1. Chính Kinh
Vào thời Vua Hùng, có giặc Ân xâm lấn nước ta. Vua Hùng làm đủ cách nhưng vẫn không ngăn được giặc.
Nhà vua liền lập đàn cầu xin Tổ về giúp. Trong một cơn mưa to gío lớn, bỗng có một cụ ǵa áo đỏ, h́nh dung cổ quái, đến đùa giỡn với đám trẻ con ở ngă ba đường.
Dầu thấy lạ, Vua Hùng cũng đến xin Cụ chỉ cách để cứu nước. Cụ cười nói: “Nhà vua hăy sai sứ đi khắp nơi mà t́m!”
Theo lời Tổ dạy, Vua Hùng liền sai người chia nhau đi khắp nơi để loan tin Tổ về và t́m người cứu nước.
Đang khi đó, tại làng Phù Đổng, có một em bé đă ba tuổi mà không biết nói cười đi đứng ǵ cả. Nhưng khi nghe sứ vua rao tin, Cậu liền bật nói.
Cậu xin sứ cho Cậu một con ngựa sắt và một roi sắt để Cậu phá giặc. Từ đó, láng giềng đem gạo vải tới giúp Cậu ăn mặc, và Cậu lớn lên như thổi.
Khi sứ vua đem ngựa và roi tới, Cậu bé Phù Đổng liền vươn vai thành người to lớn. Khi Cậu nhảy lên ngựa sắt th́ ngựa liền cử động và phun lửa.
Với ngựa lửa roi sắt, Cậu đánh bọn giặc một trận tơi bời. Khi roi sắt găy, Cậu nhổ tre mà đánh. Ngựa cũng phun lửa cháy mất mấy làng.
Giặc tan, Cậu cỡi ngựa lên núi mà về trời.
Các gốc tre Cậu đă xử dụng, lại hóa thành tre la ngà.
Vua Hùng phong Cậu là Phù Đổng Thiên Vương.
DIỄN KINH
2. Cứu Nước và Cải Hóa
Theo nội dung, Kinh Phù Đổng là Kinh Cứu Nước, v́ Kinh chính là sách lược cho đại cuộc phục quốc, mà cũng là phương thức hành động cho tổ chức cứu nước, và là chương tŕnh sống cho bất cứ ai quyết tâm phá giặc.
Dưới khía cạnh Con Người và Xă Hội, Kinh Phù Đổng lại là Kinh Cải Hóa, cải hóa từng người cũng như cải hóa toàn thể nhân loại. Kinh đưa phương thức cải hóa chúng ta khỏi tất cả mọi thứ giặc.
Trong giai đoạn thống khổ này của dân tộc Việt và của cả nhân loại, chúng ta cần học hỏi thấu đáo và ứng dụng kỹ càng vừa bài học Cứu Nước, vừa bài học Cải Hóa.
Công cuộc thực to lớn và phức tạp. Cần thực nhiều người tận tâm tận lực, và chung tài chung đức, để khai triển chi tiết bài học thâm sâu và ứng dụng thích đáng mọi người.
Ở đây chỉ nh́n đại cương như là sơ đồ của sách lược cứu nước.
* * * *
3. Người Cứu Nước
3. 1 Giặc Xâm Lấn
Để dạy cách Cứu Nước, Tổ Tiên đă khởi đầu với sự kiện nước bị giặc xâm lăng (*1). Việc giặc Ân xâm lấn nước ta có thể là một sự kiện lịch sử. Nếu câu ghi ở sử Trung Hoa “Ân Cao Tôn phạt Qủy Phương tam niên” là xác thực, th́ đúng là vua Ân đă xua quân vào nước ta.
Thời nhà Ân bên Tàu cũng là thời Hùng ở nước ta, và lúc đó nước ta gồm cả vùng đất thuộc ngôi sao Quỷ, theo sự phân giới bầu trời ứng với mặt đất của thời xưa (*2).
Do đó, nhân việc kể đi kể lại chiến tích chống ngoại xâm này, Tổ Tiên ta đă gói ghém thêm nhiều bài học quan trọng cho việc Cứu Nước và Cứu Người.
* *
3. 2 Nhận Chân Thực Trạng
Trước nạn xâm lăng, nước nhục dân khổ, Vua Hùng đă làm hết cách, nhưng vẫn không ngăn được giặc.
Tuy là bối cảnh của câu chuyện, nhưng đây cũng là yếu tố quan trọng cho việc chuẩn bị cứu nước. Đă làm hết sức, đă tận lực, nhưng thua. Giờ đây nước mất nhà tan, mọi phương thức chống giặc đều vô hiệu, mọi lực lượng đều tan ră, ḷng dân phân tán, đồng minh quay mặt… giặc lại thừa thắng, giặc thêm oan nghiệt, giặc gây tang tóc cho đồng bào, cho đất nước, cho giống ṇi…
Thực vậy, để có thể thực sự khởi đầu công cuộc cứu nước, trước hết phải nhận chân được thảm trạng mất nước. Nếu không lượng định chính xác sức mạnh của giặc và t́nh trạng yếu kém của ta, ở mọi phương diện, chúng ta hoặc sẽ lạc quan trái mùa, hoặc quá sợ giặc, hoặc không nhận ra giặc.
Đây là điều kiện đầu tiên của Người Cứu Nước, tức là phải nhận chân thực trạng, biết giặc biết ta.
* *
3. 3 Sống Lại Hồn Nước
a. Vua Hùng cầu Tổ
[1]. Trong ngơ bí của thời cuộc, trong phũ phàng của thực trạng mất nước, Tổ Tiên cho bùng lên một vừng sáng hy vọng chói chang: Vua Hùng lập đàn cầu Tổ về giúp.
Việc lập đàn chứng tỏ ḷng thành và ư thức của Vua Hùng về tầm mức quan trọng vượt bực qua công cuộc cứu nước. Cứu một người đă khó thay, huống nữa là cứu cả một dân, một nước, cả giống ḍng, lịch sử.
Tổ là biểu trưng cho Tinh Thần, cho Sức Sống tối cao, Hồn Thiêng của Dân Tộc. Ngài là nguồn gốc, mà cũng là sự sống c̣n, là niềm hy vọng, và là tụ điểm của toàn dân (*3).
Cầu Tổ là bộc lộ niềm tin bất diệt, niềm hy vọng tuyệt đối vào sức sống vô biên, và truyền thống siêu việt của Dân Tộc.
Đây chính là nền tảng đích thực của công cuộc Cứu Dân Cứu Nước. Bất cứ nền tảng nào khác sẽ đều đưa đến kết quả là biến dân nước thành vong nô của ngoại bang, của tà thuyết, hoặc của cường quyền bạo lực (*4).
[2]. Ngoài ra, việc cầu Tổ c̣n nối kết cách tuyệt diệu Kinh Phù Đổng với Kinh Tiên Rồng và Kinh Tiết Liêu. Ở Kinh Tiên Rồng, Cha Rồng đă dặn: “Khi cần th́ gọi, Ta về ngay.” Ở Kinh Tiết Liêu, khi Tiết Liêu thành tâm việc an dân thịnh nước, Tổ cũng về giúp.
Thời b́nh mà Tổ c̣n thương như vậy, huống chi thời loạn lạc khổ đau. Con cháu có lúc nào cần Tổ thương giúp bằng khi đất nước đại nạn, đồng bào thống khổ? Con cháu đă khẩn thiết kêu cầu, vua Hùng đă lập đàn, và Tổ đă về giúp.
b. Cụ Tổ Hiện Về
[1]. Trong một cơn mưa to gío lớn, bỗng có một ông cụ ǵa xuất hiện.
Mưa gío chính là điềm báo sự linh hiển của Cha Rồng. Rồng chủ tể việc mưa gío ở biển cả, nên Rồng linh th́ biển động. Đây là phần giới thiệu bản chất của Cụ Ǵa, tức tinh hoa văn hóa Việt.
Cụ ǵa lại mặc áo đỏ, là màu tượng trưng cho phong tục, cho nếp sống truyền thống của dân tộc Việt suốt mấy ngàn năm. Khảo cổ hiện nay đă phát hiện nhiều di tích chứng tỏ ngay cả từ sáu bảy ngàn năm trước, dân Việt đă dùng màu đỏ và mặt trời làm biểu hiệu của ḿnh.
* Như vậy, Cụ Ǵa đă mang hai dấu hiệu, một thuộc bản chất, một thuộc đặc trưng, chứng tỏ Cụ qủa thực là Tổ, là sức sống đích thực của dân tộc Việt. Cụ chính là biểu tượng của nền văn hóa, của phong tục, của truyền thống, của tinh thần dân tộc.
