng 3/1975, trong khi SD 1 BB cùng LD 15 BDQ đang hành quân trong vùng trách nhiệm tây nam tỉnh Thừa Thiên, th́ được lệnh rút về cửa Tư Hiền để tái phối trí
    ● TRUNG DOAN 3 BO BINH - Tan hàng (25/3/1975, xem SD 1 BB)
    ● TRUNG DOAN 51 BO BINH - Tan hàng (25/3/1975, xem SD 1 BB)
    ● THIET DOAN 7 KY BINH - Tan hàng (25/3/1975, xem SD 1 BB)
    ● TRUNG DOAN 54 BO BINH - Tan hàng (25/3/1975, xem SD 1 BB)
    ● Nguyễn Văn Tạng - Tử nạn cùng Chuẩn tướng Nguyễn văn Điềm khi chiếc trực thăng chở Ban Tham mưu SD 1 BB bị trúng đạn tại B́nh Sơn, Quảng Ngăi (29/3/1975)
    ● Vơ Toàn - Tử nạn cùng Chuẩn tướng Nguyễn văn Điềm khi chiếc trực thăng chở Ban Tham mưu SD 1 BB bị trúng đạn tại B́nh Sơn, Quảng Ngăi (29/3/1975)

    SƯ ĐOÀN 1 BỘ BINH
    Hội Ái Hữu Quân Trường Đồng Đế Nha Trang



    Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Điềm Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh QLVNCH
    Năm 1959, Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng ḥa (QLVNCH) tái tổ chức các sư đoàn dă chiến 1, 2, 3, 4 và 6 sư đoàn khinh chiến 11, 12, 13, 14, 15, 16 thuộc quân đội Quốc gia Việt Nam thành 7 sư đoàn bộ binh, gồm Sư đoàn 1, Sư đoàn 2, Sư đoàn 5, Sư đoàn 7, Sư đoàn 21, Sư đoàn 22 và Sư đoàn 23 Bộ binh. Mỗi sư đoàn với quân số 10.500 quân nhân.

    Sư đoàn 1 Bộ binh đặt bộ tư lệnh tại Huế, thuộc Quân đoàn I, Quân khu I, và gồm có các đơn vị trực thuộc: Bộ Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh, ba trung đoàn bộ binh tác chiến (Trung đoàn 1, 3, 51 và 54), Đại đội Hắc Báo Trinh sát/Viễn thám Sư đoàn 1 Bộ binh, Thiết đoàn 7/Lữ đoàn 1 Kỵ binh, ba tiểu đoàn pháo binh 105 mm, một tiểu đoàn pháo binh 155 mm và một số đơn vị yểm trợ: Đại đội 101 Quân cảnh, Tiểu đoàn Quân Y Sư đoàn 1 Bộ binh, Tiểu đoàn 1 Công binh, và các đơn vị truyền tin, vận tải, quân cụ, quân nhu.

    Năm 1975

    Tháng 3 năm 1975, Sư đoàn 1 Bộ binh cùng Liên đoàn 15 Biệt động quân, chịu trách nhiệm bảo vệ hướng Tây và Nam tỉnh Thừa Thiên. Trong lúc hành quân, sư đoàn được lệnh rút về cửa Tư Hiền để thực hiện lệnh tái phối trí Quân đoàn I. Theo kế hoạch rút quân, Sư đoàn 1 Bộ binh cùng các đơn vị phụ thuộc sẽ tập hợp tại cửa Tư Hiền, vượt đầm Cầu Hai, qua đèo Hải Vân rồi theo Quốc lộ 1 về Đà Nẵng. Kế hoạch này không tiến hành như dự kiến, v́ ngày 21 tháng 3 năm 1975, Sư đoàn 324B và Sư đoàn 325 của Cong San Bac Viet cùng Trung đoàn Trị Thiên biệt lập, đồng loạt tấn công dọc theo tuyến pḥng thủ sông Bồ kéo dài đến Phú Lộc. Tại các trận tuyến Mơ Tàu, núi Bông và các cao điểm nơi có mặt Trung đoàn 1, 51, 54 thuộc Sư đoàn 1 Bộ binh, giao tranh xảy ra quyết liệt và gây thiệt hại nặng cho các đơn vị tấn công. Khi các đơn vị Sư đoàn 1 Bộ binh về đến cửa Tư Hiền, Duyên đoàn 13 Hải quân chịu trách nhiệm đưa quân qua sông bị khó khăn và không làm tṛn trọng trách đó nên Sư đoàn 1 Bộ binh tan ră tại đây, và chỉ có khoảng 4.000 quân nhân về được đến Đà Nẵng.



    HISTORY FIRST DIVISION
    BCH đóng tại Huế, chịu trách nhiệm Tiểu khu Quảng Trị-Thừa Thiên. Là một trong những đại đơn vị đầu tiên của QLVNCH, thành lập ngày 1 tháng 1/1955 bởi 3 Liên đoàn Chiến thuật Lưu động, Sư đoàn 1 BB với danh hiệu đầu tiên là Sư đoàn 1 Dă chiến rồi đổi thành Sư đoàn 1 Bộ binh từ 1959, trong hơn 20 năm từ ngày thành lập cho đến ngày được lệnh rút quân khỏi chiến trường Trị Thiên (3-1975), SD 1 BB là Sư đoàn Bộ binh đầu tiên mà tất cả quân nhân thuộc Sư đoàn được mang giây biểu chương Bảo Quốc Huân Chương màu tam hợp. Suốt 20 năm trấn giữ tuyến đầu của Việt Nam Cộng Ḥa, Sư đoàn 1 Bộ Binh là h́nh ảnh của sự bảo bọc, ǵn giữ Huế trong suốt những năm dài lửa đạn.

    Ngay sau khi thành lập, Sư đoàn 1 Bộ binh (ban đầu mang danh hiệu là Sư đoàn Dă chiến 21 rồi đến Sư đoàn Dă chiến số 1) được giao phó trọng trách bảo vệ giới tuyến và hai tỉnh Quảng Trị-Thừa Thiên. Trong giai đoạn từ 1955-1956, lực lượng chính của Sư đoàn được phối trí như sau: một trung đoàn trách nhiệm từ phía bắc sông Thạch Hăn đến phía nam sông Bến Hải, Bộ Chỉ huy đặt tại Đông Hà; một trung đoàn bảo vệ các quận phía Nam sông Thạch Hăn đến địa giới hai tỉnh Trị Thiên, Bộ Chỉ huy Trung đoàn đặt tại La Vang; trung đoàn thứ ba trách nhiệm tỉnh Thừa Thiên, Bộ Chỉ huy đặt tại cây số 17 ở phía Bắc Huế. Bộ Tư lệnh Sư đoàn đặt tại trại Mang Cá (đến cuối năm 1971).

    Vào đầu năm 1957, theo sự phân nhiệm của bộ Tổng Tham mưu, Sư đoàn 16 Khinh chiến sau thời gian hoạt động tại B́nh Định-Phú Yên được điều động ra tỉnh Quảng Trị, trách nhiệm pḥng thủ từ Bến Hải cho đến phía nam tỉnh lỵ Quảng Trị, c̣n Sư đoàn Dă chiến số 1 trách nhiệm các cụm tuyến trọng điểm ở vùng núi Tây Nam Quảng Trị và tỉnh Thừa Thiên. Đầu năm 1959, Sư đoàn 16 Khinh chiến được giải tán cùng với 3 Sư đoàn Khinh chiến khác, 1/3 quân số của Sư đoàn này sát nhập vào Sư đoàn Dă chiến số 1 được cải danh thành Sư đoàn 1 Bộ binh.
    Từ 1959 đến tháng 10/1971, Sư đoàn 1 BB trở lại khu trách nhiệm ban dầu và lực lượng được phối trí như giai đoạn 1955-1956. Từ 1965 trở đi, các trung đoàn được phân nhiệm vùng hoạt động gần như cố định: TRD 2 BB trách nhiệm khu vực giới tuyến bao gồm Đông Hà, Cam Lộ, Gio Linh; TRD 1 BB trách nhiệm các quận phía Nam tỉnh Quảng Trị, TRD 3 BB trách nhiệm khu vực tỉnh Thừa Thiên. Đến tháng 6/1968, TRD 54 BB được thành lập, trách nhiệm pḥng thủ phía Nam Thừa Thiên, bộ Chỉ huy hậu cứ đồn trú tại Long Thọ, bộ Chỉ huy Hành quân đặt tại Phú Thứ.

    Tháng 10/1971, Sư đoàn 3 Bộ binh được thành lập với thành phần ṇng cốt là 5 Tiểu đoàn của TRD 2 BB chuyển sang, trách nhiệm pḥng thủ từ phía Nam Bến Hải đến địa giới Quảng Trị-Thừa Thiên. Lúc bấy giờ Sư đoàn 1 Bộ binh chỉ c̣n lại 3 trung đoàn Bộ binh được phối nhiệm như sau: TRD 1 BB trách nhiệm khu vực Bắc Thừa Thiên, bộ Chỉ huy Trung đoàn đặt tại căn cứ Ḥa Mỹ; TRD 3 BB trách nhiệm khu vực chánh Tây Thừa Thiên, bộ chỉ huy hành quân đặt tại căn cứ An Đô; TRD 54 BB trách nhiệm phía Nam Thừa Thiên, bộ Chỉ huy Hành quân đặt tại căn cứ La Sơn.

    Từ đầu năm 1972, bộ Tư lệnh Sư đoàn 1 BB và các đơn vị yểm trợ, cùng hậu cứ TRD 54 BB tiếp nhận đại căn cứ Giạ Lê do Quân đội Hoa Kỳ chuyển giao. Đến mùa hè 1972, do t́nh h́nh chiến trường, TRD 1 BB được điều động hợp lực cùng với TRD 54 BB án ngữ tuyến Tây Nam Huế, bộ Chỉ huy Hành quân Trung đoàn đặt tại căn cứ Hữu Cát, hậu cứ Trung đoàn này dời về đóng chung với Sư đoàn tại Giạ Lê.

