Results 1 to 7 of 7

Thread: DI TẢN VÀ VƯỢT BIÊN

  1. #1
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    DI TẢN VÀ VƯỢT BIÊN

    DI TẢN VÀ VƯỢT BIÊN

    KƯ ỨC VỀ NGƯỜI VIỆT TỴ NẠN CỘNG SẢN



    Bùi Trọng Cường & Nguyễn Phục Hưng



    Sau ngày 30-4-1975, một kư giả Tây phương đă viết là ‘Dưới chính sách khắc nghiệt của Cộng sản, nếu cái cột đèn mà biết đi chắc nó cũng…vượt biên’. (Ginetta Sagan). Câu nói dí dỏm của Sagan đă diễn tả được một thực trạng rất bi hài của dân dộc Việt Nam trong khoảng thời gian hơn hai mươi năm kể từ Tháng Tư, 1975 cho đến năm 1996.

    Những người chạy trốn chế độ Cộng Sản có thể chia làm hai đợt chính: Đợt đầu được mệnh danh là người Di Tản v́ họ rời Việt Nam ngay trong khoảng tháng Tư 1975 và đợt thứ hai thường được mệnh danh là ngựi Vượt Biên, dù bằng đường bộ hay đường biển.

    Di Tản

    Ngày 30 tháng 4, 1975 là ngày chính thức ghi nhân sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hoà trước làn sóng xâm lăng của cộng quân. Cuối tháng 4,1975 đă có những đợt rời Việt Nam của các nhân viên và gia đ́nh các sứ quán, công ty ngoại quốc cũng như nhừng người Việt có phương tiện riêng hoặc được các cơ quan Hoa Kỳ và các nước đồng minh bảo trợ. Ngày 29 tháng tư 1975, Tổng Thống Hoa Kỳ Gerald Ford chính thức ra lịnh khỏi động chiến dịch “Frequent Wind” để di tản quân nhân, nhân viên dân sự Mỹ và một số người Việt đă từng cộng tác hay liên hê với chính phủ Mỹ và chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa rời khỏi Việt Nam để tránh bị Cộng Sản trả thù.

    Cùng thời điểm này, rất nhiều người Việt Nam cũng đă quyêt đinh di tản. Họ là những người mà đă ít nhất một lần bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, bỏ mồ mả ông bà, tổ tiên để di cư vào Nam năm 1954, họ là những người đă có ít nhiều hiểu biết, kinh nghiệm về cộng sản, họ là những người đă may mắn vượt thoát được sau cuộc triệt thoái của Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa khỏi miền Cao nguyên và miền Trung, họ là những người chối bỏ chế độ cộng sản. Đó là lư do mà làn sóng người di tản trong tháng Tư 1975 đă làm nhiều người ngạc nhiên với con số khoảng 300 ngàn người và các cơ quan cứu trợ quốc tế đă phải mất nhiều thời gian để giúp họ định cư ở các nước tự do nhất là Mỹ, Canada, Úc, Tân Tây Lan và các trai tạm cư ở Subic Bay (Philippines), Guam, Wake Island, California, Arkansas, Florida, Pensylvania ăa phải mở măi cho đến cuối năm 1975.

    Chiến dịch ‘Frequent Wind” trên nguyên tắc chỉ kéo dài từ 3:30 chiều ngày 29 tháng tư và chấm dứt vào đúng 21 giờ ngày 30 tháng tư, 1975 khi người lính Mỹ cuối cùng được trục thăng bốc khỏi Sàig̣n và trụ sở của cơ quan DAO (Defence Attachés Offfice) của Hoa Kỳ được Thủy quân lục Chiến Hoa kỳ cho phá nổ. Tuy nhiên với làn sóng người di tản rầm rộ đổ ra biển Thái B́nh Dương bằng các tàu hải quân, thương thuyền và cả các tàu đánh cá nhỏ, việc cứư vớt người vẫn được tiếp tục trong nhiều tuần sau đó. Hạm đội số 7 của Hải quân Hoa Kỳ với các hàng không mẫu hạm Hancok , Midway và nhiều tàu chiến hạm cũng như nhiều thương thuyền Hoa kỳ và quôc tế đă tham dự vào chiến dịch cứu vớt người trên biển rồi chuyển qua các trai ty nạn ở Subic, Guam trước khi phân tán họ đi tị nạn tai Hoa kỳ và các nước tự do khác như Canada, Uc, Pháp, Anh, vân vân. Trên thực tế, giai đoan di tản và vượt biên không có sư gián đoạn. Có chăng chỉ là sự phân chia thời điểm chính phủ Hoa Kỳ chấm dứt chiến dịch vớt người trên biển mà thôi, c̣n sự ra đi của người Việt vần tiếp tục không ngừng.

    Những h́nh ảnh sau đây ghi nhận cảnh hăi hùng của một cuộc di tản chưa từng có trong lich sử Việt Nam và thế giới.


    Đoàn người Di tản từ miền Trung


    Một Thuyền Đánh Cá chở người Di Tản được Midway tiếp cứu


    Dân Di Tản Chạy ra Tr ực Thăng tại Trụ sở DAO, Saigon


    Dân Di Tản đến Midway bằng trực thăng Hoa Kỳ


    Một máy bay VNCH chở người di tản đáp xuống Midway

    Cuộc Di Tản tháng tư năm 1975 đă có nhiều cảnh đẫm máu và nước mắt nhưng t́nh nhân loai cũng đă được biểu lộ rơ rệt từ những quân nhân và các cơ quan từ thiện. Sau khi đă đến đựợc Mỹ hay các nước mở ṿng tay đón nhân, dân Di Tản c̣n phải trải qua nhiều khó khăn như sự khác biệt ngôn ngữ, văn hóa, vân vân để tạo lại cuộc sống.

  2. #2
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    DI TẢN VÀ VƯỢT BIÊN

    DI TẢN VÀ VƯỢT BIÊN


    Vượt Biên

    Họ ra đi mà không biết ḿnh đi đâu, sẽ đến đâu; đa số không biết ǵ về đại dương cùng những nguy hiểm của những chuyến hải hành cũng như không biết ǵ về những khó khăn khác đang chờ đợi họ. Đó là lư do mà có lúc người ta đă nói “ nếu có ba người vượt biên th́ chỉ có một người đến bến an toàn, một người chết trên biển v́ bảo tố, đói khát và hải tặc và một người sẽ bị bắt lại và đi tù”.

    The State of the World’s Refugees 2000:

    50 Years of Humanitarian Action

    Những Người Vượt Biên là ai và tai sao họ phải liều ḿnh đi t́m Tự Do?

    Họ chính là những người chậm chân trong giai đoạn Di Tản. Có thể lúc đó họ c̣n chút hy vọng là những người Cộng sản cũng c̣n chút lương tâm và sáng suốt không nỡ đối xử với những người dân miền Nam như kẻ thù không đội trời chung và họ sẵn sàng cộng tác với những người Cộng sản để cùng xây dựng một Đât nước Thông Nhất trong Ḥa B́nh. Họ đă lầm sau bao nhiêu ngày lầm than tôi mọi cho những người Cộng Sản vô lương. Họ đă mất hết tài sản, tự do và cả phẩm giá con người dưới chánh sách trả thù tàn bạo của Cọng sản. Họ có thể chịu nghèo khổ để hy vọng vào một tương lai xán lạn. Nhưng tương lai chỉ có tù đầy, thù hận và dối trá. Thế hệ của họ coi như bỏ v́ họ đă lỡ tin Cộng Sản. Nhưng c̣n thế hệ con cái họ? Họ không thể chịu cực khổ nh́n con cái họ trở thành những con vật trong xă hội Cộng sản Xă hội Việt Nam đă lùi lại hơn 30 năm sau cái ngày gọi là ‘giải phóng’. Tương lai họ c̣n ǵ đâu ngoài một lối đi duy nhất: Vượt Biên. Nếu may ra thoát được qua bờ Tự Do th́ con cái họ c̣n có hy vọng sống được một cuộc đời đáng sống. C̣n không, đời sống ở Việtnam có khác ǵ đă chết. Bới vậy Họ đă quyết chí liều ḿnh Vượt Biên qua Cam-pu-chia, đến Thái Lan hay Vượt Biển qua Mă Lai, Nam Dưong, Phi Luật Tân nơi nào cũng được, miễn là ra khỏi điạ ngục Việt Nam bất chấp sự bắt bớ lùng xét của công an, hiểm nguy của hải tặc, băo tố hăi hùng ngoài biển Đông.

    Sau đây là vài trích đoạn từ các tác phẩm viết về tỵ nạn:

    “Người Việt Nam chỉ ra đi trong thế cùng, không c̣n cách nào có thể sinh sống tại quê hương của ḿnh. Đây là một cuộc bỏ phiếu vĩ đại chống lại chế độ cộng sản Hà Nội bằng chính mạng sống của ḿnh. Trong số nầy, rất nhiều người mang hoài bảo sẽ có một ngày trở về quang phục quê hương. Số người tử nạn trên bước đường vượt biên không thể thống kê chính xác được. Người ta phỏng chừng từ 400.000 đến 500.000 thuyền nhân bỏ ḿnh trên biển cả hay bị hải tặc bắt giết.

    Vượt biên năm 1975 là cuộc xuất ngoại vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam kể từ ngày lập quốc. Đây là một sự kiện hoàn toàn bất ngờ đối với Nam Việt, Bắc Việt, Hoa Kỳ và cả thế giới. Trước đó, không một ai có thể tiên đoán được phong trào vượt biên sẽ xảy ra đến mức lớn lao như thế. Phong trào vượt biên kéo dài từ 1975 đến 1996 ngang bằng với thời gian chiến tranh từ 1954 đến 1975. Tổng số người rời bỏ đất nước bằng tất cả các cách, cộng với những người tử nạn trên đường vượt biên, lên đến khoảng gần bằng tổng số dân chúng và quân nhân Việt Nam cả Nam lẫn Bắc tử trận trong cuộc chiến từ 1954 đến 1975 (khoảng 3,000,000).



    Những Thuyền Nhân nằm la liệt trong khoang tàu

    http://photo.tcworks.net/slideshow.p...mName=album392





    Những đợt vượt biên ào ạt, bất chấp mạng sống đă làm rúng động lương tâm nhân loại, và đă phơi trần bản chất độc ác của chế độ Cộng Sản Việt Nam (CSVN) trước công luận thế giới. Sự kiện nầy là tiếng chuông cảnh tỉnh đối với nhân loại về “Thiên Đường Cộng Sản” và trở thành động cơ thúc đẩy các nước Đông Âu ly khai chủ nghĩa cộng sản, và dẫn đến sự sụp đổ của khối cộng sản năm 1990-1991?

    Phỏng theoTrần Gia Phụng



    ‘‘Bước vào đầu thế kỷ 21, Việt Nam vẫn là một trong các nước chậm tiến trên thế giới, mặc dầu có sẵn tiềm năng, nhưng v́ sai lầm nghiêm trọng của đường lối Xă Hội Chủ Nghĩa. Những thảm trạng xẩy ra trong hơn nửa thế kỷ vừa qua cần phải được ghi nhớ, trong đó có hai sự kiện gần nhất là việc nhà cầm quyền cộng sản giam cầm công dân vô tội trong tù cải tạo và việc người dân trốn ra ngoại quốc trong những điều kiện bất trắc đầy nguy hiểm. Giam giữ người vô tội trong các trại tập trung cải tạo, chế độ cộng sản đă một mặt vi phạm tội ác, một mặt phung phí năng lực quốc gia để phục vụ mục tiêu đảng phái. Đảng Cộng Sản không chịu thú nhận rằng chính tàn bạo của họ là nguyên nhân khiến người dân phải bỏ nước ra đi, mà họ c̣n lợi dụng cơ hội ra đi đó để cướp đoạt tài sản, thu vàng bán băi, mặc cho tài năng quốc gia thất thoát ra ngoài và biết bao người dân lương thiện đă bị chết kinh hoàng trên biển cả.
    Phạm Hữu Trác – Vàng Máu và Nước Mắt

    Trong 2 năm qua, nhất là từ tháng 9 năm 1978, làn sóng người tị nạn từ nước Cộng ḥa Xă hội chủ nghĩa Việt Nam đang tràn ngập các trại tị nạn ở Đông Nam Á. Ngoài ra, hàng trăm ngàn người Việt Nam đă bị chính quyền Hà Nội bắt buộc ra đi trên những con tàu không thể đi biển được, và đă biến mất trên Biển Đông đầy bất trắc. Ở một số bờ biển Thái Lan, các ngư dân đă phải quay tàu về đất liền khi chứng kiến cảnh hăi hùng như một phần thi thể của người vượt biển vướng vào lưới, vân vân.


    Thuyền Nhân trên đường vượt biển

    http://photo.tcworks.net/slideshow.p...mName=album392



    V́ sao quá nhiều người liều mạng bỏ trốn khỏi Việt Nam? Ta có thể t́m thấy câu trả lời khá dễ dàng trong các chính sách hậu chiến đă được công khai thực hiện: “tiêu diệt các thế lực thù nghịch: trừng trị những kẻ bù nh́n, đánh bại giới tư bản, đánh đuổi người Trung Hoa.”


    Hiện tượng thuyền nhân đă phản ảnh được cái đau khổ của người phải rời bỏ quê hương. Họ không phải chỉ kín đáo đi từ bên này sang bên kia biên giới, chờ đợi cơ hội quay về khi mọi chuyện đă trở lại b́nh thường hay theo ư họ mong muốn. Họ ra đi, không hề biết trước ḿnh sẽ đến đâu, không có viễn ảnh hồi hương, và cam chịu mọi hiểm nguy. Họ phải đang tâm cắt bỏ những ràng buộc với quê hương và dân tộc.