[2]. Nhưng Cụ lại có h́nh dung cổ quái. Sở dĩ Cụ bị coi là cổ quái, chỉ v́ con cháu đă quên Cụ, không c̣n quen thuộc với Cụ nữa. Ở Kinh Tiết Liêu, trong thời mọi người đang sống hạnh phúc theo đúng truyền thống Tổ Tiên, th́ Cụ Tổ được nhận ra là người quắc thước phi phàm.
Đây là nhát búa bổ vào đầu chúng ta. Khi mất nước chính là lúc con cháu thường đă xa lạ với Tổ Tiên, đă quên Tổ, đă mất tinh thần dân tộc, mất niềm tin nơi chính ḿnh. Bài học Hồn mất trước Nước mất sau ở Kinh Mỵ Châu đă thực rơ ràng và thấm thía. (Đọc thêm bài Hồn Mất Trước, Nước Mất Sau – cuộc diện chính trị đương thời).
*
c. Tổ về với dân
[1]. Nhưng dầu con cháu có xa lạ, Tổ cũng đă về. Cụ về và đùa giỡn với đám trẻ con ở ngă ba đường.
Theo quan niệm truyền thống th́ trẻ con, con đỏ, con dân, là biểu trưng của đại chúng. Họ là những người đơn sơ thành thật, sống theo những bộc phát tự nhiên và thuần hậu của Con Người (*5).
Ng̣ai ra, ngă ba đường chính là nơi dân chúng tụ họp, là chợ cḥm hỏm của thời xưa.
Như vậy, Cụ đă không về trên đàn, không về với vua quan, nhưng về giữa đám đại chúng b́nh dân.
Lịch sử cho thấy, xưa cũng như nay, thời suy thoái là lúc giới quyền chức sao lăng văn hóa dân tộc để vọng ngoại và cầu ngoại nhiều nhất. Trong các thời kỳ đó, truyền thống, tinh thần, và ư thức dân tộc, chỉ c̣n thấy ở giới thường dân, ở đầu đường góc chợ (*6).
[2]. Lại nữa, không phải Tổ chỉ hiện về một cách oai vệ trong giây lát, mà Tổ c̣n đùa giỡn, c̣n hoà ḿnh với đám trẻ con. Tổ cùng chung cuộc sống, cùng chung tâm hồn với đại chúng. Tổ ở trong đại chúng. Tổ là đại chúng.
Như vậy, ai muốn gặp Tổ th́ phải t́m tới, phải để tâm hồn ḿnh hoà nhập đại chúng, chớ không phải hời hợt bên ngoài (*7).
*
d. Để nhận biết Tổ, để thực sự nhận biết đích xác đâu là truyền thống dân tộc, Kinh đă nêu rơ mọi yếu tố, từ bản chất, qua nét đặc trưng, qua chính phản ứng của chúng ta, tới cả hạng người, cả nơi chốn và cả những điều kiện tâm lư cần thiết (*8).
Kinh Phù Đổng đặt nền tảng công cuộc cứu nước trên niềm tin tuyệt đối vào Sức Sống Truyền Thống nơi Toàn Dân.
* *
3. 4 Lột Xác
a. Người dám đến với đại chúng để t́m gặp Tổ, chính là vua Hùng. V́ quyết tâm cứu nước, nên dầu thấy những cảnh tượng bất thường của Cụ Ǵa, Vua Hùng cũng t́m tới gặp Cụ và xin Cụ dạy cách cứu nước.
Vua đă lập đàn cầu Tổ. Trên đàn có ngai qúy để Tổ về ngự, có hương trầm nghi ngút, đèn nến sáng ngời. Vua quan th́ thân thanh tâm tịnh, thành tâm thành ư. Dân chúng th́ vây quanh khẩn cầu thống thiết. Nơi đàn uy nghi trang trọng như thế, nên ai ai cũng trông chờ Tổ về, sẽ linh hiển tại đàn, oai vệ chưa từng thấy.
Ngờ đâu, trên đàn chưa có dấu hiển linh, th́ ở ngă ba đường lại có một cụ già tới đùa giỡn.
Phải thành tâm cùng tột, tuệ linh sáng ngời như Vua Hùng, mới có thể nhận ra đó không phải là quái nhân quấy rối, mà là chính Cụ Tổ đă về.
Tuy đă lập đàn, đă chuẩn bị mọi sự, tức là đă dự tính nhiều kế hoạch, nhiều chương tŕnh, nhưng Vua Hùng nhất quyết gạt bỏ tất cả để tới ngă ba đường gặp Cụ Ǵa cổ quái, và học cách cứu nước (*9).
*
b. đây là điểm đột phá quan trọng cho người muốn cứu nước. Lột xác.
Không vượt nổi điểm đột phá này, không lột xác, không từ bỏ dự tính và phương thức cũ, không thể thích ứng với điều kiện và hoàn cảnh mới, không thể đón nhận kiến thức mới, không thể hội nhập vào tổ chức mới, không mở rộng tâm trí để đón nhận những bất ngờ, những cổ quái… th́ không thể nghe Tổ nói, tức là không thể nhận ra những phương thức thực sự hữu hiệu cho việc cứu nước (*10).
Vượt điểm đột phá này, lột xác, th́ có cơ may cứu nước mới ló dạng, mới được Tổ chỉ cách.
* *
a. Bất chấp sự phản đối của đám quần thần kênh kiệu, Vua Hùng đă bỏ đàn, đội mưa gió tới ngă ba đường và đă được Tổ dạy phương thức cứu nước.
Nhưng phương thức của Tổ lại cũng cổ quái. Tổ dạy vua sai sứ đi khắp nơi để t́m người cứu nước.
Thực là kỳ lạ. Tại sao Tổ không nói rơ vị cứu tinh đó là ai? Tại sao lại chỉ biểu cho người đi t́m? Nếu chỉ thế, th́ tại sao Tổ lại phải hiện về? Vua Hùng đă chẳng đang t́m đó sao?
*
b. Nhưng, chỗ kỳ quái đó lại chính là bài học. Tổ nhắc nhở, Tổ chỉ dạy, chớ Tổ không thể làm thay cho chúng ta. Tổ không giết giặc, Tổ không chỉ huy, Tổ cũng không làm gián điệp, cũng không cho nỏ thần, hoặc thị uy tiêu diệt giặc.
Biết bao lần chúng ta cầu mong phép lạ điềm linh giết giặc thay chúng ta. Biết bao lần chúng ta than trách các Đấng Linh Thiêng không tích cực độ tŕ, để chúng ta khoanh tay nh́n giặc chết! Cũng vậy, bao lần chúng ta kết tội người khác, v́ họ không làm cho chúng ta hưởng.
Vấn đề không phải là Tổ làm, mà là chúng ta biết và thực thi ư muốn của Tổ. Khi biết Tổ Tiên, và các Đấng Thiêng Liêng, muốn cứu dân lành, th́ chính chúng ta phải tỏ ra là con thảo, là tín đồ thuận thành, bằng cách chính chúng ta ra công phá giặc cứu người, để hoàn thành ư muốn của các Ngài.
Chính chúng ta phải làm, phải dấn thân, th́ mới cứu được nước.
* *
3. 6 Tư Cách Người Cứu Nước
a. Vua Hùng đă được Tổ chỉ cách. Nhưng trước khi vua thể hiện ư Tổ, chúng ta thử nh́n lại giai đoạn qua.
Trước hết, Vua Hùng đă sống với thực trạng mất nước, và cũng khởi công từ thực trạng đó. Vua không nuối tiếc hăo huyền, cũng không mơ mộng viển vông.
Tiếp đến, nhà vua t́m về nền tảng của công cuộc cứu nước. Nền tảng đó là Tổ, là Sức Sống, là Truyền Thống siêu việt đang tiềm tàng trong nếp sống của đại chúng.
Và rồi, với quyết tâm cứu nước, vua đă lột xác, đă sẵn sàng thích ứng và xử dụng mọi hoàn cảnh mới, mọi điều kiện mới.
Cuối cùng là dấn thân, không do dự, không ỷ lại, sẵn sàng biến mọi sự, cả những chướng ngại, thành phương tiện hữu hiệu.
*
b. Đó là Vua Hùng. Nhưng Vua Hùng là biểu tượng của con người cứu nước đích thực. V́ vậy những đức tính trên cũng chính là những điều kiện cần thiết cho bất cứ ai muốn thực sự góp phần vào việc phá giặc cứu dân.
* Nh́n chung với Kinh Mỵ Châu: ví An Dương Vương đă từ bỏ Hồn Nước, nên đưa tới mất Nước. Ở đây Vua Hùng đă gặp lại Tổ, đă sống lại Hồn Nước, nên khởi sự cứu nước.
* * * *
4. Phương Thức Cứu Nước
4. 1 Theo Lời Tổ dạy
Vua Hùng đă lập đàn cầu Tổ và được Tổ dạy cách cứu nước.
Lời dạy của Tổ chính là phương thức cứu nước. Lời dạy của Tổ là ư muốn của Tổ, mà cũng là chính Tổ trong hiện thực và sống động trong hiện trạng đất nước.
V́ vậy, Theo lời Tổ Dạy sẽ là động lực mọi hành động của vua Hùng. Sở dĩ vua Hùng sai sứ đi t́m Người Cứu Nước, sở dĩ các sứ chịu đi, và sở dĩ toàn dân chịu nghe theo họ cũng chỉ v́ Theo Lời Tổ Dạy.
Theo lời Tổ Dạy trở thành Sức Sống, trở thành Hồn Thiêng tạo dựng, thúc đẩy, điều hợp và hoàn thành Công Cuộc Cứu Nước.
Sức Sống này sẽ từ Vua Hùng truyền qua đoàn sứ nhân, và đoàn sứ nhân truyền qua toàn dân.
* *
4. 2 Lên Đường Hành Động
Được Tổ chứng giám, được Tổ chỉ dạy, giờ đây vua Hùng mạnh dạn sai sứ lên đường.
Các sứ nhân chính là đại diện, là hiện thân của Vua Hùng. Họ là chính Vua Hùng đi đến với dân.
Như vậy, đoàn sứ nhân là Người Cứu Nước lên đường hành động. Họ dấn thân thể hiện sứ mạng theo Lời Tổ dạy. Họ đem Sức Sống của Tổ đến cho toàn dân. Nhờ họ, toàn dân mới nhận được sứ điệp của Tổ và mới cứu được nước.
Vai tṛ của đoàn sứ nhân, của tổ chức cứu nước đích thực, là vai tṛ nền tảng trong công cuộc cứu nước (*11).
* *
4. 3 Đến Với Toàn Dân
Đoàn sứ nhân lên đường, đoàn cán bộ đi hoạt động công tác tổ chức cứu nước. Các sứ nhân này đă chia nhau đi đến với người dân ở khắp nơi.
Mục tiêu hành động đầu tiên của tổ chức cứu nước là Dân, chớ họ chưa trực tiếp đối đầu với giặc. Công tác chính là vận động toàn dân đứng lên chống giặc. Có như thế thành công mới trọn vẹn (*12).
Họ đi khắp nơi, không bỏ sót, không từ khước bất cứ một nơi chốn hay một phạm vi nào. Nơi đó có thể là trong hay ngoài nước, nơi thân thiện hay ở ngay trong ḷng địch… mà cũng là các lănh vực như văn hóa, xă hội, kinh tế, chính trị, ngoại giao, quân sự, kỹ thuật, văn nghệ, giáo dục, thể thao, giải trí, truyền thông… hoặc là các cộng đồng, hội đoàn, cḥm xóm, tộc họ, gia đ́nh… hay là trí óc, con tim, cuộc sống của bất cứ ai… ở bất cứ nơi đâu, trong bất cứ hoàn cảnh hay sinh hoạt của Con Người, cá nhân cũng như tập thể.
Như thế, đoàn sứ nhân cũng cần có những khả năng thích ứng, để có thể phổ biến sứ điệp của Tổ tới cho mọi tầm độ, mọi hoàn cảnh, mọi con người đặc thù.
* *
4. 4 Chia Nhau Công Tác
Họ chia nhau đi, không dồn chung một chỗ, không dành nhau một việc. Mỗi người tùy khả năng và hoàn cảnh riêng mà nhận phần trách nhiệm của ḿnh. Có phân nhiệm mới có tổ chức (*13).
Tổ chức cứu nước là những con người cùng thể hiện các đức tính của sứ nhân, và theo hiện t́nh và khả năng linh động, mà chia nhau trách nhiệm hoàn thành các công tác thực thi sách lược cứu dân.
* * * *
5. Vận Động Tinh Thần
5. 1 Thức Tỉnh Niềm Tin
a. Đoàn sứ nhân chia nhau đi khắp nơi để loan tin. Nhưng tin của họ thực là đơn sơ: Tổ đă về và sai đi t́m người cứu nước.
Nội dung tuy ngắn gọn, nhưng tác dụng lại hệ trọng. Tổ đă về và Tổ bảo đi t́m chứng tỏ Tổ đă độ tŕ cho công cuộc cứu nước, Tổ đă cho phương thức, và chắc chắn có người cứu được nước.
Chúng ta đă có Sức Sống, có sách lược, có nhân sự… Đây là lúc khám phá, đây là lúc thực hiện! Dầu giặc đang mạnh, nhưng chắc chắn chúng ta sẽ thắng!
Có ǵ khích động và hứng khởi hơn để khơi dậy niềm Tự Tin Dân Tộc bằng nguồn tin tuyệt diệu này? Dầu ai có tuyệt vọng, cũng vụt phải hăng say, vui sướng!
*
b. Như vậy, đoàn sứ nhân đi loan tin khắp nơi, chính là thể hiện công tác đem Tinh Thần dân tộc đến cho toàn dân.
Nước mất v́ dân quên Tổ, quên nếp sống truyền thống siêu việt của tổ tiên. Giờ đây, đoàn sứ nhân nhớ tới Tổ, thức tỉnh niềm tin, sống lại tinh thần và sức sống dân tộc.
* *
5. 2 Nhận Lănh Trách Nhiệm
Khi đến với dân, đoàn sứ nhân không chỉ loan tin, mà c̣n phải có hành động cụ thể: họ lục lạo t́m kiếm người cứu nước. Hoạt động này cũng gây tác dụng thiết yếu.
Khi đă phấn khởi nhờ sống lại niềm tin, mọi người cũng tiếp tay với đoàn sứ nhân mà đi t́m Người cứu nước.
Khi góp phần t́m kiếm như thế, chính là lúc mọi người đều thấm thía nạn mất nước. Do đó, mỗi người sẽ ư thức đích xác về phận vụ của ḿnh trong công cuộc cứu nước. Mọi người sẽ lột xác, lănh nhận trách nhiệm, và dấn thân chu toàn sứ mạng lịch sử (*14).
* *
5. 3 Công Tác Đầu Tiên
Như vậy, đoàn sứ nhân loan tin và t́m kiếm chính là thực hiện công tác làm cho người dân sống lại Hồn Nước, ư thức nạn nước, nhận lănh trách nhiệm, và dấn thân cứu nước.
Đây cũng là công tác làm cho Mọi Người sống trọn nếp sống Việt, trở thành Người Dân Đích Thực, trở thành Người Cứu Nước.
* Nh́n chung Kinh Mỵ Châu: An Dương Vương làm mất nước, v́ đă xa cách dân, loại dân ra khỏi việc nước. Giờ đây Vua Hùng , qua đoàn sứ nhân, đă t́m lại dân, giúp dân ư thức và chung phần việc nước.
* * * *
6. Thực Trạng Sức Nước
6. 1 Sức Ở Làng Thôn
a. Mọi người đă cùng cố công t́m kiếm, và rồi tại làng Phù Đổng họ đă gặp người cứu nước.
Việc gặp thấy người cứu nước tại một làng cũng là nét đặc trưng của văn hóa Việt. Kinh nhấn mạnh người cứu nước được t́m gặp ở trong làng, chớ không phải trong cung điện vua hay nơi đô thị.
Trong nếp sống dân ta, làng giữ một vai tṛ nền tảng. Thể chế làng nước đă được Tổ tiên đặc biệt chú trọng và lưu truyền trong lịch sử, cũng như Kinh An Tiêm.
*
b. Với thể chế và cơ cấu sinh hoạt tự lập trong lũy tre xanh, làng chính là nơi bảo toàn và hun đúc nếp sống thuần túy dân tộc ngay giữa thời giặc xâm lăng.
Trong suốt mấy ngàn năm, xa xưa cũng như hiện đại, mọi thứ giặc từ quân sự cho đến văn hóa, xă hội… dầu tới từ phương bắc, phương tây, hay phương đông, đều chỉ có thể hoành hành ở các đô thị. Trong làng thôn, những cố gắng muôn mặt của giặc vẫn luôn gặp bức tường ngăn cản.
Lịch sử cứu nước của dân tộc ta là một bản liệt kê không dứt những anh hùng áo vải, ở mọi tầm độ và mọi nơi mọi thời.
Dưới khía cạnh quân sự, làng lại là nơi huấn luyện mọi người trở thành nghĩa sĩ chống giặc. Chẳng những hệ thống canh gác nghiêm nhặt luôn luôn bảo đảm có người túc trực, mà các ḷ vơ thuật c̣n đào tạo ra nhiều vị anh hùng, nhiều cấp chỉ huy (*15).
Làng là nơi phát xuất sức mạnh dân tộc, về mọi phương diện. V́ vậy, trong công cuộc cứu nước, làng giữ vai tṛ then chốt. Sức Nước phải được phục hồi từ làng thôn.
* *
6. 2 Sức Là Người Dân
Tại làng, đă xuất hiện người cứu nước. Nhưng nhân vật này cũng kỳ lạ. Đây chỉ là cậu bé ba tuổi.
Tính cách bé bỏng của cậu bé tượng trưng cho đại chúng, cho toàn dân. Lại nữa, cậu bé lên ba cũng phù hợp với khoản thời gian mà sử Trung Hoa ghi là Ân Cao Tôn xâm lấn nước ta.
Như vậy, cậu bé ba tuổi này chính là biểu tượng cho đại chúng, cho toàn dân. Vị cứu tinh chính là người dân.
* *
6. 3 Sức Đang Tê Liệt
Dầu tê liệt câm nín, nhưng Cậu Bé lại lắng nghe.
Sống trong nạn nước, toàn dân, qua Cậu Bé Phù Đổng, phải lặng im bất động. Tuy nhiên mọi người chúng ta đều luôn luôn nôn nóng trông chờ ngày được giải thoát khỏi ách giặc. Mọi người luôn nôn nóng trông chờ ngày gỉai thoát, mọi người vẫn sôi sục trông đợi dịp vùng lên, mọi người hằng lắng tai nghe ngóng mọi nguồn tin đem lại hy vọng cứu nước.
V́ vậy, khi sứ nhân vừa loan tin Tổ về, Cậu Bé đă cấp thời hưởng ứng. Khi nghe sứ nhân, chính là lúc Cậu Bé bùng lên niềm hy vọng, sống lại Hồn Nước.
* * * *
7. Sức Dân Bộc Lộ
7. 1 Đ̣i Hỏi Phương Tiện
a. Đă gặp lại Tổ, đă sống lại niềm tin, Cậu Bé liền bật nói, toàn dân đều bật nói.
Bật nói là dám hiên ngang bộc lộ. Dầu mới chỉ bằng lời nói, đây cũng là dấu chỉ của ḷng tự tin và phấn khởi. Từ đây người dân đă dám tự hào về ḿnh, dám nói lên niềm tin tưởng của chính ḿnh.
*
b. Cậu phát biểu lời đầu tiên là đ̣i ngựa và roi sắt. Cậu đ̣i hỏi phương tiện để phá giặc cứu nước.
Đây là dấu chứng sức mạnh tinh thần đă bộc lộ. Khi thoát khỏi t́nh trạng câm nín, khi tinh thần đă được củng cố, khi ư thức được trách nhiệm với nước, điều đầu tiên người dân nghĩ tới là phương tiện chiến đấu.
*
c. Người dân đ̣i phương tiện chiến đấu cũng là dấu hiệu cho thấy các sứ nhân, tức tổ chức ṇng cốt cứu nước đă thành công trong công tác thức tỉnh người dân.
Tại khúc quanh quyết định này, vai tṛ của sứ nhân cũng đổi khác.
Trước đây, sứ nhân nói cho dân nghe. Nay dân đă nghe và đă nói, th́ sứ nhân lại trở thành người nghe dân.
Thực vậy, khi người dân đă thành tâm tiếp nhận và đă sống đúng tinh thần Tổ, th́ tiếng dân trở thành tiếng của Tổ. Tiếng dân là ư Tổ trong hiện trạng của đất nước.
V́ vậy, giờ đây tiếng dân chính là phương thức thiết thực và hữu hiệu cho công cuộc cứu nước (*18).
Khúc quanh này đặc biệt rất quan trọng cho tổ chức cứu nước, chẳng những v́ nó quyết định sự thành bại, mà c̣n thẩm định bản chất của tổ chức. Tổ chức không biến đổi, không trở thành người nghe dân, th́ chắc chắn tổ chức đó không phải của dân (*19).
* *
7. 2 Đóng Góp Tài Sức
Từ đó, láng giềng từ đem gạo vải tới giúp Cậu ăn mặc. Khi đă tự tin, người dân tự động khởi công.
Ăn mặc là nhu cầu nền tảng của đời sống con người. V́ vậy, gạo vải là tất cả những thiết yếu cho công cuộc cứu nước.
Đẹp thay cảnh toàn dân tấp nập góp gạo góp vải. Mọi người tự nguyện góp của góp công, cộng tài cộng đức.
Bao thiện chí bấy nhiêu nung nấu, bao tài năng bấy lâu che đạy, bao sức mạnh bấy lâu đè nén, bao phương tiện bấy lâu tích trữ, bao diệu kế bấy lâu ấp ủ… giờ đây tất đều bộc phát, tất cả đều bộc hiện, tất cả đều bùng lên (*20).
Khi đă lănh nhận trách nhiệm, người dân tự nguyện đóng góp, tự túc chu cấp những nhu yếu cơ bản của cuộc chiến đấu.
* *
7. 3 Tự Động Quây Quần
a. Tất cả gạo vải, mọi sự đóng góp đó, đều để giúp cho Cậu Bé Phù Đổng ăn mặc. Tất cả tự nguyện của dân đều tập trung vào Cậu Bé.
Người dân chỉ quy tụ quanh Cậu Bé, chớ không tập họp theo các sứ nhân.
Trong giai đoạn đầu của công cuộc thức tỉnh, người dân chỉ mới tin tưởng vào những người thân cận quanh ḿnh, trong tầm vóc làng thôn. Những ǵ sứ nhân hứa hẹn, dầu sao, cũng c̣n quá xa vời.
*
b. Lại nữa, theo đúng tâm trạng Con Người, người dân chỉ tự ư quy tụ quanh Cậu Bé Phù Đổng, v́ chính Cậu đă tỏ ra vài dấu hiệu đặc biệt, chỉ Cậu đáp ứng phần nào công tác t́m kiếm anh hùng cứu nước.
Dân chỉ quy tụ theo ai tỏ ra thực sự có tâm huyết, có tinh thần, hết ḷng v́ đại cuộc, dấn thân chu toàn sứ mạng chung (*21).
Có dân tự ư quy tụ chính là tiêu chuẩn để thẩm định một công cuộc đích thực của dân, do dân (*22).
* *
7. 4 Vận Dụng Điều Hợp
Khi mọi người góp sức, Cậu Bé Phù Đổng lớn nhanh như thổi. Gạo vải thu tích không phải để chất đống, mà tất cả đều được xử dụng làm tăng trưởng sức sống toàn diện.
Trong việc tập trung sức mạnh, vấn đề phân nhiệm và điều hợp giữ phần quan trọng hàng đầu. Sức mạnh toàn dân chỉ có thể thực sự hữu hiệu, khi được vận dụng và điều hợp đúng mức. Nếu không phân nhiệm, không định hướng, sự quy tụ sẽ trở thành hỗn loạn, phân hóa, và đối nghịch nội bộ.
* *
7. 5 Bài Học Chung Sức
Đây là giai đoạn tập trung năng lực toàn dân, mà cũng là bài học đoàn kết.
Mọi người vây quanh Cậu Bé Phù Đổng, là v́ họ đă sống lại niềm tin dân tộc, họ đă ư thức trách nhiệm cứu nước, họ đă t́m ra Cậu Bé, và Cậu Bé đă bật nói.
Như vậy, công tác kết hợp toàn dân đă thành công, chẳng những giúp cho mọi người sống thực tinh thần dân tộc và ư thức trách nhiệm, mà c̣n nhờ chứng tỏ kế sách hữu hiệu, qua một số hoạt động có kết qủa thực tiễn (*23).
Đây là những điều kiện thiết yếu cho việc đoàn kết toàn dân. Khi không hội đủ các yếu tố này, việc đoàn kết chỉ là cḥm xóm, giai đoạn và hời hợt theo các mục tiêu hạn hẹp. (*24).
* * * *
8. Phù Đổng Vươn Vai
8. 1 Sức Mạnh Phương Tiện
Sứ vua đem ngựa và roi sắt tới. Ngựa sắt và roi sắt chính là sức mạnh và phương tiện chiến đấu.
Ngựa và roi sắt cũng là biểu trưng của sức mạnh quân sự để phá giặc (*25).
Trong bầu khí mất nước và toàn dân vừa vùng lên góp tài góp của, th́ ngựa và roi sắt chính là sự đóng góp của toàn dân.
* *
8. 2 Sức Mạnh Tổ Chức
a. Tuy nhiên, sức mạnh phương tiện đó lại do sứ nhân đem tới.
Đoàn sứ nhân, tức là tổ chức cứu nước đă đem Hồn Nước về với toàn dân, nhờ đó Toàn Dân vùng dậy. Giờ đây, đoàn sứ nhân c̣n phải điều hợp sức mạnh ở các tổ chức làng xă thành tầm vóc toàn nước, biến sự đóng góp của toàn dân thành sức mạnh chiến đấu chống giặc.
Sức mạnh này không chỉ nhấn mạnh ở lănh vực quân sự, mà c̣n bao trùm mọi lănh vực khác, như kinh tế, xă hội, chính trị, giáo dục, ngoại giao… ảnh hưởng tới cuộc chiến đấu (26).
*
b. Như vậy, phận vụ của tổ chức cứu nước c̣n là nhận rơ sức mạnh hiện thực tiềm ẩn trong dân nước, rồi tùy theo hoàn cảnh và điều kiện thực tế đương thời, mà ứng biến thành sức mạnh cứu nước hữu hiệu.
Việc tổ chức và điều hợp lại cần nhân sự, khả năng đặc biệt, và ngành nghề chuyên môn… Tất cả đều xác định đúng vai tṛ quan trọng của một tổ chức khả dĩ có đủ sức nh́n xa trông rộng để mà biết quyền biến với t́nh thế (*27).
* *
8. 3 Sức Mạnh Hành Động
Khi nhận được ngựa và roi sắt, Cậu Bé liền vươn vai thành người cao lớn. Cậu đă ăn nhiều, đă lớn như thổi, nhưng phải chờ cho tới khi có ngựa và roi. Cậu mới vươn vai vượt tới tầm vóc đúng mức của ḿnh (*28).
Trước đây, khi nghe về Tổ, Cậu đă bật nói, đă dám bộc lộ chính ḿnh. Nhưng nay, có thêm ngựa và roi sắt, Cậu mới vùng dậy, mới đi đứng, mới hành động.
Dầu mọi người đă thức tỉnh, đă quyết tâm, nhưng phải có phương tiện th́ toàn dân mới có thể ra tay, mới có thể đối đầu được với giặc.
* *
8. 4 Sức mạnh Toàn Dân
Thế là, nhờ có sứ nhân trao ngựa sắt, Cậu Bé đă vươn vai. Nhưng khi cậu nhảy lên ngựa, th́ ngựa sắt lại biến thành ngựa thần, sống động và phun lửa.
Ở Kinh Mỵ Châu, An Dương Vương đă ỷ vào thành ốc và nỏ thần để mất dân. Nỏ thần dầu bắn một phát giết cả vạn giặc, mà v́ không có dân, nên mất hiệu nghiệm, không bằng gỗ đá. Ở đây, khi được sức mạnh dân tộc xử dụng, th́ dầu là ngựa sắt cũng hóa thành ngựa thần.
Không có dân, nỏ thần thành nỏ gỗ. Có toàn dân, ngựa sắt hóa ngựa thần! Toàn dân vươn vai th́ mọi sự cũng đều vươn theo. Sức mạnh của toàn dân làm cho mọi phương tiện trở thành hiệu lực cách thần kỳ, trở thành linh hiển.
Không có h́nh ảnh nào diễn tả sức mạnh và vai tṛ của toàn dân một cách rơ ràng và đầy đủ hơn (*29).
* * * *
9. Vùng Lên Đuổi Giặc
9. 1 Giành Lại Đất Nước
Đă có Hồn Nước, đă có toàn dân. Sức mạnh đă tập trung, đây là lúc vùng lên đuổi giặc để giành lại Đất Nước. Với ngựa lửa roi sắt, vị anh hùng Phù Đổng đă oai dũng đánh bọn giặc một trận tơi bời.
Khi toàn dân đă có tinh thần, đă có sức mạnh, đă có phương tiện, th́ việc đuổi giặc ra khỏi bờ cơi, cũng là chuyện đương nhiên.
Lịch sử mấy ngàn năm đă nhiều lần minh chứng hùng hồn.
* *
9. 2 Ngọn Roi Nhân Thứ
a. Ngựa lửa là sức mạnh của đấu tranh, nhưng Phù Đổng lại dùng roi sắt. H́nh ảnh dùng roi sắt nói lên ḷng nhân thứ của Tổ Tiên.
Phù Đổng dùng roi chứ không dùng gươm. Roi mang ư nghĩa sửa dạy, đánh phạt, dầu là roi sắt; c̣n gươm giáo luôn là vũ khí chém giết. Ngay trong ngôn ngữ chúng ta cũng dùng chữ đánh, dầu là giặc, đánh giặc. Cương quyết, dũng mănh, nhưng không tàn bạo.
Ôi tinh thần nhân thứ, khoan dung, và qúy trọng con người của văn hóa Việt (*30).
*
a. Nhân thứ, nhưng chúng ta không nhẹ da, mù quáng. Từ bi hỷ xả như Phật mà c̣n có mười tám tầng địa ngục với đủ thứ khổ h́nh. Bác ái yêu thương như Chúa mà c̣n có hỏa ngục thiêu đốt muôn đời.
b. Ở Kinh Mỵ Châu, An Dương Vương đă trọng dụng Thành Ốc và Nỏ thần làm sức mạnh giữ nước. Tuy nhiên, v́ ông bỏ Hồn Nước, bỏ Dân Nước, nên Sức Nước đó cũng bị giặc mưu mô chiếm đoạt. V́ đó, đă mất Nước.
Ở đây, để cứu nước, toàn Dân cũng cần Sức mạnh chiến đấu để đánh giặc. Tuy nhiên, thay v́ cái Thành Ốc bất động, th́ là Ngựa thần oai dũng; thay v́ Nỏ thần bắn giết, th́ là ngọn Roi sửa phạt.
Để phá giặc, không thể không dùng sức mạnh, đặc biệt sức mạnh quân sự. Có thể cải hóa từng cá nhân mà không cần vơ lực, nhưng không thể chỉ dùng lư thuyết suông mà cải hóa một hệ thống giặc.
Quân sự là phương thức bất đắc dĩ, nhưng nó lại cần thiết. Không có quân sự, sức mạnh dân tộc không thể bộc phát đúng mức để đánh đuổi giặc.
* *
9. 3 Tận Dụng Năng Lực
Tuy dùng ngọn roi nhân thứ, nhưng không phải nhân thứ mà là ủy mị, mà thiếu quyết tâm. V́ giặc qúa hung bạo và cố chấp, Phù Đổng đă phải đánh đến găy roi sắt. Khi roi găy, Phù Đổng nhổ tre để tiếp tục đánh.
Chi tiết này nhắc nhở lũy tre xanh. Làng xă thôn xóm là căn bản giữ nước và cứu nước suốt mấy ngàn năm. Nhổ tre đánh giặc nói lên việc tận dụng mọi năng lực, đặc biệt cơ chế chính trị, kinh tế, và xă hội đặc thù của dân nước. Tận dụng tất cả để phá giặc.
* *
9. 4 Chấp Nhận Hy Sinh
Kinh c̣n nói thêm: trong trận chiến, có mấy làng bị ngựa lửa làm cháy lây. Sức mạnh chiến tranh chẳng những phá giặc mà cũng tàn hại một phần đất nước.
Không phải tổ tiên không nh́n thấy tai hại của chiến tranh. Nhưng khi cần thiết, vẫn cứ chấp nhận. Chấp nhận hy sinh, chấp nhận thiệt hại.
Tuy vậy, chi tiết trên chứng tỏ Tổ Tiên vẫn không giấu nỗi đau buồn v́ sự tàn phá của chiến tranh. Tận thâm tâm, tận nền tảng tinh thần Việt, không bao giờ chúng ta vui sướng trên máu lửa.
Chấp nhận chiến tranh để cứu người, cứu dân, chớ không v́ hiếu chiến, v́ chủ trương (*31).
* *
9. 5 Toàn Dân Toàn Diện
Với việc Tổ trở về, với vua Hùng và đoàn sứ nhân dấn thân, với tổ chức cứu nước, với mọi người góp gạo góp vải, với ngựa sắt roi sắt, với tre làng bị nhổ, với số làng bị cháy… tính cách toàn dân toàn diện của công cuộc cứu nước đă bộc lộ rơ ràng.
Mọi người và tất cả, đều được vận dụng để chống giặc: từ những phương tiện vật chất, gạo, vải, sắt, lũy tre, thú vật… đến làng thôn, hệ thống tổ chức quốc pḥng, chính trị, xă hội, văn hóa… cho đến tinh thần dân tộc, qúa khứ lịch sử, và cả sông núi, Hồn Thiêng… tất cả đều gom đúc thành Sức Mạnh thần diệu của Dân Tộc, tất cả đều góp phần vào việc cứu dân cứu nước.
Nhờ có vậy, giờ đây chiến thắng mới thực sự là chiến thắng toàn vẹn của toàn thể dân tộc. Có như vậy, cuộc sống mới thực sự mở đầu cho tất cả mọi người.
* * * *
10. Lập Cuộc Sống Mới
10. 1 Thăng Hoa và Phong Thưởng
a. Kinh đă dạy cách đánh giặc cứu nước. Giờ đây giặc đă tan, nhưng việc cứu nước vẫn chưa xong. Kinh vẫn c̣n tiếp: Phù Đổng cỡi ngựa lên núi và về trời.
Núi là nơi của Tiên. Lên núi là h́nh ảnh trở thành phần Tiên.
Phù Đổng là biểu tượng của sức mạnh tập trung của dân tộc, tức phần Rồng. Sức mạnh đó đă được vận dụng tối đa và đă oai dũng đánh đuổi quân giặc.
Giờ đây giặc đă tan, dân nước lại vui hưởng thanh b́nh, nên Sức Mạnh đó lên núi, tức không c̣n cần phải bộc lộ oai dũng, mà được thăng hoa tiềm tàng vào sông núi, vào tâm hồn của dân nước.
Chiến công đuổi giặc trở thành kinh nghiệm sống của toàn dân, trở thành phần Tinh Thần, phần Truyền Thống bất diệt, xáp nhập vào phần Tiên của dân tộc.
*
b. Về trời là sự phong thưởng cao qúy nhất của văn hóa Việt.
Như Chữ Đồng Tiên Dung đă được về trời sau khi trọn đời chăm lo an dân thịnh nước, th́ Phù Đổng cứu được nước nên đă về trời.
Trong Kinh Phù Đổng, Tổ Tiên cũng phong thưởng tất cả mọi người đă hy sinh trong công cuộc cứu nước (*32).
* *
10. 2 Giảm Quân Chuyển Tiếp
Về phần ngựa sắt, đă thành ngựa thần, nên cũng được theo về trời. V́ là sức mạnh chiến đấu, bộc lộ trong sức mạnh quân sự, nên khi xong giặc ngựa cũng phải thăng hoa. Hết giặc mà ngựa lửa vẫn c̣n luẩn quẩn, mà sức mạnh quân sự vẫn c̣n tập trung, th́ chỉ hại dân (*33).
Trong suốt lịch sử dân tộc, bất cứ thời nào, hễ xong giặc là gỉam bớt quân số. Phần lớn được trở về làng thôn để cày cấy phát triển (*34).
Thời b́nh, quân đội của nước ta được luân phiên và chỉ ở mức tượng trưng.
Trong suốt mấy ngàn năm, măi cho đến năm 1950 dl, nước ta không hề có quân đội chính quy.
* *
10. 3 Tái Thiết Quê Hương
a. Giặc tan, các sức mạnh vận dụng chống giặc cũng đă thăng hoa. Nhưng vẫn chưa hết. Tổ Tiên vẫn chưa cho thế là xong việc cứu nước: các gốc tre Phù Đổng đă xử dụng nay hóa thành tre la ngà.
Tre la ngà là một loại tre cứng, đẹp và bền hơn những loại tre thường. Phù Đổng đă nhổ tre làng để phá giặc, nhưng lại hoàn trả bằng loại tre qúy hơn.
Đây chính là h́nh ảnh xây dựng quê hương. Lũy tre làng tượng trưng cho xă hội ta, đă v́ giặc, v́ phá giặc, mà bị hư hại, th́ nay sức mạnh phá giặc đó, chính Phù Đổng cũng làm cho lũy tre vững chắc hơn, tốt đẹp hơn.
* *
b. Thực vậy, qua diễn tiến vận động cứu nước, để hun đúc Sức Mạnh Phù Đổng, toàn dân đă t́m gặp lại Tổ, đă sống lại niềm tự tin dân tộc, đă ư thức lại trách nhiệm, đă lột xác, đă dấn thân. Từ đó, toàn dân cũng đă tận t́nh cộng tài cộng đức, cùng nhau chia sẻ trách nhiệm, cùng gánh vác gian lao, cùng hy sinh chiến đấu bên nhau.
Tất cả đều góp phần để dân tộc vươn vai, tất cả đều góp phần để mọi người trở thành Người Dân toàn vẹn. Do đó giờ đây, đời sống người dân đă trở thành tốt đẹp hơn.
Lũy tre không c̣n là lũy tre thường, mà là tre la ngà!
* *
10. 4 Sống Kỷ Nguyên Mới
a. Mọi thứ giặc đă tan, mọi gánh nặng đă cất. Kinh kết thúc bằng việc Vua Hùng phong tước cho Phù Đổng là Thiên Vương.
Như ở các Kinh khác, Vua Hùng tượng trưng cho uy thế tối cao của Dân Tộc. V́ vậy, Vua Hùng phong tước chính là để tôn vinh kinh nghiệm tuyệt vời và những bài học vô giá của Công Cuộc Cứu Nước. Với uy thế của Vua Hùng, toàn dân ghi nhớ và lưu truyền với tất cả ḷng kính tôn, yêu quư, và tận tâm học hỏi, noi gương (*35).
*
b. Tước vị Thiên Vương của Phù Đổng c̣n xác nhận kết quả toàn hảo của tiến tŕnh cứu nước.
Qua toàn bộ công cuộc, chẳng những toàn dân đă đánh đuổi giặc nước, mà mỗi người c̣n dẹp tan được mọi thứ giặc trong chính bản thân. Trong tiến tŕnh trở thành người cứu nước, mọi người cũng trở thành Con Người toàn vẹn. Khi cứu được nước, dân tộc ta đă trở thành một khối hiệp nhất, toàn hảo, toàn hiệp.
Với mọi chướng ngại đă được đánh tan, với những kinh nghiệm tuyệt hảo, với niềm tin chan chứa, và với sức sống tràn đầy, giờ đây khối người toàn hiệp này đem trọn tâm sức cùng nhau xây dựng một cuộc sống mới.
Với cuộc sống phát xuất từ tâm khảm của những con người thấm nhuần tinh hoa Nền Văn Hóa Siêu Việt, toàn dân hiên ngang bước vào một KỶ NGUYÊN MỚI, kỷ nguyên của một xă hội loài người tràn đầy hạnh phúc.
* * * *
Ghi Chú:
(*1) Giặc thường được hiểu là quân xâm lăng cướp nước, hoặc những kẻ nổi lọan, phá rối nếp sống thanh b́nh.
Theo nghĩa chung, giặc là tất cả những ai, những ǵ, ở bất cứ diện và mức độ nào, làm thiệt hại cuộc sống hạnh phúc của Con Người.
Kinh Mỵ Châu chỉ rơ phương thức giặc xâm lăng, trong xă hội cũng như nơi mỗi con người.
* Đọc bài Tiếng Gọi Bạn
(*2) Về Ân Cao Tôn và Quỷ Phương, đọc bài Vùng Đất Tộc Việt, đọan 4.2
(*3) Về việc Tổ Về, đọc Kinh Tiết Liêu, gc *3
(*4) Nếu không tự tin tự lập để có những căn bản và sức mạnh tối thiểu, th́ dầu có dùng những danh từ hoa mỹ: gọi ḿnh là đồng minh, trên thực tế cũng chỉ là tên đầy tớ; gọi ḿnh là bạn, mà thực sự chỉ là thằng ăn mày; gọi ḿnh là anh hùng, nhưng tựu trung chỉ là con cờ bị lợi dụng.
(*5) Dưới khía cạnh văn hóa, việc Tổ về ở ngă ba đường c̣n nói lên tính cách b́nh đẳng của văn hóa Việt. Tổ về với đại chúng chứng tỏ vua Hùng lập đàn cầu Tổ là v́ vua có trách nhiệm, chớ không phải v́ vua độc quyền. B́nh đẳng cả trước siêu linh.
(*6) Đây là phần tinh thần. Cần phân biệt với kiến thức, hay chuyên môn, kỹ thuật, tài năng… Kinh Mỵ Châu đă nói chi tiết, từ khởi đầu đến kết cuộc.
* Trong lịch sử, công cuộc phục quốc chống ngọai xâm thường chia thành hai giai đoạn lớn. Ở giai đọan đầu, hầu hết những người lănh đạo đều là các chức quyền cũ… Giai đọan hai th́ do người từ giới b́nh dân vươn lên và đưa tới thành công.
Lư do thất bại của giai đọan đầu, một phần là v́ giới quyền chức vẫn theo phương thức cũ, chưa thể cách mạng tinh thần và lề lối làm việc cho ứng hợp với t́nh thế mới.
(*7) Về Bài Học Hồn Nước và Bài Học Dân Nước, đọc Kinh Mỵ Châu phần 3 và phần 4.
(*8) Tổ Tiên đă chỉ dạy rất kỹ v́ luôn luôn có nguy cơ là con cháu, nhất là khi ở thời suy thóai, có thể v́ một vài nét hời hợt bên ng̣ai mà nhận lầm.
Lĩnh Nam Chích Quái là một trong những nguy cơ. Đọc Kinh Tiên Rồng, gc *1, và bài Gia Phả Tộc Việt, đọan 2.4
(*9) Người dám làm như vua Hùng đều bị những kẻ thủ cựu, tuy rất thành tâm thiện chí, dè bỉu chống báng, nhiều khi họ chống hơn cả chống giặc.
* Trở ngại nơi đương sự, thường là v́ mặc cảm: quá khứ, oai hùng vẫn đeo đuổi; uy danh, tuy thóai vị, c̣n vây bọc; hiện tại, đă khốn quẩn, thêm phiền phức; sứ mạng, dầu cao cả, chưa xác tín.
(*10) Khi gặp người chưa vượt qua điểm đột phá này, dĩ nhiên tùy tầm độ, mà nói chuyện cách mạng th́ chỉ mất công, thêm gánh nặng hoặc thêm chống đối.
Chỉ có thể kiên tŕ hướng dẫn tiệm tiến để chính đương sự tự phát.
(*11) Sứ gỉa là người mới dành một số sinh họat cho sứ mạng. Sứ nhân là người sống trọn vẹn cuộc sống của ḿnh v́ sứ mạng.
(*12) Đối với phương Tây, nền văn hóa chủ nô, với thể chế pháo đài và lính chính quy, chiến tranh nhân dân là một sáng kiến vĩ đại cách đây hơn trăm năm.
Nhưng đối với nếp sống dân ta, ṭan dân vi binh đă là chuyện thường t́nh từ mấy ngàn năm.
(*13) Nếu không phân nhiệm, th́ chỉ là nhóm người ô hợp, và chính sự hăng say phục vụ lại làm cho nhiều người quên nhận định khả năng và chuyên môn của ḿnh… để rồi dẫm chân nhau, xô đẩy nhau, đánh nhau… thay v́ đánh giặc.
(*14) Phương thức có thể khác nhau, năm 1257 dl, vua Trần Thái Tôn đích thân đến các làng. Năm 1284 dl, Đức Trần Nhân Tôn triệu tập Hội Nghi Diên Hồng. Năm 1417 dl, Đức Lê Thái Tổ với câu: “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trăi vi thần.” Ngày nay…?
(*15) Ư thức tầm quan trọng của vơ thuật trong vai tṛ huấn luyện và hun đúc tinh thần thanh thiếu niên, nên bất cứ giặc xâm lược thời nào cũng cấm đóan hoặc hạ uy tín vơ thuật dân tộc.
(*16) Giống như trăm triệu đồng bào dưới ách ḱm chế bạo tàn của giặc Cộng hiện nay.
(*17) Cần nhận chân hiện trạng, đừng mơ mộng, ảo tưởng. Khi đă tê liệt câm nín th́ c̣n nói ǵ đến chiến đấu, đ̣an kết…
Không nên ảo tưởng đến sáo ngữ: dân muốn là trời muốn. Dân nào không muốn an vui, trời đâu muốn người khốn khổ. Nhưng suốt mấy ngàn năm, nhân lọai cứ phải quằn quại dưới sự bạo tàn của một số người.
Dân, trời không thể làm ǵ được cho Con Người khi không có con người quyết tâm và làm đúng cách.
(*18) Nghe dân, nhưng chỉ khi nào họ thực sự là Dân. Trước kia, khi đă mất Tổ, nếu họ có nói cũng chỉ là ú, ớ, nói kiểu suy thóai, kiểu vong nô, kiểu làm mất nước, hay kiểu của cường quyền bạo lực… Khi đó mà nghe th́ chỉ có chết, là chắc chắn?
(*19) Nếu không phải của dân, th́ là của danh lợi, bạo quyền, thế lực ngọai bang, tà thuyết.
(*20) Trong lịch sử, ở bất cứ thời nào, thời Hội Nghị Diên Hồng, thời Đức Lê Thái Tổ, thời Đức Quang Trung, và ngay cả năm 1945… khi hội đủ một số điều kiện, th́ ṭan dân ùn ùn vùng dậy. (Năm 1945 sức mạnh đó đă không có chỉ đạo thích đáng, rồi lại bị giặc Hồ Chí Minh và Cộng Sản lợi dụng).
(*21) Tinh Thần v́ Việc Chung là tiêu chuẩn định giá họat động và cuộc sống con người – đọc bài Giá Trị Cuộc Sống Con Người, phần 4.
Ở các chế độ chủ nô, người ta chiêu mộ gia nhân bằng quyền và lợi, bằng trả lương và ban ân huệ, chức tước… Thành phần đứng ra chiêu mộ là giới quyền chức, từ chức vua tới chức lính, từ quyền đảng phái đến quyền công đ̣an, xí nghiệp…
(*22) Không nhận biết nguyên tắc này, nên nhiều tổ chức đă thất bại trong mục tiêu đ̣an kết. Khi cả tinh thần đến cơ cấu tổ chức đang rập theo khuôn mẫu chủ nô, mà lại không thể ban danh ban lợi, th́ gia nhân cũng không có, chớ làm sao có thể quy tụ dân.
Dầu dùng chiêu bài v́ dân, hứa hẹn lợi lộc, nhưng lại độc quyền quản lư, hiện thân lộ liễu nhất của văn hóa chủ nô, nên Hồ Chí Minh và Cộng Sản lại càng ác nghiệt hơn mọi chế độ khác. Đọc bài Nostradamus: Chánh Nghĩa Quốc Gia.
(*23) Vấn đề Góp Công, và cả vấn đề đồng minh, cũng đều căn cứ trên những điều kiện này.
Khi chưa có dấu hiệu khả dĩ thành công mà kêu gào trợ giúp th́ chỉ làm tṛ cười hoặc bị hiểu lầm là gian manh vụ lợi, hay sẵn sàng bán thân làm nô lệ.
Phần tổ chức cũng vậy: cũng như Cậu Bé Phù Đổng, chỉ khi nào có dấu chứng làm được chuyện phi thường, th́ xóm giềng mới góp gạo góp vải. Trước đó, ai đẻ nấy nuôi.
(*24) Vấn đề Đ̣an Kết. Phải có tinh thần dân tộc cô đọng và cụ thể hóa để làm sức mạnh kết tụ, vượt trên những dị biệt. Khi chưa có đặc điểm nổi bật để làm tụ điểm, th́ chưa thể kết hợp.
Trong trường hợp này, kế sách hữu hiệu là đi t́m và t́m được, nói và làm được việc. Họat động có kết quả thực tiễn là Cậu Bé bật nói, tức làm được việc mới, lạ, có sáng kiến.
Dĩ nhiên, trong thực tế, các họat động không buộc phải theo thứ tự thời gian hay lư luận, mà cần sống động hiện thực.
* Đ̣an kết không có nghĩa là cùng gia nhập vào một tổ chức, nhưng phân nhiệm trong cùng một sứ mạng.
(*25) Cần phải nhấn mạnh việc chuẩn bị những người thuộc cánh quân sự. Chẳng những thao trường nhiều mồ hôi th́ chiến trường bớt đổ máu, mà cũng phải biết khi nào thả cọp về rừng và khi nào là buông đao thành Phật!
(*26) Về Bài Học Sức Nước, đọc Kinh Mỵ Châu, phần 5
(*27) Vua Hùng và đ̣an Sứ nhân thật đúng là tiêu biểu của những người quyết tâm cứu nước. Trước đây vua Hùng đă không ngại bỏ đàn và lội bùn tới gặp ông già cổ quái. Nay Sứ nhân lại làm ngựa và roi sắt theo đ̣i hỏi ngông cuồng của một đứa bé ba tuổi tàn tật.
Nhưng nhờ vậy mà cứu được nước.
Qua tấm gương siêu đẳng trên, chúng ta có được nguyên lư nền tảng cho mọi sinh hoạt của tổ chức con người. Nguyên lư Sống Động Hiện Thực, tức là luôn luôn tùy theo thực tế hiện hữu mà linh động biến hóa cho ṭan vẹn và hữu hiệu.
(*28) Có những người, những tổ chức, đă không thực sự chuẩn bị, không được dân cho ăn mặc, mà cũng chờ vươn vai. Nếu cố gắng vươn th́ cũng chỉ là bộ xương khô lơa lồ, hoặc là thằng hề đă được ngọai nhân vẽ mặt trát phấn.
(*29) Lănh Đạo và Anh Hùng. Nơi các văn hóa chủ nô, giới chủ nhân luôn nắm vai tṛ lănh đạo và họ luôn tự nhận là anh hùng; dân chỉ là đám tay sai thiêu thân.
Kinh phân biệt rơ ràng: vai tṛ lănh đạo là do vua Hùng và đ̣an sứ nhân, tức là do tổ chức; c̣n anh hùng cứu nước lại là ṭan dân, là Phù Đổng. Tuy nhiên, giữ nhiệm vụ điều hợp, nhưng đ̣an sứ nhân mất hút trong cái vươn vai của ṭan dân.
Sự phân biệt này ngăn chặn ḷng tự tôn và lạm dụng của những người thuộc Tổ Chức, và bảo đảm cho kết qủa của thành công được thực sự là của Ṭan Dân.
(*30) Vấn đề Tha Thứ
a. Nhân thứ nhưng không phải nhẹ dạ, mù quáng. Từ bi hỷ xả như Phật mà cũng có mười tám tầng địa ngục với đủ thứ khổ h́nh. Bác ái yêu thương như Chúa mà có hỏa ngục thiêu đốt muôn đời.
b. Muốn được tha thứ, theo Phật Giáo, th́ giặc phải buông đao sám hối, Công Giáo th́ chi tiết hơn: để được tha thứ, chính tội nhân phải, (1) Xét ḿnh, tức là tự ḿnh nh́n nhận điều ḿnh làm là xấu, (2) ăn năn hối cải, tự trách ḿnh về việc xấu đó, (3) dốc ḷng chừa, nhất quyết cố gắng không làm nữa, (4) thú nhận ḿnh đă làm việc đó và xin được tha thứ, và (5) quyết đền bù thiệt hại do việc xấu đó gây ra.
Từ bi và yêu thương vô cùng, nhưng chỉ có thể tha thứ cho người hối cải, chớ không thể tha thứ cho quỉ dữ.
Thông thường, để được tha thứ, ṭa sẽ tùy tội mà ra án và chỉ được tha sau khi đền bù xong thiệt hại, và hết hạn ở trại cải huấn, đă được sửa dạy.
c. Nếu không có các điều kiện trên mà gặp đâu tha đó, th́ là thả cọp về rừng, nối giáo cho giặc, trợ Trụ vi ác… chớ không phải nhân thứ.
Nếu nó không chịu hối cải, quyết làm tà ma ác quỉ, th́ ta có trách nhiệm phải diệt quỉ tru ma để cứu nhân độ thế.
Đọc bài Phúc Đức Tiên Rồng, gc *7
(*31) Về Tai Hại Chiến Tranh
a. Chiến tranh là máu và lửa, giết hại và tàn phá. Nhưng không phải chỉ nh́n qua những con số thống kê hay h́nh ảnh kinh tởm, mà c̣n phải thấy nguyên nhân và mục đích. Không phải chỉ thấy sự kiện, mà c̣n phải thấy Con Người.
Con Người sống và chết không giống thú vật, lại không phải là những con số trừu tượng. Con Người luôn có tâm tư và chủ đích.
b. V́ vậy, trong chiến tranh, có kẻ hy sinh, người oan uổng, mà cũng có đứa đền tội.
Cũng chết, nhưng tội nhân th́ đền tội, người vô tội th́ oan uổng, kẻ v́ Chính Nghĩa th́ hy sinh.
Cũng gây đổ máu, nhưng ác nhân càng đổ thêm máu th́ càng thêm nợ, tội càng chồng chất, mà kẻ dấn thân phá giặc để cứu người vô tội th́ thêm công phúc.
Cũng chết, nhưng ác nhân th́ chết nhục, người hy sinh th́ vinh quang.
c. V́ vậy, nhiều cái chết quư hơn sự sống. Cũng là gây chiến, nhưng để cứu dân, như Kinh Phù Đổng dạy, là tạo công phúc vĩ đại, thành thần thành thánh.
(*32) Vấn đề Thờ Anh Hùng. Những kẻ đă hy sinh tính mạng trong cuộc chiến cũng được theo Phù Đổng mà về trời và được ṭan dân tôn thờ kính nhớ.
Có người cho rằng dân ta có đạo thờ Anh Hùng. Quả thật chúng ta thờ nhiều vị Anh Hùng Danh Tướng. Trên đất nước ta nhan nhản những đền thờ các Ngài. Những ngày lễ chính của dân tộc hầu hết cũng là ngày húy của các Ngài.
Ng̣ai ra, mỗi làng đều có Thành Ḥang mà hầu hết cũng là những Anh Hùng góp công cho dân nước, ở đủ mọi thành phần.
Tuy nhiên, điều cần biết là tất cả các vị được thờ đều là những vị cứu dân cứu nước; không có một vị nào được tôn thờ v́ đă xâm lăng hay tàn hại các dân tộc khác.
Lại nữa, dân Việt không hề có thần Chiến Tranh, v́ Thần Máu Lửa Tàn Phá Giết Người. Trong qúa khứ lẫn hiện tại, nhiều giống dân, chẳng những sùng bái thần Chiến Tranh trong các đền thờ, mà c̣n cổ vơ ngay cả trong nếp sống, trong phim ảnh, trong giáo dục.
Đọc bài Lễ Tết Dân Tộc, mục 1.2b
(*33) Khi không cần phá giặc th́ sức mạnh quân sự tập trung sẽ trở thành dụng cụ tàn bạo để đàn áp dân nước, biến dân nước thành nô lệ cho cường quyền. Lịch sử các nước đă và đang là bằng chứng hùng hồn. Các chế độ phong kiến Tây, Tàu, độc tài, Cộng Sản… xưa và nay.
(*34) Sau khi đuổi sạch giặc Minh ra khỏi bờ cơi, chẳng những giảm bớt quân số, Đức Lê Thái Tổ c̣n ghi thêm biểu tích bằng việc trả lưỡi kiếm Thuận Thiên ở hồ Ḥan Kiếm. Lưỡi kiếm Thuận Thiên là biểu vật Ngài dùng để thi hành quyền lănh đạo ṭan da6n chống giặc Minh.
(*35) Về Sơ Đồ Nội Dung Kinh Phù Đổng, đọc bài Nội Dung Cuộc Sống Con Người, các sơ đồ 14E và 14G.
Chia sẻ tâm tư, đọc bài Những Chuyến Bay Định Mệnh. (Kết).
* * * *
Huấn Ca:
Đây Kinh Cứu Nước dẫn lời
Trong bài Phù Đổng từ thời Hùng Vương
Đặt ra sách lược tinh tường
Tổ Tiên truyền dạy con đường giúp dân
Xâm lăng với nạn giặc Ân
Vua Hùng t́m cách giải phần nguy cơ
Đă bao phương thức – không ngờ!
Chẳng ngăn nổi giặc – cơi bờ càng tan
Nhưng vua chợt nhớ lập đàn
Khẩn cầu Quốc Tổ thương ban nước nhà
Thế rồi tại chốn ngă ba
Trong cơn giông tố hiện ra Cụ Ǵa!
H́nh dung cổ quái – múa ca
Râu dài áo đỏ – đậm đà tuyết son
Giỡn chơi với đám trẻ con
Rầm rầm chạy nhảy cười ḍn pháo rang
Nh́n qua khung cảnh ng̣ai đàng
Tuần quan thấy lạ vội vàng tâu vua
Hùng Vương tiến đến kính thưa
Khẩn cầu Cụ giúp khỏi thua quân thù
Cụ cười và bảo: “Nhân thu
Nhà vua sai sứ chu du t́m người!”
Vương liền phán đến khắp nơi
T́m người cứu nước như lời Tổ khuyên
Sứ nhân hăng hái rao truyền:
“Tổ về và bảo thường xuyên đi t́m”
Và làng Phù Đổng đồi sim
Có con trai nhỏ im ĺm ba năm
Chẳng đi, cười, nói… chỉ nằm
Tới khi sứ đến viếng thăm làng này
Cậu ta bật dậy tŕnh bày
Xin con ngựa sắt với tay roi dài
Từ đây Cậu Bé trổ tài
Lớn mua như thổ tiêu sài áo cơm
Gia đ́nh tận lực bổ bơm
Bà con lối xóm đong đơm giúp vào
Tới hôm ngựa sắt sứ trao
Vươn vai hít thở lớn cao phi thường
Phóng lên ngựa sắt cầm cương
Ngựa liền phun lửa nhắm phương nghịch thù
Vung roi đánh giặc mịt mù
Nhổ tre mà đánh cho dù găy roi
Số làng ngựa thổi cháy toi
Giặc tan – trời đất đă soi rửa hờn
Thắng quân tới núi Sóc Sơn
Cậu cùng ngựa lửa biến cơn Về Trời
Gốc tre bỏ lại trên đời
La Ngà – thành giống đồng thời mọc lên
Vua Hùng phong cậu với tên
Thiên Vương Phù Đổng giữ bền núi sông
Bookmarks