    Đầu năm 1973, Sư đoàn 1 Bộ binh có thêm Trung đoàn thứ 4: đó là TRD 51 BB biệt lập được lệnh sát nhập để trở thành một trung đoàn cơ hữu của Sư đoàn.
    Từ mùa hè 1972 đến tháng 3/1975, Sư đoàn 1 Bộ binh dưới quyền 3 vị Tư lệnh kế tiếp nhau: Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Chuẩn tướng Lê Văn Thân, Chuẩn tướng Nguyễn Văn Điềm, đă giữ vững pḥng tuyến tây nam Huế, vô hiệu hóa hoạt động của SD 324B CSBV và 3 Trung đoàn của B5 tăng cường.

    Tháng 3/1975, trong khi SD 1 BB cùng LD 15 BDQ đang hành quân trong vùng trách nhiệm Tây Nam tỉnh Thừa Thiên, th́ được lệnh rút về cửa Tư Hiền để tái phối trí. Theo kế hoạch rút quân, các đơn vị phụ thuộc SD 1 BB sẽ tập hợp tại cửa Tư Hiền, vượt đầm Cầu Hai, qua đèo Hải Vân rồi theo QL 1 về Đà Nẵng. Dọc theo tuyến pḥng thủ sông Bồ kéo dài đến Phú Lộc, tại các trận tuyến Mơ Tàu, núi Bông, TRD 1, 51 và 54 BB đă giao tranh quyết liệt với SD 324B, 325 CSBV cùng TRD Trị Thiên biệt lập. Khi các đơn vị SD 1 BB về đến cửa Tư Hiền, do Duyên đoàn 13 Hải quân chịu trách nhiệm đưa quân qua sông gặp khó khăn, Sư đoàn tan hàng tại đây, chỉ có khoảng 4.000 quân nhân về được đến Đà Nẵng.
    Last edited by alamit; 11-02-2013 at 03:27 AM.

  2. #2
    Member
    Join Date
    29-05-2012
    Posts
    396

    Thiếu

    Danh sách các tư lệnh[4] từ đến
    Đại tá Lê Văn Nghiêm 15.01.1955 15.12.1955
    Đại tá Nguyễn Khánh 15.12.1955 14.08.1957
    Đại tá Tôn Thất Đính 14.08.1957 09.08.1958
    Đại tá Nguyễn Văn Chuân 09.08.1958 30.07.1959
    Đại tá Tôn Thất Xứng 30.07.1959 02.12.1960
    Đại tá Nguyễn Đức Thắng 02.12.1960 01.10.1961
    Đại tá Nguyễn Văn Thiệu 01.10.1961 08.12.1962
    Đại tá Đỗ Cao Trí 08.12.1962 22.11.1963
    Đại tá Nguyễn Văn Hiếu 22.11.1963 12.12.1963
    Đại tá Trần Thanh Phong 12.12.1963 19.02.1964
    Đại tá Nguyễn Chánh Thi 19.02.1964 21.10.1964
    Đại tá Nguyễn Văn Chuân 21.10.1964 14.03.1966
    Chuẩn tướng Phan Xuân Nhuận 14.03.1966 18.16.1966
    Thiếu tướng Ngô Quang Trưởng 18.16.1966 23.08.1970
    Thiếu tướng Phạm Văn Phú 23.08.1970 12.11.1972
    Chuẩn tướng Lê Văn Thân 12.11.1972 31.10.1973
    Đại tá Nguyễn Văn Điềm 31.10.1973 30.04.1975
    =============
    Cựu Tư Lệnh SD1 Bộ Binh, c̣n thiếu .
    Đại Tá Hồ văn Tố
    Đại Tá Trương văn Xương .
    (Ông Tố chỉ làm Tư Lệnh có mấy tháng, nguyên do v́ Ông là người Huế nguyên là Cai Tố của Khố Xanh, sau vô học Trường Đập đa với Ông Thiệu) nay được cử làm Tu Lệnh Sư đoàn kỳ quá cho nên phải cho Ông Trương văn Xương ra thay ngay)

  3. #3
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    SƯ ĐOÀN 1 BỘ BINH
    CUỘC HÀNH QUÂN
    LAM SƠN 719



    Sư Đoàn 1 Bộ Binh với hai mươi năm đóng góp xương máu bảo vệ đất nước, ngoại trừ một thời gian ngắn chiến đấu trên các chiến trường miền Tây, Quảng Nam, Quảng Ngăi, B́nh Định và Phú Yên, thời gian c̣n lại các chiến sĩ mang trên vai áo Số 1 đă trấn giữ và hành quân liên tục trên một vùng chiến trường thật quá khắc nghiệt cực Bắc Quân Khu I. Một vùng khô cằn sỏi đá của hai tỉnh địa đầu Quảng Trị và Thừa Thiên. H́nh ảnh người chiến sĩ Sư Đoàn 1 Bộ Binh trong những năm thăng trầm của lịch sử đă gắn liền với vận mệnh nổi trôi của đất nước. Các anh luôn hiện diện trong đời sống quá đỗi cơ cực của người dân đất nghèo Cam Lộ, Gio Linh, cho đến Hương Điền, Quảng Điền, Phú Thứ, Phú Lộc. Quê hương em nghèo lắm ai ơi. Mùa đông thiếu áo hè thời thiếu ăn. Những địa danh thật xa lạ mà người dân ở măi tận vùng đất ph́ nhiêu Đồng Nai hay Cửu Long chưa từng nghe biết, bỗng đă trở thành quen thuộc từ trên trang đầu tin chiến sự những nhật báo hàng ngày. Cồn Thiên, Khe Sanh, Quốc Lộ 9, Ba Ḷng, Tà Bạt, Làng Vei, Ashau, A Lưới. Những chiến thắng của Sư Đoàn 1 Bộ Binh không chỉ vang vọng trong lănh thổ Việt Nam Cộng Ḥa, mà c̣n vượt biên giới tỏa khắp thế giới. Bộ Trưởng Quốc Pḥng Hoa Kỳ thời thập niên 1970 đă tuyên bố : “Sư Đoàn 1 Bộ Binh là một sư đoàn thiện chiến nhất trên thế giới”. Tướng Vanuxem của Pháp ca ngợi tinh thần chiến đấu của chiến sĩ Sư Đoàn 1 Bộ Binh đă vượt ngoài sức tưởng tượng của thế giới. Những lời khen ấy không phải phản ảnh từ lời lẽ ngoại giao chiếu lệ, v́ bản chất tự thân người Mỹ và người Pháp rất cao ngạo, ngoài dân tộc và quân lực của họ, th́ họ không thể thấy một quân lực nào vượt trội hơn. Nhưng khi họ đă thành tâm nghiêng ḿnh ca tụng một quân lực của một quốc gia nhỏ bé, th́ những lời ấy là những lời thật ḷng từ tận đáy thâm tâm.

    Tiểu Đoàn 4/1 Lê Huấn, những Lê Lai thời lửa binh

    Năm 1969, Sư Đoàn 1 Bộ Binh đảm trách thêm nhiệm vụ nặng nề, sau khi những Sư Đoàn Hoa Kỳ hồi hương. Giờ đây chỉ mỗi Sư Đoàn 1 Bộ Binh bảo vệ miền hỏa tuyến rừng múi mênh mông. Người ta nghĩ rằng Sư Đoàn 1 Bộ Binh khó có thể lấp kín được khoảng trống quá lớn này, về quân số cũng như về phương tiện cơ giới, hỏa lực so với các sư đoàn bạn. Nhưng yếu tố mà có thể cân bằng được sự chênh lệch ấy, là tài năng của dàn sĩ quan sư đoàn và sự thiện chiến, cùng với tấm ḷng yêu nước chan chứa trong trái tim mỗi chiến sĩ. Điều mà nhiều sư đoàn hùng hậu Mỹ không làm được trên đất địa đầu, th́ người chiến sĩ của một sư đoàn Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa đă làm được và làm hơn rất nhiều. Là đương đầu cùng lúc nhiều sư đoàn địch, nhiều mũi tấn công cực nguy hiễm, cực nóng cháy của địch, quân số ít hơn mà quân ta vẫn đánh thắng vang dội. Với ư chí, với truyền thống quyết chiến và quyết thắng, Sư Đoàn 1 Bộ Binh vừa chiến đấu vừa giữ luôn nhiệm vụ b́nh định và xây dựng vùng nông thôn rộng lớn của hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên. Cho đến khi lực lượng Địa Phương Quân và Nghĩa Quân đă lớn mạnh có thể đảm đương những công việc thuộc về diện địa an ninh lănh thổ, Sư Đoàn 1 Bộ Binh đă có thể rảnh tay mở những cuộc hành quân lớn cấp trung đoàn truy lùng và tiêu diệt địch.

