1. Tŕnh độ văn hóa khác với bản chất văn hóa
Nói đến duy tŕ những giá trị truyền thống, phát huy văn hóa Âu Châu… ta thường gặp thấy những mối e ngại ngấm ngầm, chẳng hạn văn hóa Á Châu có tính cách tĩnh chỉ, thiếu tiến bộ, nay khôi phục lại có khỏi làm ngăn trở việc tiến gấp rút của nước nhà chăng ?
Và dưới con mắt nhiều người, những ai đang cố gắng tài bồi cho nền quốc học, chấn hưng văn hóa Đông Phương, đă không gặp được sự nâng đỡ, lại thường bị coi là lạc hậu. Đó là một t́nh trạng có hại cho tiền đồ văn học, nhưng ít người nhận ra bởi những sự kiện lớn lao chua xót đập vào mắt, tức là t́nh trạng các dân tộc Á Châu v́ chậm tiến nên bị đè bẹp trước sức mạnh của các nước hùng cường Tây Phương. Điều đó chỉ có ai loạn óc mới dám nghĩ đến chuyện chối căi. Phương chi sách vở đều đồng thanh một giọng như vậy cả. Ông Tennyson viết "năm mươi năm của Âu Châu c̣n có giá trị hơn cả một chu kỳ của Cathays". Mieux vaut cinquante ans d’Europe que tout un cycle de Cathay (thời Trung cổ người Tây Phương gọi nước Tàu là Cathay).
Những câu nói kiểu đó có một phần sự thật, nhưng quá đơn sơ, không đủ bao hàm một t́nh trạng phức tạp hơn nhiều. Nietzsche có lần đă viết "không ǵ nói dối bằng sự thành công". Quả thật văn minh cơ khí là một thành công cực kỳ vĩ đại, nhưng chính v́ thế nó cũng đă là một lời nói dối khổng lồ, làm cho ta quên đi rất nhiều chân lư; nó là một môn bài che đậy biết bao lời ngộ nhận mà không mấy học giả tránh khỏi khi phê phán về văn hóa Á Châu; nó khiến nhiều người sống yên hàn với một mớ ư niệm đă lỗi thời mà không nghĩ đến kiểm điểm lại, c̣n lên mặt ngạo đời. Ở đây chúng tôi thử làm chuyện đó bằng đưa ra một số sự kiện ít được nhắc tới và v́ thế loan tin trước là sẽ không đẹp đẽ cho lắm, chúng tôi thấy bất đắc dĩ phải làm thế để mong phần nào lập lại thế quân b́nh cho sự phê phán xưa nay thường oan uổng quá nhiều cho nền văn hóa Á Châu. (La pensée chinoise. Granet. tr 27 có nhắc tới sự bất công này. Nhiều tác giả cũng nói đến: Creel, Needham, Zenker, Forke…)
Sự oan uổng đó không cần minh oan chút nào nếu đấy chỉ là vấn đề thể diện. Nhưng nhân loại hiện đang trải qua cơn khủng hoảng tinh thần, mà xem ra văn hóa Á Châu có thể giúp vào việc t́m ra ngơ thoát. Do đó sự lên tiếng trở nên cần thiết.
Lẫn căn nguyên.
Căn nguyên đầu tiên của sự bất công đó là tại người ta đă quy công cho văn hóa Âu Châu tất cả những sự hào nhoáng của giàu sang "giàu có sinh lễ nghĩa", những lễ nghĩa đó người ta gán cho văn hóa, nhưng thực ra chính giàu sang tô điểm cho văn hóa.
Điểm này ít được nhận ra bởi nó tinh vi; đàng khác v́ giàu sang và văn hóa liên hệ nhau rất mật thiết, "chính giàu sang làm nảy sinh văn hóa". Đó là luận án của giáo sư Clough đại học đường California nhan đề "Grandeur et décadence des civilisations". (Ed.Payot).
Điều nhận xét này giúp ta có một ư niệm đúng đắn về tính chất của mỗi nền văn hóa, nên cần được lưu ư. Đây là một thí dụ rất thông thường:
Hai người Việt Nam một thuộc thượng lưu trí thức, một ở bậc nông thôn thất học. Ta thấy ngay một đàng lịch thiệp, ăn nói lư sự, khéo léo, cử chỉ có thể hào hoa phong nhă… một đàng quê kệch, nói năng vụng về thô thiển, cử chỉ co rúi rụt rè… Trong trường hợp này không phải nói ai cũng đồng ư, đó chỉ là chuyện khác tŕnh độ học thức gây ra do giàu nghèo, chứ không phải do tính chất văn hóa, bởi cả hai người cùng ở trong một nền văn hóa Việt Nam. Câu chuyện đơn sơ là thế, nhưng nó sẽ hết đơn sơ khi người giàu kia là Tây c̣n người nghèo nọ là Đông. Lúc ấy sự phán đoán sẽ không chỉ c̣n là tŕnh độ học thức mà nó sẽ lấn sang phạm vi tính chất văn hóa Đông Tây không nhiều th́ ít, nhất là phạm vi ảnh hưởng giàu sang và văn hóa rất mật thiết.