    Vietnamese refugees http://www.library.ubc.ca/asian/Fina...tnam/V-08.html

    Thuyền nhân là những người không chịu đựng được chính sách hà khắc của chính quyền cộng sản Họ là những người mà trước năm 1975, không bao giờ muốn rời bỏ quê hương. Trớ trêu thay, lịch sử đă đảo lộn, đă thay đổi cuộc đời ho vượt xa sức họ tưởng tượng, đến mức họ phải quyết định bỏ lại sau lưng tất cả những người và những ǵ yêu quư, liều mạng sống của ḿnh cũng như chấp nhận mọi nỗi kinh hoàng của một tương lai bất định, để rời khỏi Việt Nam.

    Lesleyanne Hawthorne - Refugee - The Vietnamese Experience

    Những ‘thuyền nhân’, danh từ thế giới gán cho họ, thường phải chịu nhiều rủi ro lớn lao, từ rất lâu trước khi đặt được chân xuống tàu. Trong khi cố gắng t́m cách để thoát được công an và lính biên pḥng, họ đă chấp nhận rủi ro bị bắn, hoặc nhẹ nhất là, bị bắt lại và bỏ tù. Những ai may mắn xuống được tàu phải ra đi trên các thuyền đánh cá mỏng manh đầy ắp người không thích hợp để đi vượt đại dương. Thường thường, họ nhắm hướng đi đến Thái Lan hoặc Mă Lai, nhưng lại cập bến ở đâu đó giữa Hồng Kông và Úc Đại Lợi. Biển cả cũng cướp đi một số người mà không ai biết được là bao nhiêu.


    Thuyền chở 162 người vượt biển bị đắm lúc sắp đáp được vào

    http://www.cic.gc.ca/english/departm...y/chap-6a.html



    Tuy vậy, cuối cùng th́ câu chuyện về những người tị nạn Đông Dương là câu chuyện về những người bị từ chối. Trước tiên và đau đớn nhất, họ bị chính quyền của chính nước họ khước từ. Họ cũng nhiều lần bị cự tuyệt bởi các quốc gia lân bang nơi họ đến xin tạm trú, và bị từ chối ít nhất là vào lúc đầu bởi các nước Tây Phương và Nhật Bản, những quốc gia duy nhất có khả năng và tấm ḷng cứu vớt thuyền nhân.



    Barry Wain - The refused: The Agony of The Indochina Refugees



    “Chúng tôi cần gạo và thực phẩm. Trong những ngày này, chúng tôi không có tiền để mua thêm thức ăn. Chúng tôi không được phép có công việc làm. Nếu thực phẩm được phát trễ, chúng tôi chỉ việc nhịn đói. Chúng tôi có rất ít nước uống, v́ đang là mùa khô. Tôi nghĩ nếu mọi chuyện không thay đổi, chúng tôi sẽ chết hết.”

    Refugee: Thailand, 1978
    “Trong bệnh viện, một người đàn ông và đứa con trai đang khóc trên lán. Tàu họ đă đến đêm hôm trước, nhưng bị lật úp. Người vợ, người mẹ đă chết đuối.”

    Delegates of ‘Society of Friends’: Malaysia, 1979



    “Các lính tuần tra phát hiện có những bao ni-lông xoáy tṛn trên mặt nước. Họ chuẩn bị tăng tốc độ vọt đi tiếp, th́ khám phá ra rằng, các bao nhựa này đă được thổi phồng, căng lên, để chở hai em bé sơ sinh, dĩ nhiên là chưa biết bơi. Người mẹ đang ra sức đẩy chúng. Người cha đă không may chết đuối trước đó.”

    Report: Mekong River Crossing, 1978



    Người mẹ của một em trai 14 tuổi kể lại, tàu của cô bị hải tặc từ một tàu cào của Thái Lan nhảy sang. “Tôi biết bọn chúng sẽ làm ǵ”, cô vừa kể vừa khóc nức nở. “Tôi van xin chúng đừng làm ǵ trước mặt con trai tôi. V́ thế, chúng đưa tôi vào cabin tàu, rồi 7 tên cưỡng hiếp tôi trong đó.”

    Refugee: Malaysia, 1979



    Anh Huỳnh Văn Trân, 34 tuổi, ngồi trên 1 băng ghế gỗ ở trại tị nạn Songkhla ở 1 bờ biển cực nam của Thái Lan, thuật lại câu chuyện của ḿnh lần thứ ba.

    Anh ra đi trên một chiếc tàu gồm 62 người đàn ông, phụ nữ và trẻ em. Họ may mắn gặp thời tiết và gió thuận lợi, và không bị rắc rối ǵ về máy tàu. Vào ngày thứ 5 trên biển, một chiếc tàu mă lực lớn dài 15 mét đến cặp sát mạn tàu anh. Có 12 người đàn ông trên thuyền, tất cả đều trang bị vũ khí đầy đủ. Trước hết, chúng ra lệnh cho hai người trong số phụ nữ sang tàu chúng. Một trong hai người này là vợ anh Huỳnh Văn Trân. Cô này bị gh́ chặt xuống, súng trường kê sát thái dương, và bị ra lệnh không được kêu la. Cô bị chúng cưỡng hiếp. Bọn hải tặc sau đó nhảy qua tàu tị nạn, cướp đi mọi thứ có giá trị, bắn một người đàn ông c̣n do dự khi chúng cướp. Sau đó chúng tăng tốc độ phóng đi với các món của cải chiếm được, nhưng th́nh ĺnh quay ngoắt lại. Vẫn giữ nguyên tốc độ tối đa, chúng nhắm thẳng vào tàu tị nạn và đâm mạnh. Chiếc tàu hải tặc đă lập đi lập lại hành động này trong khi nhóm người tị nạn đang hốt hoảng ngoi ngóp giữa biển khơi. Bọn cướp biển cố ư lái tàu cán qua vô số chiếc đầu đang nhấp nhô, có lẽ v́ không muốn để sót lại nhân chứng nào. Khi vợ anh Trân c̣n đang chới với trên mặt nước, với đứa con trai mới lên 3 đang níu chặt cổ mẹ, cả hai đă bị tàu cán qua và chết đuối. 10 người trong số họ sống sót, sau đó được vớt lên và đưa tới Songkhla.

    Toàn thể thính giả đều nín lặng. Đó là một câu chuyện thương tâm hơn những chuyện khác, nhưng hẳn nhiên không phải là ngoại lệ, hiếm có. Có rất nhiều tàu tị nạn đă bị hải tặc tấn công nhiều hơn một lần.”

    UNHCR: 1979

    Bao nhiêu thuyền nhân đă chết ngoài biển khơi? Không ai biết chắc cả. Nhiều người nói với chúng tôi rằng có lẽ 5% các tàu rời Việt Nam đă bị mất tích, nhưng nhiều người lại cho là có đến 70% tàu không hề đến được bờ.

    Delegates of ‘Society of Friends’: Pulau Bidong, 1979

    Georgina Ashworth The boat people and the road people



    Trong vài năm đầu những thuyền tỵ nạn c̣n được tiếp đón tử tế bởi dân chúng và chính phủ các nước láng giềng nhưng v́ làn sóng tỵ nạn ngày càng nhiều nên những niềm nở ban đầu đă bị giảm xuống hoặc tệ hơn đă bị thay bằng thái độ xua đuổi như đă từng xẩy ra ở Thái Lan, Mă Lai. Tầu của người tỵ nạn, khi bị tầu hải quân Mă kéo trở ra hải phận quốc tế có một số đă bị ch́m và làm chết oan một số người. Do đó nếu như may mắn không bị bắt lại, thoát được gió băo, không hư máy dọc đường và không gặp hải tặc các thuyền nhân vẫn chưa chắc sẽ đến được các trại tạm cư. Đó là chưa kể đến những khó khăn về đủ mọi phương tiện từ vệ sinh, y tế, nước uống, thực phẩm…nơi các trại tỵ nạn. Thật ra dùng chữ trại tỵ nạn cho lịch sự vậy thôi chứ vào thời điểm ấy không một quốc gia nào có thể lường được là con số người chạy cộng sản, bỏ nước ra đi sẽ đông đến như vậy. Do đó chẳng có quốc gia nào đă có những sửa soạn để có thể đón tiếp một số lượng người đến quá ào ạt và nhiều đến thế. Trại tỵ nạn đă là những kho xưởng, những trại lính, những chiếc phà cũ, những chiếc phao nổi, những ḥn đảo san hô hoặc đảo hoang, nhỏ nằm chơ vơ giữa đại dương. Đặt được chân trên đất là phải đi t́m cỏ, đốn cây để dựng lều để tạm trú tránh cái nóng ban ngày và cái lạnh ban đêm….C̣n nhiều nhiều nữa, kể sao cho hết những cái khổ của kiếp lưu vong. Đến năm 1988 v́ quá mệt mỏi với số người tỵ nạn phải cưu mang trên hơn mười năm, Cao Ủy tỵ nạn và các quốc gia có trại tạm cư đă quyết định áp dụng hệ thống thanh lọc để xác định tư cách tỵ nạn chính trị của các thuyền nhân nếu họ đến sau ngày 16-6-1988. Quyết định này cũng đă gây ra khá nhiều thảm cảnh rất đáng thương như được kể lại dưới đây.





    Sau đây là vài trích đoạn về những thảm cảnh đầy nước mắt đó.

    “0 giờ ngày 16-6-1988 mở đầu một định mệnh khác cho những người Việt Nam vượt biển đến Hồng Kông. Kể từ ngày này họ sẽ bị đối xử như những người nhập cảnh bất hợp pháp và phải chờ chính phủ thanh lọc để xác định tư cách tỵ nạn chính trị, trước khi được cứu xét cho đi định cư ở nước thứ ba. Thời điểm phủ nhận ư nghĩa ban đầu sự ra đi của người vượt biển. Thời điểm đánh đổ mọi luận cứ sắp sẵn về quyền tỵ nạn, về quyền đi t́m chỗ trú, và đồng thời che dấu luôn sự bất lực của con người trước thảm cảnh của đồng loại, sự hấp hối của lương tri trước nỗi khổ của những cuộc khởi hành muộn. Như một tấm màng nhện giăng ra chận bắt những cuộc đời lưu lạc, thời điểm 16-6 dựng nên những trại giam khổng lồ trên khắp thuộc địa Hồng Kông, ghi thêm một thảm cảnh thời đại.”

    Lê Đại Lăng - NƯỚC MẮT TRONG TIM

  3. #3
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    DI TẢN VÀ VƯỢT BIÊN

    DI TẢN VÀ VƯỢT BIÊN

    “Ngày 20/5/1994, Lê Xuân Thọ, 28 tuổi, tự rạch bụng ḿnh và tự thiêu. Sau đó anh đă chết v́ phỏng nặng.” Phạm Văn Châu, một cựu quân nhân Việt Nam, tự thiêu ở trại tị nạn Galang, Nam Dương ngày 26/4/1994. Hai ngày th́ anh qua đời.



    Vietnamese refugees were allowed to come on shore at the Government Dockyard at Canton Road. A number of water taps were installed for them to take a cold shower.

    http://www.library.ubc.ca/asian/Fina...tnam/V-20.html

    Ngày 12/4/1992, Nguyễn Văn Quang, một hạ sĩ thuộc Tiểu đoàn 1 Không vận của Nam Việt Nam, đă treo cổ tự tử ở trại Galang, Nam Dương, sau khi bị khước từ tư cách tị nạn chính trị, và đơn kháng cáo của anh cũng bị bác. Anh mất đi để lại 1 góa phụ và 3 đứa bé mồ côi cha c̣n nhỏ dại.

    Ngày 30/8/1991, tại trại Galang, Nam Dương: cô Trịnh Kim Hương, 28 tuổi, tự thiêu sau khi bị phủ nhận tư cách tị nạn chính trị.

    Hoàng Thị Thu Cúc, 26 tuổi, một trong số vài người sống sót khi vượt biên khỏi Việt Nam. Cha cô là lănh tụ của một chính đảng chống cộng và đă chết trong ‘trại cải tạo’ của cộng sản. Gia đ́nh cô bị trục xuất khỏi nhà, tới một trại lao động cưỡng bức. Bản thân Cúc cũng bị đuổi khỏi trường v́ ‘lư lịch gia đ́nh xấu’. Bất kể những sự kiện trên, cô vẫn bị khước từ quy chế tị nạn. Tháng 12/1992, khi đơn kháng cáo của cô cũng bị bác bỏ, cô đă treo cổ tự tử, để lại bốn anh em trai ở trại Sikiew, Thái Lan.

    Vụ tự sát của Lâm Văn Hoàng, 22 tuổi, đă gây nên một cuộc biểu t́nh phản đối ở trại tị nạn Pulau Bidong, Mă Lai. Anh đă lao ḿnh từ vách đá xuống biển, sau khi bị từ chối tư cách tị nạn chính trị vào tháng giêng năm 1991.

    Trần Văn Minh, cựu Trung úy, treo cổ tự tử ngày 10/10/1992. Ông được cấp quy chế tị nạn chính trị, nhưng người con trai Trần Minh Khôi, 18 tuổi, đă bị rớt ‘thanh lọc’. V́ Khôi không có 3.000 đôla Mỹ mà các viên chức duyệt xét đ̣i hỏi, đơn kháng cáo của anh sau đó cũng bị bác.

    Ngày 8/12/1993, Trần Anh Dung từ trần khi lên cơn suyễn, sau khi Cao ủy tị nạn Liên Hiệp Quốc (LHQ) đóng cửa trạm y tế duy nhất trong trại tị nạn.

    Tháng 2/1993, Lưu Thị Hồng Hạnh, một em gái 16 tuổi không người thân thích, đă tự thiêu sau khi Cao ủy tị nạn LHQ rút lại quy chế tị nạn của em.


    Vietnamese refugees arriving at Hong Kong by junks.


    Crowd of refugees

    http://www.library.ubc.ca/asian/Fina...tnam/V-18.html



    “Chị thương, hôm nay em đă bị từ chối tư cách tị nạn chính trị. Rạng sáng mai, em sẽ treo cổ tự tử để thoát mọi đau khổ. Nhưng lúc nào em cũng sẽ ở bên cạnh chị để che chở cho chị và các cháu”

    (Thư tuyệt mệnh của anh Nguyễn Văn Hai, 27 tuổi, viết cho chị, vào buổi tối trước khi tự tử trong Trại cấm Whitehead, Hồng Kông, ngày 16/2/1990.)