    Năm 1970, trong lúc đoàn quân Tây chinh của các Quân Đoàn II, III và IV đang tiêu hủy những căn cứ hậu cần của cộng sản trên đất Kampuchea, Sư Đoàn 1 Bộ Binh cũng đóng góp phần của ḿnh với chiến thắng O’Relly. Căn Cứ O’Relly nằm cách Căn Cứ Hỏa Lực Barbara 7 cây số về hướng Tây, 15 cây số Đông biên giới Lào-Việt nằm trong tỉnh Quảng Trị. Là một cao điểm nằm trên dăy Trường Sơn chập chùng, căn cứ O’Relly quan sát những chuyển động của quân cộng và nằm trên đường tiến xuống đồng bằng của chúng. O’Relly là một cái gai nhức nhối mà cấp chỉ huy địch phải nhổ bằng mọi giá, lấy được O’Relly hay bức thoái quân ta, th́ chúng có thể uy hiếp vùng đồng bằng Hải Lăng. Một tiểu đoàn của Sư Đoàn 1 Bộ Binh lên trấn giữ điểm cao, những chiến sĩ cùng với người anh lớn kính mến của họ là Trung Tá Lê Huấn thề giữ vững căn cứ này. Trung Tá Lê Huấn, một người sĩ quan Tiểu Đoàn Trưởng xuất sắc của Sư Đoàn 1 Bộ Binh, mà số mệnh chọn đưa tên ông vào thanh sử, khi một năm sau Tiểu Đoàn 4, Trung Đoàn 1 do ông chỉ huy đă nhận nhiệm vụ đánh chận hậu cho toàn Trung Đoàn 1 của Đại Tá Nguyễn Văn Điềm rút ra khỏi Căn Cứ Hỏa Lực Lolo. Nếu thượng đế đoái thương cho ông được sống, th́ con đường binh nghiệp c̣n sẽ đi lên cao, cố Đại Tá Huấn c̣n cống hiến nhiều lắm cho tổ quốc và cho dân tộc. Trung Tá Huấn không chờ giặc đến đánh, ông tổ chức những cuộc hành quân bung rộng ra khỏi căn cứ , mệnh đanh là các cuộc Hành Quân 361, 366. Cơ động và tấn công là sở trường của chiến sĩ Sư Đoàn 1 Bộ Binh, các đơn vị bao vây O’Relly thuộc Sư Đoàn 304 cộng sản Bắc Việt không chống nổi phải rút chạy, bỏ lại 196 xác cán binh. Trong cuộc Hành Quân Quang Trung tiếp theo sau đó, tiểu đoàn hănh diện mang tên Lê Huấn đánh thắng một trận lớn trên chiến trường Hải Lăng trong tháng 8.1970, đối đầu với các Tiểu Đoàn 3, 6, 8 cũng thuộc Sư Đoàn 304 BV, đưa tiễn thêm 546 Sinh Bắc Tử Nam lên thiên đàng của họ. Nhờ nút chận O’Relly, mức độ xâm nhập của binh đội Bắc Việt xuống miền đồng bằng Quân Khu I đă không đủ cung ứng cho nhu cầu chiến trường. Hải Lăng hưởng được những ngày b́nh an, là tấm lá chắn an toàn cho thành phố Huế về phía Nam.

    Chiến dịch Lam Sơn 719 khởi diễn ngày 8.2.1971. Sư Đoàn Nhảy Dù và Sư Đoàn 1 Bộ Binh được vinh dự chọn làm nỗ lực chính đánh qua vùng Hạ Lào, nơi con đường huyết mạch mang tên Đường Ṃn Hồ Chí Minh vận chuyển người và tiếp liệu địch xâm nhập lănh thổ Việt Nam Cộng Ḥa. Đại quân Việt Nam Cộng Ḥa tập trung tại Đèo Lao Bảo gần biên giới Lào-Việt. Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I & Quân Khu I được thiết lập tại căn cứ Khe Sanh cũ, với danh xưng Hàm Nghi. Theo kế hoạch, quân Dù sẽ tấn công đến tận Tchépone và phá hủy Căn Cứ 604 nằm trên trục Đường Ṃn Hồ Chí Minh. Sư Đoàn 1 Bộ Binh đảm nhiệm giai đoạn kế tiếp đánh tràn xuống hướng Nam phá hủy Căn Cứ Tiếp Vận 611 của địch. Sau giai đoạn này, tất cả các cánh quân của quân ta sẽ trở về Việt Nam bằng cả đường không vận và trên Quốc Lộ 9.

    Sau khi các cánh quân Biệt Động Quân, trên hướng Bắc, Nhảy Dù trên trục đường 9 và những cao điểm 31, 30 phía Bắc Quốc Lộ này bị thiệt hại nặng, Bộ Tư Lệnh Lam Sơn 719 của Trung Tướng Hoàng Xuân Lăm quyết định tung một tiểu đoàn của Trung Đoàn 2 Bộ Binh nhảy xuống Tchépone, Trung Đoàn 2 và 3 Bộ Binh trấn giữ những cao điểm dọc theo trục Quốc Lộ và gần Tchépone yểm trợ cho Trung Đoàn 1. Ngày 6.3.1971, Thiếu Tá Trần Ngọc Huế, người hùng Mậu Thân 1968 cùng chiến sĩ Tiểu Đoàn 2/2 của ông ồ ạt nhảy xuống khu vực ngoại ô thành phố Tchépone đái một cái rồi trở ra. Quân cộng đă rút hết về phía Nam sông Xepone chờ cơ hội khép chặt ṿng vây và phản công tiêu diệt quân Nam. Nhiệm vụ vào Tchépon mà Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu kư thác đă xong, hang ổ hậu cần của giặc đă bị phá hủy, Thiếu Tá Huế nhận lệnh cấp tốc dẫn quân trở ra. Một lực lượng cộng quân hùng hậu với Sư Đoàn 2, 304, 308 và 324B tập trung lực lượng, quân số lên đến 40.000 người quyết tâm truy đuổi và tàn sát Sư Đoàn 1 Bộ Binh. Các Trung Đoàn 1 của Đại Tá Nguyễn Văn Điềm,Trung Đoàn 2 của Đại Tá Ngô Văn Chung và Trung Đoàn 3 Bộ Binh đều chạm nặng với giặc.

    Giặc nhung nhúc khắp nơi như những đàn kiến háu đói. Được cho uống thuốc kích thích và bị dí súng từ phía sau, cán binh cộng cản không c̣n con đường nào khác ngoài mỗi việc ôm súng ḥ hét lao vào lửa. Trung Đoàn 1 Bộ Binh bị vây khốn tại Căn Cứ Lolo, t́nh h́nh càng lúc càng nguy ngập. Đại Tá Nguyễn Văn Điềm, Trung Đoàn Trưởng mở cuộc họp khẩn cấp và yêu cầu một tiểu đoàn đánh hậu cho toàn Trung Đoàn rút. Người anh hùng Lê Huấn, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 4 xin nhận nhiệm vụ nặng nề này. Ôi cao cả biết ngần nào, người Lê Lai của thời đại lửa binh. Tiểu Đoàn của Trung Tá Lê Huấn nhận hy sinh để cho đồng đội được sống.

    Cuộc ác chiến Hạ Lào vỡ bùng lên với tất cả những khía cạnh thảm khốc và tàn nhẫn nhất của cuộc chiến tranh giữ nước khổ ải của người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Tiểu Đoàn 4/1 giữa trùng vây của giặc, đă không xin tải thương, mà chỉ xin tiếp tế đạn dược. Ngay cả lời thỉnh cầu này cũng không thể được thỏa măn. Phi cơ tiếp tế không thể xuống thấp, dù là để xô những thùng đạn xuống, v́ màn lươiù pḥng không dầy đặc của giặc. Người lính VNCH không ngại chuyện tử sinh, nhưng các anh cần súng và đạn. Súng găy, đạn hết, Trung Tá Lê Huấn và hầu hết các sĩ quan chỉ huy của Tiểu Đoàn 4 lần lượt ngă gục. Trận đánh dưới cơn băo pháo lửa đạn, đến sắt thép cũng phải chảy mềm, huống ǵ thịt da con người. Xác thân của những người anh hùng đó đă oan khuất nằm vùi trơ vơ giữa vùng rừng núi xứ người. Chiến sĩ Tiểu Đoàn 4 dắt díu nhau đột phá măi về hướng Đông, là hướng đất mẹ. Vài trăm chiến sĩ của Tiểu Đoàn 4/1 khi được các phi công Hoa Kỳ dũng cảm liều mạng đáp xuống bốc được chỉ c̣n vỏn vẹn 32 tay súng. Những khuôn mặt hốc hác đen nhẻm v́ đói, khát, v́ lao lực xông pha, v́ nhiều đêm mất ngủ, quần áo rách nát v́ gai góc núi rừng, đáng lẽ phải được vinh danh ngợi ca. Th́ bọn báo chí phương Tây bất lương, ti tiện diễn tả các anh như là những người hèn nhát chạy trốn cái chết t́m cái sống bằng cách bám càng trực thăng. Trời ơi, để cứu sống hàng ngàn sinh mạng đồng đội rút được về quê hương an toàn, người lính quá đỗi tội nghiệp thảm thương của chúng ta đă bị bọn vô lương phỉ nhổ và lăng nhục. Chúng tôi viết những gịng này để tố cáo sự ác độc có toan tính của truyền thông thiên tả Tây phương, đặc biệt truyền thông phản chiến và những nhà làm chín sách Hoa Kỳ, với mục đích chuẩn bị dư luận thuận lợi cho quân Mỹ bỏ chạy ra khỏi Việt Nam và đổ vấy trách nhiệm cho người lính Việt Nam Cộng Ḥa. Trong buổi lễ bàn giaoTiểu Đoàn cho vị Tiểu Đoàn Trưởmg mới là Trung Tá Nguyễn Văn Diệp, toàn Tiểu Đoàn 4 chỉ c̣n lại 50 chiến sĩ, kể cả quân số hậu cứ đứng nghiêm chào người chỉ huy.

    Thế hệ trẻ Việt Nam có đọc được những trang chiến sử oan khiên này, xin hăy hiểu cho rằng những người lính bị lăng mạ ấy đă chiến đấu cho sự sống c̣n của dân tộc, trong đó cho cha mẹ các em và cả các em nữa. Nếu không có những người lính Việt Nam Cộng Ḥa chiến đấu ṛng ră từ 1954 đến 1975, nếu các anh buông súng năm 1954, th́ số phận toàn dân tộc Việt Nam chắc chắn sẽ ch́m đắm trong bóng tối ghê rợn của cùm xích và tàn bạo. Các em sẽ không có cơ may được sinh sống tự do trên miền đất hạnh phúc ngoại quốc này. Hăy nh́n đất nước gọi là Bắc Hàn từ năm 1952 đến tận bây giờ, cuộc sống người dân ở đó không khác mấy với của những bầy gia súc. Câm nín, nhục nhă và nô lệ. V́ không chịu câm nín, không chịu làm kiếp thú nhà hèn nhục, nên người lính Việt Nam Cộng Ḥa cầm súng ngăn chống cơn cuồng sát hung hăn của khối cộng sản quốc tế. Người ta đă gán ghép cuộc chiến đấu của người lính Việt Nam Cộng Ḥa như là một cuộc chiến tranh ư thức hệ. Không có một ư thức hệ nào hết, ngoài mỗi ư thức Chiến đấu hay là chết. Những danh xưng hay từ ngữ hoa mỹ của cuộc chiến tranh là do sự áp đặt của những thế lực bên ngoài. Trong tận cùng thâm tâm của người lính Việt Nam Cộng Ḥa, th́ một khi bất cứ một thế lực nào có ư đồ xâm chiếm áp đặt ách thống trị, dù nhân danh bằng bất cứ cái ǵ lên dăy đất hoa gấm Việt Nam, th́ mỗi người lính, người dân Việt Nam có bổn phận cầm vũ khí đứng lên bảo vệ mảnh đất ấy. Đó là truyền thống bất khuất được hun đúc từ hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước của tiền nhân, anh hùng liệt nữ mà đă chảy cuồn cuộn trong mạch máu nóng hổi của mỗi người lính Việt Nam Cộng Ḥa.