"Miệng nhà sang có gang có thép" : Tây giàu bộn nên miệng có cả vàng ! V́ giàu mà số người được học bên Âu Mỹ giàu gấp trăm lần bên ta, văn hóa thêm biết bao cơ hội tiến bước. Việt Nam năm nay (1960) được lối 12000 sinh viên tức trong số 1000 dân th́ có 1 sinh viên. Đang khi năm 1948 bên Mỹ đă có 160 sinh viên (theo tài liệu Civilisation de 1960 của Fourastié). Nay chắc c̣n đông hơn nữa. Nói số tṛn: chênh lệch nhau từ 1 đến 200. Về phương diện khác cũng thế, chẳng hạn bên Mỹ có 1200 dàn nhạc đang khi bên ta một dàn cũng c̣n dở sống dở chết. Sự khác biệt đó sẽ gây lầm tưởng về tính chất văn hóa Đông Tây không sao kể xiết. Một thí dụ : người ngoại quốc ở Sài G̣n thường phàn nàn không thể t́m được cái ǵ để tiêu khiển khả dĩ ứng đáp được tŕnh độ của họ, đang khi đó ta có những bản nhạc sáng tác rất công phu vẫn nằm ch́nh ́nh kia, không sao t́m ra được năm ba triệu để đưa ra trước công chúng. Nếu t́m ra được số tiền đó, những du khách đến Việt Nam lúc trở lui sẽ có thể mua thêm ít đĩa hát, để khi trở lại quê nhà thư thả bỏ ra nghe lại những nhạc điệu xa xôi, bấy giờ họ dễ dàng thưởng thức những nét nhạc tinh vi của Việt Nam. Các bộ môn khác cũng thế : quan niệm của họ về văn hóa đối với nước ta sẽ khác hẳn với tâm trạng hiện nay qua những lời phàn nàn nhắc trên…
"Cái khó bó cái nhạc, nó bó hội họa, nó bó triết học, nó bó văn nghệ…" và cái nghèo không cho nảy nở biết bao mầm mống nhân tài. Với người ngoại quốc ta đành nuốt tủi không sao nói lên được, nhưng với người cùng hội cùng thuyền, cũng nên phân tích như thế, biết đâu lại không động tới những người có thể thành Mạnh Thường Quân… Dầu sao cũng là để khỏi thất vọng về tính chất văn hóa của ta : tại nghèo hơn là tại tính chất văn hóa kém.
2. Nếu hỏi : không kém sao lại không tiến bộ để giàu sang được như người th́ lỗi ấy tại văn hóa chứ c̣n tại đâu ?
Thưa rằng chưa hẳn như thế, cứ xem như nước Nhật cũng cùng ở trong một đại gia đ́nh văn hóa với Tàu và ta, vậy mà trong ba mươi năm đuổi kịp đà tiến bộ của các nước Âu Châu đi trước hơn một trăm năm. Vậy không phải do văn hóa cho bằng do nhà cầm quyền không thức tỉnh kịp thời. Một nền văn hóa tốt đẹp đến đâu, nếu guồng máy quốc gia bị giao phó vào tay một người vô tài mà lại độc tài, th́ đủ làm hư cả vận mệnh một nước một châu, đến khi thức tỉnh th́ đă bị trói lại để làm đà tiến cho người. Những cái đó ta gọi là sự may rủi của nước; nói theo kiểu xưa là số mệnh. Chế độ nào cũng có thể xảy ra, Tây cũng như Đông; việc nước văn minh hơn bị thua nước kém văn hóa là chuyện xảy ra thường xuyên trong lịch sử. Mông Cổ không văn minh thắng Tàu, Roma ít văn minh thắng Hy Lạp là tổ văn minh… và nếu xem cổ sử th́ hầu như đó là một luật : Sumérie bị Babylon, Babylon bị Assyrie, Assyrie bị Crète, Crète bị Hy Lạp. Nước thắng là man rợ dùng vơ lực. Đến khi nước đó trở nên văn minh lại bị đợt man rợ sau… cứ thể để văn minh thêm sinh khí tiến dần. Cho nên ta thua Tây cũng là chuyện không có ǵ lạ lắm (Civ. III. 329) (1)
(1) Viết tắt, chỉ bộ Histoire de la Civilisation của Will Durant và được ghi rơ số La Mă theo thứ tự bản dịch nhà Payot.
C̣n chuyện đói khổ, th́ đó là cái nạn chung cho loài người, may ra rồi đây nhờ khoa học sẽ thanh toán nổi chăng ; chí như trở về trước th́ chẳng nền văn minh nào thoát cả. Đây hăy nói riêng về Âu Châu mà ta thấy phong phú dư dật như nay, trước kia cũng đói khổ như các nơi : giữa khoảng 970 đến 1100 có 60 trận đói đă sát hại người bên Pháp… Không một người nông dân nào bên Anh có thể quên được những trận đói trong các năm 1086 và 1125. Giám mục thành Trèves thế kỷ 12 lấy làm kinh hoàn trước cảnh tưởng nông thôn là đói giết ngựa để ăn thịt (Civ. IX. 272). Ông Fourastié cho biết Âu Châu cũng mới thoát nạn đói từ thế kỷ 19. Tác giả kể chuyện những người trong họ ông hằng ngày đi làm ngoài đồng bao giờ cũng chỉ được một lạng rưỡi bánh khô và một củ hành luộc. Chính bố ông là người đầu tiên trong họ được ăn no ngoài những ngày cưới xin đ́nh đám. Tác giả tính đổ đồng th́ mức sống năm 1900-1931 cao hơn 10 lần mức sống những năm 1800-1831. (Civilisation de 1960 de Fourastié p.12).
Về cách ăn th́ thường ăn bố, cứ hai người ăn cùng một đĩa, uống cùng một ly. Đồ ăn chưa có cách ướp lạnh nên thường có hơi, do đó người ta ưa dùng đồ gia vị để át mùi. (Civ. XII tr.356).
Đă nghèo đó th́ khó thoát được nạn bẩn thỉu. Chỗ ở người nông nô thời trung cổ thật là hôi hám và chật chội ; nhà thường bằng tranh có một gian, họa lắm mới được hai gian, đồ ăn thức đựng làm bếp để cả trong nhà ; dưới đất có một cái ổ bằng lông với rơm rạ, tất cả nhà nằm chung lộn trong đó, kể cả khách… (Civ. XII tr.270). Bên Pháp và Anh người ta ngủ trần truồng trong mọi giai cấp (Civ. XII p.339). Những đêm đông giá lạnh người ta thường đem các giống vật (ḅ ngựa) vào nhà để thêm hơi ấm (id tr.274), gần nhà là một đống phân, tất cả vật cũng như người trong trại đều đóng góp vào đó. (Civ. XI tr.271). Bẩn đến nỗi có nhiều câu chuyện kể rằng quỷ Satan phải đuổi người nông nô ra khỏi hỏa ngục, bởi chính quỷ cũng không chịu thấu mùi (Civ. XII tr.276). Trong thế kỷ 14 ở Paris, người ta thường đổ b́nh đêm tuột xuống phố qua cửa sổ, chỉ báo hiệu bằng một câu vắn "ư tứ nước" (Gare! L’eau). Nhà cầu là một món xa xỉ. Người ta thường tự tiện ngay ra ở sân trên chân thang hay ngoài ban công, ở điện Louvre cũng thế. Sau trận dịch tả năm 1531 có chỉ thị buộc mỗi nhà ở Paris phải có nhà cầu nhưng chỉ thị cũng không được áp dụng luôn.
"Bởi túng ăn và bẩn thỉu là duyên cớ cho những trận dịch tả nhiều hơn mọi kỳ trong lịch sử". Dịch vàng xảy ra năm 550 và 664 giết hại đến 2/3 dân số Islande. Bên Anh cũng bị những trận như vậy ở thế kỷ 6, 7. Pháp Đức bị dịch đốt ruột gọi là "mal des ardents" những năm 994, 1043, 1130.
C̣n nhiều bệnh khác như bệnh tóc (plica polimica) người ta hay quy căn cho đủ thứ, nhưng hầu chắc là tại dân ở chen chúc trong những thành tường xây bít kín, điều kiện vệ sinh sạch sẽ hết sức thậm tệ (lamentable), số trẻ con chết không có thống kê nhưng chắc phải đến 50% (Civ. XII tr.549).
Xem như thế không nên quá nặng lời trách các tiên hiền của ta là không lo cho dân no đủ. Nếu so sánh kỹ ra thấy tiên hiền Đông Phương c̣n thực tế gấp mấy lần các triết gia Hy Lạp chẳng hạn. Ngay từ bài cảo luận đầu tiên về triết học Đông Phương, tức thiên Hồng Phạm trong kinh Thư đă lộ rơ dấu lo lắng đến vấn đề dân sinh. Trong 8 điểm nhà cầm quyền phải chú trọng th́ "nhất viết thực (ăn) nhị viết hóa (Couvreur dịch là les commodités de la vie)… bát viết sư" (quân dịch, để cuối cùng). Mối lo âu này sẽ thấy xuất hiện nơi Khổng Tử "thứ, phú, giáo" phú đi trước giáo và cách rành rẽ nơi Mạnh Tử… Nhưng lúc ấy mức tiến hóa nhân loại chưa đi tới giai đoạn khoa học kỹ thuật, nên loài người chưa đủ sức chống nạn đói.
Tôi nói tiên hiền thực tế hơn triết gia Hy Lạp, v́ bên đó có chế độ nô lệ nên coi khinh miệt việc chân tay. Ngoài khoa h́nh học thành công, c̣n th́ toàn là triết học kiểu văn nghệ bên ngoài đời sống. Măi tới thời Archimède mới khám phá chút ít, nhưng cũng là học suy lư. Máy trục và bắn đá ông làm ra, nhưng không có ghi lại, ông cũng như tất cả trí thức thời đó vẫn coi việc t́m lợi ích thiết thực và cơ khí là đê tiện bẩn thỉu (ignoble et sordide). (Civ. VI p.229)
3. Căn cứ thứ ba người ta cho rằng chỉ Âu Châu mới có khoa học, c̣n các nền văn hóa khác không có.
Nếu có một vài sáng chế th́ cũng chỉ là thường nghiệm (empirique) chứ không có khoa học như văn hóa Âu Châu. Câu nói này rất dễ được chấp nhận. Khoa học hiện có đó rồi, nó là sự nghiệp vĩ đại của Châu Âu, nên sự giải nghĩa có sai thù để tăng cường uy tín và vinh hiển cho Âu Châu, th́ ai cũng ḷng chấp nhận, khỏi cần tranh luận. Có nhiều hoạt động khác hứng thú ơn ích hơn là việc căi cọ nhỏ nhen nọ. Nhưng ta không thể chấp nhận thái độ nhường nhịn và tặng khen một khi giải nghĩa đó "phong thánh" luôn cho những yếu tố tai hại của văn hóa Tây Âu như cổ động đa dục, tuyên dương óc độc chiếm, khuyến khích buông lung… bởi chính đó là những nguyên nhân gây nên cuộc khủng hoảng ngày nay.
V́ thế mà chúng tôi thấy cần đặt lại vấn đề và không ngần ngại phản đối những tư tưởng gia mà chúng tôi ưa chuộng về phương diện khác. Chẳng hạn triết gia Jaspers trong quyển Sens et l’Origine de l’histoire (tr 82) có đưa ra 9 lư do để phóng đoán tại sao khoa học lại phát triển bên Âu, đại để như sau:
1) Vị trí địa dư tạo nhiều sự tiếp xúc giữa các văn hóa khác nhau.
2) Tự do chính trị
3) Lư trí vô biên
4) Ư thức về tự do nội khởi.
5) Người Âu lấy thế giới khách quan làm dữ kiện đầu tiên.
6) Nhưng không dồn quan niệm về vũ trụ vào một công thức có tính cách giáo điều cứng nhắc (!)
7) Óc độc hữu, nhân đó có sự căng thẳng.
8) Luôn luôn đi tới cùng cực, đi tới mẹo trừ.
9) Bởi vậy có những nhân vật độc đáo. Và họ không thể muốn con người toàn diện.
Trong 9 lư do trên chỉ có lư 1 và 3 là có thể chấp nhận phần nào ; lư 2, 4 sai thực tế phiền tạp… ngoại giả là không chắc mà c̣n có thể gây hại như : lấy một sự bất lực (đi tới con người toàn diện) để như khuyến khích những sự đi quá trớn. Tất cả những điều này tôi nêu lên mà không quảng diễn ở đây v́ dài quá sẽ làm nơi khác (xem Nhân Bản). Chúng tôi chỉ ghi nhận một điều là ở dưới trang 96, tác giả có viết "vào quăng năm 700 nếu một du khách từ hành tinh khác đáp xuống trái đất th́ có lẽ họ sẽ cho Tràng An, kinh đô Tàu lúc đó là trung tâm tinh thần của thế giới chúng ta, Constantinople là sự sống sót của một dĩ văng đáng để ư; c̣n phần bắc Âu Châu là miền mường rợ. Quăng năm 1400 đời sống cả ba nơi Âu Châu, Ấn Độ, Trung Hoa tới mức độ như nhau. Nhưng sự đóng góp của thế kỷ 15, tức việc khám phá ra thế giới mà Âu Châu sắp in con dấu của nó lên trên, đặt ra… một sự cắt đứt (rupture). Sự tuyệt giao, sự cắt đứt này là một câu đố mới.
V́ cho tới đó đă không có sự tiến triển rơ rệt và đều đặn… Và cho tới thế kỷ 19 th́ xảy đến sự cắt đứt hẳn với dĩ văng thuộc lịch sử và một tương lai hăy c̣n chưa thể thấu suốt được. Một lần nữa ta lại hỏi yếu tố không thể gọi tên ra đó là ǵ? (trg 97).
Nói không thể gọi tên, v́ thật là phiền tạp và bí nhiệm nên những sự thử gọi tên chỉ là đoản phóng hết sức đạc chừng. Bí nhiệm v́ có những điều khó biết tại sao khoa học được phát sinh bên Cận Đông (Hy Lạp chỉ tiếp tục một đoạn thường lệ) và được Cận Đông dẫn tới chỗ nảy nở lại bị Mông Cổ đến tàn phá.
Tại sao Âu Châu tự nhiên lại thoát ách Mông Cổ (tự nhiên v́ Âu Châu không có làm ǵ và khó có thể chống đối nổi Mông Cổ). Những câu đó khó ḷng ai giải đáp, nên ta cho là khuyết nghi, hoặc thuộc Thiên mệnh. Và như vậy bao sự giải nghĩa chỉ nên coi là những ư kiến bấp bênh c̣n đang đi t́m một lời đáp, chưa nên coi là sự thật.
Thực ra nếu khoa học đă phát nguyên bên Ấn Độ hay nhất là bên Ả Rập th́ sự giảng nghĩa nguyên do c̣n có lư gấp ba lần là ít. Đây là những lư do:
1) Yếu tố khoa học của Hy Lạp được vun tưới và nảy nở bên Ả Rập hơn bên Âu Châu.
2) Những phát minh nhiều nơi được tiếp nhận trước hơn, thí dụ hệ thống toán số của Ấn Độ, phép in, giấy, thuốc súng, kim chỉ nam của Tàu.
3) Và nhất là bầu khí tự do phóng khoáng hơn bên Âu Châu nhiều lắm. Cho nên vào những thế kỷ VII- XII, văn minh Ả Rập đă tiến xa hơn Âu Châu rất nhiều và chính nhờ những dịp tiếp xúc trong các lần thập giá binh hay dịp khác mà Âu Châu du nhập được của Ả Rập nhiều kỹ thuật chẳng hạn khoa thiên văn (Civ. XII, 589), phép tinh luyện kính "Venise", phép làm kính để thấy vật xa coi gần và cả kính đeo (ông Will Durant nói có lẽ nguồn gốc do người Tàu "ai tai", (Civ. XII. 539), nghề làm kim khí, máy kéo nước chạy bằng gió (Civ. X. 418), các thứ đồ ăn, đồ uống, thuốc, khí giới, quan niệm mỹ thuật, kỹ thuật, buôn bán, phương pháp vượt bể và nhiều khi cả danh từ một trật như "orange, sucre, sirop, élixir, azur, bazar, tarif, douane, magasin, barque, câbe, algèbre, zéro, chiffre, alambic, zénith, almanach…" người ta tính ra lối 1000 chữ do tiếng Ả Rập và hơn 100 sách Ả Rập dịch ra La Tinh (Civ. X. 434). Các thứ vải: gấm, lụa và luôn cả nghề nuôi tằm kỹ nghệ lọc đường, phép lát đá đường do vua Fréderic II thâu nhập. (Civ. XII. 55). Các nhà khoa học Musulman hầu hết lúc đó đă nhận ra là trái đất có h́nh tṛn. Ngay năm 1081 Sandi đă làm bầu trái đất bằng đồng và những công tŕnh nghiên cứu của Ishak-al Bitruyi đă mở đường cho Copernic (Civ. X 419) sau này… Cho nên nếu Musulman không bị tàn sát và phá huỷ đến tận nền móng về văn hóa, kinh tế, nhân sự, th́ rất có thể khoa học đă xuất hiện trên mặt đất trước ít thế kỷ bên đất Á-Phi.
Nhưng trời h́nh như có ư dành danh dự này cho một giống người mới xuất hiện sau bên Âu Châu. Con đường thiên mệnh trong việc chạy đuốc văn minh coi như được quy định rơ rệt. Mông Cổ đă tàn sát Musulman một cách ghê sợ : thành Mery bị tiêu diệt với 1.300.000 dân. Thành Ravy với 3.000 chùa (mosquée) bị b́nh địa. Bagdad với những thư viện mênh mông và bao kho tàng tích luỹ cũng tiêu sách với 800.000 dân. Không khi nào thấy trong lịch sử một nền văn minh bị tàn sát tận gốc như vậy. Cầu cống đê điều bị phá vỡ hoặc đúc lại… Chính v́ đó chứ không phải tại khí hậu thay đổi đă cướp mất quyền chỉ huy thế giới của Tây Á từ 5 thế kỷ (700-1200) mà từng trăm thành rực rỡ của những xứ Perse, Syrie, Mésopotamie, Caucase, Tranxosiame bị đẩy vào thảm trạng đói khổ cùng cực và ứ đọng trong thời mới (Civ X. 433).
Cũng may đuốc khoa học đă kịp trao sang Âu Châu và sống hoi hóp trong ba bốn thế kỷ cho đến thời Phục Hưng. Trong khi chờ đợi "suốt qua thời Trung Cổ bên Âu Châu khoa học và triết học được triển khai trong bầu không khí thần thoại, truyền thuyết, phép lạ, điềm báo, ma quỷ, sự lạ, pháp môn, chiêm tinh, bói toán, đồng cốt" (Civ XII. 524).
Và không phải mỗi phát minh được đón nhận dễ dàng tức khắc. Chẳng hạn hệ thống số Arabe… rất nhiều người công nhận là "phương pháp thần diệu của 9 con số Ấn Độ" (Méthode merveilleuse des neuf chiffres Indiens) thế mà năm 1029 người ta c̣n vận động để có luật cấm dùng, măi tới thế kỷ 16 mới thay hẳn được số Roma (Civ XII. 532). Khi mấy thương thuyền bắt đầu dùng kim chỉ nam bị nhiều người nghi ngờ là họ làm phù phép, và không thiếu người từ chối bước chân lên những tàu bắt đầu trang bị bằng kim chỉ nam… (Civ XII. 540)
C̣n biết bao nhiêu thành kiến làm cho bầu không khí Âu Châu khó thở ; măi cho tới đầu thế kỷ này mà Einstein c̣n phải phàn nàn: "phân tán một nguyên tử c̣n dễ hơn phân tán một thành kiến" th́ đủ biết tại sao khoa học Hy Lạp bị nằm chết khô bên Âu…
4. Căn nguyên thứ bốn
Người ta quên đi hay không biết rằng việc phát minh khoa học là một sự kiện hết sức mới và đầy những chuyện bất ngờ… Việc t́m th́ kể là khởi lên từ thế kỷ 16, 17; nhưng t́m kiếm một cách thật có phương pháp th́ cũng mới từ ít chục năm nay. Người ta thường lấy niên hiệu xuất bản sách "Bàn về những sự chuyển vận của các thiên thể" của Copernic tức là 1643 làm ngưỡng cửa cho thời mới. Lấy Newton (1642-1727) làm mốc giới thời đại khoa học và Einstein là mốc những bước tiến vượt bực, tức là chung quanh hoàn cầu đại chiến thứ nhất. Bởi từ quăng đầu thế kỷ này mới có những sự t́m ṭi thật khoa học c̣n trước kia hầu hết vẫn là ṃ mẫm kiểu rút kinh nghiệm (empirique); xem như một việc phát minh điện lực, linh hồn cho mọi cơ khí, th́ đủ rơ. Măi cho đến năm 1870 hầu hết người ta c̣n cho việc t́m ṭi điện chỉ là tṛ chơi trong pḥng thí nghiệm (amusette de laboratoire) chưa ai tin được điện sẽ có được những công hiệu vĩ đại như nay. Sự t́nh cờ sơ xuất đă là dịp cho nhiều khám phá quan trọng. Nhiều người c̣n nhớ con ếch của ông Galvani rung chân khi vô t́nh ông chạm vào ban công sau một ngày mệt mỏi thí nghiệm vô ích. Từ trường được khám phá do cái kim bỏ văng văi trên bàn thí nghiệm của ông Oersted. Sức chuyển động máy sinh điện được ông Fontaine nhận thấy do một cử chỉ lầm lẫn của người thợ. Tác giả phải nói (felix culpa: heureuse faute p.92) ông Edison là người phát minh ra bóng điện năm 1897 và bao nhiêu phát minh khác, một phát minh lớn nhất tới nay, lại là một người bán báo, vốn liếng tri thức chỉ là một kỳ tam cá nguyệt ở trường và hai năm trong pḥng thí nghiệm cá nhân "đặt dưới hầm rượu của gia đ́nh".
Máy phát điện, một bước tiến rất quan trọng, được phát minh do ông Gramme một bác thợ lăng nhăng "bricoleur ou ouvrier en escalier" (Pierre Dexaux, Histoire de l’électricité, trg 65,74 và 92). Bởi vậy ông J.Folliet không ngần ngại hạ chữ t́nh cờ mà xảy ra hiện tượng cơ khí làm xáo trộn hết mọi cơ cấu văn minh.
Tính chất bất ngờ này ít được chú trọng đến, nhưng thực sự th́ trước đây hai ba trăm năm không ai ngờ là khoa học sẽ làm đảo lộn bộ mặt trái đất như nay. Nếu quả thật có ngờ và văn minh Tây Phương luôn luôn tiến th́ tại sao văn hóa Hy Lạp, La Mă, Âu Châu đă xuất hiện trên 20 thế kỷ mà t́nh trạng Âu Châu đâu vẫn nằm đó và cho đến thời Phục Hưng Tàu vẫn trội hơn Âu Châu cả về đàng kỹ thuật. Điểm này được các học giả như Zenker, Needham… đều công nhận (xem La pensée Chinoise, Granet, p.584). Sự tiến triển của Âu Châu c̣n rất mới mẻ, đầu thế kỷ này người Pháp dưới tỉnh c̣n rủ nhau lên Paris coi xe không ngựa kéo, không người đun cũng chạy đuợc. Năm 1896 toàn Mỹ quốc mới có 4 cái xe hơi. Đầu năm 1908 ông Ford mới cho ra xe kiểu T.
Vậy là trước thế kỷ 17 Âu Á cũng tĩnh chỉ như nhau, và nay khác nhau th́ không phải Đông Tây cho bằng nói mới cũ. Tân thời đối với trung cổ. C̣n trước đó Á Âu như nhau. Keyserling viết "giữa thời cổ Hy Lạp và những thời rực rỡ của văn hóa Á Châu, giữa nước Pháp thế kỷ 16 và nước Tàu thời Tống thí dụ, xét về dữ kiện thời sự th́ chỉ có một sự khác biệt về hiện tượng chứ không về bản chất (une différence de phénomène et non pas d’essence) tức không phải bản chất văn hóa Âu Tây luôn luôn tiến bộ, c̣n bản chất Á Châu là ù ĺ. Cả bên Âu nữa, lư tưởng tĩnh chỉ đă thống trị măi cho tới thời mới kể cả Hy Lạp cổ đại cũng như trong Ư Đại Lợi thời Phục Hưng, v́ trong những xứ này, đời sống có náo động tới đâu đi nữa, bao giờ cũng hướng theo những giá trị mà thời gian không thay đổi ǵ hết.
Ngày nay khi chúng ta, người Âu Châu thời mới, xem Á Châu như bản tính đối chọi nhau, thật ra không phải Đông khác biệt Tây cho bằng thời mới khác với thời trung cổ và thời cổ đại… Nói khác đi, chúng ta đối chọi lư tưởng của hoàn bị với lư tưởng tiến bộ" (xưa t́m hoàn bị nay cần tiến bộ) (Journal tr.317).
Trong quyển "Science and Civilisation", ông Needham có viết: "Bất kỳ ai nếu chịu đọc tới hết quyển sách này, chắc sẽ bị sửng sốt trước số kỹ thuật rất nhiều và khác nhau mà Âu Châu mượn của Tàu, song thường họ không biết đến nơi phát nguyên trong 14 thế kỷ đầu". Ông Francis Bacon (1626) có viết: "Rất nên quan sát về sức mạnh và năng lực cùng những hậu quả của các điều phát minh. Rơ rệt nhất không đâu bằng ba món đồ mà tiền nhân ta chưa biết đến, và cũng mới xuất hiện, tuy nguồn gốc nó vẫn c̣n ẩn khuất nhưng rất hiển hiện, đó là máy in, thuốc súng, và kim chỉ nam. Bởi v́ ba phát minh đó đă biến đổi cả mặt đất và t́nh trạng sự thể trên khắp trái đất : cái thứ nhất trong văn chương, cái thứ hai trong binh pháp, cái thứ ba trong nghề hàng hải. Những phát minh đó đă kéo theo vô số sự thay đổi đến nỗi không một đế quốc nào, hay một tôn giáo nào, một ngôi sao nào đă gây được một ảnh hưởng và quyền năng lớn hơn vào trong nhân sự." (t I, tr 19)
5. Không phải thời nào Âu Châu cũng dẫn đầu về văn hóa.
Ông Dampier có viết: "Chính trong những thời kỳ đen tối nhất bên Âu Châu, sự học hỏi của các miền Á Châu lại bắt đầu tiến triển rực rỡ và lan tràn sang Ả Rập. Môn phái của xứ sở Perse và Ả Rập ban đầu đă dựa trên các bản dịch sách Hy Lạp, nhưng về sau họ đă thêm vào nhiều đóng góp đặc sắc trong khoa học tự nhiên." Thời ấy những sách h́nh học của Euclide, thiên văn của Ptolémée cũng được dịch sang Ả Rập. (Histoire de la Science p.85)
Triết gia nổi tiếng người Hồi giáo là Avicenne (980-1037) kiêm y sĩ có viết quyển Canon tức bản tóm tắt y khoa là một trong những công tŕnh văn hóa Ả Rập, sau này trở nên sách chuyên khoa về y học trong các đại học Âu Châu, măi tới năm 1650 cũng c̣n dùng trong các trường Louvain và Montpellier. Thời ấy tiếng Ả Rập đă được công nhận là ngôn ngữ cổ điển về khoa học và hễ cái ǵ viết bằng tiếng Ả Rập cũng có uy tín như lúc người ta dành cho tiếng Hy Lạp. (Dampier tr.112. Histoire de la Science. Payot).
Cao đẳng Âu Châu thời đó chia làm hai khóa : tam và tứ. Khóa tam sơ đẳng gồm có ba môn học là ngữ, luật, khoa lợi khẩu (rhétorique) và danh lư (dialectique) tức là đề tài chuyên về danh từ và cú pháp. Khoa tứ cao hơn gồm có: nhạc, toán, h́nh học, thiên văn, tức bốn khoa mà người ta tin là chuyên chủ về sự vật. Nhạc gồm lư thuyết bán huyền niệm về các số, h́nh học chỉ là một chuỗi những câu của Euclide không có chứng minh, c̣n toán và thiên văn được trọng dụng bởi là phương thế quy định ngày lễ Phục sinh. Tất cả bấy nhiêu khoa được coi là chuẩn bị sinh viên đi lên thần học. Sự phân phối chương tŕnh như trên được duy tŕ suốt thời Trung cổ. (Dampier tr.116).
Những giống dân nói tiếng Ả Rập và những người Do Thái cư trú bên đó thời ấy mới chú trọng thực sự tới khoa học và chính nhờ sự tiếp xúc với các miền Hồi giáo mà Âu Châu Trung cổ mới bỏ được những tập quán tư tưởng cũ để đi dần sang lối suy luận lư trí. (tr. 121, Dampier)
Xem chương tŕnh học vấn của Âu Châu Trung cổ ta thấy liền đâu có tiến luôn luôn, đâu có khoa học cơ khí, chẳng qua ăn tự lại của Hy Lạp một phần mà chẳng biết tài bồi thêm. Về phần đóng góp của Hy Lạp không chối là quan trọng nhưng đâu có phải duy nhất như người ta thường viết. Người ta đă quên hay không biết đến phần đóng góp quan trọng của Ả Rập, toán học của Ấn, thiên văn của Babylon. Hy Lạp thành công duy có ở h́nh học. Và chính nhờ sự tiếp xúc với các dân khác Hy Lạp mới tiến trong khoa học, sự kiện này xuất hiện bên Alexandrie (Egypte) vào lúc măn chầu thời oanh liệt tức thế kỷ thứ 3 lúc văn học nghệ thuật Hy Lạp đang xuống dốc. Bởi không nhận định điều đó nên trước đây người ta không giải nghĩa được hiện tượng ngoại lệ trên (tức là tại sao khoa học không tiến trong hoàng kim thời đại của Hy Lạp. Civ.VI, 231).
Bởi chưa biết đến những đóng góp của các nền văn minh khác, như nay mấy sử gia lớn đă bắt đầu t́m ra, nên người ta quá tâng bốc Hy Lạp lên, nhưng xét kỹ lại thấy việc đóng góp của Hy Lạp cũng là thường lệ. Trong quyển Technique, ông Ellul đă chứng minh Hy Lạp đóng góp được có một cái đinh ốc. Ông c̣n nói tại sao có khoa học là vấn đề mầu nhiệm. (tr.41). Y học của Hypocrate c̣n kém hơn khi tiếp nhận của Egypte. Thiên văn bị cấm. Hội họa chưa sâu sắc bằng tranh Tàu, tượng chưa chín chắn bằng tượng của Egypte. Toán học chưa biết đến đại số…
Cả về đàng văn minh tế nhị như phép cai trị cũng c̣n thua Perse. Xem một việc Alexandre đại đế bị chinh phục là một sự trả thù của Đông Phương. Aristote dạy ông rằng ngoại bang là rợ mọi, nay ông nhận thấy người Perse tế nhị hơn người Hy Lạp, nên ông đổi thái độ : nhận lối cai trị cư xử như Perse trước sự thất vọng của các người tuỳ ṭng. Nhưng sau, cả những người trí thức cũng chịu ảnh hưởng Perse, đến cả triết học sau này cũng bị Đông Phương chinh phục. Triết Stoicien là một bằng chứng, và tất cả sẽ đầu hàng các tôn giáo Đông Phương. (xem Civ. VI tr. 117 và161).
Về phía nước Tàu giáo sư Creel đại học đường Chicago có viết như sau: "Nhiều người biết ít về nước Tàu và cả những người biết nhiều cũng thường có khuynh hướng tin rằng nước Tàu bất di bất dịch, không có tiến bộ chút nào từ đời nhà Hán. Đó là một cảm tưởng hoàn toàn không đúng, nhưng lại rất phổ biến thông v́ hai lư do. Trước hết vào thời kỳ từ thế kỷ VI trước Tây lịch đến thế kỷ II sau Tây lịch được người ngoại quốc khảo cứu hơn tất cả lịch sử nước Tàu. Thật ra đó là một thời đại quan trọng được chứng kiến nền văn hóa Trung Quốc thành h́nh, nên chính người Tàu cũng khảo cứu và hiện c̣n đương khảo cứu tường tận, điều đó giúp người ta dễ hiểu thời ấy hơn. Lư do thứ hai khiến người ngoại quốc chối sự tiến bộ của Trung Hoa trong hai ngàn năm nay là tại họ đă lăng bỏ một ít nhân tố không làm vinh dự mấy cho người Âu. Thí dụ họ thích quên đi rằng nước Tàu đă trở nên trưởng thành vào quăng thế kỷ thứ II trước Tây lịch và không bao giờ trở lại thời ấu trĩ nữa (chính ông Creel gạch dưới). Nó đă không bao giờ phải trùng tu lại văn hóa tự nền móng như Âu Châu đă phải làm. Cơ sở chính trị và văn hóa của nó đă hiến cho nó khả năng đồng hóa được các dân man ri tràn vào Trung Quốc, và vẫn giữ được bản sắc như trước. Nó đă không bị những đảo lộn và sự man rợ của một thời Mérovée như Âu Châu chẳng hạn.
Người ta có thể nói nước Tàu cũng có thời rợ mọi của nó ở đầu nhà Chu và có thời phong kiến vào quăng trung Chu hơn một ngàn năm trước khi những hiện tượng này xuất hiện bên Âu. Lại c̣n tŕnh độ văn hóa và tŕnh độ các nhà Nho trong giới thượng lưu cao hơn rất nhiều sánh với tŕnh độ của phái quư tộc Âu Châu Trung cổ và cả lâu sau. Và khi nước Tàu đă trải qua những giai đoạn này th́ không trở lại bao giờ nữa. Tuy nó có biết những thời loạn lạc phân tranh, nhưng nếu người ta nhớ lại rằng nước Tàu cũng lớn rộng bằng Châu Âu th́ phải công nhận là nó được b́nh an và thống nhất hơn nhiều." (Naissance de la Chine 354).
Tác giả đă quả quyết thế v́ đời Trung cổ Âu Châu không thiếu loạn lạc. Người ta tính ra bên Nga từ năm 1054 đến năm 1224 nghĩa là chưa đầy hai thế kỷ có tất cả 83 trận nội chiến, 46 lần bị ngoại xâm, 16 lần nước Nga đi đánh các nước lân cận, 293 ông hoàng tranh ngôi trong 64 tiểu bang. (Will Durant, Histoire de la Civ. L’âge de la Foi, t.III p.100) "Vua chúa lúc nào cũng có quyền xông vào đất lân cận để ăn hàng…" Trong thế kỷ 12 hầu như chẳng sáng nào lại không có đánh nhau trong cái miền là nước Pháp ngày nay, Berthold de Ratisbonne phàn nàn v́ "rất ít vua chúa sống hết tuổi trời, hay được chết cái chết tự nhiên".
"Sau một trận trong các trận giặc ấy, nhiều nông gia phải kéo cày lấy, nhiều người hết lúa gạo, chết đói… Giáo hội đă hết sức can thiệp để giảm ngày đánh nhau bằng thể chế thần hưu (treuga Dei: trêve-dieu…). Người ta hay đánh nhau đến nỗi sau đặt ra lệ bắt tay khi gặp nhau để tỏ ḷng yêu ḥa b́nh, và để chứng rằng họ không có chuẩn bị rút gươm ra đấu." (W. Durant, L’âge de la Foi, t.II, p.200).
(c̣n tiếp)
Bookmarks