Tác giả bài thơ 'Chiều trên phá Tam Giang', nhà thơ Tô Thùy Yên, một trong những nhà thơ lớn nhất của miền Nam trước 1975, vừa qua đời ở Houston, tiểu bang Texas, hưởng thọ 81 tuổi.
Tin về sự ra đi của nhà thơ lan nhanh trên mạng trong ngày thứ Tư 22/5/2019. Tên thật là Đinh Thành Tiên, Tô Thùy Yên sinh năm 1938 tại G̣ Vấp, Gia Định, là cựu học sinh trường Petrus Kư và trường tư thục Les Lauriers, ông từng theo học Đại học Văn Khoa Sài G̣n, ban Văn chương Pháp.
Làm thơ từ năm 16, 17 tuổi, Tô Thùy Yên được ca tụng là một trong “tứ trụ của thi ca miền Nam” cùng với Bùi Giáng, Thanh Tâm Tuyền, và Nguyễn Đức Sơn.
Năm 1956, cùng với nhà thơ Thanh Tâm Tuyền, nhà văn Mai Thảo và các họa sĩ Duy Thanh, Ngọc Dũng, ông sáng lập một nhóm sáng tác mang tên Sáng Tạo, được biết đến với phong trào khai sinh "thơ tự do" ở miền Nam vào thập niên 1960.
Trao đổi với VOA-Việt ngữ, nhà thơ Du Tử Lê cho biết đă từng làm việc với ông Tô Thùy Yên tại Cục Tâm lư chiến ở Saigon. Ông nói:
Nhà thơ Tô Thùy Yên (1938-2019) trong tranh của họa sĩ Đinh Cường (1939-2016)
“Thứ nhất, đó là một tiếng thơ lớn của miền Nam, thứ hai, đó là một người rất là nguyên tắc. Thời gian anh ở trong quân đội, anh là người rất là kỷ luật, thăng tiến rất là nhanh. Chức vụ sau cùng của anh là Thiếu Tá, Trưởng Pḥng Văn nghệ của Cục Tâm lư chiến.”
Trong những tác phẩm gắn liền với tên tuổi của Tô Thùy Yên, phải nhắc đến bài thơ “Chiều trên phá Tam Giang”, được nhạc sĩ Trần Thiện Thanh phổ nhạc. Một bài thơ khác có ư nghĩa lịch sử gây ấn tượng cả trước lẫn sau năm 1975 là “Trường sa hành”, sáng tác tháng 3 năm 1974, hai tháng sau ngày Trung Quốc cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa lúc từ tay Việt Nam Cộng Ḥa.
Trao đổi với VOA-Việt ngữ từ California, nhà báo Đinh Quang Anh Thái nói nhà thơ Tô Thùy Yên đă "để lại một dấu ấn lớn trong sinh hoạt văn học của miền Nam", ông nhắc tới một số bài thơ đă gây ấn tượng sâu sắc đối với ông.
“Trước năm 1975, chúng ta biết đến bài Trường Sa hành và bài Chiều trên phá Tam Giang, nhưng mà sau năm 1975, với 10 năm tù, Tô Thùy Yên lúc ông trở về, th́ bài 'Ta về' nức tiếng, trong đó có những câu như:
Ta về khai giải bùa thiêng yểm
Thức dậy đi nào, gỗ đá ơi
Hăy kể lại mười năm chuyện cũ
Một lần kể lại để rồi thôi
Câu ấy chứng tỏ cho thấy rằng ông không c̣n mang nặng chĩu một tấm ḷng thù hận hoặc oán hận một giai đoạn mà ông đă bị cực nhọc như vậy.”
Nhà báo Đinh Quang Anh Thái chia sẻ một kỷ niệm có thể nói lên được con người Tô Thùy Yên:
“Chúng tôi nhớ rằng lúc mà anh em từ Việt Nam phát động phong trào xây dựng nhà cho gia đ́nh các chiến sĩ đă hy sinh trong trận chiến Hoàng Sa năm 1974, nhà thơ Nguyễn Duy ở trong nước, tác giả của bài Từ xa nh́n tổ quốc bày tỏ thiết tha muốn mời được Tô Thùy Yên từ hải ngoại trở về, cùng với Duy làm một đêm thơ ở Saigon, đọc Trường Sa hành và Ta về th́ có lẽ sẽ thích thú lắm, anh Tô Thùy Yên có nói rằng anh muốn lắm nhưng sức khỏe không cho phép, và anh đă chép nguyên văn bài Ta Về để tặng cho chương tŕnh Nhịp cầu Hoàng Sa. Bài thơ đó đă được anh em nhóm Nhịp cầu Hoàng Sa ở Việt Nam bán đấu giá để góp tiền xây nhà cho gia đ́nh các chiến sĩ VNCH đă tử trận trong trận chiến Hoàng Sa 1974. Bây giờ ngồi nhớ lại Tô Thùy Yên th́ nhớ lại nụ cười rất hiền của một người miền Nam, nhớ lại điếu thuốc, và nhớ lại 2 câu thơ chót: “C̣n chút rượu nồng xin rưới xuống, Giải oan cho cuộc biển dâu này.”
Tô Thùy Yên đă cùng gia đ́nh sang định cư tại Saint Paul, Minnesota vào cuối năm 1993, sau đó chuyển về sinh sống tại thành phố Houston, tiểu bang Texas cho tới khi ông qua đời.
Hoài Hươn
Tô Thùy Yên, gơ cửa thiên thu
Thi sĩ Tô Thùy Yên. (Họa sĩ Phan Nguyên)
Tôi biết làm thơ từ khi c̣n rất nhỏ nhưng măi tới gần tuổi năm mươi mới thật sự đọc được thơ qua một người mà càng đọc tôi càng được mở ra những cánh cửa khác của sự mầu nhiệm từ thi ca. Người làm thơ ấy là Tô Thùy Yên, một ánh sáng khơi gợi niềm cảm hứng, một cành khô giữa rừng có khả năng giúp người đi lạc trong cơn mê muội thẳm sâu của hưng phấn t́m được lối ra, một lẻ loi của cây xương rồng giữa sa mạc có khả năng chống lại sự cô đơn mà thượng đế giao phó.
Thơ của Tô Thùy Yên được rất nhiều người yêu mến v́ chất tĩnh trong cái động của nó. Nếu 10 năm tù là trạng thái “động” của những buốt nhức của cơn đau thể xác th́ “thế giới vui từ nỗi lẻ loi” là cái tĩnh thiền đạo của một người đă hiểu tường tận nỗi lẻ loi có sinh lực như thế nào. Lẻ loi ấy chỉ có thể hiện hữu trong một tâm thế vị tha, tha thứ những hằn học, những miệt thị, những oán khí của người khác đă dành cho ḿnh. Lẻ loi v́ sẽ không có nhiều người làm được. Lẻ loi v́ tuy cúi mái đầu sương đă điểm nhưng vẫn tin vào tâm lượng của đất trời vẫn nặng trĩu niềm vui.
Niềm vui ấy Tô Thùy Yên đă t́m thấy sau khi từ giă trại cải tạo về nhà sau hơn 10 năm biệt xứ:
“Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cảm ơn hoa đă v́ ta nở
Thế giới vui từ mỗi lẻ loi.”
Chất thiền trong thơ Tô Thùy Yên có lẽ được h́nh thành từ những cơ cực mà cuộc đời ông chứng kiến. Những cái chết anh liệt nhưng thảm thương, những chia ly tràn khỏi bến bờ đau đớn, sự phân hủy cuộc sống đến vô tận đă đày ải tâm linh trước khi chính bản thân ông sụp đổ. Trong bài Qua sông ông viết:
“Áo quan phong quốc kỳ anh liệt / Niềm thiên thu đầm cỗ xe tang / Quê xa không tiện đường đưa tiễn / Nghĩa tận sơ sài, đám lạnh tanh / Thêm một chút ǵ như hối hả / Người thân chưa khóc ráo thâm t́nh...”
Những câm nín ấy vẫn ám ảnh ông nhiều năm sau trong bài Ta về, nỗi ám ảnh chiến tranh và t́nh người, một “hội chứng nghiến răng” của nhân loại: xông vào cái chết để bảo vệ ảo tưởng. Tô Thùy Yên sống và gậm nhấm thời kỳ ấy nên biết từng mùi vị của những lần hành quân đầy máu, máu của bạn bè lẫn đối phương. Máu không những đổ ra từ súng đạn nó cũng đổ ra từ tàn khốc của trại giam. Ám ảnh trở thành thói quen và Tô Thùy Yên lẩm bẩm sợ cho cơn thất lạc của chính ḿnh:
“Ta về như bóng ma hờn tủi / Lục lại thời gian, kiếm chính ḿnh / Ta nhặt mà thương từng phế liệu / Như từng hài cốt sắp vô danh”
Trong những cuộc hành quân ấy Tô Thùy Yên không ít lần thấy vẻ đẹp tiềm ẩn phía sau những quả ḿn tàn nhẫn, những bức tranh được ông phác thảo vội vă miêu tả cái mỏi mệt của thiên nhiên quyện lấy con người như một định mệnh khắc nghiệt. Con người th́ ră rời trời th́ thấp và ướt sũng, mây trên trời lục b́nh dưới sông tất cả như ḥa nhịp cho một bản nhạc buồn chỉ có chiến tranh mới có thể tạo ra được:
“Đây ngă ba sông, làng sát nước / Xuồng ba lá đậu kế chân bàn / Trời mới tạnh mưa c̣n thấp ướt / Lục b́nh, mây mỏi chuyến lang thang”
Tô Thùy Yên là một nhà thơ, đă hẳn, tuy nhiên ông c̣n là một họa sĩ thiên tài. Thơ ông đầy màu sắc quyết liệt chói chang của mặt trời, lạnh lẽo cô đơn như nước biển, và hơn cả tranh, màu sắc trong thơ ông phảng phất h́nh bóng con người. Trong “Trường sa hành”, một bài thơ quan trọng trong sự nghiệp thi ca của ông chúng ta có thể đồng ư với nhau ở điểm: màu sắc đă tạo thơ ông khác biệt vượt qua rất nhiều tác giả khác củng thời. Chỉ có điều không như hội họa, chúng ta chỉ thấy hai màu xanh lơ và đen trong cả bài thơ nhưng trong ḷng lại bùng vỡ hàng loạt những gam màu khác: Đỏ úa của mặt trời trong ánh chiều tà mà tác giả gọi là “chiều ră” Những thay đổi quang phổ của rong biển, những long lanh từ muôn vạn tầng màu làm hồn ta lay động, màu lửa cháy rực cả đào khiến chim cũng đen úa cả tiếng xao xác quần bay. Miếng mồi cháy một màu khét khói cũng không khỏi ngậm ngùi…
Trong làn nước vịnh xanh lơ mộng
Những cụm rong óng ả bập bềnh
Như những tầng buồn lay động măi
Dưới hồn ta tịch mịch long lanh
Mặt trời chiều ră rưng rưng biển
Vầng khói chim đen thảng thốt quần
Kinh động đất trời như cháy đảo...
Ta nghe chừng phỏng khắp châu thân
Ta ngồi bên đống lửa man rợ
Hong tóc râu, chờ chín miếng mồi
Nghe cây dừa ngất gió trùng điệp
Suốt kiếp đau dài nỗi tả tơi
…..
Rồi nữa, kế sau màu sắc là âm thanh. Thứ âm thanh kinh khủng của tiếng gọi không thành lời. Âm thanh bị bóp nghẹt giữa hư vô. Âm thanh rơi vào một khoảng cách đặc sệt của không gian đóng kin:
“Đất liền, ta gọi, nghe ta không? / Đập hoảng Vô Biên, tín hiệu trùng / Mở, mở giùm ta khoảng cách đặc / Con chim động giấc gào cô đơn”
Viết về Tô Thùy Yên phải cần cả cuốn sách, một vài trang giấy không những bất toàn mà c̣n hời hợt. Nhưng sự ra đi của ông nếu không thể thắp bằng đuốc để tưởng nhớ th́ đành dùng một nén nhang cũng đủ để tiển đưa ông. Trong tâm thế ấy cùng chia sẻ với những ǵ mà năm 1991 ông đă viết trong trại biệt giam 3C Tôn Đức Thắng:
Ta nằm xuống
Dỗ ḿnh hăy cố ngủ
Tập quen dần với giấc thiên thu
Hăy ngủ, ông nhé và tôi tin rằng những ǵ ông để lại thế gian này cũng thiên thu không kém….
Mặc Lâm
Bookmarks