    Tin tức bất lợi của đoàn quân Tây chinh Quân Đoàn I chẳng mấy chốc đă bay về đến Sài G̣n, dưới cái nh́n méo mó của giới báo chí ngoại quốc. Không có một phóng viên ngoại quốc nào dám theo chân đại quân Sư Đoàn 1 Bộ Binh đi quá sâu và nhảy xuống giữa hang ổ địch. Những tin tức tung ra trên báo chí của họ đều là nhuyện điêu thêu dệt và tưởng tượng ở ngay chân Đèo Lao Bảo, hoặc ở măi tận Căn Cứ Hàm Nghi, thậm chí ở Đông Hà và phần lớn được tưởng tượng trong những căn pḥng của kahc sạn Hương Giang ở Huế. Chỉ có duy nhất một phóng viên chiến trường Việt Nam cùng theo Tiểu Đoàn 2 của Thiếu Tá Trần Ngọc Huế. Người phóng viên gan dạ ấy chính là Thiếu Úy Dương Phục. Với sự dũng cảm này, Thiếu Úy Dương Phục đă được trao gắn Anh Dũng Bội Tinh. Chỉ những người phóng viên chiến trường của báo chí Việt Nam mới cảm nhận được vị cay đắng xót xa của người lính VNCH, với những bài tường thuật vinh danh các anh. Những tờ báo quân đội như Tiền Tuyến, Diều Hâu, Chiến Sĩ Cộng Ḥa, Tiền Phong, với những cây viết kư sự chiến trường dày dặn kinh nghiệm xông pha đă tích cực góp phần làm sáng tỏ những uẩn khúc trong cuộc hành quân Lam Sơn 719. Trung Đoàn 1 Bộ Binh là trung đoàn tiến rất sâu trong cuộc hành quân để yểm trợ cho Trung Đoàn 2 tiến đánh Tchépone, nên một cuộc họp báo với sự tham dự của kư giả trong và ngoài nước được tổ chức, với sự hiện diện của chính những người lính tham dự trận đánh. Đại Tá Nguyễn Văn Điềm, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 1 Bộ Binh cùng hai sĩ quan trong bộ chỉ huy từ Hạ Lào cùng Trung Đoàn trở về dưỡng quân ở Quảng Trị, ngày 22.3.1971 đă đáp máy bay vào Sài G̣n kể lại diễn tiến cuộc hành quân và trả lời những câu hỏi. Trong dịp này Đại Tá Điềm đă dành cho phóng viên chiến trường Nguyễn Đức Hiếu của nhật báo Tiền Tuyến một cuộc phỏng vấn về những chi tiết liên quan đến các trận ác chiến đẫm máu ở Căn Cứ Lolo chỉ mới diễn ra trong tuần lễ trước. Sau đây là nguyên văn bài viết của phóng viên Tiền Tuyến Nguyễn Đức Hiếu dưới tựa đề :

    10.000 CỘNG QUÂN BỊ ĐÁNH TAN TÁC TẠI CĂN CỨ LOLO

    Sự “xuất hiện” đột ngột của ông giữa thủ đô đông người đă cho thấy những tin tức báo chí loan tải nói rằng Đại Tá Điềm đă chết chỉ là tin thất thiệt. Dưới đây là những lời thuật xác thực nhất của những người từ chiến trường Hạ Lào trở về.

    Căn Cứ Lolo nằm trên một ngọn đồi với cao điểm 744, ở cách Khe Sanh 43 cây số về phía Tây, cách Tchépone 12 cây số về phía Đông, cách Quốc Lộ 9 khoảng 4 cây số về phía Nam và cách Đường Hồ Chí Minh 914 về phía Bắc 8 cây số. Với vị thế chiến lược quan trọng này, Căn Cứ Lolo được thiết lập ngày 1.3.1971, do Trung Đoàn 1 Bộ Binh lănh nhiệm vụ trấn giữ để làm nhịp cầu giao tiếp giữa Khe Sanh với Tchépone. Bị thảm bại nặng nề và để Tchépone lọt vào tay Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, Bắc Việt coi như một sự sĩ nhục đau đớn nên quyết tâm rửa hận : bằng cách huy động trên mười ngàn quân kéo đến bao vây Căn Cứ Lolo với ư định bằng đủ cách “triệt hạ” cho được căn cứ này để “ăn tươi nuốt sống” Trung Đoàn 1 Bộ Binh hầu tạo tiếng vang mới. Đồng thời Bắc Việt cũng muốn cắt đứt mọi hiệu năng tiến quân yểm trợ của Việt Nam Cộng Ḥa tại chiến trường Hạ Lào.

    Cộng quân đă cố gắng thực hiện ư định “quyết tâm diệt gọn” Trung Đoàn 1 Bộ Binh, và chiếm Căn Cứ Lolo để làm bàn đạp uy hiếp Sophia nằm cách đó trên đường đi đến Tchépone, nên huy động các đơn vị chủ lực Bắc Việt như Sư Đoàn 9, Trung Đoàn 812, Tiểu Đoàn K 8 và nhiều đơn vị hậu cần của Sư Đoàn 2 Thép Bắc Việt từ Nam Ngăi kéo về bao vây. Ngoài ra, địch quân c̣n tăng cường thêm các đơn vị thiện chiến để mở trận đánh khốc liệt vào Căn Cứ Lolo. Lực lượng địch được huy động đến bao vây Căn Cứ Lolo được mô tả là đông gấp bốn lần Trung Đoàn 1 Bộ Binh của Việt Nam Cộng Ḥa. Đại Tá Điềm nhấn mạnh, tuy lực lượng địch đông đảo như vậy, nhưng sau bốn ngày ác chiến với Trung Đoàn 1 Bộ Binh đă bị đánh tan tác nên không c̣n giữ nổi áp lực nặng quanh Căn Cứ Lolo. Có ít nhất là một trung đoàn Bắc Việt trên 1.000 tên đă bị bắn hạ quanh căn cứ, trong lúc Trung Đoàn 1 Bộ binh số thương vong được ghi nhận trên 100 người.

    Những trận ác chiến đẫm máu nhất được diễn ra liên tiếp trong suốt hai ngày liền. Đó là ngày 15 và 16.3.1971. Cộng quân đă mở nhiều đợt xung phong đánh cận chiến với chiến sĩ Trung Đoàn 1 Bộ Binh. Bị đánh tan áp lực này, địch quân lại tạo lực áp lực khác bằng những cuộc pháo kích các loại đạn đại bác hạng nặng 122 ly và 152 ly vào vị trí đóng quân của Trung Đoàn 1 Bộ Binh và xung quanh Căn Cứ Lolo. Trước hỏa lực pháo của cộng quân quá mạnh mẽ, Đại Tá Điềm đă nhờ đến sự can thiệp của Không Quân trực sẵn để triệt hạ những ổ đại bác nặng của địch trong trường hợp bị chúng pháo kích bất ngờ. Ngoài ra các ổ trọng pháo 175 ly của ta đặt ở Lao Bảo cũng đă phản pháo thật chính xác, đă làm câm họng những khẩu đại bác của địch ngay khi chúng pháo mấy tràng đầu sang các vị trí đóng quân của Trung Đoàn1 Bộ Binh. Lấy độc trị độc đă được Đại Tá Điềm áp dụng như một ngón đ̣n sở trường trên chiến trường Hạ Lào, đă có một kết quả hữu hiệu ở ngay tại mặt trận Lolo.

    Trong những ngày trấn giữ Căn Cứ Lolo, Đại Tá Điềm cho biết sau những lần các toán thám sát của Đại Đội 1 Trinh Sát Trung Đoàn phát hiện lực lượng địch quân đông đảo ở cách Căn Cứ Lolo 5 cây số và cách đơn vị bạn chừng 500 thước. Đại Tá Điềm liền xin cho gọi pháo đài bay chiến lược B 52 đến dội bom tiêu diệt địch quân trước khi mở cuộc hành quân lục soát mục tiêu. Đại Tá Điềm nói rơ là tuy đơn vị của ta chỉ cách địch có 500 thước nhưng ông vẫn đưa tin lên thượng cấp cho pháo đài bay oanh kích, nhờ vậy mới có kết quả hữu hiệu. Đại Tá Điềm tiết lộ là trong những trường hợp như vậy, ông đă báo cáo với thượng cấp là các đơn vị của ông c̣n cách xa nơi sẽ bị dội bom ít nhất trên một cây số. Nhưng trên thực tế chỉ cách có 500 thước. Đại Tá Điềm bày tỏ :”Những trường hợp như vậy, chúng tôi phải gánh lấy phần rủi ro do B 52 gây nên. Nhưng những pháo đài bay chiến lược này đă hoạt động rất hữu hiệu và không gây tổn thất nào cho đơn vị chúng tôi”. Dịp này Đại Tá Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 1 Bộ Binh cũng đă mô tả hoạt cảnh của lúc pháo đài bay B 52 oanh kích mục tiêu địch quân, ông nói :”Nh́n B 52 dội bom, thấy chân tay cộng quân văng rải rác, những xác người tung cao lẫn trong tiếng bom đạn nổ vang rền, khói bụi mù mịt cùng cây cối bay tung tóe”. Ngoài ra, có nhiều cán binh cộng sản gần nơi dội bom cũng bị thương tích trầm trọng, bị dập nát tạng phủ, miệng ra máu và sau cùng phải chết dần ṃn. Đại Tá Điềm đưa ra một thí dụ là tại Căn Cứ Lolo, sau khi B 52 dội bom cày nát mục tiêu địch, ông ra lệnh cho các cánh quân tiến vào lục soát và đă bắt sống 5 tù binh bị trúng B 52 nhưng chưa chết, miệng trào máu rỉ rả trông thật thê thảm. Trước t́nh cảnh đó, các Y sĩ trưởng trong đơn vị quân ta đă tận t́nh săn sóc vết thương cho họ nhưng cũng đành bó tay, không sao cứu thoát họ khỏi tay tử thần.

    Trong phần tŕnh bày diễn tiến của cuộc hành quân do đơn vị ông đảm nhiệm, Đại Tá Điềm cho biết Trung Đoàn 1 thuộc Sư Đoàn 1 Bộ Binh được lệnh đánh sang Lào từ ngày 8.2.1971 nhắm vào binh trạm 41 và Trung Đoàn 141 cộng quân. Nhưng đến ngày 3.3.1971 Trung Đoàn được lệnh tấn công vào Lolo và Liz để làm đầu cầu cho một đơn vị bạn tiến chiếm Tchépone. Đến ngày 8.3.1971 Trung Đoàn 1 nhận lệnh đánh sang phía Đông và đến ngày 11.3.1971 được lệnh triệt thoái về Việt Nam. Đề cập đến việc Trung Đoàn 1 Bộ Binh phải triệt thối ra khỏi Căn Cứ Lolo sau những ngày giao chiến đẫm máu với cộng quân tại đây, Đại Tá Điềm đă khẳng định rằng việc rời bỏ căn cứ này là một cuộc triệt thoái chiến thuật, chứ không phải v́ áp lực của địch quân mà quân ta phải rút lui như dư luận đồn đăi. Ông nói thêm nếu bị áp lực của cộng quân mà triệt thoái, th́ công cuộc triệt thoái này khó ḷng thực hiện được như mong muốn, và nếu có thực hiện được, cũng sẽ bị tổn thất nặng nặng nề. Đại Tá Điềm cho hay cuộc triệt thoái khỏi Căn Cứ Hỏa Lực Lolo không bị một tổn thất nào, ngoại trừ ta phải bỏ lại 4 khẩu đại bác 105 ly và 2 khẩu 155 ly để tránh thiệt hại cho trực thăng cũng như phi hành đoàn.

    Trả lời một câu hỏi về việc thiết lập các căn cứ hỏa lực có cần phải là cố định không, Đại Tá Điềm nói rằng việc thiết lập căn cứ yểm trợ hỏa lực chỉ là những nhu cầu chiến thuật, chứ không phải là những căn cứ cố định. Ông giải thích :”Khi một cuộc hành quân mở ra trong một vùng nào, th́ ta phải nghĩ ngay đến việc lập những căn cứ yểm trợ hỏa lực để yểm trợ cho cuộc tiến quân canh pḥng, cũng như quấy phá địch quân. Một khi cuộc hành quân chấm dứt, đương nhiên các căn cứ yểm trợ hỏa lực này cũng được hủy bỏ luôn”.

  4. #4
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    SƯ ĐOÀN 1 BỘ BINH
    CUỘC HÀNH QUÂN
    LAM SƠN 719
    P2



    Tiểu Đoàn Hoàng Măo được tuyên dương

    Một tiểu đoàn của Trung Đoàn 3 Bộ Binh sau cuộc hành quân Lam Sơn 719 đă được b́nh chọn là đơn vị xuất sắc nhất của Sư Đoàn 1 Bộ Binh. Đó là Tiểu Đoàn 2/ 3 và người anh cả của chiến sĩ Tiểu Đoàn, Thiếu Tá Hoàng Măo. Thiếu Tá Hoàng Măo, người được báo chí mô tả là một trong những sĩ quan tài ba và dũng cảm nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, tốt nghiệp Khóa 20 Vơ Bị Đà Lạt. Thiếu Tá Hoàng Măo sinh năm 1942 tại Thừa Thiên, đời binh nghiệp của ông đến thời điểm 1971 được tô điểm bằng 17 Anh Dũng Bội Tinh Với Nhành Dương Liễu, cộng thêm hai Bảo Quốc Huân Chương Đệ Tứ Đẳng và Đệ Ngũ Đẳng.

    Tiểu Đoàn 2/ 3 lừng tiếng bách thắng trong nhiều năm trên các chiến trường đỏ lửa nhất vùng hỏa tuyến. Trong cuộc hành quân Lam Sơn 719, Tiểu Đoàn 2/ 3 lănh sứ mệnh tiên phong nhảy xuống đường ṃn Hồ Chí Minh. Dưới quyền điều động của người hào kiệt Hoàng Măo, Tiểu Đoàn 2/ 3 đánh thiệt hại nặng nhiều đơn vị địch, phá hủy hàng chục xe vận tải Molotova, dẫm nát hàng trăm tấn quân dụng, đạn dược của chúng. Quân cộng phản ứng mănh liệt, Trung Đoàn 44 cộng sản Bắc Việt được điều tới bao vây Tiểu Đoàn 2/ 3 suốt 24 ngày giữa rừng già, với một t́nh thế hết sức nguy ngập. Quân số địch đông ấp năm lần quân số quân ta, đạn dược Tiểu Đoàn đă dần kiệt quệ. Nhưng với người chiến sĩ Sư Đoàn 1 Bộ Binh, c̣n nắm chắc tay súng, c̣n một hơi thở, th́ các anh c̣n chiến đấu đến kỳ cùng. Giặc không biết là chúng đang chạm với Tiểu Đoàn Hoàng Măo, tiểu đoàn cứng như thép của Trị Thiên. Trong một t́nh thế tuyệt vọng giữa ṿng vây cường kích của giặc như vậy mà Thiếu Tá Hoàng Măo cùng các sĩ quan, hạ sĩ quan chỉ huy đă b́nh tĩnh gỡ dần những nút thắt trùng điệp, đă chuyển bại thành thắng. Chẳng những đơn vị thoát khỏi ṿng lửa đạn mà c̣n lật ngược thế cờ tiêu diệt hơn 300 cộng quân. Chung quanh hầm hố giao thông hào của quân ta, các cán binh cộng sản nằm la liệt, vắt vẻo trong mọi tư thế kinh hoàng. Tiểu Đoàn 2/ 3 cùng Trung Đoàn 3 Bộ Binh trở về Việt Nam trong tư thế hào hùng. Dù thành quả của toàn chiến dịch c̣n nhiều hạn chế chưa được như mong muốn như kế hoạch, đại quân Quân Đoàn I chỉ có 17.000 tay súng, một quân số ít ỏi rất trái với nguyên tắc căn bản của tấn công, là lấy số đông đè bẹp số ít. Người chiến sĩ VNCH đă làm nên chuyện phi thường, là lấy số ít đánh tan nát số đông địch. Binh cần tinh nhuệ không cần đông.

    LAM SƠN 720 VÀ LAM SƠN 810

    Trở về vùng địa đầu chưa được mấy nỗi, th́ Trung Đoàn 3 nhận lệnh tham dự cuộc Hành Quân Lam Sơn 720. Thiếu Tá Hoàng Măo và chiến sĩ Tiểu Đoàn 2/ 3 được giao cho nhiệm vụ đánh ngọn đồi mang tên Động A Tây do Trung Đoàn 6 Bắc Việt chiếm giữ . Ngọn đồi Động A Tây là nơi đă xảy ra nhiều trận giao tranh ác liệt giữa quân địch với nhiều đơn vị khác của Sư Đoàn 1 Bộ Binh và Thủy Quân Lục Chiến. Thiếu Tá Hoàng Măo, bằng mọi cách phải đánh chiếm Động A Tây, không cho phép Trung Đoàn BV chốt trên đó thêm một ngày nào nữa. Nhiệm vụ thật khó khăn v́ chốt địch rải dầy đặc trên cao điểm. Đơn vị địch quyết tử thủ để bảo vệ bộ chỉ huy Trung Đoàn 6 của chúng. Trận đánh giữa Tiểu Đoàn 2/ 3 và Trung Đoàn 6 BV khởi diễn từ 7 giờ 30 sáng ngày 26.5.1971. Quân Tiểu Đoàn Hoàng Măo xác định đánh, và đánh là phải thắng. Các chiến sĩ Trung Đoàn 3 Bộ Binh quần thảo với địch không mệt mỏi suốt 48 tiếng đồng hồ. Quân ta siết chặt gọng kềm từ hai hướng Bắc và Nam. Giờ thứ 49 những người lính tiền phong khinh binh của ta đă cắm ngọn Cờ Vàng Việt Nam Đại Nghĩa trên ngọn Động A Tây. Quân giặc tháo chạy tán loạn trước những kỹ thuật diệt chốt và đánh cận chiến thần sầu của chiến sĩ Sư Đoàn 1 Bộ Binh. Chúng kinh hoàng đến nỗi không kịp mang theo 150 xác đồng bạn. Tưởng cũng nên nhớ lại, Tiểu Đoàn 2/ 3 là đơn vị từng đánh chiếm Thành Nội và dựng cờ tại Kỳ Đài Phú Văn Lâu đầu xuân Mậu Thân 1968.

    Đại Đội Hắc Báo

    Nhưng đơn vị chủ lực của Lam Sơn 720 chính là 260 chiến sĩ của Đại Đội Hắc Báo. Quân số Đại Đội do các Trung Đoàn cung cấp nhưng vẫn nằm dưới sự quản trị của các Trung Đoàn. Những vị chỉ huy Hắc Báo đều là những sĩ quan ngoại hạng của Sư Đoàn 1 Bộ Binh. Đại Đội Hắc Báo được thành lập trong năm 1964 do nhu cầu của t́nh h́nh ḍi hỏi, với danh xưng đầu tiên là Lực Lượng Hành Động Cấp Thời. Chiến sĩ Hắc Báo chiến đấu dũng mănh, kỷ luật nghiêm minh và rất được ḷng dân, thường được dân chúng vùng hỏa tuyến xem như là “những người bảo vệ Huế”. Nhiệm vụ của Lực Lượng Hành Động Cấp Thời là luôn sẵn sàng tiếp viện cho các đơn vị bạn ngoài mặt trận. Những lúc rỗi rănh th́ đi hộ tống những đoàn xe Quân Vận chở quân trang, đạn dược, tiếp liệu đồn trú ở phía Bắc Đèo hải Vân, khoảng đường từ Lăng Cô lến Đông Hà, Quảng Trị. Quân số Hắc Báo lên đến sáu trung đội và được luân phiên nhau đi thụ huấn chuyên nghiệp tại trại Evans nằm trong khuôn khổ chương tŕnh của Trung Đoàn 75 Biệt Động Quân Hoa Kỳ. Chiến sĩ Hắc Báo được huấn luyện kỹ thuật đánh cận chiến rất kỹ lưỡng. Theo cung từ của tù binh Bắc Việt, th́ các đơn vị cộng quân rất ngại đánh xáp lá cà với lính Hắc Báo, nên chúng chỉ có thể đánh lén hay đánh từ xa, khi thấy không êm th́ chém vè.

    Mỗi chiến sĩ Hắc Báo ngoài huy hiệu Sư Đoàn 1 Bộ Binh mang trên vai áo trái, các anh rất hănh diện đeo trên túi áo phải phù hiệu h́nh tam giác, ở giữa thêu đầu con Báo Đen và hai chữ “Hắc Báo”. Mỗi một chiến sĩ Hắc Báo là một chuyên viên sử dụng bản đồ và địa bàn, tương tự như các chiến sĩ Mũ Xanh 81 Biệt Cách Nhảy Dù. Chiến sĩ Hắc Báo chiến đấu theo cấp trung đội, tấn công chớp nhoáng các vị trí địch trong lănh thổ Quân Khu I. Thông thường chiến sĩ Hắc Báo vận trang phục thay đổi như sau :

    - Thứ Hai và Thứ Ba : quân phục xanh màu ô liu.

    - Thứ Tư, Thứ Năm và Thứ Sáu : quân phục ngụy trang (camouflag) rằn ri màu lá cây rừng như của Nhảy Dù hay Biệt Động Quân.

    - Thứ Bảy và Chúa Nhật : Đồ vải đen.

    Là một trong những đơn vị xung kích ṇng cốt của Sư Đoàn 1 Bộ Binh trong cuộc hành quân Lam Sơn 720, Đại Đội Hắc Báo dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tá Hoàng Đoàn, ngày 8.6.1971 đă nhận lệnh làm một cuộc nhảy đột kích thần tốc vào căn cứ hậu cần của Mặt Trận 7 cộng sản Bắc Việt trên vùng biên giới Việt-Lào phá hủy 3 xe Molotova và 12 tấn đạn dược của địch. Ngày 26.6.1971, Đại Đội Hắc Báo chuyển hướng tấn công vào Binh Trạm 106 tại thung lũng Ashau. Trận đánh chớp nhoáng đă được kết thúc nhanh chóng gây thiệt hại nặng cho địch. Cũng chính đơn vị ưu tú này của Sư Đoàn 1 Bộ Binh trong cuộc hành quân Lam Sơn 719 đă hai lần được điều động đột kích bất ngờ vào khu rừng thông, nơi đồn trú của bộ chỉ huy Quân Khu Trị Thiên của cộng quân ngày 31.3.1971, và bản doanh của bộ chỉ huy Trung Đoàn 812 BV gây kinh hoàng bất an trong ḷng mật khu giặc. Chỉ cách cuộc hành quân Lam Sơn 720 hai tuần trước, trong Lam Sơn 719, ngày 7.3.1971, một ngày sau khi Thiếu Tá Huế và chiến sĩ Tiểu Đoàn 2 của ông nhảy vào Tchépone, th́ chiến sĩ Hắc Báo được lệnh trực thăng vận khẩn cấp đến khu vực băi đáp Bản Đông gần Căn Cứ Hỏa Lực A Lưới để t́m cứu một toán phi hành trực thăng Hoa Kỳ bị quân cộng bắn rớt hai ngày trước. Hơn hai trăm chiến sĩ Hắc Báo vừa nhảy xuống Bản Đông đă bị quân phục sẵn của địch chận đánh dữ dội. Tội nghiệp cho những cán binh Bắc quân, họ không biết đang đối đầu với những ai. Chỉ trong khoảng thời gian ngắn, với con số chiến thương rất nhỏ, Đại Đội Hắc Báo thanh toán đẹp đẽ đối phương với 60 cán binh Bắc Việt phút chốc đă trở thành “liệt sĩ”, tịch thu 30 vũ khí đủ loại, rồi ung dung dẫn đoàn phi hành Mỹ mặt mũi tái xanh như tàu lá lên phi cơ về Khe Sanh an toàn. Những người bạn Mỹ đă không tiếc lời khen ngợi mức độ chiến đấu gan ĺ đến phi thường của người lính Việt Nam. Sư Đoàn 101 Không Kỵ Nhảy Dù Hoa Kỳ, lực lượng yễm trợ hỏa lực chính yếu của những cuộc hành quân Lam Sơn, khi có những công tác cấp cứu đặc biệt bao giờ cũng xin đích danh Đại Đội Hắc Báo.

    Cuộc hành quân Lam Sơn 810 mở màn với trận đánh đột kích của Đại Đội Hắc Báo ngày 12.9.1971 vào một vị trí địch cách Khe Sanh 19 cây số về hướng Tây Bắc, các biên giới Lào chừng một cây số rưỡi. Trong cuộc đột kích chớp nhoáng này quân Hắc Báo đă tịch thu được 4 đại pháo 122 ly ṇng dài đến 5m 70. Đây là những khẩu đại pháo giết người cộng sản vừa nhận được viện trợ của khối cộng sản. Đại pháo 122 ly do Liên Sô chế tạo có đặc tính như sau. Nặng 6.575 kí lô, sơ tốc 914 m một giây, tầm bắn ṿng cung xa đến 21 cây số 900. Như vậy pháo 122 ly đă vượt trội và chiếm ưu thế khoảng cách so với pháo 105 ly (9 cây số) và pháo 155 ly (15 cây số) của quân Cộng Ḥa. Viên đạn đại pháo 122 ly rất dài, vỏ đạn dài 784 mm, đầu đạn dài đến 602 mm. Viên đạn nặng 41 kí, nhịp độ tác xạ 6 viên một phút. Mỗi khẩu 122 ly của địch cần 10 pháo thủ, không kể lực lượng an ninh và khuân vác. Cộng quân đă ngụy trang và bảo vệ những khẫu đại pháo này rất cẩn thận. Nhưng chúng đă nhanh chóng bỏ chạy tháo thân ngay những phút đầu tấn công ồ ạt của những con Báo Đen. Những khẩu pháo gớm ghiếc này nếu giặc kéo được xuống vùng cận sơn Trị Thiên, th́ chắc sẽ gây rất nhiều chết chóc cho dân chúng, khi chúng pháo kích bừa băi vào các làng mạc, thị trấn. Điều mà chúng sẽ làm trong mùa hè 1972. Ba ngày sau, quân Hắc Báo lại nhảy xuống một địa danh thật xa lạ người hậu phương chưa từng nghe biết là Nguồn Rào, một địa điểm cách biên giới Việt-Lào 12 cây số về phía Đông đă phá hủy kho tiếp liệu H 6 khổng lồ của cộng sản.

    Theo Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh kiêm Tư Lệnh Lam Sơn 810, cuộc hành quân này đă thâu đạt kết quả tốt. Trong vùng kiểm soát của các cánh quân từ Quốc Lộ 9 cho đến biên giới Việt-Lào không có một lực lượng địch quân nào đáng kể. Ảnh hưởng vụ lụt miền Bắc làm vận chuyển tiếp liệu khó khăn, dưới sức tiến mạnh mẽ của Sư Đoàn 1 Bộ Binh, các đơn vị cộng quân buộc phải tháo lui qua biên giới và rút về Bắc sớm hơn. Binh đội cộng sản cần một thời gian dài mới trở lại vùng biên giới được. Thiếu Tướng Phú đă dự đoán đúng, phải cần đến gần bảy tháng, với quân viện Nga Tàu ùn ùn đổ vào miền Bắc vô giới hạn, Hà Nội mới có thể mở cuộc đại tấn công đầu mùa hè 1972. Cuộc chiến mùa hè 1972 quá khốc liệt, với tất cả mọi khía cạnh đẫm máu và đau thương của chiến tranh, nên người lính-nhà văn Phan Nhật Nam đă mệnh danh nó là Mùa Hè Đỏ Lửa. Trận quyết chiến giữa Sư Đoàn 1 Bộ Binh và các đơn vị hùng hậu địch sẽ được mô tả trong những trang chiến sử dưới một khía cạnh khác thậm chí c̣n khốc liệt hơn Lam Sơn 719.

    PHẠM PHONG DINH

  5. #5
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    SƯ ĐOÀN 1 BỘ BINH
    Trận Đánh Tại Cồn Tiên 1967



    Sau khi bị liên quân Việt-Mỹ đánh bại trong trận chiến Hè-Thu năm 1966 tại phía Nam sông Bến Hải, Bắc Việt phải rút quân về hướng Tây Bắc Quảng Trị và tiến hành các cuộc tấn công quấy rối ở khu vực Khe Sanh và quận Cam Lộ.

    Đêm 20 tháng 3/1967, cuộc chiến tại vùng giới tuyến đă bùng nổ trở lại khi Bắc Việt pháo kích dữ dội vào một căn cứ hỏa lực Hoa Kỳ gần quận lỵ Gio Linh, cách cầu Hiền Lương khoảng 6 km đường chim bay. Cũng trong đêm này, họ mở trận hỏa công vào vị trí đóng quân của các tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) Hoa Kỳ và đơn vị thuộc Trung Đoàn 2 Bộ Binh (BB) Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH) chung quanh Cồn Tiên và Gio Linh.

    Ngày hôm sau, Cộng quân phục kích một đoàn xe chở đạn của Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ chỉ cách Gio Linh hơn 3 km, nơi mà trước đó vài ngày, đă diễn ra trận đụng độ ác liệt giữa một đại đội Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ và một đơn vị Cộng Sản Bắc Việt (CSBV).

    Đến ngày 6 tháng 4/1967, toàn khu giới tuyến trở thành điểm nóng, Bắc Việt điều động Sư Đoàn 324B (đă từng xâm nhập vào phía Nam sông Bến Hải trong tháng 7/1966) phối hợp cùng Sư Đoàn 341 tổng trừ bị vượt vĩ tuyến 17 tấn công cường tập vào khu vực tuyến pḥng ngự dọc bờ Nam sông Bến Hải, đồng thời đánh chiếm một đồn Cảnh Sát Quốc Gia ở phía Nam của cầu Hiền Lương, và một số xă thuộc quận Trung Lương.




    Tại mặt trận Cồn Tiên (Cồn Tiên), mùa hè năm 1967: H́nh trên, trực thăng tiếp tế súng đạn. Lính Thủy Quân Lục Chiến hợp sức khuân một khẩu đại bác 106 ly ra khỏi trực thăng.

    H́nh dưới: Một thương binh nằm trên băng ca được đồng đội đưa lên trực thăng để tải thương về hậu cứ.
    (H́nh ảnh: Vietnam Remembered).


    Trước đó vào tối ngày 5 tháng 4/1967, Cộng quân đă tấn công vào yếu khu La Vang ở phía Tây thị xă Quảng Trị, đồng thời pháo kích dữ dội vào tỉnh lỵ làm nhiều doanh trại quân sự bị hư hại nặng. Đặc công Việt Cộng đă yểm trợ để các tù binh Cộng Sản phá trại giam vượt thoát. Tại phía Nam sông Bến Hải khi trận chiến xảy ra, lực lượng Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ và Trung Đoàn 2 Bộ Binh VNCH đă kịp thời khai triểm đội h́nh, chận đứng được các đợt xung phong của quân Cộng Sản Bắc Việt.


    Ngày 7 tháng 4/1967, được sự yểm trợ về phi pháo và hải pháo, Trung Đoàn 2 Bộ Binh VNCH và các đơn vị thuộc Sư Đoàn 3 Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đă đẩy lùi các cuộc tấn công của quân Cộng Sản và giữ vững cụm tuyến Cồn Tiên và Gio Linh, làm cho lực lượng địch phải tạt lên phía Tây Bắc để tránh tổn thất.


    Theo phân tích của Đại Tướng Williams Westmoreland, Tư Lệnh Lực Lượng Hoa Kỳ tại Việt Nam vào thời gian này, th́ trận tấn công của 2 sư đoàn Cộng Sản Bắc Việt vào khu giới tuyến mang tính cách chiến lược. Cộng quân muốn chọc thủng cụm tuyến pḥng ngự của liên quân Việt-Mỹ tại vùng Phi Quân Sự (DMZ), để đánh chiếm Quảng Trị, nhưng kế hoạch của Cộng quân đă bị liên quân Việt-Mỹ vô hiệu hóa.


    Các trận giao tranh kéo dài đến giữa tháng 4/1967, trong suốt thời gian này, quân trú pḥng tại các tiền cứ đă phải “đội mưa pháo hàng ngày.” Cứ vào rạng sáng, khi tầm quan sát của phi cơ c̣n bị hạn chế, Cộng quân đă pháo như mưa vào các hào tuyến của quân trú pḥng. Nhờ có hệ thống công sự chiến đấu kiên cố, các đơn vị Bộ Binh VNCH và Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đă chịu đựng được các trận hỏa pháo của Cộng quân. Khi vừa dứt đợt pháo, Không Quân Hoa Kỳ xuất trận oanh tạc vào các mục tiêu được ghi nhận là có địch tập trung. Theo ước định của các chuyên viên t́nh báo, Sư Đoàn 324B CSBV bị thiệt hại gần 1/3 quân số.


    Từ 15 tháng 4 đến 30/4/1967, Cộng quân vẫn tiếp tục pháo kích vào các đơn vị trú pḥng. Riêng trong ngày 27 tháng 4/1967, Cộng quân đă pháo kích dữ dội vào các tiền cứ của liên quân Việt-Mỹ quanh khu vực Gio Linh bằng đại bác 105 ly do Hoa Kỳ chế tạo (đây là các đại bác bị Cộng quân lấy được trong vài trận tấn công vào căn cứ của liên quân Việt-Mỹ ở Vùng 1 Chiến Thuật).


    Vào thượng tuần tháng 5/1967, quân Cộng Sản Bắc Việt lại khởi động một đợt tấn công mới vào các căn cứ của liên quân Việt-Mỹ, bắt đầu bằng cuộc tấn công vào căn cứ Cồn Tiên vào rạng sáng ngày 7 tháng 5/1967. Lực lượng Cộng quân tham gia cuộc tấn công này là Tiểu Đoàn K2 và Tiểu Đoàn K4 thuộc Trung Đoàn 80 CSBV.


    Sau một giờ giao tranh, đơn vị Thủy Quân Lục Chiến trú pḥng đánh bật cuộc tấn công. Địch quân rút đi và để lại quanh căn cứ 238 xác bộ đội. Ngoài ra, 7 cán binh Cộng Sản bị bắt sống, 212 súng bị tịch thu cùng nhiều đạn dược. Song song với cuộc tấn công bằng bộ binh vào Cồn Tiên, Cộng quân cũng pháo kích dữ dội vào khu vực Gio Linh và Đông Hà gây tử thương cho 36 binh sĩ Hoa Kỳ và 99 người bị thương.



    H́nh chụp nh́n về phía một vọng gác nằm trên đỉnh đồi tại Cồn Tiên. Căn cứ này nằm về phía bắc tỉnh Quảng Trị.

    Và cũng như một số địa danh khác như Đông Hà, Cam Lộ, ở tuyến địa đầu, Cồn Tiên cũng nằm chung số phận bị những trận mưa pháo của Bắc quân cày nát. Trận chiến tại Cồn Tiên bắt đầu vào tháng 5/1967 và kết thúc vào cuối tháng 7/1967 khi Sư Đoàn 3 TQLC Hoa Kỳ phối hợp với Sư Đoàn 1 BB VNCH mở cuộc hành quân truy lùng địch quân và giải tỏa vùng này. (H̀NH ẢNH: Jeff Kelly)



    Mười ngày sau, sáng 17 tháng 5, một đại đội Thủy Quân Lục Chiến hành quân tuần tiểu quanh Cồn Tiên đă chạm súng với một đơn vị Cộng quân. Đại đội Thủy Quân Lục Chiến này làm chủ trận địa ngay từ phút đầu. Họ đánh tan một đại đội Cộng quân và hạ sát 96 cán binh Cộng Sản.


    Ngày 18 tháng 5/1967, để truy lùng và tấn công 3 trung đoàn Cộng Sản Bắc Việt, liên quân Việt-Mỹ đă khởi động 3 cuộc hành quân sau đây: 1) Cuộc hành quân Hickory của TQLC Hoa Kỳ đổ bộ từ các chiến hạm của Hạm đội 7, 2) cuộc hành quân Bean Charger của Bộ Binh Mỹ, 3) và cuộc hành quân Lam Sơn 54 của Sư Đoàn 1 Bộ Binh VNCH. Trong cuộc hành quân Lam Sơn 54, Sư Đoàn 1 Bộ Binh VNCH được tăng cường với 4 tiểu đoàn Nhảy Dù. Quân số của liên quân Việt-Mỹ tham dự các cuộc hành quân gồm có 15 ngàn chiến binh.


    Tuần lễ cuối cùng của tháng 5, trận chiến tiếp tục quanh căn cứ Cồn Tiên và các tiền cứ ở phía Tây căn cứ này, trong đó có trận kịch chiến suốt ngày 25/5 trên Đồi 117 cách Cồn Tiên 5 km đường chim bay. Đầu tháng 6/1967, một đại đội TQLC Hoa Kỳ bị Cộng quân tấn kích tại một vị trí cách Cồn Tiên 6 km, phía Hoa Kỳ có 13 tử thương, 63 bị thương.

    Trong tháng 6/1967, liên quân Việt-Mỹ tiếp tục khai triển ba cuộc hành quân nói trên, các đơn vị được bung rộng để truy kích địch. Trong thời gian này, hoạt động quấy rối của các đơn vị bộ đội Cộng quân đă bị lực lượng Việt Mỹ chận đứng, nhưng các trận pháo kích của đối phương vẫn tiếp diễn.

    Dù bị tổn thất nặng trong các trận tấn công vào Cồn Tiên, nhưng Cộng quân vẫn không từ bỏ mưu tính đánh chiếm căn cứ này.


    Rạng sáng ngày 2 tháng 7/1967, quân Cộng Sản Bắc Việt điều động một trung đoàn tấn công vào các vị trí tiền đồn quanh Cồn Tiên. Giao tranh diễn ra vô cùng ác liệt khi Cộng quân cố chọc thủng tuyến pḥng thủ của các đại đội TQLC Hoa Kỳ quanh căn cứ. Hỏa lực của Không quân đă yểm trợ mạnh mẽ làm cho lực lượng tấn công phải rút lui. Quân Cộng Sản 65 xác chết, phía Hoa Kỳ có 51 người tử thương, 70 bị thương, và 34 mất tích. Cũng trong ngày này, Cộng quân pháo kích dữ dội vào các căn cứ của Hoa Kỳ tại Gio Linh và Đông Hà.


    Ngày 17 tháng 7/1967, sau hai tháng liên tục truy lùng địch, liên quân Việt-Mỹ đă kết thúc ba cuộc hành quân tại giới tuyến. Tuy nhiên, để triệt tiêu áp lực của quân Cộng Sản tại phía Nam Bến Hải, ngày 17 tháng 7/1967, Sư Đoàn 3 TQLC Hoa Kỳ phối hợp với Sư Đoàn 1 Bộ Binh VNCH tổ chức cuộc hành quân Hickory 2 để truy quét Cộng quân quanh Cồn Tiên.


    Từ ngày khai diễn cuộc hành quân cho đến cuối tháng 7, nhiều trận giao tranh đă diễn ra giữa các đơn vị Việt Mỹ và các tiểu đoàn Cộng Sản Bắc Việt, trong đó có trận kịch chiến kéo dài suốt ngày giữa TQLC Hoa Kỳ và Cộng quân cách Cồn Tiên 5 km về phía tây bắc.


    Trong thời gian trận chiến ở vùng Phi Quân Sự diễn ra ác liệt, Đại Tướng Westmoreland đă nhiều lần bay ra Quảng Trị để thị sát t́nh h́nh. Ông cũng đă đáp xuống Cồn Tiên để thăm viếng đơn vị Thủy Quân Lục Chiến tại đây. Theo vị tư lệnh này, v́ Cồn Tiên là mục tiêu trọng điểm nên liên quân Việt Mỹ đă tạo mọi nổ lực để bảo vệ. Nhận định tổng lược về trận chiến Cồn Tiên, Đại Tướng Westmoreland đă ghi lại như sau:


    Bây giờ Cồn Tiên trở thành mục tiêu số một. Các nhà b́nh luận trên truyền h́nh và báo chí bắt đầu gọi nơi này là điểm chờ Điện Biên Phủ. Thật vậy, Cồn Tiên rất hẻo lánh, binh sĩ suốt ngày sống trong các hầm làm bằng bao cát, nh́n ra qua lỗ châu mai.
    Thời tiết tại đây cũng khắc nghiệt, thường xuyên có mưa to. Sau mỗi cơn mưa, th́ đất ngập cả bùn lầy, trời vẫn ảm đạm. Có lần tôi đi trực thăng thăm. Phi công vừa cho trực thăng chạm đất th́ đạn pháo kích ùa tới. Tôi không làm sao ra được. Một binh sĩ TQLC nói với tôi, “Thưa đại tướng, Việt Cộng nó biết ông đến đó.” Thật vậy, sau nhiều lần bị áp lực chiến trường đè nặng, tinh thần của binh sĩ tại Cồn Tiên đă gan ĺ khiến họ có bộ óc khôi hài, chấp nhận gian khổ và chỉ c̣n biết hoàn thành nhiệm vụ.</I>
    Cùng với nỗ lực chận địch, một thành phần của Trung Đoàn 2 Bộ Binh VNCH đă phối hợp cùng Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ và Cảnh Sát Quốc Gia tỉnh Quảng Trị đă đưa được hơn 13 ngàn ngàn đồng bào tại hai quận Trung Lương và Gio Linh về tạm cư tại Cam Lộ. Để phối hợp các hoạt động cứu trợ, Thiếu Tướng Hoàng Xuân Lăm (lên trung tướng tháng 7/1967) –Tư Lệnh Vùng 1 Chiến Thuật– đă cử Đại Tá Đỗ Kiến Nhiễu trực tiếp điều hợp và giám sát trại tạm cư. (Tháng 6 năm 1968 Đại Tá Nhiễu được cử làm đô trưởng Saigon. Hai năm sau ông được thăng cấp chuẩn tướng).


    Cuộc tấn công của 2 sư đoàn Cộng Sản Bắc Việt ở khu giới tuyến đă gây chấn động dư luận trong nước và quốc tế. Ngay sau khi cuộc chiến xảy ra, trong dịp chủ tọa lễ măn Khóa 23 Sĩ Quan Trừ Bị Trường Bộ Binh, Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu –lúc ấy là Chủ Tịch Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia– đă lên tiếng tố cáo Cộng Sản Bắc Việt trắng trợn vi phạm Hiệp định Genève khi họ xua quân vượt sông Bến Hải.


    Vương Hồng Anh


    "[At the battalion aid station], the doctor had only a few minutes to stop the hemorrhaging and to clean away the mud. He worked under flashlights--an exploding rocket had knocked out the power plant, once again. [Cồn Tiên, September/October 1967.]" War Without Heroes, p. 78.


    "In between monsoon rainstorms, when the heat and humidity became too oppressive, the Marines found survival itself almost intolerable within the acrid shell of their own sweat and red dust. So they stripped and waded into the nearest natural bathtub . . . They stripped, that is, except for helmet, flak jacket and boots, which after a few weeks on that shrapnel-saturated Vietnamese hillside were viewed as perfectly normal parts of every man's body. [Cồn Tiên, September/October 1967.]" War Without Heroes, p. 86.


    [IMG]One man was black--one was white; the endless nights and days, the rain-flooded trench, constant enemy shelling, cigarettes, and the grim life which they shared were the same. [Cồn Tiên, September/October 1967.]" War Without Heroes, p. 97.[/IMG]


    U.S. Marine inside the cone of fire at Con Thien, September/October 1967.

  6. #6
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Ảnh sưu tầm 42 năm cuộc hành quân hạ Lào "Lam Sơn 719"


    Đúng 7 giờ 00 phút sáng ngày 8 tháng 2, các chiến xa cùng quân Dù tùng thiết thuộc Chiến Đoàn 1 Đặc Nhiệm vượt biên giới Lào-Việt trên đường số 9 gần Lao Bảo dưới sự yểm trợ của các trực thăng vơ trang thuộc Sư Đoàn 101 Không Kỵ Hoa Kỳ, chính thức mở đầu cuộc hành quân Lam Sơn 719. Khoảng 8 giờ sáng, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu xác nhận trên đài phát thanh Saigon.

    “…Đây là một cuộc hành quân có giới hạn trong thời gian lẫn không gian, với mục tiêu duy nhất và rơ rệt là phá vỡ hệ thống tiếp vận và xâm nhập của Cộng Sản Bắc Việt trên phần đất Lào mà chúng đă chiếm đóng và xử dụng từ nhiều năm nay để tấn công vào Việt Nam Cộng Ḥa của chúng ta. Ngoài ra, Việt Nam Cộng Ḥa không có một tham vọng đất đai nào tại Lào và không khi nào xen vào nội bộ chính trị của vương quốc Lào v́ Việt Nam Cộng Ḥa luôn luôn tôn trọng nền độc lập và sự vẹn toàn lănh thổ của vương quốc Lào…”






    Bản đồ hành quân


    Trực thăng vận.


    Các Binh sĩ VNCH tại Khe Sanh đang chờ để được trực thăng bốc vào đất Lào lúc mở màn cuộc hành quân Lam Sơn 719, ngày 8-2-1971


    Đại tá Hồ Trung Hậu tư lệnh phó Sư đoàn Nhảy Dù, được thăng chuẩn tướng tháng 3/1971, sau khi cuộc hành quân Lam Sơn 719 kết thúc với tấm bản đồ hành quân trên tay.



    Binh sĩ Việt và các cố vấn Mỹ được di chuyển trên xe GMC trong chiến dịch Dewey Canyon II, theo kế hoạch của cuộc hành quân Lam Sơn 719, nhằm mở lại và nắm giữ Đường 9, tái chiếm đóng căn cứ Khe Sanh làm căn cứ tiếp vận tiền phương .

  7. #7
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Ảnh sưu tầm 42 năm cuộc hành quân hạ Lào "Lam Sơn 719"



    Xe tăng quân lực VNCH vừa qua khỏi làng Vei, Tấm nylon màu cam phủ trên đầu các xe tăng nhằm giúp các máy bay trên cao phân biệt rơ với xe tăng của VC.


    Đoàn quân xa đang tiến vô đất Lào.






    Một con đường phụ chạy song song QL9 vừa được lính công binh Hoa kỳ xây dựng nhằm phục vụ cuộc hành quân Lam Sơn 719 , trong ảnh cho thấy địa thế con đường nḥ rất hiểm trở.




    Không ảnh đoàn xe của Lữ đoàn 1 thiết giáp đang trên đường QL 9 đến căn cứ Anpha

  8. #8
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Ảnh sưu tầm 42 năm cuộc hành quân hạ Lào "Lam Sơn 719"




    Đoạn đường mới mở gần căn cứ Bravo




    Băi đáp LoLo ,đặt theo tên nữ diễn viên nổi tiếng người Ư


    Băi đáp Sophia


    Xác 1 xe tăng T-54 của VC bị bắn cháy bên vệ đường


    Dọn băi : trái bom phát quang được cho nổ từ trên cao nhằm tránh tạo hố sâu trên mặt đất


    Và 1 băi đáp đă được dọn xong giữa rừng già hạ Lào

  9. #9
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Ảnh sưu tầm 42 năm cuộc hành quân hạ Lào "Lam Sơn 719"







    Trung Tướng Hoàng xuân Lăm đến thăm các binh sĩ trước khi xuất kích


    1 binh sĩ ưu tư trước lúc đi vào vùng lửa đạn


    Phút nghỉ ngơi gần căn cứ Anpha




    Chuẩn bị cho trận đánh

  10. #10
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Ảnh sưu tầm 42 năm cuộc hành quân hạ Lào "Lam Sơn 719"




    Công binh Mỹ giúp làm đường dă chiến


    Con đường do Lực lượng Công binh vừa làm xong








Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 4 users browsing this thread. (0 members and 4 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 41
    Last Post: 17-03-2013, 12:27 AM
  2. Replies: 0
    Last Post: 03-12-2012, 02:59 AM
  3. Replies: 5
    Last Post: 12-04-2012, 02:14 PM
  4. Replies: 3
    Last Post: 01-08-2011, 07:33 AM
  5. PHẬT NGỌC HOÀ B̀NH - PHẬT TỬ BẤT B̀NH.
    By Hoang Le in forum Tin Cộng Đồng
    Replies: 7
    Last Post: 18-10-2010, 02:40 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •