Bài Viết của Phu Nhân Tướng Lê Văn Hưng
gửi cho Nguyễn Cao Kỳ Duyên
nhân dịp 30 tháng 4 / 2010
Tôi chuyển đến cô bài viết này nhân dịp 30 tháng 4, 2010.
Cô hăy đọc và xin cô chuyển đến ba cô, Thiếu Tướng Nguyễn cao Kỳ Phó TT VNCH
như là một lời trần t́nh của một công dân VNCH
gửi đến vị cựu Phó TT VNCH qua lời phát biểu của ông rằng:
"Từ TT Nguyễn văn Thiệu trở xuống đều ham sống sợ chết".
Nếu nhận được hồi âm của cô hay ba cô th́ tốt quá.
V́ không có địa chỉ email của ba cô, mong cô giúp tôi.
Cám ơn cô.
Tiếc, Thương, Cảm Phục, Yêu Kính...
Tưởng Niệm Những Anh Hùng trọng Tiết Tháo Chiến Sĩ ...
Bà Lê Văn Hưng, nhũ danh Phạm Thị Kim Hoàng.
Từ chàng ra đi lưng khoác chiến y,
và hồn nương bóng quốc kỳ
Nàng ngừng con thoi có khi nhớ chàng.
Có muốn ǵ đâu! Lệ thắm tơ vàng.
Chàng ngồi trên yên mơ bóng dáng em
mịt mù sau đám khói tên.
Bâng khuâng mắt nh́n tay kiếm.
Không sao dấu đôi lệ hiền….
(Chinh phụ ca – Phạm Duy)
Ngày 21/4/1975, khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, trao quyền lại cho cụ Trần Văn Hương, tôi c̣n nhớ rơ lời ông Thiệu nói:
“Mất một Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu, quân đội c̣n Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, đồng bào c̣n một chiến sĩ Nguyễn Văn Thiệu. Tôi nguyện sẽ chiến đấu kế bên anh em chiến sĩ”.
Lời tuyên bố của ông Thiệu đă gây cho tôi sự xúc động. Thế rồi lời tuyên bố ấy cũng đă bay theo gió, khi số lớn cấp chỉ huy trực tiếp điều hành guồng máy quốc gia đă vỗ cánh chim bay sang ngoại quốc, t́m nơi ẩn trốn an lành, bỏ mặc quê nhà, dân tộc và quân đội đang chết đuối trong cuồng phong súng đạn tơi bời, Thiếu Tướng Nam, Hưng, Hai, Vỹ, Phú. Nhắc đến đây tôi không ngăn nổi tiếng nấc nghẹn ngào.
Ôi tiếng súng nổ rền vang trên khắp lănh thổ. Mùa hè năm 1972, nhà văn Phan Nhật Nam đă mệnh danh là mùa hè đỏ lửa. Mùa hè máu. Mùa hè cuối đầy yêu đương. Mùa hè tận cùng vực thẳm. C̣n mùa hè 30/4/1975 bi thương thê thảm ngần nào? Chúng ta c̣n đủ ngôn từ để diễn tả tận cùng nỗi thương tâm kinh hoàng của sinh ly, từ biệt, cuống cuồng ấy không? Tin thất trận từ các Vùng 1,2,3 bay về dồn dập. Có những nơi chưa đánh đă bỏ cho địch tràn vào. Cũng có nơi quyết liều tử chiến. Thảm thương thay, cuộc rút quân hỗn loạn bi đát chưa từng có trong lịch sử và quân sử.
Đài VOA và BBC tuyên bố những tin thất bại nặng nề về phía QLVNCH khiến ḷng dân càng thêm khiếp đảm. Những đoàn quân thất trận, tả tơi manh giáp, không người chỉ huy, cuống quưt chạy như đàn vịt bị săn đuổi. Tinh thần binh sĩ rối loạn hoang mang tột độ. Họ th́ thào bảo nhau:
- “Tổng Thống Thiệu, Thủ Tướng Khiêm, Đại Tướng Viên đă cao bay xa chạy, c̣n đánh đấm ǵ nữa. Ông Tướng này, ông Tỉnh nọ, đă trốn đi ngoại quốc, chúng ta c̣n đánh làm ǵ”. Họ c̣n hỏi nhau:
- “Bao nhiêu năm chúng ta chiến đấu cho tổ quốc, hay chiến đấu cho tập đoàn tham nhũng? Hay cho cá nhân của ai đây?”
Mất người chỉ huy, những quân nhân như rắn không đầu, rối rít, tan ră. Lại có những câu hỏi:
- “Quân không Tướng chỉ huy th́ sao?” Có những kẻ chủ tâm dè bỉu, thường chỉ trích chê bai:
- “Có những ông Tướng mà biết đánh giặc cái ǵ! Chỉ có lính đánh để các ông Tướng hưởng”.
Lời phê b́nh của những kẻ bất măn hay những kẻ có tâm địa hạn hẹp, thật chẳng khác nào ếch ngồi đáy giếng. Cho dù có những vị Tướng bê bối, làm cho quân đội bị nhục, th́ cũng có những vị Tướng trong sạch đức độ, lỗi lạc, tài ba, đáng cho dân quân khâm phục. Những phần tử bất măn ấy đă vô t́nh hay cố ư không thấy việc tối quan hệ của sự hỗ tương, hỗ trợ, giữa các Tướng Lănh, Sĩ Quan, và Binh Sĩ thật cần thiết cho quân đội và quốc gia như thế nào. Đối với những vị cao minh, hiểu biết giá trị hy sinh của những người tuẫn tiết, tôi trang trọng cúi đầu cảm tạ, tri ân. Có nhiều người đă nêu lên câu hỏi với tôi:
- “Tại sao Tướng Nam, Tướng Hưng chết làm chi cho uổng? Tại sao các ông Tướng ấy không tiếp tục chiến đấu? Tại sao các ông không trốn sang ngoại quốc?”
Lại có người nghiêm khắc trách tôi:
- “Bà thật dở. Nếu là tôi, tôi quyết liệt can ngăn không để cho các ông ấy chết. Vợ con như thế này, ông Hưng chết đành bỏ vợ con lại sao?”
Ngay cả vài vị phu nhân của các Tướng Lănh, hoặc c̣n ở trong tù, hoặc đă an nhàn nơi xứ người, cũng thốt ra những lời chỉ trích tôi. Nghe những lời phê b́nh ấy, tim tôi đau nhói. Tôi tôn trọng sự nhận xét “theo tầm hiểu biết của họ”. Tôi ngán ngẩm không trả lời, chỉ mỉm cười lắc đầu. Nhưng hôm nay tôi phải lên tiếng. Lên tiếng để tạ ân những người đang âm thầm chiến đấu ở Việt Nam, để tạ ân những người hùng can đảm đă, đang, và sẽ tiếp tục đánh đuổi Cộng Sản cứu quê hương, để trả lời những người đă nêu lên nhiều câu hỏi đó. Tôi trân trọng xin những vị nào đă có những lời chỉ trích nên b́nh tâm suy nghĩ lại, trước khi phán đoán v́… những vị Tướng Lănh bách chiến bách thắng lại lẽ nào chịu xuôi tay nhục nhă trước nghịch cảnh, trước kẻ thù? Những vị Tướng đă từng xông pha trong mưa đạn, bao lần thử thách với tử thần, với nhiều chiến công từ cấp bậc nhỏ lên tới hàng Tướng Lănh, đă từng khắc phục gian nguy, xoay ngược thế cờ, chuyển bại thành thắng trên khắp mặt trận, lẽ nào những vị Tướng ấy chỉ nghe hai tiếng “buông súng” rồi giản dị xuôi tay tự sát hay sao?
Viết đến đây tôi mạn phép nêu lên câu hỏi: Thưa toàn thể quư vị sĩ quan QLVNCH. Ngày quư vị nhận lănh chiếc mũ sĩ quan của trường Vơ Bị, quư vị c̣n nhớ sáu chữ ǵ trên chiếc mũ ấy không? Sáu chữ mà quư vị trịnh trọng đội lên đầu là: “Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm”. Ngày măn khóa sĩ quan với những lời tuyên thệ, quư vị hẳn nhớ? Cũng như những điều tâm niệm ai lại chẳng thuộc ḷng? Những vị bỏ nước ra đi trước binh biến, những vị ở lại bị sắp hàng vào trại tù Cộng Sản, tôi xin tạ lỗi, v́ thật t́nh tôi không dám có lời phê phán nào. Tôi chỉ muốn nói lên tất cả sự thật về cái chết của hai vị TướngNguyễn Khoa Nam và Lê Văn Hưng . Hai vị Tướng này đă ba lần từ chối lời mời di tản sang ngoại quốc của viên cố vấn Mỹ, cương quyết ở lại tử chiến, bảo vệ mảnh đất Vùng 4. Viên cố vấn Mỹ hối thúc, đợi chờ không được, sau cùng chán nản và buồn bă bỏ đi.
Trước đó, vào ngày 29/4/1975, lời tuyên bố của Vũ Văn Mẫu và Dương Văn Minh trên đài phát thanh Sàig̣n ra lệnh tất cả người Mỹ phải rời Việt Nam trong ṿng 24 tiếng đồng hồ, th́ chính là lúc “kế hoạch hành quân mật của hai Tướng Nam Hưng đă hoàn tất.”
Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, người thay thế Tướng Vĩnh Lộc vào những ngày giờ cuối tới tấp điện thoại về Cần Thơ. Ông Hạnh đă dùng t́nh cảm chiến hữu, dùng nghĩa đàn anh thân thuộc, khẩn khoản yêu cầu Tướng Hưng về hợp tác với Dương Văn Minh và Nguyễn Hữu Hạnh. Thâm tâm có lẽ ông Hạnh lúc đó muốn đ̣ xét thái độ của hai Tướng Vùng 4 như thế nào. Nhiều lần, qua cuộc điện đàm với Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, Tướng Hưng đă luôn khẳng định:
- “Không hợp tác với Dương Văn Minh. Không đầu hàng Cộng Sản. Tử chiến đến cùng”.
Khi Tổng Thống Thiệu từ chức, trao quyền lại cho cụ Trần Văn Hương, và rồi v́ hoàn cảnh đắm ch́m của vận mệnh đất nước, trước nhiều áp lực nên cụ Hương đă trao quyền lại cho Dương Văn Minh, để rồi “ông Tướng hai lần làm đổ nát quê hương, ố hoen lịch sử này, hạ ḿnh kư tên dâng nước Việt Nam cho Cộng Sản.” Vị Tướng Lănh trấn thủ một vùng, tùy hoàn cảnh đất nước, và t́nh h́nh chiến sự địa phương, trọn quyền quyết định, xoay chuyển thế cờ, không cần phải tuân lệnh một cách máy móc theo cấp chỉ huy đầu năo đă trốn hết, th́ c̣n chờ lịnh ai? Phải tuân lịnh ai? Tóm lại, lúc đó lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh và lời kêu gọi của Nguyễn Hữu Hạnh đă không được Tướng Nam và Tướng Hưng đáp ứng.
Viết đến đây, tôi xúc động lạ thường. Tôi nghẹn ngào rơi lệ nhớ đến một số sĩ quan binh sĩ đă bật khóc khi nghe lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh. Anh em đă ôm lá cờ tổ quốc, ôm khẩu súng vào ḷng nức nở. Có những chi khu trưởng và những đồn trưởng nhất định không chịu đầu hàng. Họ đă tử thủ đến viên đạn chót. Và viên đạn chót dành để kết liễu đời ḿnh. Cấp bậc của những anh em ấy không cao, chỉ chỉ huy khu nhỏ, hay một đồn lẻ loi, nhưng tinh thần tranh đấu của anh em cao cả và oai hùng thế đấy.
Trong khi Sàig̣n bỏ ngỏ đầu hàng th́ Cần Thơ vẫn an ninh tuyệt đối. Kế hoạch hành quân đă thảo xong. Vũ khí lương thực đạn dược sẵn sàng. Tất cả đều chuẩn bị cho các cánh quân di chuyển, sẽ đưa về các tuyến chiến đấu. Kế hoạch di quân, phản công, và bắt tay nằm trong lịnh mật quân hành đó. Vùng 4 có nhiều địa thế chiến lược, có thể kéo dài cuộc chiến thêm một thời gian. Bởi lúc đó, cho đến ngày 29 tháng 4 năm 1975, chưa có một đồn nào, dù ở quận lỵ xa xôi hẻo lánh ở Vùng 4 đă lọt vào tay giặc Cộng.
Nhưng, Cần Thơ, sáng ngày 30/4/1974, dân chúng nhốn nháo hoang mang. Đă có một số binh sĩ bỏ ngũ. Tại thị xă, cảnh náo loạn đáng buồn chưa từng có đă xảy ra. Từng nhóm đông đảo bọn ác ôn và thừa nước đục thả câu đă ra tay cướp giật tài sản ở các cơ sở Mỹ, và ở những nhà tư nhân đă bỏ trống, bất chấp tiếng súng nổ can thiệp của cảnh sát duy tŕ an ninh trật tự công cộng. Chúng cướp giật, đập phá, ḥ hét như lũ điên. Chắc chắn trong số này có bọn Cộng Sản nằm vùng có ư đồ gây rối loạn áp đảo tinh thần binh sĩ.
Lúc ấy Tướng Nam và Tướng Hưng vẫn c̣n liên lạc với các cánh quân chạm địch. Nhiều cánh quân nồng cốt được đưa về thị xă Cần Thơ để bảo vệ Bộ Chỉ Huy Quân Đoàn, nằm chung quanh ṿng đai Alpha. Từ 2 giờ đến 4 giờ chiều ngày 30 tháng 4, giờ đă điểm. Đúng theo kế hoạch lệnh hành quân bắt đầu. Nhưng hỡi ôi, khi liên lạc đến các cấp chỉ huy của các đơn vị th́ mới hay họ chưa biết tư ǵ về kế hoạch, chưa rục rịch chi hết, ngoài việc thay đổi các cuộc bố trí từ sáng đến giờ phút này.
T́m kiếm Đại Tá an ninh, người đă lănh nhiệm vụ phân phối phóng đồ và lệnh hành quân mật đến các đơn vị, th́ mới vỡ lẽ ra vị sĩ quan này đă đưa vợ con t́m đường tẩu thoát sau khi ném tất cả mật lệnh vào tay vị Đại Úy dưới quyền. Ông này cũng đă cuốn gói trốn theo ông Đại Tá đàn anh, cho có thầy, có tṛ. Các phóng đồ và lệnh hành quân mật cũng đă biến mất. Thiếu Tướng Nam và Thiếu Tướng Hưng tức uất không sao tả nổi. Tôi không ngăn nổi tiếng nấc nghẹn ngào khi hồi tưởng lại vẻ bối rối của Thiếu Tướng Nam và sự đau khổ thất vọng của Hưng. Những đường gân trán nổi ṿng lên, răng cắn chặt, biểu lộ sự đau đớn và chịu đựng kinh hồn. Người đập tay đánh ầm xuống bàn khi thấy kế hoạch sắp xếp thật tinh vi bị kẻ phản bội hèn nhát làm găy đổ bất ngờ. Hưng ngước mắt nh́n tôi như muốn hỏi:
- “Có đồng ư đem con lánh nạn không?”
Tôi cương quyết từ chối. Tôi không cầu an ích kỷ, t́m sống riêng, bỏ mặc người trong cảnh dầu sôi lửa đỏ. Tôi nhất định ở lại, cùng chịu hoạn nạn, cùng liều chết. Hưng hỏi tôi:
- “Thành công là điều chúng ta mong ước, nhưng rủi thất bại, em định liệu lẽ nào?” Tôi đáp:
- “Th́ cùng chết! Các con cũng sẽ thế. Em không muốn một ai trong chúng ta lọt vào tay Cộng Sản”.
Và để khỏi phải sa vào tay giặc Cộng, tôi b́nh tĩnh thu xếp cái chết sắp tới cho mẹ con tôi, đường giải thóat cuối cùng của chúng tôi. 4g45 chiều ngày 30/4/75, Tướng Hưng rời bỏ văn pḥng ở Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 4, về bộ chỉ huy phụ, nơi chúng tôi tạm trú. Hưng không muốn chứng kiến cảnh bàn giao ô nhục sắp tới giữa Thiếu Tướng Nam và tên Thiếu Tá Việt Cộng Hoàng Văn Thạch. Năm giờ rưỡi chiều khi Hoàng Văn Thạch tiến vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn là lúc Hưng gọi máy liên lạc với Tướng Mạch Văn Trường, ra lệnh đưa hai chi đội thiết giáp tới án ngữ ở dinh Tỉnh Trưởng để bảo vệ Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 21 mới về đóng nơi đây. Sau đó Hưng tiếp tục liên lạc với các đơn vị đang tiếp tục chạm súng ở các tiểu khu. Đồng thời Hưng mời Tướng Mạch Văn Trường cùng các đơn vị trưởng ở chung quanh ṿng đai thị xă Cần Thơ về họp. 6g30 chiều, khi các vị sĩ quan vừa ra đến cổng, có một toán thân hào nhân sĩ quen biết tại Cần Thơ đang chực sẵn, gồm khoảng 10 người. Họ xin gặp Tướng Hưng, với tư cách đại diện dân chúng thị xă, yêu cầu:
- “Chúng tôi biết Thiếu Tướng không bao giờ chịu khuất phục. Nhưng xin Thiếu Tướng đừng phản công. Chỉ một tiếng lệnh của Thiếu Tướng phản công, Việt Cộng sẽ pháo kích mạnh mẽ vào thị xă. Cần Thơ sẽ nát tan, thành b́nh địa như An Lộc. Dù sao, vận nước đă như thế này rồi, xin Thiếu Tướng hăy v́ dân chúng, bảo toàn mạng sống của dân, dẹp bỏ tánh khí khái, can cường…”.
Nghe họ nói, tôi cảm thấy đau ḷng lẫn khó chịu. Tôi cũng không ngạc nhiên về lời yêu cầu đó. Bởi mới tuần lễ trước, Việt Cộng đă pháo kích nặng nề vào khu Cầu Đôi, cách Bộ Tư Lệnh không xa, gây thiệt hại cao về nhân mạng và tài sản của đồng bào. Dân chúng Cần Thơ c̣n khiếp đảm. Hưng như đứng chết lặng trước lời yêu cầu ấy. Một lát sau, Hưng cố gượng nở nụ cười trả lời:
- “Xin các ông yên ḷng. Tôi sẽ cố gắng hết sức để tránh gây thiệt hại cho dân chúng”.
Toán người ấy ra về. Hưng quay sang hỏi tôi:
- “Em c̣n nhớ tấm gương cụ Phan Thanh Giản? Bị mất ba tỉnh miền đông, rồi cũng v́ dân chúng mà cụ Phan đă nhún ḿnh nhường thêm ba tỉnh miền tây cho quân Pháp. Cụ Phan không nỡ thấy dân chúng điêu linh và cũng không để mất tiết tháo, không thể bó tay làm nhục quốc sĩ. Cụ Phan Thanh Giản đành nhịn ăn rồi uống thuốc độc quyên sinh”.
Trầm ngâm vài giây, Hưng tiếp:
- “Thà chết chứ đâu thể bó tay trơ mắt nh́n Việt Cộng tràn vào”.
6g45 chiều ngày 30 tháng 4, Tướng Nam điện thoại cho Hưng, hỏi t́nh h́nh các nơi. Hưng báo với Tướng Nam về việc đại diện dân chúng thị xă đến yêu cầu thẳng với Hưng. Hưng cũng cho Tướng Nam biết đặc lệnh truyền tin mới nhất sẽ giao cho người tín cẩn phân phối. Tướng Nam cho Hưng hay là ông đă cho thu băng lời kêu gọi dân chúng và lời yêu cầu này sẽ cho đài Cần thơ phát thanh. Nhưng mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Thêm một lần nữa, sự gây đổ đau ḷng. Đài Cần Thơ bị nội ứng trước đó, khoảng một giờ, viên giám đốc đài bị uy hiếp, thay v́ phát thanh cuốn băng của Thiếu Tướng Nam trước, chúng thay cuốn băng có lời kêu gọi của Thiếu Tá Cộng Sản Hoàng Văn Thạch. Khoảng mười phút sau, đài mới phát thanh cuốn băng của Tướng Nam. Muộn màng rồi. Không c̣n níu kéo được sự tin tưởng nơi dân chúng và binh sĩ được nữa. Hàng ngũ các đơn vị đă thưa thớt lại càng thêm thưa thớt.
7g30 tối ngày 30 tháng 4, Hưng gọi tôi lên văn pḥng làm việc. Đây là giờ phút nghiêm trọng nhất, không có ai hiện diện hết. Sau khi kể cho tôi nghe hết sự đổ vỡ từ trưa đến giờ phút đó, Hưng nhấn mạnh:
- “Hoàng, em đă hiểu sự thất bại do các nguyên nhân sau đây: Vị Đại Tá không tuân lệnh, nên giờ chót không điều động quân về các vị trí chiến lược, trù liệu theo kế hoạch. Việc níu kéo sự tin tưởng của dân chúng và binh sĩ không thành. Lời kêu gọi trễ tràng của Tướng Nam không có tiếng vang. Cũng như lời yêu cầu của dân chúng thị xă Cần Thơ”.
Quắc đôi mắt sáng, Hưng nh́n tôi dằn giọng:
- “Em phải sống ở lại nuôi con”.
Tôi hoảng hốt:
- “Ḱa ḿnh, sao ḿnh đổi ư?”
- “Con chúng ta vô tội, anh không nỡ giết con.”
- “Nhưng không thể để con sống với Cộng Sản. Em sẽ thay ḿnh làm chuyện đó. Chỉ cần chích thuốc ngủ cực mạnh cho con. Chờ em một chút, chúng ta cùng chết một lúc”.
- “Không thể được. Cha mẹ không thể giết con. Anh van ḿnh. Chịu nhục, cố sống. Ở lại thay anh, nuôi con trở thành người công chính. Phú quư vinh hoa địa vị hăy đề pḥng, những thứ đó dễ làm mờ ám lương tri. Nhớ, giang san tổ quốc là trọng đại hơn hết. Gắng chịu cúi ḷn, nhục nhă để nuôi con và cũng nuôi luôn ư chí để có ngày c̣n phục hận cho đất nước chúng ta”.
- “Nếu v́ con, ḿnh thương con, sao ḿnh không đi ngoại quốc?”
Hưng đanh mặt lại, nghiêm khắc nh́n tôi trách móc:
- “Em là vợ anh. Em có thể nói được câu ấy sao?”
Biết ḿnh vụng về, lỡ lời xúc phạm đến người, tôi vội vàng tạ lỗi:
- “Xin ḿnh tha thứ. Chẳng qua v́ quá thương ḿnh nên em mới nói thế”.
Giọng Hưng thật nghiêm trang mà cũng thật trầm tĩnh:
- “Nghe anh nói đây. Người ta trốn chạy được. Chớ anh không bao giờ trốn chạy. Mấy ngàn binh sĩ dưới tay, hồi nào sinh tử có nhau, giờ bỏ mặc họ t́m sống riêng ḿnh sao? Anh cũng không đầu hàng. Bây giờ th́ rút cũng không kịp nữa, v́ vào mật khu mà không có nguồn tiếp liệu vũ khí, đạn dược, lương thực th́ không cầm cự được lâu. Đă muộn rồi. Việt Cộng đang kéo vào đừng để anh không dằn được nổ súng vào đầu chúng, th́ gây thiệt hại cho dân chúng và anh em binh sĩ. Anh không muốn thấy bóng dáng một tên Việt Cộng nào”.
Tôi phát run lên hỏi:
- “Nhưng ḿnh ơi, c̣n em? em phải làm ǵ trong lúc này?”
Nắm chặt tay tôi, Hưng nói:
- “Vợ chồng t́nh nghĩa bao nhiêu lâu, anh hiểu em và em hiểu anh. Em tuy chỉ là con cá nhỏ nhưng biết mang ư chí ḱnh ngư. Gắng chịu nhục. Dù phải chịu trăm ngàn sự nhục nhă để nuôi con, để phục hận cho quê hương. Cải trang, cải dạng, len lỏi mà sống. Anh tin em. V́ anh, v́ con, v́ nợ nước, t́nh nhà, em có thể chịu đựng nổi! Nghe lời anh đi. Anh van ḿnh, anh van ḿnh”.
Tôi không sao từ chối được trước ánh mắt van nài, trước những lời tha thiết ấy:
- “Vâng, em xin nghe lời ḿnh”.
Hưng sợ tôi đổi ư, tiếp lời thúc giục:
- “Em hứa với anh đi. Hứa một lời đi”.
- “Em xin hứa. Em xin hứa ḿnh ơi. Nhưng xin cho em hai điều kiện. Nếu Cộng Sản bắt em phải sống xa con, nếu giặc Cộng làm nhục em, lúc ấy em có quyền tự sát theo ḿnh chứ?”
Hưng suy nghĩ giây lâu, gật đầu đồng ư, và ra lệnh cho tôi:
- “Em mời má và đem các con lên lầu gặp anh”.
Tôi quay đi. Ánh mắt bỗng chợt đập vào lá cờ vẫn dựng ở góc pḥng. Tôi vội vàng đem cờ đến bên người. Tôi nói:
- “Bao nhiêu năm chiến đấu để bảo vệ tổ quốc. Bây giờ ḿnh hăy giữ nó”.
Chúng tôi nh́n nhau cảm thông. Hưng ôm lá cờ, áp vào mặt, đôi mắt Hưng chợt ướt. Sau cùng Hưng cũng rán đứng lên hối tôi:
- “Mau mời má và mấy đứa nhỏ lên”.
Khi mẹ tôi và các con lên văn pḥng, Hưng nói rơ cho mẹ tôi hiểu v́ sao người phải chết và tôi phải sống.
Vâng lệnh Hưng, tôi mời tất cả sĩ quan binh sĩ c̣n tụ họp dưới nhà lên văn pḥng. Mọi người đứng xếp hàng nghiêm trang và vô cùng cảm động. Giờ phút từ biệt sanh ly giữa những người từng bao ngày sống chết bên nhau. Hưng dơng dạc nói:
- “Tôi không bỏ các anh và đưa vợ con trốn sang ngoại quốc. Như các anh đă biết, cuộc hành quân chưa chi đă bị gẫy đổ nửa chừng. Tôi không phản công vào phút chót là v́ dân chúng. Tôi không muốn Việt Cộng pháo kích bừa băi, biến Cần Thơ thành An Lộc thứ hai. Tôi cũng không chịu nhục đầu hàng. Các anh đă từng cộng tác với tôi, những lúc các anh lầm lỗi, tôi rầy la. Rầy la không có nghĩa là ghét bỏ. Rầy la để mến thương nhau, để xây dựng nhau.
Mặc dầu đất nước ta bị bán đứng, bị dâng cho Cộng Sản, nhưng các anh không trực tiếp chịu tội với quốc dân. Chính những người trực tiếp nắm vận mệnh các anh, mới chính là những kẻ trọng tội. Xin các anh tha thứ cho tôi những lỗi lầm, nếu có. Tôi bằng ḷng chọn cái chết. Tướng mà không giữ được nước, không bảo vệ được thành, th́ phải chết theo thành, theo nước, chớ không thể bỏ dân, bỏ nước, trốn chạy, cầu an. Tôi chết rồi, các anh hăy về với gia đ́nh, vợ con. Nhớ rơ lời tôi căn dặn: Đừng bao giờ để bị Cộng Sản tập trung các anh, dù tập trung dưới bất cứ h́nh thức nào. Tôi có lời chào vĩnh biệt các anh”.
Tướng Hưng đưa tay chào và bắt tay từng người một. Mọi người đều khóc. Đến bên Thiếu Tá Phương, Trung Úy Nghĩa, Hưng gởi gấm:
- “Xin giúp đỡ giùm vợ con tôi. Vĩnh biệt tất cả”.
Mọi người đều đứng yên không ai nói lên được lời nào. Mẹ tôi nhào lại ôm chầm lấy người, xin được chết theo. Hưng an ủi mẹ tôi, yêu cầu mẹ tôi cố gắng chăm lo cho cháu ngoại. Hưng ra lệnh cho tất cả mọi người phải ra ngoài. Không ai chịu đi. Hưng phải xô từng người ra cửa. Tôi van xin:
- “Ḿnh cho em ở lại chứng kiến ḿnh chết”.
Người từ chối. Nghĩa hoảng sợ bỏ chạy. Hưng quay vào văn pḥng đóng chật cửa lại. Tôi gọi giật Nghĩa:
- “Nghĩa trở lại với tôi”.
Tôi bảo Giêng t́m dao nạy cửa. Giêng bỏ chạy như bay. Nghĩa trở lên, đứng trước cửa chờ đợi. Có tiếng súng nổ nghe chát chúa. Tôi đưa tay xem đồng hồ: 8g45 tối ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ngày kết liễu cuộc đời của chúng tôi. Lê Văn Hưng, anh đă chết. Giêng run run lấy dao nạy cửa. Cửa bật ra. Nghĩa lách ḿnh nhường tôi chạy vào pḥng trước. Hưng ngả người nằm trên, nửa người nằm dưới, hai cánh tay dang ra, cong lên và giật mạnh, toàn thân run rẩy từng cơn. Đôi mắt Hưng mở to căm hờn. Miệng Hưng há ra, đôi môi mấp máy. Tôi ôm chầm lấy Hưng hỏi:
- “Ḿnh, ḿnh ơi! Ḿnh c̣n lời ǵ dặn ḍ em nữa không?”
Hưng không c̣n trả lời được tiếng nào. Nghĩa gào lên nức nở:
- “Thiếu Tướng! Trời ơi, Thiếu Tướng!”
Giêng chạy vào phụ Nghĩa đỡ lưng và chân, tôi đỡ đầu Hưng, đặt nằm ngay ngắn trên giường. Máu tim nhuộm thắm áo trận, ướt đỏ cả tấm drap trắng. Tôi đưa tay vuốt mắt cho người. Nghĩa vẫn gào khóc:
- “Thiếu Tướng! Thiếu Tướng ơi!”
Tôi bảo Giêng:
- “Nói Ḥa đưa Hải, Hà, Quốc lên nh́n xác ba lần cuối. Dặn Phương cho Khiết, Hoàng giữ ở cầu thang, bất cứ giá nào chũng phải ngăn chận Việt Cộng”.
Tôi đi t́m đầu đạn và đuôi đạn. C̣n khẩu súng, lạ lùng thay không biết ở đâu. Đến lúc tắm rửa người, thay drap dấy máu, tôi mới hiểu. Trước khi hồn lià xác, với ư chí cuối cùng, người c̣n b́nh tĩnh nhét khẩu súng, dấu dưới nệm. Có lẽ người sợ tôi quá xúc động, quên lời hứa, tự sát theo. Bé Hải lúc ấy năm tuổi, ôm hai chân ba, khóc than, kể lể thảm thiết. Bé Hà hai tuổi, thơ ngây ôm chai sữa, lên nằm trên bụng ba, bé mở tṛn đôi mắt to, ngạc nhiên không thấy ba đưa tay bế bé như mọi khi.
Nghĩa điện thoại khắp nơi t́m Thiếu Tướng Nam, không thấy trả lời. Tôi vội vă mở đặc lịnh truyền tin, lên máy gọi liên lạc với Thiếu Tướng. Lúc ra máy, chỉnh tần số, tôi chỉ nghe những giọng nói rặc mùi Cộng Sản trên các tần số thuộc đơn vị của chúng ta. Lũ Việt cộng, ngày 30 tháng 4, tràn vào nhà. Phương cương quyết chận chúng ở cầu thang. Chín giờ rưỡi, 30 tháng 4, chuông điện thoại reo vang:
- “Alô, Alô, ai đây?”
- “Dạ thưa chị đó à? Hồ Ngọc Cẩn đây”. Tôi bàng hoàng:
- “Anh Cẩn! Có chuyện chi cần không?”
Tôi cố gắng giữ giọng nói cho b́nh thường, để Cẩn không nhận biết sự việc xảy ra. Trong điện thoại, về phía Cẩn, tôi có nghe tiếng súng lớn nhỏ thi nhau nổ ầm ầm. Cẩn hỏi:
- “Thiếu Tướng đâu chị? Cho tôi gặp ông một chút”. Tôi lúng túng vài giây:
- “Ông đang điều động quân ngoài kia”.
- “Chị chạy ra tŕnh Thiếu Tướng, tôi cần gặp. Trung Úy Nghĩa đâu chị?”
- “Nghĩa đang ở bên cạnh Thiếu Tướng. Cẩn chờ một chút nhé”.
Tôi áp chặt ống điện thoại vào ngực. Mím môi, nh́n xác Hưng rồi nh́n sang Nghĩa tôi hỏi:
- “Đại Tá Cẩn đ̣i gặp Thiếu Tướng, làm sao bây giờ Nghĩa?” Nghĩa lúng túng:
- “Cô nói Thiếu Tướng chết rồi”.
- “Không thể nói như vậy được. Đại Tá Cẩn đang cự chiến với Việt Cộng”.
Trí óc tôi chợt lóe sáng phi thường. Tôi muốn Cẩn chiến đấu anh hùng. Sống anh hùng. Chết anh hùng. Tôi đưa máy lên giọng quyết liệt:
- “Thiếu Tướng không thể vào được. Cẩn cần ǵ cứ nói. T́nh h́nh ở Chương Thiện ra sao? Anh c̣n đủ sức chiến đấu không? Tinh thần binh sĩ thế nào? Địch ra sao?”
- “Tụi nó dần tụi tui quá. Tinh thần anh em vẫn cao. Chị hỏi Thiếu Tướng c̣n giữ y lịnh không?”
- “Cẩn vui ḷng chờ chút”.
Tôi lại áp chặt ống điện thoại vào ngực. Cắn chặt môi suy nghĩ. Tôi hiểu lời Cẩn hỏi. Trong tích tắc tôi biết khó cứu văn t́nh thế. Nhưng tôi muốn Hồ Ngọc Cẩn phải luôn hiên ngang hào hùng. Tôi quyết định:
- “Alô. Cẩn nghe đây: Lịnh Thiếu Tướng. Ông hỏi Cẩn có sẵn sàng tử chiến?”
Cẩn đáp thật nhanh:
- “Lúc nào cũng sẵn sàng, chớ chị!”
- “Tốt lắm, vậy th́ y lịnh”.
- “Dạ, cám ơn chị”.
Tôi buông máy gục xuống bên xác Hưng. Nước mắt trào ra, tôi kêu nho nhỏ:
- “Vĩnh biệt Cẩn. Vĩnh biệt Cẩn!”
“Anh Cẩn ơi, hồn linh anh có phảng phất đâu đay, khi tôi ngồi viết lại những ḍng này, nước mắt rơi trên giấy, Anh có biết cho rằng trả lời điện thoại với anh rồi, tôi đau khổ tột cùng không? Tha thứ cho tôi!” Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đă chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, anh đă hiên ngang hào hùng đến giờ phút chót của cuộc đời. Hiểu rơ Hưng, hiểu rơ tôi, bên kia thế giới không thù hận, chắc anh hiểu rơ tâm trạng của tôi lúc bấy giờ, hẳn anh tha thứ cho tôi?
Kính thưa toàn thể quư vị thuộc thân bằng quyến thuộc của Đại Tá Cẩn. Kính thưa quư vị đă đọc những gịng chữ này. Xin quư vị chớ trách tôi sao dám quyết định. Ngộ biến tùng quyền. Tướng Hưng đă chết. Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam chưa liên lạc được. Vợ người lính nghĩa quân trưởng đồn, khi Việt Cộng tấn công, chồng chị bị tử thương, chị đă thay chồng phản công ác liệt. Tôi không thể để một người như Hồ Ngọc Cẩn đưa tay đầu hàng, hạ ḿnh trước Việt Cộng vào dinh tỉnh trưởng Chương Thiện.
11 giờ đêm ngày 30 tháng 4, 1975. Điện thoại lại reo. Lần này, chính giọng của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam:
- “Alô, chị Hưng!”
Tôi vừa khóc, vừa đáp lời Thiếu Tướng:
- “Thưa Thiếu Tướng…”
Giọng Tướng Nam buồn bă u uất:
- “Tôi biết rồi, chị Hưng, tôi chia buồn với chị, nghe chị Hưng”.
Tôi vẫn nức nở:
- “Thiếu Tướng nghĩ sao về kế hoạch đă găy đổ?”
- “Hưng đă nói với chị hết rồi hả? Đành vậy thôi. Không phải lỗi chúng ta hèn nhát hay bỏ cuộc. Sự sụp đổ không cứu văn được v́ lệnh hành quân không được Đại Tá… thi hành, phóng đồ và lệnh không tới tay các đơn vị trưởng, lời yêu cầu của dân chúng, lời kêu gọi của tôi quá muộn màng, không hiệu quả, khó cứu văn nổi t́nh h́nh”.
Nói đến đây, Thiếu Tướng Nam hỏi tôi:
- “Chị biết vụ đài phát thanh bị nội ứng chứ?”
- “Thưa biết. Hưng cũng bảo tôi như Thiếu Tướng vậy. Bây giờ Thiếu Tướng định liệu lẽ nào, có định phản công không?”
- “Chị quên c̣n dân chúng sao? Cộng Sản coi rẻ mạng dân, c̣n ḿnh th́… Đàng chị thế nào?”
- “Thưa Thiếu Tướng, chúng nó đă tràn đầy dưới nhà. Có vài tên định nhào lên, nhưng bị Giêng cương quyết đuổi xuống. Hiện chúng đang thu dọn tài sản”.
- “C̣n mấy chú đâu hết?”
- “Chỉ có Nghĩa và vài ba người lính ở lại. C̣n tất cả đă bỏ đi hết. Hưng đă chết rồi, tôi không màng đến tài sản. Miễn là chúng đừng đụng đến xác Hưng”
- “Chị tẩm liệm Hưng chưa?”
- “Thưa chưa. Vừa tắm rửa, thay quần áo xong th́ Thiếu Tướng gọi tới”.
- “Chị nên tẩm liệm Hưng ngay đi. Tôi sợ không c̣n kịp. chúng nó sẽ không để yên”.
- “Thiếu Tướng c̣n dạy thêm điều ǵ không? Chẳng lẽ Thiếu Tướng chịu đầu hàng thật sao?”
Người thở dài trong máy. Người nói những lời mà đến chết tôi cũng sẽ không quên:
- “Số phận Việt Nam khốn nạn thế đó, chị Hưng ơi! Tôi và Hưng đă sắp đặt tỉ mỉ, hoàn tất kế hoạch xong xuôi, c̣n bị phản bội giờ chót”.
Người chép miệng thở dài:
- “Thôi chị Hưng ơi”.
Bỗng giọng người trầm xuống, ngậm ngùi:
- “Hưng chết rồi, chắc tôi cũng chết! Chúng tôi làm Tướng mà không giữ được nước th́ phải chết theo nước”.
Giọng người b́nh tĩnh và rắn rỏi:
- “Cố gắng can đảm lên nhé chị Hưng. Chị phải sống v́ mấy đứa nhỏ. Đêm nay có ǵ nguy cấp, nhớ gọi tôi. Nếu gọi không được, dặn Nghĩa gọi Thụy, lấy mật mă mới”.
- “Dạ, cám ơn Thiếu Tướng”.
Nói chuyện với Thiếu Tướng xong, tôi bước ra lan can nh́n xuống. Dưới sân, sĩ quan và lính tráng đă đi hết. Trừ có Nghĩa c̣n ở lại. Cổng rào bỏ ngỏ. Gió thổi đong đưa cánh cửa rít lên những tiếng kẽo kẹt bi ai. Mảnh trăng cuối tuần 19 tháng 3 âm lịch chênh chếch soi, vẻ ảm đạm thê lương như xót thương cho số phận Việt Nam Cộng Ḥa, cho tṛ đời bể dâu hưng phế.
Viết đến đây, tôi nhớ lại từng lời của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, của Đại Tá Tỉnh Trưởng tỉnh Chương thiện Hồ Ngọc Cẩn. Trọn đời tôi, làm sao tôi có thể quên giọng nói gấp rút của anh Cẩn, giọng trầm buồn của Tướng Nam.
7 giờ sáng ngày 1 tháng 5, năm 1975. Vừa tụng dứt đoạn kinh Sám Tỉnh Thế trong nghi thức cầu siêu cho Hưng, tôi nghe có tiếng nấc sau lưng. Quay lại, chính là Trung Tá Tùng, bác sĩ trưởng Quân Y Viện Phan Thanh Giản, Cần Thơ. Ông đến thăm Hưng lần cuối. Ông cho biết phải trở lại Quân Y Viện ngay v́ Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam đă tự sát, xác c̣n nằm tại Quân Y Viện. Tướng Nam đă bắn vào thái dương, lúc 6 giờ sáng ngày 1 tháng 5, 1975. Cho đến chết, mắt Tướng Nam vẫn mở trừng trừng, uất hận, miệng người há hốc, đớn đau. Sau cuộc điện đàm với người, tôi đă linh cảm, biết trước chuyện ǵ sẽ xảy ra. Nhưng khi nghe bác sĩ Tùng báo tin, tôi xúc động vô cùng, tôi quỳ xuống, hướng về Quân Y Viện, nơi Tướng Nam c̣n nằm đó, cầu nguyện:
- Xin Thiếu Tướng tha thứ. Tôi không dám bỏ xác Hưng để đến vuốt mắt Thiếu Tướng và lo việc tẩm liệm cho Thiếu Tướng. Bây giờ linh hồn của Thiếu Tướng đă gặp Hưng, xin linh thiêng pḥ hộ cho mẹ con tôi thoát khỏi tay Cộng Sản. Xin thương xót cho quê hương, cho dân tộc chúng ta. Xin thương xót cho toàn thể anh em binh sĩ.
Trung Úy Nghĩa thay tôi đến viếng xác người. Trung Úy Thành, vị ân nhân can đảm đặc biệt, đến với tôi trong giờ phút nguy nan đó. Thành đă mời được Trung Tá Bia đến tẩm liệm cho Hưng. Những vị ân nhân trong cơn biến loạn ấy, trọn đời tôi xin ghi khắc ơn sâu. 8 giờ sáng ngày 1 tháng 5, 1975, các sĩ quan quân đoàn, mặc thường phục, đến viếng xác Hưng. Mầu nhiệm thay, khi gặp lại những cộng sự viên cũ, trong thoáng chốc, mắt Hưng hé mở, nh́n lên. Và từ trong đôi mắt người chết, có hai gịng lệ chảy. Mặt người chợt đỏ bừng lên.
Người khóc cho quê hương đất nước bắt đầu đắm ch́m trong điêu linh. Người khóc cho đám tàn quân khốn khổ. Cho đến lúc chết, hai Tướng Nam và Hưng chỉ phân tách nguyên nhân thất bại, làm hỏng kế hoạch của hai người chớ không ai lên tiếng nặng lời trách móc vị Đại Tá kia.
Xin quư vị hiểu rơ giùm tôi. Tôi tôn trọng danh dự của hai ông, vợ con và gia đ́nh hai ông. Trong hoàn cảnh căng thẳng của đất nước, khi ḷng người mất niềm tin, hai ông cũng như nhiều người khác, thật sự đáng thương hơn đáng trách. Không hiểu hai ông có đi thoát, hay bị bắt ở lại.
Vận nước ngàn cân treo sợi tóc, một vài người dù đánh đổi cả vận mệnh cũng không nâng đỡ nổi ṭa nhà Việt Nam đang sụp đổ tang thương. Nhưng, một ngày chúng ta c̣n mang trong người ḍng máu của dân tộc Lạc Hồng, c̣n hít thở được khí trời, là một ngày chúng ta c̣n nợ nần quê hương. Đó là món nợ thiêng liêng và cao quư mà ngôn từ loài người chưa thể diễn tả được sát nghĩa, và thật đúng ư. Sao chúng ta không noi gương oanh liệt của tổ tiên, của cha ông, nối tiếp ư chí bất khuất của tiền nhân, để trang trải món nợ ân t́nh đó? Sao chúng ta cứ lo chê bai, công kích, hăm hại, đạp chà nhau, để rồi vô t́nh làm lợi cho bọn cướp nước Cộng Sản?
Đọc những ǵ tôi kể ở đoạn trên, những vị từng hỏi hay mỉa mai tôi, đă hiểu tất cả sự thật v́ sao Tướng Nam và Tướng Hưng đă phải tự sát để bảo tồn tiết tháo. Không ai đem việc thành bại luận anh hùng. Cũng chớ bao giờ lấy tâm địa tiểu nhân để đo ḷng người quân tử. Chúng ta, những người c̣n sống, những người Việt Nam ở trong nước hay lưu vong khắp bốn phương trời, chúng ta phải tự nêu lên câu hỏi: Chúng ta đă làm được ǵ cho đừng hổ thẹn với những người đă nằm xuống?.
Họ đă nằm xuống không phải là v́ họ hèn nhát! Họ đă nằm xuống là v́ muốn bảo toàn Sáu Chữ mà họ từng mang trên đầu: Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm.
Nếu chưa làm được ǵ cho quê hương, xin hăy thận trọng lời phê phán vô ư thức. Đừng vô t́nh, thành tàn nhẫn sỉ nhục những người dám chết cho Tổ Quốc.
.....
Thư gửi Bằng Phong Đặng Văn Âu, người chiến sĩ không gian
Thành phố Los Angeles, California, ngày 12 tháng 4 năm 2011
Âu thân mến,
Bà Đặng Tuyết Mai, vợ cũ PTT Nguyễn Cao Kỳ, mẹ của MC Nguyễn Cao Kỳ Duyên.
Theo dơi tất cả những bài viết của Âu lâu nay, chị rất thích sự lập luận có lư có t́nh của Âu trong mỗi bài viết. Nhưng qua bức thư Âu viết cho anh Đặng văn Việt vừa rồi, chị cảm thấy những nhận xét của chị về Âu không sai: một người hết ḷng với Đất Nước, thẳng thắn, trung trực. Mặc dù gia pháp nhà họ Đặng rất nghiêm, Âu đă v́ Đất Nước và lư tưởng mà nói lên sự bất đồng với nếp suy nghĩ của anh ḿnh. Trong cuộc trao đổi email giữa những người bạn với nhau, chị đọc được ư kiến của anh Nguyễn văn Thêm – nguyên Đại tá KQ Việt Nam Cộng Ḥa – gửi cho Tiến sĩ Lưu Nguyễn Đạt, trang chủ trang mạng Việt Thức cũng có nhận xét giống chị về bức thư vừa rồi Âu viết cho anh Đặng văn Việt.
Âu sinh trưởng trong ḍng họ Đặng, may mắn có nhiều anh em bà con là những người tiếng tăm ở hai thể chế chính trị khác nhau, nên Âu có những dữ kiện để viết khá rơ về một giai đoạn lịch sử. Chị cũng có duyên là vợ một người từng giữ vai tṛ lănh đạo Đất Nước, nên chị cũng là chứng nhân của một giai đoạn lịch sử. V́ vậy chị đang cố gắng ghi lại những ǵ chị đă nghe tận tại, thấy tận mắt vào hồi kư của chị.
Do sự thẳng thắn nói lên sự thật của Âu, chắc chắn những người không đồng quan điểm với Âu sẽ công kích. Nhưng trước sau ǵ rồi sự thật vẫn là sự thật, hăy cố giữ sự trong sáng của ng̣i bút th́ dần dà độc giả sẽ hiểu. Xuyên qua bức thư Âu viết cho anh Đặng văn Việt, chị biết thêm rằng Âu đứng ra bênh vực cái viễn kiến (vision) của Tướng Nguyễn Cao Kỳ – là bởi v́ Âu đồng ư với giải pháp “làm bạn Mỹ” để nước ḿnh thoát ra khỏi áp lực của nước lớn ở Phương Bắc.
Tuy cuộc t́nh giữa anh Kỳ và chị đă đổ vỡ, những cay đắng, giận hờn và TRẢ THÙ đă qua đi, cảm thấy đă “get even”. Giờ đây nh́n lại, chị vẫn cảm phục anh Kỳ và luôn nh́n thấy anh Kỳ là một người hết ḷng với Tổ Quốc, với anh em đồng đội. Một nhà lănh đạo rất trong sạch (chỉ khổ vợ con, bây giờ phải đi bán phở, và các con cũng vất vả với cuộc sống hàng ngày, chẳng được làm danh phận con ông cháu cha ǵ cả).
Những sự kiện Âu viết về anh Kỳ trong những bài viết của Âu, chị đều thấy rất chính xác, không tô vẽ, không hư cấu. Ví dụ:
– Thấy cuộc sống vật chất của vợ chồng chị không dồi dào, Đại tướng Nguyễn Khánh kư tặng anh Kỳ tấm ngân phiếu một triệu đồng. Giữ trong túi ít hôm, anh Kỳ cầm ra lại đút vào nói “không ngờ đời Nguyễn Cao Kỳ lại có ngày thành triệu phú” rút cục lại đưa tấm ngân phiếu đó cho Đại tá Hà Dương Hoán – sĩ quan tài chánh Bộ Tư Lệnh – để sung vào quỹ Xă hội Không Quân. (Mà sao ngày ấy chị cũng thật lư tưởng, không chịu “chộp” lấy cất đi th́ anh Kỳ cũng đành chịu thôi. Đại gia người Hoa ở Chợ Lớn mang 200 triệu đồng tiền mặt vào tận tư dinh trong căn cứ Tân Sơn Nhất để xin anh Kỳ tha mạng Tạ Vinh bị kết án tử h́nh v́ tội tham nhũng, anh Kỳ đă thẳng thừng từ chối. Chị c̣n nhớ mấy đêm trước khi quyết định, anh Kỳ ngồi ưu phiền như tượng gỗ. Anh tâm sự, “người lănh đạo bao giờ cũng cô đơn”, bởi lạnh lùng quyết định sẽ xử chết một người nào, dù người đó có tội, không phải là dễ! Cuối cùng chị đă góp ư kiến là anh nên chuyển qua Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia và để tướng Thiệu quyết định tối hậu cũng là hợp t́nh hợp lư thôi. Thế là nhẹ được trách nhiệm đè nặng trong tâm.
– Khi ra dẹp loạn Miền Trung năm 1966, Tướng Thủy quân Lục Chiến Hoa Kỳ, Lewis Walt tỏ ra uy quyền, hạch hỏi, anh Kỳ đă nghiêm mặt dạy cho ông ta một bài học về lănh đạo chỉ huy.
Anh hỏi: “Ông ở trong quân đội bao nhiêu năm rồi?”
“20 năm, sir”.
“Vậy anh có biết trong quân đội có những mệnh lệnh chỉ cho cấp dưới biết mấy phút trước khi hành quân không?”
“Yes Sir”
“Vậy tôi là Thủ Tướng chính phủ, c̣n anh là Tướng chỉ huy của quân đội đồng minh, dưới quyền của Thủ Tướng. Anh có nghĩ là tôi phải xin phép anh hay hỏi ư kiến anh trước khi hành quân không?
“No sir”
“Then we understand each other, you may dismiss”.
Chào “cốp” “Thank you Sir” rồi quay đi. Và từ đó chúng tôi trở thành bạn tốt. Sau 1975 sang đây rồi Tướng Walt vẫn hay gửi quà và Tabasco sauce cho chúng tôi v́ gia đ́nh ông sở hữu công ty này.
Đại sứ Maxwell Taylor khi sang nhậm chức ở Saigon đă mời các tướng trẻ (young turks) ăn cơm để ra mắt. Ông nhắn nhủ các anh nên duy tŕ ổn định để đánh giặc. Mọi người cùng đồng ư. Nhưng chỉ ít lâu sau lại có chuyện ǵ đó (Chị sẽ nghiên cứu lại cho chính xác khi viết vào hồi kư). Đại Sứ Taylor lại mời các tướng đến và “mắng”:
“Các anh có hiểu tiếng Mỹ không? Tôi đă dặn các anh không được lộn xộn mà, bữa cơm tôi mời các anh thật phí!” Mọi người im như “hến”, anh Kỳ chậm răi mỉa mai nói:
“Thưa Ông Đại Sứ, chúng tôi hiểu tiếng Mỹ, và bữa cơm ông mời chúng tôi không phí đâu. Chúng tôi là dân tộc nghèo, được ăn steak từ Mỹ Quốc gửi sang thật quí hóa, chúng tôi ăn rất ngon miệng. Có điều chúng ta phải xác nhận lại lập trường. Ông Đại Sứ sang đây là đại diện một nước đồng minh, giúp đỡ chúng tôi chống cộng hay ông sang đây với tư cách là Sứ thần đô hộ chúng tôi? Và câu này đă làm vị Đại Sứ ấp úng. Trong tài liệu của Pentagon, Đại Sứ Taylor đă nhận định: “Ông Kỳ không phải là “YES MAN” và chị cũng thật hănh diện v́ anh Kỳ. Và riêng điều này có lẽ tất cả chúng ta đều nên hănh diện!!!
Đại sứ Averell Harriman, trưởng phái đoàn Hoa Kỳ trong ḥa đàm Ba lê tỏ ra nhân nhượng đối thủ, cũng bị anh Kỳ chỉnh, khiến ông ta phải cảm phục bằng câu nói bất hủ: “General, you deserve your reputation!” Chị nghĩ rằng người lănh đạo quốc gia, dù ḿnh là nhược tiểu, mà biết cách ứng xử xứng đáng th́ không một nước nào dám khinh ḿnh. Anh Kỳ đă biết cách ứng xử, tuy nhẹ nhàng lịch sự nhưng quả quyết.
Đúng như Âu đă viết: Anh Kỳ không phải là người làm chính trị, anh thường xác nhận anh không phải là chính trị gia. Anh là một nhà “Lănh Đạo”, anh muốn dùng “vương đạo” để cảm hóa ḷng người. Anh không dùng thủ đoạn để đạt tham vọng cá nhân. Trước sau anh Kỳ vẫn là một chiến sĩ, nhưng là một chiến sĩ có viễn kiến (vision). Anh Kỳ được các Tướng lănh giao trách nhiệm cầm đầu chính phủ; chứ không hề chạy chọt với ngoại bang hoặc kết bè kết đảng để xây dựng thanh thế. Mặc dù là người không có bằng cấp cao, nhưng h́nh như ông Trời ban cho một số người cái thiên khiếu để nh́n thấy vấn đề sáng suốt hơn kẻ khác. Sống bên anh Kỳ, chị nhận ra điều đó rất rơ. Mặc dầu không có một chút hiểu biết nào về kinh tế, nhưng sau khi nghe ông Bộ trưởng Âu Trường Thanh thuyết tŕnh th́ anh Kỳ nắm bắt được ngay. Trả lời thắc mắc báo chí hết sức trôi chảy, anh Kỳ tỏ ra thông suốt vấn đề, khiến cho các Tướng lănh cùng Khóa Nam Định như các anh Nguyễn Đức Thắng, Nguyễn Bảo Trị, Lê Nguyên Khang, Phan Phụng Tiên và nhiều người khác phải hết sức ngạc nhiên. Nhất là trong những chuyến công du, cả anh và chị đă học rất nhanh những cách ứng xử để làm tṛn vai tṛ của ḿnh khi mang chuông đi đấm nước người, không đến nỗi làm “nhục quốc thể”.
Anh Kỳ rất hài ḷng về chương tŕnh hữu sản hóa cho mấy anh em Xe Lam ba bánh, chương tŕnh phát triển Quận 8 … Anh chủ chương là chính phủ của dân nghèo, và đă thực hành như thế. Báo chí hỏi anh Kỳ tại sao không thành lập đảng chính trị. Không một giây suy nghĩ, anh Kỳ đáp ngay: “Chúng tôi có đảng Kaki là đủ rồi”. Có lẽ v́ câu nói đó mà những thành phần trí thức khuynh tả đă gán cho anh Kỳ cái nhăn hiệu Quân Phiệt? Anh Kỳ là người đặt t́nh chiến hữu, t́nh đồng đội rất cao. Nhằm mục đích đoàn kết anh em Quân Đội, anh Kỳ đă nhường cho Tướng Thiệu ra tranh cử Tổng thống và ḿnh về với anh em Không Quân. Tướng Hoàng Xuân Lăm đ̣i trả lon lại cho Quân Đội, nếu anh Kỳ không chịu đứng cùng liên danh với Tướng Thiệu, nên anh Kỳ mới chấp nhận làm Phó cho Tướng Thiệu. Ngoài phố đồn đăi anh Kỳ bị sức ép của Hoa Kỳ nên phải chấp nhận làm phó cho Tướng Thiệu, hoặc anh Kỳ non “jeu”, nên thua trí Tướng Thiệu. Tất cả lời đồn đăi đó hoàn toàn sai. Anh Kỳ chủ chương nhường Ông Thiệu để gây tinh thần đoàn kết trong quân đội giữa các tướng lănh, th́ người lính ngoài tiền tuyến mới có tinh thần đánh giặc. Nghĩa cử cao đẹp như thế mà bị xuyên tạc chê bai. Chỉ tiếc vận nước xui xẻo khiến ông Thiệu không đủ bản lĩnh giữ nước để thua trận. Mà lạ một điều gần như không ai kết án ông Thiệu mà chỉ phê phán anh Kỳ? Không nhớ rằng chúng tôi đă kéo nhau lên rừng ở ẩn và không c̣n trách nhiệm và tí quyền nào v́ bị chặt hết vây cánh.
Trưởng t́nh báo Hoa Kỳ ở Việt Nam – William Colby – khi nghe tin anh Kỳ nhường cho Tướng Thiệu, đă đích thân vào tận căn cứ Tân Sơn Nhất để yêu cầu anh Kỳ thay đổi quyết định nhưng anh từ chối, gạt đi. Hoặc phái đoàn dân biểu ở Quốc hội Lập Hiến do cụ Phan Khắc Sửu làm Chủ tịch, vào thuyết phục tổ chức bầu cử lại và đề nghị anh Kỳ lập liên danh riêng. Họ sẽ không phê chuẩn kết quả bầu cử, nếu anh Kỳ đồng ư. Anh Kỳ cũng nhất quyết từ chối, anh cho rằng thủ đoạn đó là tṛ chơi chính trị ma tịt. Ngoài ra chị c̣n hay trêu anh Kỳ là người có thiên tài về việc tự thắt “tḥng lọng” rồi tự chui đầu vào!!!
Tóm lại, anh Kỳ là người mang chứng “quân tử Tàu”, chứ không phải là người không có mưu trí. Bằng cớ là ba ông Tướng Bộ Binh được anh Kỳ cử ra dẹp loạn Miền Trung đều thất bại, nhưng khi anh Kỳ đích thân ra dẹp th́ mọi việc đều được thu xếp ổn thỏa, không tốn một giọt máu anh em. Tuy nhiên, dù là vợ nhưng không phải cái ǵ cũng khen. Cho đến nay, chị vẫn nghĩ cái quyết định nhường Tướng Thiệu là một sai lầm lớn, đưa đến hậu qua 30 Tháng Tư năm 1975.
Ra hải ngoại, trong khi các Tướng lănh khác lo lập tổ chức Kháng Chiến, lập đảng chính trị, anh Kỳ th́ rất ưu tư về hiểm họa Trung Cộng. Đă nh́n thấy từ trước nên sau 75, hễ khi nào các trường Đại học Hoa Kỳ mời nói chuyện, anh Kỳ đều vận động, thuyết phục Hoa Kỳ trở lại Việt Nam, v́ anh tin rằng chỉ có Hoa Kỳ mới có đủ sức mạnh để ngăn giấc mộng bành trướng từ Phương Bắc. Các nước nhỏ như Nhật Bản, Đài Loan, Nam Hàn nếu không có cái dù của Mỹ th́ nay các nước ấy đă bị Trung Cộng khống chế.
Tuy không nói chuyện với anh Kỳ từ 20 năm qua nhưng chị biết, anh Kỳ về nước với mục đích thuyết phục lănh đạo Nhà Nước Việt Nam nên có chính sách đối ngoại thân thiện với Hoa Kỳ để giữ vững chủ quyền quốc gia. Có thể nói, anh Kỳ là một lănh đạo của Miền Nam c̣n sót lại hiểu rơ Hoa Kỳ hơn ai hết th́ sẽ giúp nhà cầm quyền Việt Nam có nhận thức chính xác về Hoa Kỳ, đừng xem Mỹ là kẻ thù như xưa. Những đối thủ chính trị của anh Kỳ dùng thủ đoạn bôi nhọ anh Kỳ là không đúng, mà c̣n khiến cho người trong nước đánh giá thấp hải ngoại. Khi đảm đương trách nhiệm với quốc gia, anh Kỳ đă không quỵ lụy đồng minh để giữ địa vị, không tham nhũng để làm giàu, không mua quan bán chức th́ không lư do ǵ ngày nay anh Kỳ đi bán rẻ danh dự của ḿnh. Trong một đời làm chính trị, chức vụ Tổng Thống là chức vụ cao quí nhất mà anh c̣n nhường cho Tướng Thiệu, tiền bạc cả trăm triệu dollars, chỉ cần gật đầu là có ngay trong các nhà bank bên Thụy Sĩ c̣n không mua chuộc được anh Kỳ, (mặc dù chúng tôi rất nghèo). Thử hỏi c̣n điều ǵ ghê gớm hơn quyền lợi đất nước để có thể khiến anh Kỳ quay về bắt tay với những người đă từng là kẻ thù của nhau trên chiến tuyến? Cũng có nhiều anh em Không Quân xôn xao, kết án và thất vọng về anh Kỳ… Xin hăy b́nh tĩnh lại. Muốn kết án một người, cần xét đoán lại dĩ văng, hoàn cảnh, và thời thế. Đường nào là đường khôn ngoan nhất để đạt mục đích? Chị biết những người khác “xầm x́” th́ không sao, đó là giá ḿnh phải trả cho mục tiêu đặt những viên đá đầu tiên trên con đường dài đưa đến ấm no, hạnh phúc và tự do cho toàn dân. Riêng anh em Không Quân không hiểu mà chỉ trích là anh Kỳ đau lắm. Cũng tội nghiệp Âu nhỉ. Phải chi ai cũng nh́n được như Âu !
Mặc dầu ngày nay anh Kỳ và chị không c̣n là vợ chồng, chị vẫn muốn trả lại sự thật cho sự thật, như người ta thường nói cái ǵ của Cesar hăy trả lại cho Cesar. Bây giờ là lúc mọi người Việt phải đoàn kết, sống tử tế với nhau để chung nhau giải quyết những khó khăn của Đất Nước, hơn là công kích nhau bằng những ngón đ̣n chụp mũ. Đồng ư là có những mất mát và nỗi đau không thể quên được. Đó là kết quả của tất cả mọi chiến tranh. Vết thương nào dù sâu đến đâu, với thời gian rồi cũng phải biến thành sẹo thôi… Mục đích tối hậu của chúng ta là ǵ? Có phải là tương thân tương ái để xây dựng một Việt Nam phú cường, hạnh phúc tự do không?
Nhiều người ngoại quốc đă nhận định về chúng ta: một dân tộc về phương diện cá nhân rất thông minh nhưng không đoàn kết. Đó là sự bất hạnh của chúng ta. Hăy nh́n dân tộc Nhật qua kiếp nạn động đất vừa rồi. Dân trí họ rất cao, trật tự và đoàn kết khiến cả thế giới ngưỡng mộ! Ngay từ một em bé 9 tuổi, trong hoàn cảnh cực kỳ khe khắt khiến chị phải cúi đầu thật sâu bái phục, nếu gặp được em ấy.
Trong thư Âu viết cho anh Đặng văn Việt, chị thấy Âu bày tỏ ḷng biết ơn ḍng họ Đặng, biết ơn dân tộc Việt Nam. Chị cũng thuộc ḍng họ Đặng (thấy sang bắt quàng làm họ, nhà Đặng Trần của chị là con cháu Đức Trần Hưng Đạo đó, có gia phả đàng hoàng!) cũng mang ơn ḍng họ Đặng và dân tộc Việt Nam. Thư này chị viết cho Âu với tư cách là nhân chứng lịch sử, không thiên vị hay cảm t́nh cá nhân đối với Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ. Sống bên cạnh anh Kỳ nhiều năm, từng góp ư trong những vấn đề quan trọng của đất nước, chị biết rất rơ bản chất của anh Kỳ. Đó là một con người thật thà, lương thiện, trực tính. Nói nôm là “ruột ngựa”, có nhiều sơ xuất nhưng không ai, kể từ đồng minh cho đến kẻ thù lúc ấy đều phải công nhận là anh rất mực yêu nước.
Chị chỉ muốn nhấn mạnh một điều để mọi người hiểu: Anh Kỳ là người yêu nước, không đâm sau lưng chiến sĩ, không bao giờ phản bội anh em, chỉ có điều mỗi người chọn một con đường, rồi cũng gặp nhau ở Rome thôi.
Hôm nay sao chị lại cao hứng ngồi viết thư cho Âu dài thế! Hoàn toàn xúc động v́ đọc bài viết của Âu thôi. Dĩ văng nào lại ào ạt trở về và tràn ra trên giấy? Chúc Âu và gia đ́nh dồi dào sức khỏe để tiếp tục viết, nhằm đánh thức mọi gỗ đá tỉnh dậy.
Thân ái,
Chị Mai
Bookmarks