    “Bản tường tŕnh của luật sư đă khiến tôi phải sống trong lo sợ. Nó đă dần dần đẩy tôi vào chỗ chết.”

    (Trịnh Anh Huy, 20 tuổi, tự thiêu ngay trước văn pḥng của Cao ủy tị nạn LHQ ở Galang, Nam Dương, ngày 27/8/1992.)

    “Tôi chết đi không phải v́ tuyệt vọng, mà v́ tôi muốn đem lại niềm hy vọng và sự sống cho nhiều người khác.”

    (Vài hàng tuyệt mệnh của Nguyễn Ngọc Dung, 25 tuổi. Ngày 3/5/1993, anh đă tự đâm vào tim và chết tức khắc trước văn pḥng Cao ủy tị nạn LHQ tại trại Sungei Besi, Mă Lai.)


    Living in the Refugee Camp

    http://vietnamese-american.org/tuantran/journey.html




    Boat people were waiting for medical checks before transferring to refugee camps

    Lời Kết

    Cuộc Di Tản và Vượt Biên sau ngày 30 tháng tư năm 1975 là một bản án muôn đời đối với chính sách vô nhân đạo của Cộng Sản Việt Nam. Những cảnh tượng đau thương, kinh hoàng mà người Di Tản và Vượt Biên phải gánh chịu thật không bút nào ta hết. Tuy nhiên trong biến cố đầy bất hạnh đó, cũng không thiếu những tấm ḷng bao dung, thể hiện rơ t́nh người, của binh sĩ và dân chúng Hoa Kỳ cũng như các quốc gia trong thế giới tự do, nhất là các nước vùng Đông Nam Á đă bao dung chúng ta tại các trai tị nạn.

    Chúng ta mang ơn dân chúng và chính phủ các quốc gia đă cưu mang người Việt tỵ nạn, giúp chỗ tạm cư, cho phép định cư hoặc đă cứu vớt tầu tỵ nạn khi lạc lối, hết lương thực hay máy tầu bị hỏng. Chắc chắn là sự thành công của thế hệ thứ hai trong Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại, sẽ không bao giờ xảy ra nếu không có sự cưu mang của các quốc gia trong Thế Giới Tự Do vào thời điểm đen tối đó.

  4. #4
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    DI TẢN VÀ VƯỢT BIÊN

    DI TẢN VÀ VƯỢT BIÊN

    Ngày hôm nay, sau hơn 30 năm tỵ nạn, viết lại một phần nhỏ trong những nỗi khổ đau của dân tộc để chúng ta ôn lại và ghi nhớ một sự kiện lịch sử không phải là của riêng Việt Nam, mà là của thế giới, trong đó chính chúng ta vừa là tác nhân, vừa là nhân chứng.


    Các em tới Trại Tỵ Nạn . . .


    và thành công trên quê hương thứ hai

    Hơn 30 năm sống lưu vong, lúc nào đa số chúng ta cũng vẫn mong có ngày trở về để góp phần xây dựng lại quê hương lạc hậu, giúp cho dân tộc ta sớm được sống trong không khí Tự Do, Dân Chủ đích thực mà dân ta chưa bao giờ được hưởng.



    Điều này chỉ có thể xảy ra khi người Việt trong và ngoài nước thật tâm đặt quyền lợi của Tổ Quốc lên trên mọi quyền lợi riêng tư và thoát được sự chi phối của các thế lực chính trị quốc tế.

    TÀI LIỆU THAM KHẢO



    Tran Gia Phung – Speech Delivered at Montreal, Canada on April 30, 2002



    Nguyễn Văn Canh - Cộng Sản Trên Đất Việt - Kiến Quốc 2003



    Ashworth Georgina – The Boat People and The Road People – Quartemaine House 1979



    Phạm Hữu Trác – Hội Quốc Tế Y Sĩ Việt Nam Tự Do – VÀNG MÁU và NƯỚC MẮT: Khảo Sát Về Tù Cải Tạo và Vượt Biên Trong Giới Y Sĩ – 2000



    Paul Anthony – Why They Flee Their Homeland – Reader’s Digest December 1979



    Grant Bruce – The Boat People: An ‘AGE’ Investigation – Penguin Books 1979



    Hawthorne Lesleyanne – Refugee The Vietnamese Experience – Oxford University Press 1982,


    Wain Barry – The Refused: The Agony Of The Indochina Refugees – Simon & Schuster 1981



    Lê Đại Lăng – Bút Kư Hồng Kông: NƯỚC MẮT TRONG TIM – 1990, p. I



    Support Committee for Refugees from Vietnam – Vietnamese Boat People: A CRY TO HUMANITY – 1994

  5. #5
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Nghe kể chuyện vượt biển, vượt biên

    Nghe kể chuyện vượt biển, vượt biên







    Bùi Văn Phú
    Viết từ California



    [Đọc sách "Chuyện Kể Hành Tŕnh Biển Đông, Tuyển tập I" của nhiều tác giả. 483 trang. Xuất bản năm 2003]

    Tác giả Bùi Văn Phú từng làm việc tại các trại tị nạn Đông Nam Á trong thập niên 1980.

    Trong bài đầu tiên của loạt bài viết cho BBC nhân 30 năm kết thúc chiến tranh, tác giả chiêm nghiệm về thân phận của những thuyền nhân Việt Nam.

    Ba mươi năm sau cuộc chiến, cả triệu người Việt đă bỏ nước ra đi, từ đợt di tản tháng 4 năm 1975, rồi chuyện vượt biên, chuyện đoàn tụ gia đ́nh (O.D.P.), con lai, tù cải tạo (H.O.), đến diện thuyền nhân hồi hương (R.O.V.R.) sau này, tất cả đều trải qua nhiều lo sợ bất định không biết giấc mơ được rời khỏi Việt Nam có sẽ suông sẻ hay không. Chỉ khi đă đến được nơi định cư th́ hành tŕnh đó mới coi như kết thúc.

    Xem trang đặc biệt về Việt Nam 30 năm sau chiến tranh

    Con đường vượt biên, kéo dài hai thập niên sau 1975, có đông người ra đi nhất và cũng là con đường gian nan nhất. Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc ước lượng một phần ba số người vượt biển, khoảng vài trăm ngh́n, đă không đến được bến bờ.

    Qua nhiều chuyện kể trong "Hành Tŕnh Biển Đông", những người rời Việt Nam ra đi t́m tự do bằng đường biển, đường bộ, hay bằng cả hai cách, đều biết rơ trong quyết định ra đi của ḿnh th́ may mắn sống c̣n chỉ có một phần ba.

    Câu nói: "Một là con nuôi má, hai là má nuôi con, ba là con nuôi cá" được người vượt biển suy ngẫm trước khi ra đi và chỉ biết cầu xin Trời Phật cho số mệnh được b́nh yên.


    Xác một con tàu vượt biển, năm 1987, c̣n trên băi biển đảo Pulau Bidong, Malaysia mà theo kể lại trên 300 người vượt biên trên tàu đă chết. (ảnh Bùi Văn Phú)
    Xác một con tàu vượt biển, năm 1987, c̣n trên băi biển đảo Pulau Bidong, Malaysia

    Rất nhiều trong số 46 chuyện kể là hoàn cảnh khốn cùng của những tàu vượt biển gặp nạn: lạc đường, chết khát, bị hải tặc cướp, hăm hiếp, có khi cả chục lần.

    Câu chuyện của một con tàu ra đi từ vùng Cái Sắn, Rạch Giá vào tháng Ba năm 1977 có lẽ hăi hùng hơn cả. Tàu bị hải tặc cướp, hăm hiếp.

    Khi bị tấn công lần thứ nh́, đám thanh niên nhất quyết chống lại và 62 thuyền nhân đă bị chúng giết, chỉ c̣n một người sống sót v́ bị những xác chết khác đè lên.

    Cảnh người thuyền nhân duy nhất giữa đống xác người đầy máu tựa như cảnh phóng viên Cam Bốt Dith Pran lội bùn giữa những cánh đồng chết chóc đầy xương và sọ người trên đường trốn chạy bàn tay Khờ Me Đỏ trong phim "Killing Field", hay cảnh phi công Mỹ rớt máy bay, trên đường trốn thoát đă đi lạc vào một vũng lầy ngổn ngang xác người ở Bosnia-Kosovo trong phim "Behind Enemy Lines".

    Có những con thuyền lạc đường, cạn thức ăn, nước uống nên người đă phải ăn thịt người để sống, mẹ phải cắt vú ḿnh lấy máu cho con bú kẻo không đứa bé chết khát. Nhiều người đă chết v́ đói khát, người thoi thóp sống lo thủy táng người chết và chỉ c̣n biết cầu xin người đă chết phù hộ. Có khi những điều khấn xin được đáp lại bằng những cơn mưa hoặc được tàu lớn cứu vớt.

    Tháng Bảy năm 1979 có một tàu vượt biển bị băo đánh vỡ ra từng mảng, 350 người chỉ c̣n 14 sống sót và đă có một hài nhi ra đời giữa ḷng biển khơi trong khi người mẹ, tuổi chừng 30, đang bám víu lấy mạng sống trên một chiếc bè trôi nổi mà người đỡ đẻ lại là một nam học sinh ở tuổi 17.

    Câu chuyện vượt biển này tưởng như kết thúc ở bến bờ tự do, nhưng 14 người sống sót lại được tàu đánh cá của Việt Nam vớt, đưa trở về điểm khởi hành. Không biết số mạng của đứa bé trai sinh giữa ḷng biển khơi giờ đây ra sao? C̣n sống, năm nay em đă 26 tuổi.


    Bia tưởng niệm những người đă chết trên đường vượt biên dựng trong nghĩa trang trại tị nạn Galang, Indonesia, 1986. (ảnh Bùi Văn Phú)
    Bia tưởng niệm những người đă chết trên đường vượt biên dựng trong nghĩa trang trại tị nạn Galang, Indonesia

    Trên biển có khi tưởng như t́m được sinh lộ th́ lại đi vào cơi chết. Như chuyện của anh Sáu Hoàng, cựu sĩ quan hải quân.

    Sau nhiều ngày mất phương hướng v́ tàu hỏng máy, thấy một b́nh nhựa trôi trên biển nên anh nhảy xuống vớt với hy vọng t́m được nhăn hiệu hay một dấu chỉ nào để biết tàu đang trôi dạt nơi đâu, có gần bờ bến không.

    Dưới nước anh Hoàng nắm được b́nh, nhưng con tàu bỗng trôi nhanh khiến anh bơi đuổi không kịp. Nhiều người trên tàu ném hết mọi thứ có thể nổi để anh bám vào, nhưng chẳng cứu anh được. Con tàu hỏng máy đă bỏ anh lại.

    Trong một chuyện kể khác, cũng là trường hợp tàu hư, lạc đường vào năm 198.

    Sau nhiều ngày đói khát, tàu trôi dạt đến gần một đảo hoang, bốn thanh niên nhảy xuống bơi vào t́m xem có sự sống, thức ăn hay không. Khi họ bơi trở ra th́ con tàu lại cứ trôi xa đảo, bỏ lại bốn thanh niên.

    May mắn thoát hiểm nguy trên biển, đến được đất liền nhưng cũng chẳng có cơ hội định cư. Đó là câu chuyện về chị Nguyệt một ḿnh đến được trại, ở lâu v́ không có diện định cư nên phải bán ḿnh nuôi thân, nuôi gia đ́nh c̣n ở Việt Nam. Chị mua hương bán phấn với lính Thái, mang thai, xấu hổ quá chị tự tử.

    Cuộc sống trong trại tị nạn chỉ tạm bợ nhưng cũng nhiều buồn vui. Một thiếu nữ được tàu Mỹ vớt, chăm lo mọi thứ từ đồ ăn thức uống, quần áo được giặt bằng máy nên cô lạc mất chiếc nịt ngực. Khi chuyển vào trại, ra đường không có nịt ngực, thường bị nhiều chàng thanh niên ḍm ngó, chọc ghẹo khiến cô luôn e thẹn và cảm thấy sự thiếu vắng một vật đă thường mang trên người như là mất mát, thiếu thốn một cái ǵ thân thương lắm.

    Khi làn sóng người vượt biển lên cao, chính phủ các nước Đông Nam Á có lệnh không cho ngư dân của họ cứu vớt thuyền nhân. Nhiều tàu bè quốc tế cũng đă làm ngơ trước tín hiệu SOS của thuyền gặp nạn. Nhưng không phải tất cả thuyền trưởng đều quay mặt đi.

    Có những câu chuyện thuyền trưởng tàu Phi Luật Tân, tàu Nhật, tàu Mỹ v́ lương tâm đă cứu vớt nhiều người vượt biển được kể lại. Ngay cả khi hải tặc Thái Lan tạo kinh hoàng cũng có những ngư dân Thái cứu người vượt biển, đem họ vào bến bờ b́nh an.

    Có người thương binh một chân, là cựu đai úy trong quân đội Thái, đă nhỏ nước mắt khi nh́n thấy một em bé Việt Nam chỉ c̣n da bọc xương trên tay người mẹ đang đi t́m sữa. Ông đă cho bà 20 đồng baht để bà ra chợ mua sữa cho đứa bé.

    Hai thập niên trước, thảm trạng của thuyền nhân đă được ghi lại trong tập tài liệu Hải Tặc Trong Vịnh Thái Lan do nhà văn Nhật Tiến và kư giả Dương Phục kể.

    Hai mươi năm sau, những câu chuyện đi t́m tự do được kể lại trong "Chuyện Kể Hành Tŕnh Biển Đông" bởi nhiều nhân chứng. Đây không phải là một tác phẩm văn chương mà là một chứng liệu lịch sử.

    Nhiều trong số 46 bài viết là tự truyện của những tác giả không phải là người cầm bút chuyên nghiệp hay có tài năng văn chương. Họ kể lại bằng lối văn mộc mạc, chân thành. Đó là những câu chuyện có thực, rất thực.

    Trong thế kỷ vừa qua thế giới đă chứng kiến nhiều vụ giết người tập thể: ḷ hơi ngạt giết người Do Thái trong các trại tập trung; Khờ Me Đỏ tàn sát người Cam Bốt; dân bộ lạc ở Rwanda, Châu Phi giết nhau; diệt chủng ở Bosnia-Kosovo. Ở những nơi này ngày nay c̣n nhiều chứng tích để lại như một nhắc nhở cho nhân loại.

    Nhưng hàng trăm ngàn thuyền nhân đă bỏ ḿnh, thân xác họ ch́m sâu trong ḷng biển cả. C̣n chăng là một số h́nh ảnh của Cao Ủy Tị Nạn ghi lại những xác người, màu đỏ đen, da dính vào xương, nằm phơi trên đồi san hô giữa biển cả.

    "Hành Tŕnh Biển Đông" chỉ là một phần nhỏ của thảm trạng thuyền nhân v́ c̣n nhiều những con tàu khác đă ch́m sâu trong ḷng đại dương mang theo tất cả, không để lại dấu vết, không c̣n ai sống sót mà kể lại.

    Ngoài chuyện kể, giờ cũng cần có một bảo tàng viện để lưu lại chứng tích của một giai đoạn gian nan của những người vượt biên.

    .................... .......... .................... .......... .........

    Đăng Trần, Orange County
    Bản thân tôi là thuyền-nhân và được tàu Cap Anamour (51/703) vớt & được đem tới trại tỵ nạn Palawan, Philippines (October 1981). Lúc bấy giờ, tôi chỉ được hơn 15 tuổi và có tên trong danh sách “nghĩa vụ quân sự/lao động” (v́ là thành phần co cha, chú là sĩ-quan VNCH).

    Như bao mọi người Mẹ VN khác, Mẹ tôi đă đau xót, cắn răng đưa nấm-ruột của Bà đi t́m Tự-Do. Ôi, đau đớn thay cho câu “ca-dao” thời bâ’y giờ: "Một là con nuôi má, hai là má nuôi con, ba là con nuôi cá". Mặc dầu đă gần 25 năm qua, những kỷ niệm hăi hùng về những ngày vượt biển vẫn c̣n ám ảnh trong tâm khăm (kết quả là cho đến nay, tôi sợ nước và từ chối tất cả những chuyến đi “cruise” do gia-đ́nh và bè bạn tổ chức).

    Tôi cũng đă bật khóc khi đọc lại cuốn tự truyện “Hành Tŕnh Biển Đông” của nhiều nhân chứng. Trong đó có một tác giả đă kể lại sự hy-sinh của người em gái (trong lúc đắm tàu) để cho cô được sống, để rồi cuối cùng chính bản thân cô phải trả giá cho sự sống này. Có chua xót nào hơn nỗi chua xót này. Cám ơn Ngụy Vũ, người đă có công gom góp và ấn bản tập sách này để cho thế giới và thế hệ con em chúng ta hiểu và trân quí hai chữ Tự Do.

    Trần Minh
    Tôi đă đọc và nghe các cuộc hành tŕnh vượt biển. Những chuyện thật khủng khiếp. Thật là tội nghiệp. Tôi nghe kể có những đứa bé sau khi trải qua sự khủng khiếp bị hải tặc nó câm luôn cả tuần không thốt ra một lời nào.

    Trên đường đi khi chưa ra biển bị bể mánh chạy tán loạn gặp mấy tên dẫn đường rừng cầm những cây mă tấu sáng quắc lăm lăm đe doạ kẻ nào không có tiền đưa th́ ở lại trong rừng c̣n người nào có tiền đưa cho chúng chúng mới dẫn đường quay trở về không th́ cũng bỏ xác nơi rừng sâu núi thẳm.

    Thế nhưng xét cho kỹ kẻ phải ở lại không phải là họ không can đảm không khao khát tự do mà là v́ những lư do khác. Ví dụ như không có vàng th́ làm sao vượt biên? Không yêu ai đó th́ làm sao mà nhắm mắt lấy để được ai đó trả tiền cho đi.? Và kẻ ở lại để đối đầu với cuộc sống ngoi lên từ những nhẫn nhục đau khổ cũng là những người vô cùng can đảm.

    Rất tiếc tôi không có th́ giờ để viết tiếp câu truyện của tôi, nơi ấy tôi sẽ nói lên thân phận của những con người như thế!

    Nguyễn Nhân, Texas
    Tôi là thuyền nhân đến trại Palawan, Bataan Phi luật tân. Tôi đă trải qua, tai nghe, mắt thấy những cảnh tượng hăi hùng đó. Tôi cũng đă từng đấu tranh, vận động chống hồi hương thuyền nhân. Khi đọc những ḍng trên, tôi đă mũi ḷng, rỡn tóc gáy và nhớ lại cuộc hành tŕnh 25 năm trước như in trong tâm khảm cứ như là mới xảy ra hôm qua.

    Tâm Đức, Đức
    Tôi rất cảm thông với các vị thuyền nhân, ai đă trải qua thân phận của những thuyền nhân mới cảm thông được.

  6. #6
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    DI TẢN VÀ VƯỢT BIÊN

    DI TẢN VÀ VƯỢT BIÊN
    Thảm sát trên đảo Trường Sa : chuyện chưa bao giờ kể





    Câu chuyện sau đây được viết ra để tưởng niệm hơn 130 đồng bào trên " ghe ông Cộ " trên đường vượt biển t́m tự do đă bị cộng sản Việt Nam tàn sát dă man vào tháng Tư năm 1979 ở đảo Trường Sa, và cũng để gửi đến các con yêu quư của ba: Lê Chí Dũng, Lê Thị Đông Nghi, T́ T́.


    ***
    *


    Chúa ơi cứu con với ! Tiếng thét đau thương, hăi hùng của người phụ nữ nằm sát cạnh tôi, cùng lúc với một gịng nước ấm văng vào mặt đă khiến cho tôi phải lấy tay vuốt mặt ḿnh và bàng hoàng nhận ra toàn là máu, máu nóng đă ập vào mặt tôi từ người phụ nữ bên cạnh. Tôi ngẫng cao đầu lên một chút để nh́n sang bên cạnh, người phụ nữ đang oằn oại với vết thương một bên đùi vỡ toác do đạn xuyên phá, máu tuôn xối xả. Tôi xót xa nh́n người phụ nữ đang lăn lộn v́ đau đớn, nhưng cũng đành bất lực không cứu giúp ǵ được, v́ ngay bản thân tôi cũng đang nằm bẹp dí xuống sàn tàu để tránh đạn. Đạn vẫn tiếp tục nỗ, tiếng rên xiết, la hét, kêu gào, của những người bị trúng đạn quyện vào nhau tạo thành một thứ âm thanh hỗn loạn đến rợn người, âm thanh giữa biên giới của sự sống và cái chết chỉ diễn ra trong một cái nháy mắt, mới c̣n nghe rên la đó.... một loạt đạn tiếp theo đă ghim chặt vào thân người, lập tức tiếng rên la im bặt, một con người đă vĩnh viễn ra đi, những người khác tiếp tục rên la, chờ đợi loạt đạn tiếp theo cướp lấy mạng sống của ḿnh. Tôi tự nhủ thầm, muốn sống c̣n phải rời bỏ con tàu ngay lập tức. Tôi vùng dậy, và nhận ra con tàu đang ch́m dần từ phía sau của thân tàu, phía trước của con tàu đă bị đạn pháo bắn găy, đang chông lên trời. Trước mặt tôi, chung quanh tôi, máu thịt văng tung tóe, thây người nằm la liệt, một cảnh tượng hăi hùng mà tôi chưa từng chứng kiến. Thần kinh tôi tê cứng v́ sợ hăi khiến tôi muốn khụy xuống, nhưng bản năng sống c̣n của con người trong tôi bừng sống dậy, tôi lao ḿnh ra khỏi con tàu phóng xuống biển vừa lúc một cơn sóng biển chụp tới cuốn tôi rời xa con tàu. Thật là may mắn, tôi vừa rời xa con tàu th́ dường như cùng một lúc, một trái đạn pháo kích rớt chính xác ngay giữa con tàu khiến con tàu găy đôi và ch́m xuống biển, mang theo toàn bộ số người có mặt trên tàu lên tới trên 130 người. Trên mặt biển bây giờ đă không c̣n thấy bóng dáng con tàu đâu nữa, thay vào đó là những vật dụng bể nát của con tàu, những tấm ván bể nổi trôi lềnh bềnh trên sóng nước. Xác người chết ! xác người chết trôi nổi quanh tôi, phụ nữ, đàn ông, con nít, già có, trẻ có. Tất cả, không một ai c̣n được toàn vẹn thân thể, không một ai c̣n sống cả..... Có lẽ tôi là người sống sót duy nhất c̣n lại của con tàu, ngoài tôi ra th́ chỉ c̣n lại toàn rặt là xác của người chết. Máu, là máu, từng vệt loang dài chảy ra từ vết thương của những xác chết, theo gịng nước trôi quanh tôi. Thủy triều đang lên, tôi rùng ḿnh nghĩ đến đàn cá mập đói đang lẫn quẩn quanh đây chờ thủy triều lên cao sẽ theo mùi máu mà kéo đến, th́ cho dù tôi có c̣n sống th́ vẫn phải làm mồi cho đàn cá mập như những xác chết kia mà thôi! Tôi vươn tay cố gắng chụp lấy một mảnh ván để bám vào, tôi bám chặt vào mănh ván, nhắm mắt lại cầu nguyện, dọn ḿnh chờ chết, và trong cái khoảnh khắc tuyệt vọng đó tôi đă nghĩ đến gia đ́nh, nghĩ đến những người thân thương ruột thịt, đă không biết được rằng tôi đă bỏ thây giữa biển cả và làm mồi cho cá mập. Vĩnh biệt tất cả.


    3 giờ sáng thành phố Nha Trang vẫn c̣n ch́m trong giấc ngủ, hàng trụ điện bên đường Nguyễn Thái Học tỏa ánh sáng mờ mờ, soi bóng tôi trên đường. Vai mang cái phao ( loại ruột xe hơi được bơm căng lên ) giả làm dân đi tắm biển sớm ( đối với người dân Nha Trang th́ việc có người đi tắm biển vào lúc 3- 4 giờ sáng là chuyện thường ) tôi rảo bước thật nhanh hướng về phía biển cho kịp giờ hẹn. Xuống tới băi cát, tôi đưa mắt nh́n quanh ḍ xét địa thế, băi biển vắng lặng không một bóng người, tôi yên tâm cởi bỏ áo ra chỉ mặc chiếc quần cụt, giả vờ làm vài động tác thể dục trước khi bước xuống nước. Từ xa, về phía biển có ánh sáng mù mờ của một chiếc thuyền câu đang tiến vào bờ, tôi lại đảo mắt nh́n quanh kiểm soát lần cuối trước khi rời băi cát. Bước xuống nước, tôi nhoài người bơi nhanh về hướng chiếc thuyền câu, trả lời đúng mật mă, một bàn tay vươn ra kéo tôi lên chiếc thuyền. Thuyền lướt nhẹ trên mặt biển hướng về " Ḥn Tre " cá nhân tôi th́ phải nằm sát xuống khoang thuyền không được ngồi dậy cho đến khi tới chổ ẩn nấp ngoài đảo Ḥn Tre. Ḥn Tre là một ḥn đảo lớn, nằm cách bờ biển và hải cảng Nha Trang khoảng chừng 6 cây số, cư dân trên đảo này rất ít chỉ chừng vài chục gia đ́nh, hầu hết đều sinh sống bằng nghề chài lưới. Nơi đây cũng là nơi ẩn nấp của các tàu thuyền và ngư dân mỗi khi gặp gió băo. Con thuyền chạy được chừng hơn tiếng đồng hồ th́ tới một cửa động nằm khuất sâu vào phía trong trên đảo Ḥn Tre, rất khó mà t́m thấy nếu không quen thuộc được địa h́nh nơi đây. Từ phía ngoài nh́n vào, tôi chỉ nh́n thấy một màu tối đen, bằng ánh sáng của cái đèn (pin ) do người ngồi trước mũi soi sáng, chiếc thuyền câu từ từ lướt nhẹ vào động. Tôi được bỏ xuống đây để ẩn trốn chờ đêm đến sẽ ra " tàu lớn " một tốp 5 người đàn ông chạy ra đón tôi, ai nấy đều trần như nhộng, không mặc một thứ ǵ trên người ( sau này th́ tôi cũng như họ v́ không khí trong động rất oi bức khó chịu ) họ là những người đă đến trước tôi từ đêm hôm trước, cũng để chờ để ra tàu lớn. Trời đă sáng tỏ, nhưng từ phía bên trong động, chúng tôi nh́n ra bên ngoài cũng chỉ nh́n thấy được một vệt ánh sáng rất mờ, yếu ớt chiếu sáng vào trong động. Lúc này trong động chúng tôi cũng đă lờ mờ nh́n thấy được nhau, thật là một cảnh tượng sống động có một không hai mà trong cuộc đời của tôi đă được tận mắt nh́n thấy, 5 ông A Đam của thời kỳ hồng hoang, ăn lông ở lỗ, trên người không một mảnh vải che thân, đang đứng giữa một thạch động thiên nhiên th́ thào to nhỏ với nhau, v́ cứ sợ bên ngoài nghe được. Nhưng thật ra th́ có hét to lên cũng chẳng có ai người ta nghe thấy. Không khí trong động đă bắt đầu oi bức dần lên, tôi cũng phải lột bỏ cái quần cụt mang trên người để trở thành người tiền sử như những người khác. Qua câu chuyện, tôi được biết nơi đây là nơi cất giấu dầu chạy máy dùng cho chuyến vượt biển, mỗi ngày một ít số dầu tồn trữ được tăng dần lên theo với thời gian, và đây là giai đoạn chót cho nên 5 người họ đă ở lại luôn trong thạch động, chờ tối nay th́ sẽ chuyển sang tàu lớn. Tôi được chia cho một ít cơm với muối mè đă được vắt cục lại với nhau để đở đói chờ đêm đến ra tàu lớn, nằm ngă lưng trên mặt đá lởm chởm, tôi liên tưởng đến chuyến vượt biển đêm nay và cầu nguyện ơn trên cho mọi việc được thông suốt, nghĩ đến gia đ́nh, nghĩ đến tương lai không biết rồi sẽ đi về đâu, tôi bồi hồi tất dạ. Đêm đến, ánh đèn pin từ cửa động chiếu ánh sáng vào, cùng với tiếng người nói chuyện với nhau. Rơ ràng là không phải những người trong ban tổ chức, mọi người nín thở chờ đợi, mọi người đều nằm ép sát ḿnh xuống mặt đá, không dám cử động mạnh, cũng may là từ phía ngoài nh́n vào th́ chỉ thấy một màu tối đen, nên chúng tôi đă không bị phát giác. Thời gian chờ đợi tưởng chừng như vô tận, sau cùng th́ nhóm người đó cũng bỏ đi, chúng tôi thở ra nhẹ nhơm. Một anh trong nhóm chúng tôi cho biết, đó là những người đi " soi mực " ban đêm và anh đoan chắc rằng họ chỉ vô t́nh đi lạc vào đây mà thôi. Vào khoảng giữa đêm th́ chiếc thuyền câu liên lạc đă trở lại thông báo cho biết là: tối nay không thể khởi hành được v́ có sự trục trặc do lư do an ninh. Mọi người lộ vẻ thất vọng, nhưng cũng đành phải nhận lấy phần lương thực cho ngày mai và tiếp tục chờ đợi. Thời gian chờ đợi trong thạch động dường như dài vô tận, chúng tôi chỉ có việc ăn xong rồi nằm hoặc đi lại cho giăn gân cốt, tṛ chuyện th́ hạn chế tối đa v́ lo sợ bị phát giác.

    Một ngày một đem đă trôi qua, mọi người nôn nóng chờ tin từ con thuyền liên lạc, bóng đêm lại phủ đầy bên ngoài cửa động, con thuyền liên lạc đă trở lại và tiếp tục báo tin buồn vẫn chưa thể khởi hành được, chúng tôi nóng ruột thấy rơ, người đưa tin th́ chỉ làm nhiệm vụ đưa tin và chuyển lương thực cho chúng tôi xong th́ rút lui. Đêm thứ ba, bóng con thuyền đưa tin đă trở lại, lần này có vẻ hối hả hơn hai đêm trước, theo sau nó là ba chiếc thuyền câu khác nối đưôi nhau tiến vào thạch động, tôi đoán là giờ khởi hành đă tới. Quả đúng như tôi dự đoán, chúng tôi được lịnh " bốc " toàn bộ số dầu chạy máy lên bốn chiếc thuyền câu cùng với mọi người rời thạch động ra tàu lớn. Giây phút quan trọng đă đến, chúng tôi lần lượt chuyển hết số dầu lên thuyền, c̣n chúng tôi th́ nằm sát xuống thuyền bên trên được phủ một tấm nylon để che kín. Bốn chiếc thuyền câu theo hàng dọc lặng lẽ rời thạch động hướng về tàu lớn. Khoảng nửa giờ sau, chúng tôi đă cập được sát tàu lớn đang bỏ neo chờ chúng tôi." tàu lớn " là một chiếc ghe đi biển của ngư dân, dài khoảng 15 thước, rộng chừng 3 thước, mà dân trong nghề đi biển gọi là " 3 lốc đầu bạc ", dầu được chuyển cấp tốc và nhanh chóng lên tàu lớn, chúng tôi cũng đă lần lượt leo lên tàu lớn. Tàu nhổ neo, chạy ở vận tốc b́nh thường như là một chiếc tàu đánh cá b́nh thường khác đang hoạt động quanh đó. Tôi leo lên mui tàu t́m chổ ngồi, tôi đă giật ḿnh kinh ngạc khi nh́n thấy toàn bộ số người có mặt trên tàu. Đông quá! chổ nào cũng có người ngồi chen chúc, nhưng rồi tôi cũng không lấy làm quan tâm cho lắm, miễn sao con tàu cứ tiếp tục hướng mũi ra khơi hướng về Philippine. "tháng ba bà già đi biển " câu thành ngữ của những người hành nghề đánh cá, rất đúng trong trường hợp của chuyến vượt biển đêm nay. Mặt biển phẳng như gương, bầu trời trong vắt với muôn v́ sao lấp lánh.


    Sau khi đă bỏ xa khu vực đánh cá trong vùng, con tàu mở hết tốc lực hướng mũi ra khơi. Mặt trời đă ló dạng từ phía chân trời, trời đă dần sáng tỏ, từ trên mui tàu tôi có dịp quan sát rơ hơn toàn bộ khung cảnh trên tàu, điều khủng khiếp đập vào mắt tôi đầu tiên là mặt nước biển chỉ cách bẹ tàu có chừng non 1 thước, chứng tỏ con tàu đang bị khẳm v́ chở nặng con tàu như đang oằn ḿnh trườn tới phía trước với sức nặng vượt quá mức cho phép. Trên khoang tàu la liệt là người, trước mũi, sau khoang, chổ nào cũng có người. Nắng đă lên cao, tuy mới sáng sớm nhưng nắng giữa đại dương đă mang lại cái nóng khó chịu trong người rồi, vài người đă cởi áo ra cũng như tận dụng hết tất cả những ǵ khả dĩ có thể che nắng được để tránh cái nắng đă bắt đầu gay gắt. Chỗ duy nhất có thể tránh nắng được là cabin tàu đă được dành riêng cho gia đ́nh chủ tàu, các hầm tàu b́nh thường dùng để làm nơi chứa cá sau khi thu hoạch được, đă được gỡ bốc nắp hầm đi dùng làm nơi tránh nắng, nhưng có lẽ dưới hầm tàu không khí quá ngột ngạt oi bức nên cứ chốc chốc lại có người trồi lên để hứng lấy khỏang không khí trống trải trên tàu, có người leo lên khỏi miệng hầm th́ cũng có người lại chui xuống dưới hầm tàu, cái quy tŕnh " cắc cớ " này cứ thế mà tiếp diễn trong suốt cuộc di hành.Vài tiếng khóc của trẻ em đă nổi lên v́ khát nước, chủ tàu ra lịnh cung cấp nước uống cho mọi người, người lớn th́ được ba nắp " bi đong " con nít được gấp đôi trong ngày đầu tiên, cứ cách khoảng chừng 1 giờ đồng hồ th́ lại cấp tiếp cho con nít, người lớn th́ phải chịu nhịn lâu hơn. V́ ngồi trên mui cabin nên tôi đă nói chuyện được với gia đ́nh chủ tàu, theo như họ cho biết th́ chuyến đi đă bị gặp khó khăn do địa điểm bị tiết lộ ra bên ngoài bởi những người chung vàng cho chuyến đi, do đó thân nhân của những người này đă " canh me " rất sát chuyến đi. Đó cũng là lư do khiến chúng tôi phải chờ đợi trong thạch động hết hai ngày đêm, đêm thứ ba chủ tàu quyết định phải ra đi bằng mọi giá trước khi việc đổ bể. Tàu cập sát bờ biển nơi " kho gạo" để bốc người, số người dự trù chính thức là gần 60 người. Không ngờ, khi tàu cập vào bờ th́ người ở mọi ngơ nghách túa ra leo lên tàu, và v́ không muốn bị lộ nên chủ tàu đành phải chở hết số khách không có trong danh sách, sau khi kiểm soát lại th́ được biết là con số người đă lên đến hơn 130 người.

    Trời đă vào chiều, gió thổi lạnh, một đàn cá heo " dolphin " bơi cập theo hong tàu trông rất đẹp mắt, mặt trời đỏ ối đang từ từ lặn xuống chân trời, bóng tối bắt đầu phủ xuống, con trăng thượng tuần treo lơ lửng trên đầu, bóng con tàu trông thật cô đơn giữa biển cả mêng mông, con người đă trở nên vô cùng nhỏ bé trước thiên nhiên, đâu đó văng vẳng tiếng cầu nguyện, lúc đầu nhỏ, sau to dần lên, và không hẹn hầu như mọi người trên tàu đều cầu nguyện theo tôn giáo ḿnh. Biển hoàn toàn vắng lặng, không có bóng một con tàu nào qua lại, không gian là một màu đen che phủ đến lạnh người, con tàu vẫn lầm lũi lướt tới, tôi được anh tài công người của chủ tàu đưa cho một " tấm bạt " loang đầy dầu mỡ để che lạnh, tôi cùng vài người khác quây quần phía bên trong tấm bạt cho bớt lạnh. Một ngày một đêm đă trôi qua trong an b́nh, mọi người thầm cảm tạ ơn trên đă che chở cho con tàu. Ngày thứ hai, nắng dường như gay gắt hơn, nắng như đổ lửa xuống những tấm thân đă rộp lên v́ bị phỏng nắng, tiếng con nít khóc vang trời. Nước ! nước đă trở thành một thứ quan yếu bật nhất trên tàu, chủ tàu đă cử bốn thanh niên lực lưỡng đứng canh gác khu vực để nước. con nít được ưu tiên tăng lượng nước uống lên từ 6 nắp lên 8 nắp, nhưng người lớn th́ bị giảm xuống chỉ c̣n có một nắp mà thôi. Ngày qua đi, đêm lại xuống, tiếng kinh cầu lại vang lên, thỉnh thoảng lại có tiếng nôn oẹ vang lên, đoàn lữ hành nằm dă dượi trân ḿnh hứng chịu khí hậu lạnh lẽo của đại dương về đêm. Ngày hứng chịu cái nắng khủng khiếp, đêm về lại phải đón nhận cái lạnh, chỉ mới có hai ngày mà những con người khốn khổ đă teo hóp lại, sức đề kháng dường như đă không c̣n nữa. Ngày thứ hai cũng trôi qua b́nh an, nhưng đoàn người th́ đă hoàn toàn đuối sức, ai nằm chỗ đó, phó mặc cho con tàu muốn đưa ḿnh đi tới đâu th́ đi.

    Trưa ngày thứ ba th́ sóng gió đă nổi lên, mặt biển đă không c̣n phẳng lặng nữa, gió đă nổi lên kéo mạnh từng cơn, bầu trời vần vũ, mây đen kéo về đen kịt, từ xa từng ngọn sóng bạc đầu đang kéo tới. Sóng to , gió mạnh, khiến con tàu chao đảo liên tục, từng cơn sóng cao vời bốc con tàu lên cao, nh́n xuống dưới là một hố sâu thẳm đến rợn người. Tôi cùng những người khác trên mui phải leo xuống khoang tàu, v́ quá nguy hiểm nếu cứ tiếp tục ở lại trên mui tàu. Đang ở giữa trưa mà tôi cứ ngỡ rằng là đang lúc chiều tối v́ bầu trời tối đen, chủ tàu trấn an mọi người rằng :" Đây là chuyện thường thôi, chỉ là " gió Nam " gió Nam th́ mấy người làm nghề biển coi như cơm bữa." Hư thật ra sao không biết, mhưng mọi người đă quá hoảng sợ và trở nên nhốn nháo, khiến con tàu đă bị sóng nhồi chao đảo lại thêm cḥng chành như muốn lật úp. Chủ tàu phải hét lớn ra lịnh, không được nhốn nháo, nếu không muốn tàu bị lật th́ ai ở đâu ngồi đó. Con tàu chuyển ḿnh kêu răng rắc như muốn vỡ ra từng mảnh nhỏ, khiến mọi người đang lúc hoảng sợ càng thêm hoảng sợ, tiếng than khóc, tiếng gọi nhau vang lên thảm thiết, người ta dồn cục vào với nhau như để t́m sự che chở cho nhau. Mưa đă bắt đầu trút xuống, ngày càng nặng hột hơn, mưa giăng trắng xóa cả một khoảng không gian rộng lớn giữa đại dương, con tàu vẫn trồi lên hụp xuống tưởng chừng như muốn hất văng những thuyền nhân xuống biển. Con tàu đă phải chuyển hướng, không thể nào đi theo hướng đă định mà phải cập theo sóng để tránh cho tàu khỏi bị lật úp, người tài công chính của tàu, người nắm giữ sinh mạng của hơn 130 thuyền nhân, giờ đây đang gồng ḿnh ôm chặt bánh lái với sự giúp sức của hai người khác để giữ cho con tàu khỏi bị lật. giữ cho con tàu khỏi bị lật đă là một việc vô cùng khó khăn lắm rồi, việc nhận rơ phương hướng đă không c̣n được đặt ra nữa. Con tàu đă thật sự lạc mất phương hướng, mặc cho sóng gió đưa đẩy, mọi người chỉ c̣n biết cầu nguyện và phó mặc số mệnh vào sự may rủi mà thôi. Cơn bảo vẫn tiếp tục quần thảo từ trưa đến tối, nhồi con thuyền xoay ṿng giữa cơn băo dữ, những người trên tàu giờ đây đa số đă phải chui vào hầm tàu để tránh khỏi bị hất văng xuống biển. Đến tối th́ cơn băo chấm dứt, mọi người ngoi ngóp ḅ dậy, may mắn thay suốt cơn băo dữ mọi người vẫn được b́nh an dù đă phải trải qua một ngày kinh hoàng khiến ai nấy không c̣n ḷng dạ nào nghĩ đến việc tiếp tục di hành thêm nữa. Có ánh đèn ! có ánh đèn ! một người la to, rồi nhiều người khác cùng la, cứ tưởng như là mơ. Nhưng quả thật, từ hướng bên phải của con tàu có ánh đèn leo lét khi ẩn khi hiện do sự trồi lên hụp xuống của con tàu.Tài công hướng mũi con tàu chạy thẳng vào nơi có anh đèn, trông th́ gần, nhưng thật ra th́ tàu phải chạy gần hai giờ đồng hồ mới đến được. càng đến gần th́ mọi người nhận ra đó là một ḥn đảo, đảo nhưng có ánh đèn, nghĩa là có người sinh sống trên đảo. Mọi người mừng rỡ quỳ tạ ơn trên đă dẫn dắt con tàu đến nơi b́nh an. Con tàu đang ngon trớn, bỗng nghe đánh..... ầm một tiếng lớn, tiếng máy tàu gầm rú liên hồi, anh tài công la lớn " Ghe mắc rạng " anh tài công cố gắng bằng mọi cách để xoay chuyển con tàu nhưng đành bó tay đứng nh́n, nh́n mũi tàu ghếch cao ở phía trước, tôi đoán là con tàu đă " cưỡi " lên đá ngầm rồi. Từng đợt sóng mạnh mẽ đánh vào mạng tàu như muốn phá vỡ con tàu ra làm trăm mảnh. Nh́n vào phía trong đảo, thấy không c̣n xa lắm, từ chổ con tàu gặp nạn vào đất liền khỏang chừng vài trăm thước. Phải rời tàu di t́m đi t́m phương tiện cấp cứu thôi, có người lên tiếng đề nghị. Thế là một số trai tráng khỏang chừng 20 người trong đó có tôi, t́nh nguyện rời tàu đi vào đảo t́m phương tiện cấp cứu, chúng tôi được quấn dây thừng thật chặt rồi lần theo đó mà vào chổ nông hơn để đi vào bờ, thật may mắn là vào lúc đó thủy triều đang rút xuống cho nên chúng tôi có thể đi bộ vào đảo được, dưới chân tôi là muôn ngàn những con cầu gai cùng với các loại vỏ nghêu, vỏ ốc, mà tôi đă phải dẫm lên khiến cho ḷng đôi bàn chân bị cắt đứt ngang dọc, khiến đau rát buốt óc. Chúng tôi lần ṃ, nối đưôi nhau tiến vào đảo, đặt chân được lên băi cát trên đảo, chúng tôi nằm nhoài ra nghĩ lấy sức. Hồi tưởng lại cơn băo vừa qua, tôi vẫn c̣n hăi hùng và thầm cám ơn ơn trên đă che chở, bằng không có lẽ giờ này chúng tôi đă vùi thây giữa ḷng biển cả rồi. Lấy lại được sức, đoàn người tiếp tục bước sâu vào trong đảo, riêng tôi th́ c̣n quá mệt nên cũng chẳng vội vă bước theo họ. V́ lư do đó, cho nên tôi trở thành người cuối cùng ở sau chót của đoàn người. Bất ngờ, hàng loạt đèn pha từ phía trong đảo bật sáng chiếu thẳng vào chúng tôi. Có tiếng hô to..... ai đó, đứng lại, vào đây làm ǵ? Lúc đầu chúng tôi nghe không rơ v́ gió biển thổi cùng với tiếng sóng, hơn nữa họ lại nói tiếng Việt phát âm giọng Bắc khiến chúng tôi ngỡ là một thứ tiếng ngoại quốc, có thể là tiếng Phi. Chúng tôi đă vô cùng mừng rỡ v́ biết được ḿnh đă tới nơi chốn mà ḿnh muốn. Chúng tôi vừa đưa cả hai tay lên trời, vừa làm dấu cho họ biết rằng chúng tôi đến đây là do thiện chí và cứ thế tiếp tục bước tới. Nhưng càng đến gần th́ chúng tôi nhận ra rơ ràng là tiếng Việt chứ không phải là tiếng ngoại quốc. Có tiếng hô qua loa phóng thanh. Tất cả đứng lại..... nếu không sẽ bị bắn bỏ. Trời ạ...... chúng tôi đă lạc vào đảo của Việt Nam rồi! chúng tôi lập tức đứng lại, hai tay vẫn đưa thẳng khỏi đầu, chúng tôi hội ư với nhau là: để qua mặt được họ, chúng tôi phải nói rằng tàu vượt biên do nhà nước tổ chức ra đi. Khi nói như vậy, chúng tôi ngầm hai ngụ ư: Thứ nhất, khi biết là chúng tôi ra đi do nhà nước tổ chức th́ họ sẽ t́m phương tiện giúp chúng tôi. Thứ hai, nếu không giúp được ǵ th́ họ cũng sẽ không làm khó dễ chúng tôi, trường hợp tệ lắm là họ sẽ bắt trở về đất liền để đi tù, trong trường hợp này th́ mọi người sẽ an toàn hơn cả. Giọng nói kia tiếp tục vang lên. Tất cả đứng yên tại chỗ đợi lịnh......Thời gian lặng lẽ trôi qua trong ngột ngạt. Khoảng chừng hơn 10 phút, th́ đột nhiên từ phía bờ cát một loạt lửa da cam tóe lên cùng lúc với những tràng súng liên thanh nổ rền trời, tôi giật ḿnh ngó về phía đoàn người. Tôi như bị hoa mắt v́ thấy máu từ các thây người phun ra khắp nơi, thây người đổ ập xuống, tiếng rên la thảm thiết vang lên như muốn xé tan màn đêm. Việt Cộng giết người.....nghĩ thế xong là tôi vội vàng ḅ hết tốc lực để tránh ra xa khỏi đoàn người và đứng lên vùng chạy về phía biển, vài người khác trong đoàn người cũng cố gắng mang thương tích vùng chạy ngược trở ra biển, một số chỉ chạy được nữa chừng rồi th́ ngă xuống nằm lại luôn. Bằng tất cả sức lực c̣n lại trong người, tôi chạy thẳng và nhào người ra biển, dẫm lên cầu gai, vơ nghêu, vơ ốc mà chạy càng xa, càng tốt, trong tôi bây giờ không c̣n có cảm giác đau đơn do bị cầu gai đâm thủng chân nữa, tôi hoàn toàn ở trong trạng thái vô cảm. Sau cùng th́ tôi cùng vài người khác cũng đă chạy ra được nơi con tàu mắc cạn. Mọi diễn biến trên đảo đă được chúng tôi tường thuật lại, thực ra th́ mọi người đă nghe được tiếng súng nổ tuy không biết chuyện ǵ đă xảy ra, nhưng cũng phần nào đoán ra được là đă co chuyện không lành. Khi nghe chúng tôi báo cáo lại mọi chuyện, mọi người đă vô cùng hoảng sợ. Tất cả đàn ông, trai tráng trên tàu, đều được huy động xuống để đẩy con tàu ra khỏi vùng đá ngầm. Trời đă phụ ḷng người ! sức của con người làm sao chống chọi lại với sức mạnh của thiên nhiên, chúng tôi cố đẩy được con tàu xê dịch đi một chút, th́ lập tức các ngọn sóng lại đánh đẩy con tàu trở về vị trí cũ. Đang lúc tất cả đang cố gắng đẩy con tàu th́ súng lại nổ vang rền, đạn bay như răi về phía con tàu. Có thiếng thét kinh hăi... có người trúng đạn... có người trúng đạn, tiếp theo là những tiếng khóc, tiếng kêu gào, khung cảnh rối loạn cả lên, mạnh ai người đó chạy t́m chỗ nấp, nhưng nấp vào đâu bây giờ, giữa trời nước bao la và con tàu khốn khổ đang phải hứng chịu những vết đạn từ những con người tàn bạo? Súng đă thôi nổ liên hồi, nhưng vẫn tiếp tục nổ cầm chừng, và thỉnh thoảng lại có người gào lên kêu cứu khi thân nhân ḿnh trúng đạn. Phải ở vào hoàn cảnh trên th́ mới có thể cảm nhận được hết cái không khí dă man, tàn bạo, đầy khủng bố mà không thể có ng̣i bút nào lột tả được hết. Súng vẫn nổ lai rai, đoàn người vẫn cố gắng trong tuyệt vọng để đẩy con tàu. Nhưng bất lực! hoàn toàn bất lực! mọi người đă kiệt sức v́ đói lạnh, da thịt mọi người đă thâm tím đi v́ lạnh. tất cả đều buông xuôi leo lại lên tàu phó mặc cho trời. Suốt đêm đạn vẫn nỗ, người tiếp tục chết v́ đạn, tiếng kêu khóc vẫn cứ vang lên mỗi khi có người trúng đạn chết. Từ nơi xa xa, có thấp thoáng ánh đèn chiếu sáng từ một ḥn đảo khác bên cạnh.
    (nhạc buồn)

  7. #7
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    DI TẢN VÀ VƯỢT BIÊN

    DI TẢN VÀ VƯỢT BIÊN
    Thảm sát trên đảo Trường Sa : chuyện chưa bao giờ kể


    Trời sáng dần, tiếng kẻn buổi sáng phía trong đảo vang lên. Đoàn người tội nghiệp dơi mắt về hướng đảo trông chờ phép lạ. Trên đảo nhộn nhịp hẳn lên, bộ đội chạy tới chạy lui, gia đ́nh thân nhân vợ con của bộ đội cũng chạy ra đứng nh́n con tàu nghiêng ngă. Đàn bà, con nít trên tàu được cho lên mui tàu hướng về trong đảo quỳ lạy xin được cứu giúp. Tiếng kêu khóc vang dội trời xanh, những con người Việt Nam khốn khổ đang quỳ lạy những con người Việt Nam khác ngừng tay bắn giết đồng bào ḿnh. Lịch sử Việt Nam từ bao nhiêu ngàn năm nay chưa bao giờ có những trang sử ô nhục như thế này. Ô ḱa.... phép lạ xảy ra, có bóng của những bàn tay vẫy phất như báo cho thuyền nhân biết là họ có thể vào bờ được rồi, những cái vẫy tay mời gọi từ phía trong đảo đă làm mọi người như sống lại. Ưu tiên cho đàn bà và con nít vào trước, dây thừng được lấy ra quấn chặt vào ḿnh, cùng với sự giúp sức của vài thanh niên, sợi dây thừng dài được nối từ con tàu vào thân của những người xuống tàu lôi vào bờ. Đoàn người rời con tàu xa dần dần tiến vào bờ, dây thừng vẫn được quấn chặt vào người, cách bờ chừng 100 mét nhưng vẫn chưa thấy người từ trên bờ ra cứu giúp. Bỗng nhiên súng lại nổ. (Tiếng súng) Trời ơi ! súng nổ nhắm vào những người đang quấn chặt dây thừng ngang ḿnh để vào bờ, thế là chỉ c̣n có chờ chết mà thôi, làm sao mà có thể chạy thoát được khi sợi dây oan nghiệt đang trói mọi người lại với nhau. Không một ai sống sót qua tṛ chơi man rợ của lủ người không tim trên đảo. Tiếng kêu gào thảm thiết lại vang lên của những người chồng, người cha, khi nh́n thấy cảnh vợ con ḿnh bị bắn giết vô cùng man rợ như trên. Đàn bà con nít lại được đưa lên mui tàu chấp tay hướng vào đảo mà van lạy xin được buông tha, đáp ứng lại những lời van xin thảm thiết này là những tràng đàn nổ tiếp theo, bóng người đàn bà với tư thế hai tay chấp vào nhau v́ đang quỳ lạy ngă chúi xuống biển từ trên mui tàu, cùng lúc với các em trẻ bật ngữa ra sau dẫy chết v́ trúng đạn. Tàn bạo, man rợ, không thể nào tả hết.

    Nắng đă lên cao, từ trong đảo bóng dáng bộ đội cộng sản chạy lại ụ súng được mọi người trên tàu nh́n thấy rơ mồn một. Tấm phông che súng được kéo xuống, ṇng súng được hạ xuống. Trời ơi !..... một cây súng pháo với ṇng súng dài có đến 10 thước đang hiện ra trước mắt mọi người trên tàu. Kinh hăi,,,,, hỗn loạn trên tàu đă diễn ra, chỉ cần một trái đạn pháo từ khẩu súng đó mà trúng vào con tàu th́ tất cả chỉ c̣n là tro bụi. Cầu nguyện, và dọn ḿnh chờ chết, v́ sẽ không c̣n ai sống sót sau khi trái đạn được khai hỏa bắn trực xạ vào một mục tiêu cố định là con tàu. Nhưng không, tấm phông đă được kéo lại che đậy khẩu súng, ṇng súng đă được nâng lên cao, không c̣n ở vị trí sẵn sàng nhả đạn nữa Bóng dáng bộ đội lại chạy nhốn nháo, và họ đang lấp ráp chân " đế " của cây súng cối. Dă man, tàn bạo, bộ đội cộng sản Việt Nam v́ tiếc một quả đạn súng pháo lớn, nên thay vào đó là đạn súng pháo nhỏ hơn, và dó là tṛ chơi giết người của họ.

    Ầm.... quả đạn đầu tiên được bắn ra rớt xuống biển cách con tàu chừng vài thước, mọi người chưa kịp hoàn hồn th́. Ầm.... quả đàn thứ hai rớt chính xác ngay mũi tàu, thịt xương văng tung tóe, máu đổ chan hoà, cùng lúc với hàng loạt đạn lớn nhỏ vang rền khắp nơi, tay chân, máu thịt, vung văi ở khắp mọi nơi trên tàu, con người lăn lộn, vật vă với vết thương, khung cảnh của địa ngục trần gian đang phơi bày trước mắt tôi. Sau tiếng thét đau thương, hăi hùng của người phụ nữ nằm bên cạnh tôi. Tôi vùng dậy, nhoài ḿnh phóng ra khỏi con tàu, một ngọn sóng cuốn tôi ra xa cùng lúc với một trái đạn khác rớt ngay giữa thân tàu, con tàu gẫy đôi và ch́m xuống biển. Tất cả sự kiện xảy ra chưa đầy 1 tiếng đồng hồ, sau khi tiếng kẻng buổi sáng trên đảo vang lên.

    Chung quanh tôi xác người chết trôi vất vưỡng khắp nơi, những người c̣n sống sót th́ vẫn phải đang lặn hụp với từng cơn sóng biển, và từ trong bờ đảo những tên bộ đội khát máu vẫn giương súng nhắm bắn vào những người sống sót, rất may là nhờ sóng biển nhồi lên hụp xuống mà cái đầu tôi là một mục tiêu khó nhắm đích của những kẻ sát nhân, có người đang cố gắng bơi ra xa khỏi tầm đạn, nhưng nữa chừng th́ tôi bỗng thấy nằm bất động trôi vật vờ trên biển, tôi biết rằng họ đă trúng đạn hoặc chết v́ vết thương quá nặng.

    Thủy triều đă lên cao, sóng biển không c̣n đánh mạnh nữa, và cũng chính v́ vậy mà những người sống sót khó tránh khỏi tầm ngắm của lủ sát nhân. Tất cả đă vĩnh viễn ra đi, tôi cũng đă trôi ra xa khỏi tầm đạn và đang nằm chơi vơi giữa đại dương bao la, khung cảnh hoàn toàn im lặng đến rợn người. Tôi nhắm mắt lại cầu nguyện, nghĩ đến gia đ́nh đang c̣n ở lại đất liền xa xôi, chỉ trong chốc lát nữa thôi những con cá mập sẽ kéo tới và tôi sẽ chết v́ bị cá mập ăn. Nghĩ tới cá mập, tôi hoảng sợ mở mắt ra. Và ḱa, từ hướng xa tôi nh́n thấy một chiếc thuyền câu đang trôi về hướng tôi. Thoạt đầu, tôi cứ tưởng bộ đội công sản Việt Nam hạ quyết tâm đuổi tận, giết tuyệt, nên không dám bơi lại gần. Nhưng nh́n kỷ lại th́ tôi nhận ra trên chiếc thuyền đó hoàn toàn im lặng, không có một sự di động của bất cứ người nào trên thuyền, tôi hơi vững tâm và cố gắng bơi lại gần thuyền. Nắm được be thuyền và leo lên th́ tôi trong thấy có người trên thuyền, nhưng mọi người dang nằm ở tư thế ẩn nấp. Thấy tôi leo lên thuyền họ bèn quay lại sụp lạy tôi và xin tha mạng, tôi không có thời giờ giải thích ǵ cả, bật ngữa ra nằm bất động trên sàn tàu. Sau khi đă hoàn hồn và hỏi chuyện nhau th́ tôi mới vỡ lẽ ra họ cũng trôi dạt vào đây và cũng bị bắn như chúng tôi. Thuyền của họ xuất phát từ Phước Tỉnh, Bà Rịa, trên tàu gồm 13 người gồm 11 người đàn ông và 2 đứa trẻ, bé chị vào khoảng 9 tuổi, cậu em khoảng 6 tuổi. Ba của hai em bé này đă bị bắn vỡ đầu nằm chết ở phía mũi thuyền, một thanh niên khác bị bắn nát mất phần vai hai bên, hai cánh tay chỉ c̣n dính liền bởi phần da c̣n lại trên vai, đang nằm thôi thóp thở dưới hầm máy, t́nh trạng cho thấy là anh này sẽ khó thoát chết do vết thương quá nặng. Trong khi con thuyền đang trôi vật vờ như thế th́ cũng có được 4 người khác từ chiếc tàu bị bắn ch́m trước đó thoát chết, leo lên được con thuyền mà chúng tôi đang có mặt. Như vậy là tổng cộng số người thoát chết của hai chiếc thuyền là 16 người, con số trên 130 người đă bị bắn chết vùi thây dưới ḷng biển lạnh.

    Con thuyền cứ tiếp tục trôi vật vờ trên biển, nhưng càng lúc càng rời xa khu vực nguy hiểm, lúc này đă vào khoảng 10 giờ sáng, nh́n sang bên trái của con thuyền, chúng tôi nh́n thấy một ḥn đảo khác cách chúng tôi không xa lắm. Nghĩa là con thuyền của chúng tôi đang nằm giữa vị trí của hai ḥn đảo. Ḥn đảo này tôi đoán có lẽ là ḥn đảo mà chúng tôi đă thấy thấp thoáng ánh đèn từ đêm hôm trước, đêm hôm bị bộ đội cộng sản Việt Nam tàn sát. Chúng tôi quyết định phải rời xa hai ḥn đảo này càng sớm càng tốt nếu c̣n muốn sống. ( Đây là một quyết định sai lầm mà chúng tôi đă phải trả giá rất đắt, sẽ được nói đến ở đoạn sau ) chúng tôi dùng mái chèo cố gắng chèo con thuyền ra khơi, v́ b́nh xăng của con thuyền đă bị bắn vỡ chảy hết dầu. Gió đă đổi chiều, thổi con tàu tội nghiệp của chúng tôi trôi vào cơi vô định. Con thuyền này dài chừng 6 thước, rộng gần 2 thước, loại thuyền dùng để đi câu ven bờ biển chứ không thể đi xa hơn. Vậy mà nó cũng đă chở 13 con người vượt được hàng trăm hải lư để đến nơi đây cùng chung số phận như chúng tôi.

    Chiều xuống dần, không gian yên tỉnh, không có một bóng dáng của bất cứ một con tàu nào khác ngoài con thuyền của chúng tôi lạc lơng giữa đại dương. Tối đến, chúng tôi phát giác ra một chuyện chết người khác, con thuyền đang bị vô nước từ phía dưới lườn tàu, thế là chúng tôi t́m cách chặn nước không cho tràn vào, và cử người canh chừng để tát nước liên tục. cứ hai người cho mỗi phiên trực tát nước, số phận của 16 người sống sót trên con thuyền này sẽ tùy thuộc vào hai người có nhiệm vụ tát nước ra khỏi tàu, nếu chẳng may họ buồn ngủ, hoặc mệt quá mà chểnh mảng th́ con thuyền sẽ ch́m và mọi người cũng sẽ ch́m theo con thuyền, nhưng biết làm sao hơn đây! khi mà tất cả mọi người ai cũng c̣n mang nét mặt kinh hoàng v́ mới vừa phải trải qua một biến cố quá đau thương và.... phó mặc cho mọi việc cho Thượng Đế.

    Một đêm kinh hoàng trôi qua, người sống phải sống cùng xác chết trên một diện tích vô cùng chật hẹp của con thuyền, vấn đề vệ sinh chung đă được đặt ra, là phải giải quyết cái xác chết vẫn c̣n ở trước mũi thuyền. Thật là tội nghiệp cho hai đứa trẻ, chúng kêu khóc thảm thiết không cho thủy táng người cha thân yêu của ḿnh. Chúng tôi cũng đành phải ch́u ḷng của hai em, nhưng sang đến ngày thứ ba th́ chúng tôi phải giấu hai em mà thủy táng người quá cố để bảo vệ sức khỏe cho những người c̣n lại. Sau này biết được các em đă lăn lộn khóc lóc vô cùng bi thảm, chúng tôi chỉ c̣n biết rớt nước mắt dỗ dành hai em. T́nh trạng của anh thanh niên bị thương dưới hầm tàu đă trở nên tồi tệ hơn v́ không có thuốc men chạy chữa, vết thương đă thối rửa, biết là anh cũng sẽ không qua khỏi, tối ngày thứ ba, sau khi thủy táng người đàn ông ba của hai đứa trẻ, chúng tôi quyết định nấu cho anh chút cháo trộn với đường cát như là bửa ăn tối cuối cùng trước khi ra đi, tôi là người đă đút cháo cho anh ăn, suốt bửa ăn anh cứ liên tục kêu cứu cầu sống, tôi chỉ c̣n biết gạt lệ an ủi với anh là cố gắng chút cháo, rồi mọi người sẽ được cứu sống. Sáng hôm sau, chúng tôi thấy anh đă nhắm mắt ĺa đời, thân thể anh tái xanh v́ đă không c̣n máu. Chúng tôi cũng đă thủy táng anh và cầu nguyện cho linh hồn anh sớm được siêu thoát.


    Đă hơn một tuần lễ lênh đênh trên biển, có một điều thật lạ lùng là chúng tôi không hề nh́n thấy bất cứ một thương thuyền nào qua lại vùng biển này cả. Không lẽ chúng tôi đă lạc vào một vùng biển chết? Lương thực c̣n được mấy kí gạo sau ngày bị bắn dùng để nấu cháo cầm hơi cũng đă hết, nước uống th́ đă hết từ trưa, cơn đói khát đang đốt cháy ruột gan mọi người. Một ngày đói khát đă bắt đầu và sẽ c̣n tiếp tục không biết kéo dài đến bao lâu. Cầu nguyện, chỉ c̣n có biết cầu nguyện thôi, tất cả mọi việc đều đă được sắp đặt và an bày do Thượng Đế, con người đă trở thành vô cùng nhỏ bé trước thiên nhiên, vũ trụ.

    Lại một ngày đói khát nữa, cái khát làm cho da thịt như muốn bốc khói, môi nức nẻ, đầu óc lúc nào cũng bị ám ảnh bởi thức ăn, nước uống. Tội nghiệp hai đứa trẻ, suốt ngày chúng cứ nói đến miếng ăn mà trước đây mẹ chúng làm cho chúng ăn, hoặc thứ nước uống mà chúng thích. Mọi người như mê loạn đi v́ đói và khát. Dường như lời cầu nguyện của chúng tôi đă thấu tới trời xanh. Chiều hôm đó, trời đổ cơn mưa, những hạt mưa như những nước cam lồ trong chuyện thần tiên, tưới mát thân thể chúng tôi, chúng tôi say sưa ngữa mặt lên trời hứng lấy nước mưa mà uống, lấy thêm " can nhựa " trên tàu hứng lấy nước mưa dự trữ. Nhưng trời mưa lại dẫn đến một vấn đề khác. Thuyền ngập nước, thế là mọi người xúm vào tát nước cho thuyền khỏi ch́m, rất may là cơn mưa không kéo dài. và c̣n may hơn nữa là từ đó cho đến ngày được cứu, cứ vài ngày lại có một cơn mưa ngắn giúp chúng tôi có đủ nước uống. Vấn đề nước uống đă được giải quyết, nhưng c̣n thức ăn? chúng tôi đă không c̣n được bất cứ một thứ ǵ để có thể ăn được. Cơn đói cứ dày ṿ, ám ảnh chúng tôi liên tục, người chúng tôi đă teo lại chỉ c̣n lớp da bọc lấy xương, hay nói cho đúng hơn là những bộ xương biết ḅ, v́ chúng tôi không thể nào đứng vững được nữa. Một hôm tôi ḅ xuống hầm máy để cố gắng kiếm thử xem c̣n ǵ có thể ăn được không, tôi trông thấy một chai " xá xị " mới nh́n tôi cứ tưởng đó là một chai đựng dầu nhớt ǵ đó của mấy người thợ máy bỏ quên, nhưng tôi cứ cầm lên và ngữi thử. Một mùi thơm ngào ngạt bốc thẳng vào óc tôi, khứu giác tôi dường như mở ra tối đa để hít lấy mùi thơm đó. Mùi thơm của mỡ heo, đúng vậy, chai xá xị kia là một chai dùng để đựng mỡ heo dành để chiên đồ ăn của các ngư phủ. Tôi thọc ngón tay vào miệng chai và đưa lên miệng mút. Trời ạ! thật là một thứ cao lương mỹ vị mà tôi chưa hề được thưởng thức qua bao giờ, tôi cứ mút lấy mút để cái thứ nước sền sệt nhưng vô cùng tuyệt hảo đó. Chợt nhớ lại những người ở trên, đặc biệt là hai đứa trẻ, tôi ḅ trở lên với chai xá xị, không ai c̣n để ư đến tôi v́ mọi người đều đă nằm liệt. Tôi ḅ đến hai đứa trẻ, tḥ ngón tay tôi móc một ít mỡ heo nhét vào miệng các em, như là một liều thuốc tiên các em bừng tỉnh lại, tôi ra dấu cho các em cứ b́nh tỉnh mà mút mỡ heo, nhắm chừng các em đă dần dần có chút sinh lực trở lại, tôi trút một ít mỡ heo vào cái chén nhựa cho các em, c̣n lại tôi dùng một chiếc đũa thọt vào chai xá xị có mỡ heo và kêu mọi người lại mút lấy chiếc đũa thần kỳ diệu. Nhờ có chai xá xị mỡ heo mà chúng tôi có được một bữa tiệc sang trọng nhất trong đời. Và cũng nhờ chút mỡ heo tuyệt vời đó mà em bé trai có chút sinh lực ngồi nghịch phá cái máy radio nhỏ xíu bất khiển dụng, cái radio bị vỡ ḷi ra mấy sợi dây kẻm nhỏ, một bác lớn tuổi trên thuyền có sáng kiến uốn mấy sợi kẻm nhỏ đó thành những cái móc câu, dùng cước cột các móc câu đó lại, cạy các con ốc nhỏ bám theo be thuyền làm mồi. Kết quả thật bất ngờ khích lệ, buổi đầu tiên bác câu được hai con cá lớn độ bằng bàn tay người lớn. Cái cột buồm vô dụng được bác ấy chẻ ra từng miếng nhỏ dùng để nhóm bếp. Cũng may là trên thuyền c̣n có được cái hôp quẹt c̣n xử dụng được. Hai con cá được bác nướng lên chia đều cho mỗi người. Từ đó chúng tôi được chia ra làm công việc chẻ cột buồm để giữ lữa, bác ấy làm công việc câu cá. Ngày nào có được vài con cá th́ bác chia đều cho mỗi người được một miếng bằng hai ngón tay, ngày nào không câu được th́ mọi người nhịn đói uống nước mưa cho qua cơn đói.

    Chúng tôi đă trôi trên biển 20 ngày qua rôi, nhưng vẫn không nh́n thấy bóng dáng của một chiếc thương thuyền nào, mỗi khi chiều xuống tôi thường ḅ lên trước mũi thuyền nằm trông ngóng bóng dáng một con thuyền. Nằm nh́n những con chim hải âu săn mồi trên biển mà ḷng tôi tan nát, không ngờ rằng cuộc đời của ḿnh lại kết thúc trong bi thảm như thế này. Sợ nhất là mỗi khi chiều về, màn đêm chuẩn bị buông xuống, chung quanh là một màu tối đen, không khí chết chóc cứ như lẫn quẩn đâu đây. Hoặc những khi trời nỗi cơn giông, từng lượn sóng cao như mái nhà bốc con thuyền lên cao, rồi nhận con thuyền xuống đáy, rồi lại bốc lên, cứ như thế kéo dài hàng mấy giờ đồng hồ liền khiến chúng tôi vô cùng sợ hăi. T́nh trạng cô đơn giữa đại dương bao la kéo dài cho đến tuần lễ thứ ba th́ chúng tôi nh́n thấy con tàu đầu tiên. Thật là không c̣n ǵ để diễn tả được nỗi vui mừng của chúng tôi, chúng tôi reo mừng, reo la cầu cứu, v́ nghĩ rằng chắc chắn là ḿnh sẽ được cứu. Nhưng, ô ḱa ! chiếc thương thuyền vẫn lạnh lùngrẽ nước phăng phăng chẳng buồn ngó đến chúng tôi, mặc dù khỏang cách của đôi bên quá gần, gần đến nổi chúng tôi có thể nh́n thấy thủy thủ trên chiếc tàu buôn đang tập trung trên bong tàu để nh́n chúng tôi. Con tàu khuất dạng ở chân trời, chúng tôi ngỡ ngàng, hụt hẫng, sao lại có chuyện lạ lùng như vậy ? Sao lại có những người vô lương tâm đến như vậy? thấy người sắp chết sao không cứu? ngần ấy câu hỏi cứ quay trong đầu tôi cho tôi đến khi tôi lịm người đi v́ mệt mỏi và thất vọng.

    Lại có thêm bóng dáng một chiếc tàu buôn từ đàng xa, như được tăng thêm sức, tôi cùng vài người khác vùng dậy trèo lên mui ra dấu cầu cứu, và cũng như chiếc tàu thứ nhất, họ lạnh lùng bỏ đi mặc cho chúng tôi kêu gào đến kiệt sức. Từ đó trở đi, mỗi ngày chúng tôi nh́n thấy hàng chục chiếc tàu buôn qua lại trong vùng nhưng không một chiếc nào chịu cứu vớt chúng tôi. Thậm chí, có ngày chúng tôi c̣n nh́n thấy hạm đội của Mỹ đang thao dượt trên biển với máy bay phản lực lên xuống trên các chiến hạm. Từ dữ kiện này, tôi đoán là chúng tôi đang ở đâu đó trong vùng vịnh Philipine. Chiều ngày thứ 30 trên biển, chúng tôi tuyệt vọng trong ṃn mỏi, không c̣n hơi sức để kêu cứu nữa, mặc cho các tàu buôn vẫn qua lại nh́n chúng tôi sắp chết. Tôi nằm xoải trên mui con thuyền đưa mắt hững hờ nh́n chiếc tàu buôn mang hàng chữ Nhật chở đầy những cây gỗ với đường kính hai người ôm, chiếc tàu buôn đó, cũng như những chiếc khác trước đây, cũng lạnh lùng băng qua trước mặt chúng tôi mà đi thẳng, tôi cũng chẳng buồn ngó theo làm chi v́ quá chán ngán với thế thái nhân t́nh. Khỏang độ hai tiếng đồng hồ sau, tôi đang nằm nh́n mặt trời xuống dần th́ bỗng giật ḿnh v́ tiếng c̣i hụ ngân dài, tiếng c̣i hụ giữa biển khơi nghe vang dội, tôi nhổm ḿnh dậy nh́n th́ trông thấy từ đàng xa chiếc tàu buôn chở gỗ mà tôi nh́n thấy từ chiều đang tiến về hướng chúng tôi. Và..... Trời ạ ! thủy thủ trên tàu đang nhộn nhịp với dây thừng và phao cấp cứu, và quan trọng hơn nữa là nó đang giảm dần tốc độ để lựa thế lại gần thuyền chúng tôi mà tàu chúng tôi không bị lật do sóng vỗ. Dùng thân tàu to lớn như ngọn núi, chiếc tàu buôn chận lại các ngọn sóng đang vỗ về phía tàu chúng tôi như một bà mẹ đang bảo vệ đứa con bé bỏng của ḿnh, các thủy thủ đang cố gắng quăng các sợi dây thừng sang phía chúng tôi. Họ đă cứu chúng tôi, sau khi đă cột được dây thừng vào thuyền chúng tôi, họ đă kéo được con thuyền cập sát hong chiếc tàu buôn, chiếc thang dây được buông xuống, chúng tôi từng người một dưới sự phụ giúp của các thủy thủ trên chiếc tàu buôn, chúng tôi đă lần lượt lên được chiếc tàu buôn an toàn. Leo lên được bong tàu chúng tôi ngă sóng xoài xuống và nằm im không cử động ǵ được nữa, v́ tất cả sinh lực c̣n lại đă được dồn lại cho việc leo lên chiếc tàu buôn to lớn kia sau gần hai tiếng đồng hồ cố gắng thực hiện. Con tàu nhỏ bé tội nghiệp của chúng tôi được kéo theo sau chiếc tàu buôn, nhưng sau đó có lẽ v́ lư do an toàn đă được cắt bỏ, nh́n chiếc thuyền bé nhỏ tội nghiệp đă cưu mang chúng tôi một tháng trời ṛng rả trên biển đang từ từ ch́m xuống biển, chúng tôi không hẹn mà ai cũng bật lên tiếng khóc chào vĩnh biệt con thuyền.

    Tối đến, chúng tôi được cho uống nước mát ướp lạnh, một loại nước uống thông dụng của người Đại Hàn có pha đường. Thật là một cảm giác khó tả, khi cầm ly nước trong tay nhưng chưa uống được v́ quá vui mừng v́ đă được cứu sống, tất cả xảy ra như trong một giấc mơ. Sáng hôm sau chúng tôi được cho ăn cháo loăng với nước tương ( x́ dầu ) chúng tôi ăn như chưa bao giờ được ăn. Nhưng v́ sợ chúng tôi bị bội thực, thủy thủ trên tàu đă không cho chúng tôi ăn nhiều, vậy mà cũng có người sau khi ăn xong bèn quay qua ói xối xả v́ bội thực. Sau khi t́m hiểu, chúng tôi được biết đây là một chiếc tàu chở mướn của một công ty hàng hải Nhật Bản với thủy thủ đoàn và Thuyền Trưởng là người Đại Hàn, chiếc thuyền đang trên đường chở gỗ từ Pakistan về Okinawa một ḥn đảo nằm về phía cực Nam nước Nhật. Viên Hoa Tiêu cho chúng tôi biết diễn biến của sự việc như sau: Lúc chiều ( là lúc mà tôi nh́n thấy chiếc thuyền ) ông ta đă thấy con thuyền của chúng tôi và đă báo cáo lên Thuyền Trưởng xin phép được tiếp cứu, nhưng viên Thuyền Trưởng cho biết là ông ta không được phép làm vậy, nếu không tất cả nhân viên kể cả ông sẽ bị mất việc và gặp rắc rối, v́ vậy mà chiếc tàu vẫn tiếp tục hải tŕnh như tôi đă thấy. Tuy nhiên, viên hoa tiêu vẫn cứ tiếp tục van nài Thuyền Trưởng với lư do là sẵn sàng bị mất việc, chứ thấy người sắp chết mà không cứu là không được. Hơn nữa, theo tin tức khí tượng cho biết th́ tối nay băo sẽ kéo tới và chắc chắn rằng con thuyền vượt biên sẽ bị nhận ch́m xuống biển. Viên thuyền Trưởng đă khóc và chấp nhận vớt chúng tôi. Vị trí mà chiếc tàu buôn đă cứ chúng tôi nằm cách đảo Lữ Tống ( Luzon ) của Philippine khoảng 60 cây số. Và nếu chúng tôi có sống sót qua cơn băo này th́ chúng tôi sẽ trôi ra tới Ấn Độ Dương, v́ gió đă đổi chiều và chúng tôi sẽ khó có cơ hội được cứu thoát v́ đó không phải là hải tŕnh của tàu buôn.


    Chúng tôi cũng đă tường thuật lại chuyến vượt biên kinh hoàng của chúng tôi cho Thuyền Trưởng và toàn thể thủy thủ trên tàu được biết. Sau khi nghe chúng tôi tường thuật, Thuyền Trưởng đă đánh điện vào đất liền thông báo cấp tốc,v́ trước đó qua tin tức ông cũng đă biết được chuyến vượt biên kinh hoàng này do những người sống sót trước đó tường thuật lại. Số là trong cái đêm kinh hoàng dó, khi chúng tôi bị bộ đội cộng sản Việt Nam tàn sát dă man, th́ có 8 người đàn ông nh́n thấy có ánh đèn trên một ḥn đảo ở từ phía xa, cách nơi chiếc thuyền bị nạn chừng vài hải lư, nên thay v́ ở lại chờ chết, họ đă lặng lẻ dùng các can nhựa có trên tàu để bơi về phía ḥn đảo có ánh đèn đó để t́m sinh lộ. Họ đă t́m đúng sinh lộ, v́ đó là ḥn đảo thuộc chủ quyền của Philippine. Họ được cứu và đưa về đất liền ngay đêm hôm đó. Đêm đó, quân trú pḥng trên đảo được lệnh báo động và sẵn sàng để cứu vớt các thuyền nhân mắc nạn, họ cho biết là có nghe tiếng súng nổ suốt đêm, và súng pháo kích sáng hôm đó, nhưng không thể làm ǵ khác hơn được là đứng nh́n, v́ ḥn đảo đang diễn ra cuộc tàn sát thuộc chủ quyền của Việt Nam. Tóm lại, trong khi chúng tôi vẫn c̣n đang lênh đênh trên biển đúng một tháng, th́ đă có 8 người trên chiếc " ghe ông Cộ " đă được cứu thoát do bơi sang đảo Phi.

    Nhận được tin từ vị Thuyền Trưởng, Bộ Nội Vụ Nhật Bản đă đồng ư cho chúng tôi cập bến Okinawa, Thuyền Trưởng hoan hỷ loan báo tin này cho chúng tôi biết và chúc mừng chúng tôi thoát nạn. Ba ngày sau, chúng tôi cập bến hải cảng Okinawa. Người đầu tiên bước lên tàu để đón chúng tôi là một thông dịch viên tiếng Nhật, anh tên là Nguyễn Gia Hùng, một sinh viên du học tại Nhật Bản trước năm 1975, hiện đang phụ giúp với hội Caritas Nhật lo giúp đỡ những thuyền nhân Việt Nam đang tị nạn tại Nhật Bản. Chúng tôi đă vô cùng xúc động v́ nghĩ ḿnh đă được tái sinh lần thứ hai. Chúng tôi bịn rịn bắt tay từ giả các vị ân nhân cứu mạng ḿnh để lên đất liền làm thủ tục tị nạn, những người này cũng đă khóc khi tiển chúng tôi bước xuống cầu tàu. Bước xuống tàu, chúng tôi đă nh́n thấy một rừng phóng viên báo chí, các hăng thông tấn thế giới đang chờ sẵn để lấy tin tức, một cuộc họp báo đă được tổ chức liền tại chỗ dưới sự hướng dẫn và thông dịch của các anh thuộc tổ chức Người Việt Tự Do tại Nhật Bản. Sau dó chúng tôi lên xe bus về trại tị nạn tại quận Motobucho, một trại tị nạn dành cho người Việt tị nạn được coi là lớn nhất nước Nhật với vỏn vẹn chừng 300 người Việt hiện đang tạm trú để chờ các quốc gia đệ tam nhận đi định cư. Ngày hôm sau, tất cả các báo chí, đài truyền h́nh Nhật Bản đều cho chạy đi bàn tin đầu với h́nh ảnh và tin tức về chuyến vượt biển kinh hoàng do tội ác cộng sản gây nên, và 30 ngày đói khát lênh đênh trên mặt biển của chúng tôi. Cầm trên tay tờ báo, nh́n vào h́nh ảnh của chính ḿnh, tôi đă rúng động không c̣n nh́n ra được ḿnh nữa, thay vào đó là một bộ xương với hộp sọ nhô cao lên. Đôi gịng lệ đă âm thầm chảy xuống v́ hạnh phúc. Tôi biết ḿnh đă thực sự sống sót.

    Chủ nghĩa cộng sản đă là một thảm họa của nhân loại, kể từ khi thứ chủ nghĩa này xuất hiện trên thế giới, nó đă giết chết không biết là bao nhiêu nạn nhân vô tội. cuộc vượt biển t́m tự do đầy bi thảm và kinh hoàng của tôi cũng chỉ là một sự đóng góp vào kho tàng tội ác của chủ nghĩa cộng sản. Điều đáng quan tâm là hiện nay đất nước và dân tộc Việt Nam vẫn c̣n bị ch́m đắm dưới sự độc tài, toàn trị của đảng cộng sản Việt Nam. Chỉ có một con đường duy nhất là phải chấm dứt cái chế độ man rợ này, không thể nào nói chuyện ḥa hợp ḥa giải với những con người với đầu óc chai cứng v́ đặc quyền, đặc lợi, mà họ đang thụ hưởng trên từng thân xác của những con người Việt Nam bất hạnh.

    Đào Minh Tri

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. PHẢI VỢ TUI HÔN?
    By Dean Nguyen in forum Thơ Văn Tự Sáng Tác
    Replies: 0
    Last Post: 22-02-2012, 03:40 PM
  2. CÁI GIÁ CUẢ TỰ DO : NHỮNG CHUYẾN VƯỢT BIÊN ĐẪM MÁU
    By Tigon in forum Ngược Ḍng Lịch Sử
    Replies: 83
    Last Post: 12-11-2011, 11:12 PM
  3. Replies: 1
    Last Post: 12-11-2011, 08:25 AM
  4. Replies: 90
    Last Post: 11-11-2011, 11:27 PM
  5. Replies: 2
    Last Post: 23-12-2010, 01:35 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •