Người ta có thể nói rằng lịch sử là môn khoa học chuyên về nỗi đau khổ của con người. Thế kỷ bạo động trong đó chúng ta đang sống, đă chứng minh hùng hồn điều này. Trong các thế kỷ trước, các cường quốc Âu Châu đă làm giàu trong các cuộc buôn bán người nô lệ da đen. Nước Pháp với chính sách thuộc địa đă ghi lại biết bao nhiêu ghê tởm trong lịch sử. Xă hội Hoa Kỳ vẫn c̣n duy tŕ nền văn hóa bạo động phát sinh từ hai tội ác trọng đại: Việc khai thác người nô lệ và việc tiêu diệt các giống thổ dân Da Đỏ.
Nhưng nếu nói về sự bạo động, thế kỷ chúng ta đang sống đă vượt hẳn các thế kỷ trước. Thế kỷ của chúng ta đă có quá nhiều thảm họa do con người gây ra : Hai trận thế chiến, Chế độ Đức quốc xă, các thảm trạng xảy ra ở Armenia, Biafra, Rwanda và một vài khu vực khác. Đế quốc Ottoman của Thổ Nhĩ Kỳ chủ mưu tiêu diệt các sắc dân gốc Armenia. Đức quốc xă tiêu diệt dân Do Thái. Mussolini tàn sát dân Ethiopie. Nhưng những sự tàn sát này vẫn không thể nào so với tội ác của cộng sản đă gây ra .
Chủ nghĩa Cộng Sản , một hiện tượng lớn của thế kỷ 20 , bắt đầu từ năm 1914 và kết thúc vào năm 1991 tại Mạc Tư Khoa. Chủ nghĩa Cộng Sản ra đời trước chủ nghĩa Quốc Gia Xă Hội, goị tắc là Quốc Xă. Chủ nghĩa Cộng Sản sống lâu hơn Quốc Xă và nó lan rộng ra khắp năm Châu.
Chúng ta cần phân bịệt giữa Chủ nghĩa và hành động.
Về phương diện lư thuyết chính trị, chủ nghĩa Cộng Sản đă có từ nhiều thế kỷ, nhiều ngàn năm trước. Nhà hiền triết Hy Lạp Platon đă đề cập đến Chế độ cộng ḥa trong đó người dân không bị lệ thuộc vào tiền bạc hay quyền lực. Trong xă Hội đó chỉ có sự khôn ngoan, công lư và lẽ phải ngự trị mà thôi.
Một nhà tư tưởng lớn của Anh, ông Thomas More cũng đă vạch ra một quốc gia lư tưởng nhưng đă bị bạo chúa Henri VIII chặt đầu. Những tư tưởng này là những nguồn sinh khí những đóng góp quư giá cho các nền dân chủ về sau.
C̣n chủ nghĩa Cộng Sản được đề cập ở đây không có vị thế của các nguồn tư tưởng trên. Đây là chủ nghĩa Cộng Sản hành động. Nó đă diễn ra ở một thời điểm nhứt định, tại các quốc gia được biết rơ qua các cuộc khủng bố , đàn áp, kiểm soát biên giới, kiểm soát các phương tiện truyền thông , bắt giam và cho lưu đày các thành phần đối lập.
Những kư ức về khủng bố đă làm cho người ta không quên được chủ nghĩa Cộng sản . Người ta không quên Mao Chủ Tịch vĩ đại của Trung Cộng, Kim Nhựt Thành của Bắc Triều Tiên, Hồ Chí Minh của Việt Nam, Fidel Castro của Cu Ba v.v.. .. và gần với lịch sử hiện đại của chúng ta là : Maurice Thorez, Jacques Duclos, Georges Marchais.
Nhưng tội ác của Cộng Sản đă không được đánh giá trên cả luật pháp cũng như trên b́nh diện b́nh thường. Qua các trang sách này, lần đầu tiên chúng tôi đặt vấn đề với cộng sản về tội ác mà chủ nghĩa này đă gây ra. Sẽ có nhiều người cho rằng phần lớn các tội ác được coi là hợp pháp v́ các tội ác này do được thực hiện theo lệnh của các lănh tụ mà nước Pháp đă đón tiếp họ một cách nồng hậu.
Các tội ác mà chúng tôi tŕnh bày trong quyển sách này không dựa trên các tài liệu pháp lư của chế độ Cộng sản. Chúng tôi sẽ dựa trên các văn bản bất thành văn . Nói một cách khác, các tài liệu này không được viết ra như các đạo luật thiêng liêng về luân lư của nhân loại.
Chúng ta có thể không lưu tâm đến các cuộc xử bắn các con tin, sự tàn sát nhóm nhân công nổi loạn, các mồ chôn tập thể của những người nông dân chết đói, do hoàn cảnh gây nên. Chúng tôi chỉ đề cập đến chiều sâu của tội ác mà Cộng sản đă coi đó như là cứu cánh của ṭan thể hệ thống lănh đạo.
Chúng tôi sẽ nói lên những ǵ ? Chúng tôi sẽ đưa ra những tội ác nào ?
Có vô số tội ác :
Trước hết là tội ác về văn hóa của các quốc gia Cộng sản thống trị và văn hóa của nhân loại.
Staline đă ra lịnh phá bỏ hàng trăm giáo đường của các tôn giáo tại Nga. Nhà độc tài Ceaucescu của Lỗ Ma Ni đă ra lịnh phá hủy trung tâm lịch sử Châu Âu đó là thành phố Bucaresti. Pol Pot đă cho tháo gỡ từng viên gạch của thành phố Nam Vang, thủ đô nước Cao Miên. Trong cuộc cách mạng văn hoá, Hồng Vệ Binh của Mao đă phá hủy vô số kho tàng văn hóa vô giá của nhân dân Trung Hoa.
Chúng tôi chỉ ghi lại tội ác của một số người được coi là linh hồn của các vụ tàn sát. Tuỳ theo mỗi chế độ, các phương tiện khủng bố được thi hành dưới nhiều h́nh thức khác nhau. Xư bắn, xử treo cổ, nhận ch́m trong nước, đánh bằng gậy gộc, dùng chất khí độc, cho chết đói, đưa đi lưu đày, gây ra tai nạn trong lúc đưa đi lưu đày, bắt đi bộ trên các quăng đường dài hàng trăm cây số, lao động khổ sai, kiệt sức,...
Chúng tôi thống kê danh sách con số người đă bị Cộng Sản giết chết. Đây chỉ là con số tối thiểu. Phải cần thời gian mới có thể đưa ra con số chính xác. Sau đây là con số người nạn nhân đă bị Cộng Sản giết chết :
Trung-Quốc : 65 triệu;
Liên-Xô : 20 triệu;
Bắc-Hàn : 2 triệu;
Miên : 2 triệu;
Phi-châu : 1,7 triệu;
A-phú-Hăn : 1,5 triệu;
Đông-Âu : 1 triệu;
Việt-Nam : 1 triệu;
Trung-Mỹ :150 ngàn;
Các phong trào Cộng sản quốc tế, các đảng cộng sản đang nắm chính quyền: vài chục ngàn.
Tổng số người chết lên đến con số gần 100 triệu.
Nếu tính theo tỉ lệ thời gian th́ Pol Pot đứng hàng đầu gây tội ác. Trong ṿng 3 năm, Pol Pot đă tiêu diệt một phần tư dân số dân tộc Miên. Mao đă gây tội ác trầm trọng trong cuộc cách mạng văn hóa. Bàn tay của Lenine và Staline đẩm máu v́ cái lô-gích tư tưởng của ḿnh.
Nếu chỉ suy tư về tội ác th́ không thể nào đánh giá được phẩm chất chiều sâu của nó được. Công việc này phải được xét xử trên tiêu chuẩn khách quan và trên khía cạnh pháp lư.
Tại ṭa án Numberg vào năm 1945, các lănh tụ Đức Quốc Xă đă bị kết án về tội diệt chủng trong thế chiến thứ hai căn cứ theo điều 6 của ṭa án quốc tế. Điều luật này ghi 3 trọng tội: chống lại ḥa b́nh, tội ác gây ra trong chiến tranh và tội chống lại nhân loại.
Nếu căn cứ vào điều luật thứ 6 này th́ Lenine, Staline cũng như tất cả chính quyền Cộng sản đă gây ra tội ác đều phải bị kết án.
Theo điều luật thứ 6A, các hành động như chỉ đạo, sửa sọan và theo đuổi cuộc chiến tranh xâm lăng hay tiếp tay vào các cuộc chiến tranh vi phạm các thỏa ước quốc tế đều bị ghép vào tội chống lại ḥa b́nh. Như vậy Staline phải bị kết án. Staline bí mật kư hai hiệp ước với Đức Quốc Xă vào ngày 23 tháng 8 và ngày 28 tháng 9 năm 1938 để rảnh tay ở hai mặt trận phía Đông và phía Tây. Hai hiệp ước này đă khởi đầu Đệ nhị thế chiến. Ngoài ra Staline c̣n vi phạm vào tội giúp khí giới cho Bắc Triều Tiên đem quân xâm lấn Nam Triều Tiên vào ngày 25 tháng 6 năm 1950. Staline cũng đă xua quân tiến chiếm Phần Lan vào ngày 30 tháng 9 năm 1939.
Mạc Tư Khoa đă chỉ đạo các đảng Cộng sản đàng em, mở các cuộc chiến tranh phá hoại các một số quốc gia khác. Tại A Phú Hăn, Mạc Tư Khoa đă vi phạm vào điều luật thứ 6A khi đưa quân vào giúp đảng Cộng sản nước này để cướp chính quyền vào ngày 27 tháng 12 năm 1979. Nó mở đầu cho cuộc chiến kéo dài cho đến ngày nay vẫn chưa kết thúc, mặc dù quân Nga đă rút ra từ năm 1989.
Điều luật 6B nêu ra các hành động vi phạm trong lúc chiến tranh. Các điều khoản này đă được ghi rơ trong bản giao ước quốc tế ra đời năm 1907 tại thành phố La Hague của nước Ḥa Lan. Nó bao gồm các điểm: hành động ám sát, hành hạ, ngược đăi, lưu đày khổ sai, hành quyết các con tin, cướp bóc hay tước đoạt tài sản, tàn phá các thôn xóm, hạ giá tiền tệ không có lư do cho chính đáng cho nhu cầu quân sự,..
Staline đă cho thủ tiêu hầu hết các sĩ quan của quân đội Ba Lan bị bắt làm tù binh vào cuối năm 1939. Tại thành phố Katyn khi cho khai quật mồ chôn tập thể 4500 tử thi, mỗi tử thi điều có vết đạn ở sau ót. Ngoài ra c̣n các vụ giết người trầm trọng khác cho đến giờ này không có mấy người biết đến đó là các vụ tàn sát hàng trăm ngàn tù binh Đức ở các trại giam khổ sai từ năm 1943 cho đến năm 1945. Vụ Hồng Quân Nga hăm hiếp phụ nữ Đức trên các phần đất Đức bị chiếm.
Điều luật 6 C ghi các tội chống lại nhân loại. Nó gồm các hành động như sau : Tàn sát, tiêu diệt, biến thành nô lệ, bắt đi lưu đày, ngược đăi v́ lư do chính trị, kỳ thị chủng tộc hay tôn giáo, ..
Trong bản cáo trạng tại toà án Numberg, Tổng Biện Lư Francois de Menton nhấn mạnh tính chất ư thức hệ của các tội ác này như sau :
Tôi cho rằng tất cả các tội ác đă gây ra cho một khối đông đảo quần chúng là tội ác chống lại tư tưởng. Tôi muốn nói lên một chủ nghĩa đă chối bỏ tất cả giá trị luân lư của nhân loại. Tội ác chống lại tư tưởng là nguồn gốc của chủ nghĩa Quốc Xă. Đó là chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc. Đây không phải là một tại nạn rủi ro , không phải là một sự việc t́nh cờ. Trái lại các hành động kỳ thị đă được nghiên cứu kỹ lưỡng và được tổ chức trong khi thi hành..
Các bản tuyên cáo của ṭa án Numberg nhấn mạnh đến một điểm chính của điều khoản chống lại nhân lọai : Lạm dụng quyền lực của nhà nườc đề phục vụ cho một chính sách và thi hành các tội ác.
Căn cứ vào điều luật này, th́ tất cả các hành động xảy ra dưới thời Lenine, Staline và tại các quốc gia nằm trong tay Cộng sản đều phải bị kết án.
Cộng sản nhân danh nhà nước, nhân danh một ư thức hệ để tiêu diệt hàng chục triệu người vô tội, chỉ v́ họ là quư tộc, là thành phần trung lưu, trí thức, địa chủ ,..
Khái niệm về tội ác chống lại nhân loại rất phức tạp. Ngoài tội diệt chủng dân Do Thái do Đức quốc xă gây nên, ngày 9 tháng 12 năm 1948 Liên Hiệp Quốc xác nhận như sau :.giết hại, vi phạm tinh thần hay thân thể, cưỡng ép từ bỏ điều kiện sinh sống để dấn dần bị tiêu diệt đối với một nhóm dân, một sắc dân hay một tôn giáo điều bị ghép vào tội chống lại nhân loại .
Bộ h́nh luật mới của Pháp định nghĩa từ diệt chủng rộng răi hơn . Đó là thỏa hiệp đưa đến việc tiêu diệt một phần lớn hay ṭan thể một khối người, một sắc tộc, một giai cấp trong xă hội hay một tôn giáo. Quan điểm này cũng không khác nào tư tưởng của Andre Frossard. Theo ông ta, nếu một người bị giết v́ lư do đă được sinh ra trong một giai cấp xă hội, một sắc dân hay theo một tôn giáo,.. đều bị coi như tội ác chống nhân loại.
Trong quyển sách Cuộc khủng bố đỏ ở Nga xuất bản năm 1927 tại Bá Linh, sử gia người Nga ông Serguei Melgounov kể lại một mẫu chuyện của một người chi huy đầu tiên của cơ quan t́nh báo chính trị Xô Viết, có tên là Latziv. Ngày 1 tháng 11 năm 1919 ông ta ra lịnh cho một tên công an dưới quyền là t́m bắt những người thuộc giới trung lưu mà không cần cứu xét tội lỗi. Câu hỏi đầu tiên phải đặt ra là : anh thuộc thành phần nào, gốc gác từ đâu, tŕnh độ học vấn, nghề nghiệp,..
Chính Lenine và đám thân cận của ông ta cũng không dung thứ các đối thủ ch́nh trị. Những đối thủ chính trị này cần phải tiêu diệt ngay. Hành động diệt chủng của nhóm người BônsêVích thực sự tiến hành kể từ năm 1920 khi họ cho giải thể nhóm dân Cosaques. Đàn ông bị xử bắn. Người ǵa, phụ nữ và trẻ em bị đưa đi lưu đày. Làng mạc , nhà cửa bị phá hủy.
Trong những năm 1930 , 1932 công tác giải thể nhóm dân Cosaques mạnh mẻ và ṭan diện hơn. Staline xử dụng bộ máy tuyên truyền trong nước cũng như bên ngoài về việc kết án xử bắn, đưa đi lưu đày những ai chống lại lịnh tập thể hóa . Tuy rằng những ngưới đưa đi lưu đày không bị giết ngay nhưng với các điều kiện lao động cực khổ, trong điều kiện thời tiết giá lạnh của mùa Đông ở vùng Bắc Tây Bá lợi Á, chẳng c̣n được bao nhiêu người sống sót. Cho đến nay con số tử vong chưa được chính thức đưa ra, nhưng phải kể đến hàng trăm ngàn.
Trong vụ nạn đói ở vùng Ukraine vào những năm 1932-1933 và những vụ chống tập thể hóa đă có đến trên 6 triệu ngưới chết. Tại vùng này đă diễn ra hai h́nh thức diệt chủng : diệt chủng giai cấp và diệt chủng sắc dân.
Quốc Xă Đức xử dụng khoa học kỹ thuật hiện đại để thiết lập các pḥng hơi ngạt và ḷ thiêu để giết dân Do Thái. Trong khi Cộng sản xử dụng vũ khí đói để tiêu diệt các sắc dân. Cộng sản t́m đủ mọi cách để kiểm sóat lương thực. Họ chỉ phân phối lương thực cho các phần tử mà họ cho là xứng đáng. Họ phân biệt giữa nhóm người này, nhóm người khác. T́nh trạng này đă dẫn đến các nạn đói làm chết hàng triệu người tại các nước Cộng sản.
Bản tổng kết đầu tiên ṭan bộ các tội ác được ghi như sau :
Trong những năm 1918-1922 có hàng chục ngàn con tin bị xử bắn mà không được xét xử. Hàng trăm ngàn công nhân và nông dân bị tàn sát v́ chống đói chính sách tập thể hoá của Cộng sản.
Nạn đói năm 1922 đă làm cho 5 triệu người chết.
Hàng trăm người Cosaques sống quanh sông DON bị tiêu diệt.
Hàng chục ngàn chết trong các trại tập trung vào những năm 1918-1930.
Hàng trăm ngàn phú nông, trung lưu, trí thức bị đưa đi lưu đày.
Trên 6 triệu dân Uraine bị chết đói trong năm 1932-1933.
Hàng trăm ngàn ngướ thuộc các sấc dân Ba Lan, Ukraine, dân Bắc Âu, dân sống trong vùng Moldave bị đi lưu đày trong những năm 1939-1940 và tái diễn trong những năm 1944-1945.
Năm 1941, nhóm dân Đức nhưng làm việc cho Nga sinh sống dọc theo sông Volga bị đi lưu đày.
Năm 1975-1979 dân ở các thành phố Cao Miên bị đi lưu đày và bị thủ tiêu.
Tiêu diệt từ từ dân Tây Tạng do Cộng sản Trung quốc chủ trương từ năm 1950.
Cho tới nay người ta chưa tính hết tội ác do Lenine, Staline gây ra. Và các tội ác này cũng tái diễn dưới bàn tay của Mao Trạch Đông , Kim Nhật Thành và Pol Pot.
Về phương diện ngôn ngữ của các sử gia, cần phải đưa ra một vấn đề : Sử gia có quyền xử dụng các từ thuộc lănh vực pháp lư như tội ác chống lại nhân lọai hay tội diệt chủng trong lúc nghiên cứu về tính chất của chiến tranh hay không ? Mặc khác , các khái niệm này cũng không nên quá phức tạp để giữ tính khách quan trong lúc sưu tầm tài liệu lịch sử.
Về điểm thứ nhất, lịch sử cho chúng ta thấy tội ác diệt chủng không phải là tội ác độc quyền của Đức quốc xă. Hăy nh́n những ǵ đă xảy ra gần đây ở các nước Bosnie , ở Rwanda , chúng ta sẽ bằng ḷng điểm này.
Phần thứ hai là chúng ta sẽ không trở lại cái thế kỷ 19. Vào thời điểm đó, sử gia chỉ t́m hiểu sự việc mà không phán đóan.
Nhưng đứng trước thảm họa của nhân loại , sự phá vỡ phẩm giá của con người, các sử gia có thể bỏ qua một số nguyên tắc để cứu xét vấn đề. Sử gia Jean Pierre Azema đă kết án chế độ Đức quốc xă có tội ác chống lại nhân loại . Và ông Pierre-Vielal Naquet cũng tuyên bố tương tự khi kết án tên Touvier, một người Pháp công tác viên đắc lực cho Đức đuốc xă.
Cũng như vậy, chúng tôi làm những công việc sưu tầm để đưa ra ánh sáng những tội ác do Cộng sản đă gây ra.
Ngoài ra c̣n phải đặc trách nhiệm của các chế độ Cộng sản đang nắm quyền hành . Họ là những kẽ ṭng phạm. Năm 1987, bộ h́nh luật của Gia Nă Đại tu chính các điều 3.76 và 3.77 ghi các điểm thuộc tội ác chống lại nhân loại, gồm có : Mưu toan, ṭng phạm, khuyến khích, giúp đỡ để thực hiện tội ác chống lại nhân loại, âm mưu và ṭng phạm sau khi đă xảy ra sự việc.
Vậy mà trong khoảng thời gian từ năm 1920 đến 1950 những người Cộng sản trên thế giới đă hô hào cổ vỏ cho hai tên gây tội ác Lenine và Staline. Hàng trăm ngàn người tham gia vào phong trào Cộng sản quốc tế. Trong nhừng năm 1950,1960,1970 hàng triệu ngướ sùng bái Mao Trạch Đông của Trung Quốc trong cuộc cải cách văn hoá. Và gần đây c̣n có nhiều ngướ ca tụng Pol Pot. Về sau họ chỉ trả : chúng tôi đâu có biết.. Mà quả thật không dễ ǵ biết những ǵ Cộng sản làm. Bí mật là phương châm họat động của Cộng sản. Nhưng có nhiều người ngày nay đă biết sự thật nhưng họ vẫn êm lặng.
Năm 1969 ông Robert Conquest, một trong những sử gia đầu tiên nghiên cứu về tội ác của Cộng sản, đă viết : Một việc rất rơ là có nhiều ngướ chấp nhận các cuộc thanh trừng diễn ra ở thành phố Mạc tư Khoa trong các năm 1936,1937 và 1938 theo lịnh của Staline. Chính sự chấp thuận này là sự đồng lơa cho các vụ thanh trừng ṭan diện tiếp theo sau. Nhiều người ở bên ngoài đă thừa nhận các vụ hành quyết là đúng. Những ngướ này dù chỉ có lời b́nh phẩm về các vụ thanh trừng này cũng phải chịu trách nhiệm và phải được coi là ṭng phạm trong các vụ án chính trị.
Joseph Berger, một cán bộ trong tổ chức Quốc Tế Cộng Sản, ngướ đă từng nếm mùi ở các trại lao động khổ sai , đă kể lại một lá thư của một nữ tù nhân đảng viên Cộng sản được trả tự do sau khi lưu đày với nội dung như sau : Các người Cộng sản thế hệ chúng tôi chấp nhận quyền lực của Staline. Họ chấp nhận hành động bạo ác của Staline. Và cả những người Cộng sản khác trên khắp thế giới. Đây là một vết nhơ mà chúng tôi đă vi phạm. Để phá bỏ vết nhơ, chúng tôi phải làm sao cho các tội ác này không c̣n tái diễn. Điều ǵ đă diễn ra ? Phải chăng chúng tôi mất cả lư trí ? Phải chăng chúng tôi là những kẻ phản bội Cộng sản ? Thật ra chúng tôi, kể ca những nhân viện thân cận của Staline đều đă vi phạm các tội ác. Chúng tôi đă tưởng rằng đó là những đóng góp quan trọng cho việc chiến thắng của Chủ nghĩa xă hội. Chúng tôi cũng tin tưởng tất cả các việc làm để củng cố quyền uy cho đảng Cộng sản ở Liên Xô cũng như cho các đảng Cộng sản trên toàn thế giới. Chúng tôi không bao giờ nghĩ đến có sự tranh chấp giữa chính sách và luân lư..
Những ngướ Cộng sản Tây phương, mặc dù họ không bị khống chế bơỉ cơ quan NKVD - Bộ nội vụ- của Liên Xô nhưng họ vẫn mù quáng ca ngợi Liên Xô và nhà độc tài Staline. Phải chăng họ đă uống phải liều thuốc tiên nào đó nên luôn luôn tôn sùng quy phục quyền lực tối uy của Liên Xô.
Trong quyển sách nói về cách mạng của Nga, nhà văn Martin Malia đă vén cho chúng ta thấy tấm màn nghịch lư của một tư tưởng lớn và đă dẫn đến một kết luận : Đó là một tội ác lớn.
Bà Annie Kriegel, một nhà phân tích lớn về chủ nghĩa Cộng sản đă cho thấy hai mặt của chủ nghĩa : Mặt tươi sáng và mặt tối.
Ư thức hệ Cộng sản dự phóng một xă hội tốt đẹp. Điều này đă mê hoặc nhiều người . Nhưng xă hội Cộng sản tước đoạt tất cả trách nhiệm của chúng ta. Họ quyết định mọi việc. Nhiều người ở bên ngoài v́ sợ chịu trách nhiệm và tự do đă chấp nhận chủ nghĩa Cộng sản. Nhưng những người sống trong chế độ độc tài Cộng sản th́ quá chán ngán. Họ chỉ mong có sự thay đổi. Trong luận đề Sự sợ hăi của ư thức tự do ông Fromm tuyên bố : t́nh nguyện làm đầy tớ cho chủ nghĩa Cộng sản.
Những người t́nh nguyện làm đầy tớ cũng là những kẻ ṭng phạm. Khi chấp nhận làm gạch nối cho công tác tuyên truyền che dấu sự thật cũng là ṭng phạm.
Phân tích hiện tượng Cộng sản khi đang nắm chính quyền là một việc làm khó khăn.
Ông Jean Ellenstein cho rằng Staline là một hiện tượng vừa mang tính chất bạo tàn của thời cổ Hy Lạp , vừa mang tính độc tài của Đông phương. Nhận định này tương đối chính xác nhưng chưa khai thác được chiều sâu của tính độc tài. Một vài so sánh sau đây sẽ giải thích rơ vấn đề.
Chúng ta bằng ḷng dưới thời Nga Hoàng dân chúng bị áp bức. Người Bônsêvích chiến đău chống lại chế độ Nga Hoàng. Nhưng một khi quyền hành nằm trong tay những người BônsêVích th́ sự áp bức con kinh hoàng hơn ở thời Nga Hoàng rất nhiều. Nga Hoàng đưa những tù chính trị ra trước ṭa án xét xử, đúng luật lệ của một toà án. Có nghĩa là có luật sư biện hộ cho tội nhân, có nhân chứng, có dư luận của quần chúng. Đôí vơí Cộng sản, các sự việc trên không hề xảy ra. Người tù trong chế độ Nga Hoàng hưởng đủ quy chế tù nhân. Họ có quyền đọc sách , viết thơ và nếu bị lưu đày, họ đi cùng với gia đ́nh. Họ có quyền đi săn, đi câu cá và có quyền giúp đỡ tù nhân khác ,.. Chính Lenine và Staline cũng đă từng ở tù và bị lưu đày dưới thớ Nga Hoàng. Cả hai đă có những kinh nghiệm này.
Trong tác phẩm Kỹ niệm ngôi nhà của người chết , nhà văn Dostoievski đă làm cho độc giả của ông ta xao xuyến. Nhưng nếu so với các thảm cảnh của thời Lenine, Staline th́ chẳng đáng vào đâu.
Từ năm 1888 đến năm 1917, nước Nga xảy ra rất nh́ều cuộc rối lọan và bị đàn áp. Đă có 6360 ngướ bị kết án tử h́nh. Trong số này có 3922 ngướ bị xử bắn. Nhưng so với 4 tháng đầu tiên lên nắm chính quyền, người Bônsêvích đă xử tử nhiều hơn so vơí con số này.
Vào những năm 1920 đến năm 1940, Cộng sản lên tiếng phản đối các cuộc khủng bố của chính quyền quân phiệt ở các nước khác. Chúng ta thử xét xem những ǵ xảy ra ở Ư. Chế độ Phát xít Ư có ngược đăi các nhà chính trị đối lập. Trong năm 1935 nhà độc tài Mussolini đă bắt vài trăm đói thủ chính trị vào tù và vài trăm người khác bị quản thúc tại các đảo. Trên thực tế có vài ngàn người lưu vong. Đó là những ǵ mà thế giới đă kết án nhà độc tài Mussolini và chính quyền của ông.
Trong kỳ thế chiến thứ hai, Đức quốc xă đă ra tay đàn áp các thành phần chống đối họ như các ngướ Cộng sản, nhóm xă hội ,nhóm vô chính phủ và một số nghiệp đ̣an. Đức quốc xă công khai đàn áp và bắt giam những ngướ này . Từ năm 1933 đến 1939 Đức quốc xă đă kết án và xử bắn 20.000 ngướ. Đó là chưa kể đến con số người bị bắn chết v́ lư do không đủ tiêu chuẩn sắc tộc thuần tuư tóc vàng, da trắng; những ngướ bịnh tâm thần, tật nguyền hay ǵa yếu,..
Hitler đă ra lịnh giết chết những ngướ già ,người bịnh tâm thần bằng hơi ngạt. Từ năm 1933 đến năm 1940 đă có 70.000 người chết v́ hơi ngạt. Khi Giáo hội lên tiến phản đối, chương tŕnh dùng hơi ngạt mới ngưng họat động. Sau này rút kinh nghiệm đă dùng hơi ngạt giết chết lớp người thứ ba , đó là giống dân Do Thaí.
Thoạt đầu có vài trăm ngướ Do thái bị giết chết. 35.000 người bị bắt giam vào các trại tập trung và sau đó bị đưa vào các trại tử thần. Khi tấn công vào Liên sô, quân Đức đă giết 15 triệu dân ở các vùng chiếm đóng. Có 5,1 triệu dân Do Thái, 3,3 triệu tù binh Sô Viết và 1,1 triệu dân đă bị bắt vào các trại tử thần. Ngoài con số nạn nhân này, cũng cần phải kể đến vài trăm ngàn dân Tziganes, 8 triệu người bị cưỡng bách lao động khổ sai và 1,6 triệu người c̣n sống sót lại trong các trại tập trung.
Ṭa án Numberg đă kết án những tội phạm và đă công bố những tội ác mà họ đă gây ra. Sau cùng khi tiết lộ hành động diệt chủng giống dân Do Thái đă làm cho lương tâm nhân loại xúc động .
Ở đây chúng tôi không muốn đưa ra một danh sách so sánh về con số kinh hoàng hay bản kết toán về sự ghê tởm về những ǵ Cộng sản đă làm. Nhưng sự kiện tội ác của Cộng sản đă quá rơ ràng. Chế độ Cộng sản đă giết chết hàng trăm triệu ngướ so với 25 triệu nạn nhân của Đức quốc xă. Với bản đúc kết này, ít ra chúng ta cũng thấy được sự khác nhau giữa hai chế độ trong thế kỷ này. Năm 1945 , Đức quốc xă bị kết án là chế độ bị vi phạm quá nhiều tội ác trong thế kỷ. Trong khi đó chế độ Cộng sản lại được duy tŕ cho đến năm 1991 với tất cả tính cách pháp lư quốc tế của nó. Cho cả đến ngày hôm nay , Cộng sản vẫn c̣n ngự trị trên một vài quốc gia với một số tín đồ. Và mặc dù có một vài nước Cộng sản nh́n nhận tội ác của Staline, của Lenine nhưng cho đến nay họ vẫn chưa chịu từ bỏ các nguyên tắc của Lenine và họ cũng chẳng hề bị kết án có liên hệ ǵ với tội ác này cả.
Các phương pháp của Lenine và sau này được Staline hệ thống hóa, đă được tay chân bộ hạ của hai ông thi hành làm cho chúng ta liên tưởng đến những ǵ đă xảy ra trong thời Đức quốc xă. Có một số tội ác đă xảy ra trước thời Hitler.
Roudolf Hoess là người được uỷ nhiệm thiết lập trại tử thần Auschwitz . Về sau trại trưởng của trại này tiết lộ cho biết ông có nhận chỉ thị của Uỷ ban trung ương về an ninh một số chi tiết về các trại tập trung của Sô Viết.[ Nên nhớ là đầu năm 1918, Lenine đă ra lịnh cho lưu đày các chính trị đói thủ và và năm 1933 Đức quốc xă cũng áp dụng như vậy]. Tài liệu c̣n nhấn mạnh Xô Viết tiêu diệt ṭan bộ một số dân bằng cách bắt họ lao động khổ sai.
Với mức độ và kỹ thuật gây tội ác cho một số quần chúng đông đảo mà những người Cộng sản đă khai trương áp dụng, và sau đó Đức quốc xă đă làm theo. Dưới cái nh́n của chúng tôi, người ta có thể minh chứng một chân lư về sự liên hệ trực tiếp giữa chế độ Cộng sản và sự ra đời của chế độ Đức quốc xă.
Vào các năm cuối của thập niên 20, cơ quan GPV, một danh xưng mới của cơ quan t́nh báo chính trị Xô Viết, cho cho ra đời chính sách tỉ lệ phân vùng. Mỗi vùng phải t́m cách bắt đi lưu đày một tỉ lệ thành phần thù địch nào đó do nhà nước chỉ định. Sau năm 1920, Hồng quân đánh bại quân Hoàng gia [ Bạch quân ], đă xảy ra các cuộc lùng bắt khủng khiếp các sắc dân địa phương Ba Lan và 3 nước vùng Baltique. Việc chuyên chở các người lưu đày trên các toa xe lửa dùng để chở súc vật đă được tái diễn tại các trại tập trung của Đức quốc xă. Năm 1943-1944 trong lúc chiến tranh đang diễn ra ở khắp nơi, Stalin, thay v́ cung cấp cho chiến trường, ông ta đă dùng hàng ngàn nhân viên của cơ quan t́nh báo chính trị cùng với hàng chục ngàn toa xe vào công việc chuyên chở các dân thuộc sắc tộc sống trong vùng Caucase đi lưu đày trong ṿng vài ngày.
Đối chiếu những ǵ đă xảy ra dưới chế độ Đức quốc xă và dưới chế độ Cộng sản , chúng ta sẽ thấy kỳ lạ. Vassili Grossman là ngướ đầu tiên đă nêu ra tội ác xảy ra ở khám đường Treblinka. Mẹ ông đă bị lính Đức quốc xă giết chết trong khu biệt giam của vùng Berditchev. Ông cũng là một trong những người trưng bày tội ác của Đức quốc xă đă tiêu diệt ngướ Do Thái cư ngụ trân lănh thổ của Sô Viết.
Trong tập truyện ngắn Ṛi tất cả cũng đi qua - Tout passe , ông đă đưa một nhân chứng của vụ chết v́ đói ở vùng Urakine. Ông viết : Các văn sĩ, kể cả Staline cho rằng phú nông là những ngướ ăn bám , những kư sinh trùng. Họ là những kẻ đă đốt bỏ bông lúa và giết chết trẻ em. . Staline cũng c̣n công khai khuyến khích quần chúng nổi dậy chống lại quần chúng, tiêu diệt tất cả những ngướ mà họ gọi là tầng lớp xấu xa. Staline cho c̣n cho biết muốn giết họ th́ hăy coi thành phần phú nông không phải là người cũng giống như Đức quốc xă coi dân Do Thái cũng không phải là ngướ.
Đức quốc Xă dự trù cho một xă hội tương lai của một sắc dân thuần chủng. Cộng sản chuẩn bị cho ngày mai một xă hội của những người vô sản. Hai cách cải tạo xă hội tuy có khác nhau về cách xử dụng tiêu chuẩn nhưng giống nhau ở mục đích. Nếu cho rằng chủ nghĩa Cộng sản là một chủ thuyết tổng quan th́ thật là sai lầm. Nếu nó mang tính chất toàn cầu , th́ quả thực một nửa nhân loại không c̣n xứng đáng để sinh tồn. Bởi nó mang tính chất của chủ nghĩa Quốc xă. Nếu có khác chăng là khác ở chổ, Cộng sản phân chia ra nhiều giai cấp trong khi Quốc xă phân chia ra giống dân và lănh thổ.
Tội ác của Lenine, Staline và h́nh ảnh dân Cao Miên dưới thời Pol Pot đă đặt ra một câu hỏi mới cho các luật gia, các sử gia và cho cả nhân loại : Phải xếp vào tội nào đối với những ngướ đă tiêu diệt các thành phần bị ghép vào tội thù địch v́ lư do chính trị, tư tưởng, không phải ở phạm vi vài ba cá nhân mà cả tập thể đám đông quần chúng xă hội . Phải chăng cần đặt ra một tội danh mới ? Ngướ Anh đă dùng danh từ Politicide , bao gồm ư nghĩa cuả Chính trị - politipue - và Giết chết - Cide. Người Tiệp Khắc gọi là Tội ác Cộng sản.
Người ta biết ǵ về những tội ác Cộng sản gây ra ? Người ta muốn biết cái ǵ, loại nào ? Và tại làm sao phải chờ măi đến cuối thế kỷ này nó mới có các cuộc nghiên cứu nghiêm túc?
Việc nghiên cứu tội ác của Quốc xă đă có từ lâu và đă đi khá xa so với việc nghiên cứu các cuộc khủng bố của Lenine, Staline. Nói chung, có sự khác biệt khá lớn giữa các cuộc nghiên cứu cần phải vượt qua mặc dù các nước Đông Âu đă gia tăng các cuộc nghiên cứu này.
Một số khác biệt đă được phát hiện. Năm 1945 , lực lượng Đồng minh thắng trận đă chính thức lên án tội ác diệt chũng những người đầu năo của Đức quốc xă. Nhiều công tŕnh nghiên cứu có hệ thống và đạt nhiều kết quả trong công tác kết án này. Hàng ngàn quyển sách xuất bản , hàng trăm cuống phim tŕnh chiếu. Như Đêm và sương mù - Nuit et Brouillard ; Sự chọn lựa của Sophine- Le choix de Sophine ; Danh sách của Schindler- La liste de Schindler . Chỉ riêng ông Raul Hilberg, ông ta đă sưu tầm các chi tiết về thủ tục và phương pháp giết người dân Do Thái dưới thời Đệ Tam Đế Quốc Đức.
Những tên như Himmler, Eischman được thế giới biết đến như biểu tượng của tàn ác ,và dă man của thời đại. Nhưng người ta không hề nói đến những hung thần Cộng sản. Các tên ác ôn như Djerjinski, Iagoda hay Iejev nào có ai biết đến. C̣n các tên Lenine, Staline, Hồ chí minh, Mao trạch Đông, th́ lại được sùng kính đáng ngạc nhiên. Lại có một viên chức nhà nước Pháp , Le Loto đă dùng các h́nh ảnh này vào trong chương tŕnh quảng cáo. Có ai bao giờ thấy các h́nh ảnh của Hitler hay Goebbels trong các sinh họat tương tợ hay không ?
Việc nghiên cứu tội ác của Quốc Xă Đức được chính thức xác nhận. Nguyện vọng của những người sống sót được đáp ứng. Các nhà nghiên cứu được công nhận và các nhà lănh tụ của quốc gia liên hệ đă làm sáng tỏ giá trị của nền dân chủ. Nhưng tại sao chỉ có tiếng vang rất nhỏ về lời khai của những người sống soát trong chế độ Cộng sản ? Tại sao có sự êm lặng chính trị một cách ngượng ngùng như vậy ? Và nhất là sự êm lặng của quư vị trong Hàn Lâm về thảm họa của Cộng sản từ hơn 80 năm qua đă gây cho hơn 1/ 3 dân số trên 4 lục địa. Tại sao chúng ta bất lực để đặt yếu tố Tội ác vào trọng tâm trong công việc nghiên cứu chế độ Cộng sản? Tội ác đối với tập thể đông đảo quần chúng; tội ác hành động có âm mưu; tội ác chống lại nhân loại.
Phải chăng chúng ta không có đủ khả năng hiểu biết ? Hay đó chỉ là sự từ chối không muốn biết chỉ v́ sợ hăi ?
Lư do của sự che dấu này rất phức tạp. Trước hết đó là hành động cổ điển của những người chủ mưu gây tội ác. Họ muốn xóa bỏ những ǵ họ đă làm. Họ không muốn ai nhắt đến.
Năm 1956 Kroutchev đọc một bản văn bí mật nh́n nhận tội ác của Cộng sản, tội ác của các nhà lănh đạo Cộng Sản, những người hiện đang nắm quyền hành cũng đă nhúng tay vào. Theo lời của một hung thủ, họ mong được che đậy các tội ác và cứ đổ lỗi cho Staline. Họ chỉ là người thừa hành. V́ muốn che dấu các đồng chí của ông ta nên Kroutchev chỉ nêu lên những người Cộng sản là nạn nhân trong các cuộc khủng bố này. Dĩ nhiên cũng có người Cộng sản là nạn nhân thật. Nhưng so với con số thường dân chết th́ con số nạn nhân là người Cộng sản th́ quá nhỏ. Thay v́ kết án, Kroutchev chỉ nói rằng đó là Sự lạm dụng dưới thời Staline để mong bào chữa cho sự liên tục của chế độ .
Kroutchev cũng tŕnh bày cho biết những trở lực và những người chống đối trong khi viết bản phúc tŕnh mật này. Kể cả nhân vật thân cận của Staline . Tên Kaganovitch là một đảng viên thân cận với Staline. Ông ta có thể cắt cổ cha ông ta nếu như có lịnh, chỉ cần một cái nheo mắt của Staline. Ông ta cho rằng thi hành lịnh của Staline là để phục vụ cho sự nghiệp của đảng. Cũng phải được hiểu là cho cả sự nghiệp của Staline. Sau này Kaganovitch giải thích cho hành động của ông ta là v́ ông muốn bảo tồn mạng sống của ḿnh. Ông ta chỉ c̣n muốn có một điều là làm sao xóa bỏ tội ác của ông. Công việc này chỉ có thể thực hiện được bằng cách phải bảo vệ bí mật các văn khố dự trữ, không ai được tham khảo; kiểm soát ṭan diện báo chí; kiểm soát các người ra nước ngoài; tuyên truyền và phóng đại các thành quả của chế độ; các cơ quan truyền thông thực hiện các công tác đầu tiên là ngăn chận tất cả các đề nghị đưa ra ánh sáng các sự thật về tội ác của Cộng sản.
V́ không bằng ḷng với những ǵ họ đă làm trong quá khứ, những tội phạm t́m mọi cách chống lại những ai muốn t́m hiểu sự thật.
Sau đệ nhi thế chiến, tại Pháp có hai vụ tố cáo tội ác của Cộng sản. Từ tháng 4 đến tháng giêng năm 1949, ṭa án Ba Lê đă xét vụ án ông Victor Kravchenko, cựu công chức cao cấp Xô Viết và là tác gỉa quyển Tôi chọn tự do -Je choisi la liberte .
Từ tháng 11 năm 1950 đến tháng giêng năm 1951 cũng tại ṭa án BaLê, ông Aragon đă kiện ông David Rousset , một nhà trí thức có khuynh hướng Trotski.
Rousset đă từng bị lưu đày trong các trại tập trung của Đức trong đệ nhị thế chiến. Năm 1946 ông đoạt giải văn chương Renaudot với tác phẩm Vũ trụ tập trung - Univers concentrationaire . Ngày 12 tháng 11 năm 1946, ông Rousset kêu gọi những tù nhân ở Liên Sô hăy thành lập ủy ban điều tra các trại tập trung khổ sai . Báo chí Cộng sản lúc bấy giờ mở chiến dịch chống phá Rousset kịch liệt và chính quyền Xô Viết cho biết là không hề có trại lao động khổ sai ở xứ này. Hưởng ứng lời kêu gọi của Rousset, tờ báo Figaro Litteraire số ra ngày 25 tháng 2 năm 1950 cho đăng một bài báo tựa đề : Trại tập trung khổ sai của Sô Viết , Cái ǵ khốn khổ nhất : Địa ngục hay trại Belzebuth ? trong đó bà Magaret-Neuman với tư cách là nạn nhân , tường thuật lại những ǵ bà đă trăi qua trong trại tập trung của Sô Viết và của Quốc Xă Đức.
Những nhà độc tài Sô Viết t́m mọi cách chống lại lương tâm của con người . Họ mở ra một mặt trận rộng lớn với một số vũ khí đồ sộ để can thiệp vào mọi nơi trên thế giới. Họ tuyên bố bài trừ, đe dọa, và làm mất niềm tin đối với những ngướ như Soljenitsine, Boukovski, Zinoviev, Plioutch,.. Họ đuổi những người này ra nước ngoài hay cho đi lưu đày biệt xứ. Họ quản thúc ông Sakharov, nhà bác học đầu tiên chế ra bom nguyên tử tại thành phố Gorgi. Cho Tướng Piotr Grigorenko an trí trong nhà thương điên...
Trước sự đe dọa quá lớn cùng vơí sự che đậy bịp bợm, các nạn nhân không đủ can đảm để phát biểu và cũng không c̣n khả năng để hội nhập vào cái xă hội c̣n đầy rẫy những tên chỉ điểm, những hung thủ đang sống nghênh ngang. Trong tác phẩm Rồi moị việc cũng qua , tác giả Vassili Grossman tỏ vẻ thất vọng khi so sánh hai thảm kịch. Thảm kịch Do Thái đă được chính người Do Thái trên ṭan thế giới chu lo tưởng niệm. Trong khi thảm kịch của những nạn nhân của chế độ Cộng sản không hề có quyền đ̣i hỏi bồi thường, cho dù chỉ làm một lễ tưởng niệm nhỏ. Tất cả đều bị cấm kỵ.
Một khi Cộng sản không c̣n che dấu được một số sự thật như các vụ xử bắn, các trại tập trung, gây ra các nạn đói,.., th́ chúng vội vàng chạy tội vụng về. Sau khi nh́n nhận có xảy ra các cuộc khủng bố, họ t́m cách biện minh hợp lư. Họ cho rằng khi người ta đốn gỗ trong rừng th́ có các dâm cây bay ra ngoài. Hay muốn chiên trứng gà th́ phải đập vỏ trứng. Nhưng nào có chiên trứng gà nào đâu! Cái bịp bợm nhất là cách xử dùng ngôn ngữ của Cộng sản. H́nh thức tập trung chúng gọi la trại cải tạo. Các tên cai tù th́ mệnh danh là các tên quản giáo. Họ cố biến những tù nhân của chế độ củ thành những ngướ của chế độ mới. Ở các trại tù Xô Viết, các tên cai tù dùng bạo lực bắt tù nhân phải thừa nhận chính quyền. Tại Trung Cộng, các tù nhân là những sinh viên bị cưỡng bách đi lao động. Họ bị bắt buột phải họ các tư tưởng do đảng đưa ra và phải sửa sai tư tưởng cá nhân. Phải nói láo những sự thật. Nó làm cho tư tưởng của con người trở nên loạn thị về xă hội và chính trị. Tuy vậy sự méo mó về đường lối tuyên truyền của Cộng sản c̣n có thể sửa đổi được, nhưng khó có thể đưa những đă vi phạm tư tưởng trở về cái tri thức thích nghi. Cái ấn tượng đầu tin đă trở thành thiên kiến. Những người Cộng sản nhờ guồng máy tuyên truyền mạnh mẻ, khó có ai sánh kịp, cộng thêm vào đó vơí cách xử dụng ngôn ngữ điếm xăo, đôi khi c̣n dùng vũ lực để chống lại các lời tố cáo về các hành động khủng bố của chúng, chúng tạo được một hàng ngũ chặt chẽ, kéo theo cảm t́nh viên, lập lại chủ nghĩa Cộng sản. Các người Cộng sản biết xử dụng một cách có hiệu lực nguyên tắc đầu tiên của hệ tư tưởng. Ông Tertullien đă từng tiên bố : Tôi tin, dù cho phi lư .
Nằm trong khuôn khổ tuyên truyền, nhiều nhà trí thức khoa bản đă bán đứng lương tri của họ. Vào năm 1928, văn hào nổi danh của Nga, ông Gorki đă chấp nhận đi viếng các vùng thuộc quần đảo Solovski. Nơi đây là thí điểm tập trung mà sau này theo nhận xét của Soljenitsine, trở thành hệ thống trại tù Goulag. Sau chuyến viếng thăm, nhà đại văn hào Gorki viết các bài báo ca tụng chế độ Sô Viết và quần đảo Solovski. Một nhà văn Pháp, ông Henri Barbusse sau khi đoạt giải văn chương Goneourt vào năm 1916 đă viết bài nịnh hót chế độ Staline. Năm 1928 ông cho xuất bản quyển Xứ Georgie tuyệt vời . Đó là quê hương của Staline. Tại nơi này, Staline cùng với thân cận Ordjonikidze vào năm 1921 đă mở một cuộc tàn sát rùng rợn.
Gần đây, Mario Maccio đă ca tụng Mao và Alain Peyrefitte cũng làm như vậy. Bà Danielle Mitterand cũng từng ca tụng Fidel Castro . Ḷng gian tham, sự nhu nhược tính khoe khoang và sự hư ảo đă bị bạo lực cách mạng thôi miên. Các chế độ độc tài , dù với động cơ nào, vẫn luôn luôn có người sùng bái và ca tụng. Và họ cũng cần những người này. Chế độ độc tài Cộng sản cũng vậy.
Đứng trước các lời tuyên truyền của Cộng sản, các nước Tây phương có thái độ mù quáng lạ lùng. Hầu hết các nước Tây Âu đă tỏ ra quá ngây thơ đối với chế độ Cộng sản xăo quyệt. Phải chăng họ khiếp sợ trước sức mạnh của Sô Viết hay v́ cái vô liêm sĩ của các chính khách? Tại hội nghị Yalta vào năm 1945 đă hiện diện sự mù quáng này. Tổng Thống Hoa Kỳ đă buôn rơi các nước Đông Âu cho Staline và Staline hứa sẽ cho tổ chức bầu cở tại các quốc gia này. Năm 1944, Tổng thống De Gaulle tại Mac Tư khoa, đă bỏ rơi Ba Lan cho bạo chúa Staline để đổi lấy sự chấp thuận của lănh tụ Cộng sản Pháp Moris Thorez về một bảo đảm an ninh xă hội và chính trị trên đất Pháp khi khi chiến tranh kết thúc.
Việc làm mù quáng này đă củng cố một cách hợp pháp ḷng tin của những người Cộng sản Phương Tây và các thành phần khuynh tả. Họ cho rằng ở phía sau bức màn sắt là thiên đàng chủ nghĩa xă hội. Nhiều cuộc tranh luận về vấn đề này trong các nước dân chủ. Họ cho rằng phía bên kia bức màn sắt là một thực thể. Bà Simone Veil nhấn mạnh rằng công nhân cách mạng rất sung sướng v́ họ được nhà nước yễm trợ. Một nhà nước ủng hộ chính thức các hoạt động của công nhân. Chỉ có nhà nước mới có quyền ban cho. Chủ nghĩa Cộng sản tự xưng là con đẻ của truyền thống giải phóng, con người và xă hội , một giấc mơ về sự b́nh đẳng thực sự, một hạnh phúc cho tất cả mọi người. Trong cái hào quang sáng chói này, Cộng sản đă phơi bày tất cả tất cả những điều nhơ nhớp mà chủ nghĩa xă hội đă gây ra.
Dù muốn hay không, sự không biết về chiều sâu của tội ác do Cộng sản gây ra mỗi lúc một gia tăng. Một phần cũng tại sự thờ ơ của các người cùng thời với anh, cha chúng ta. Không phải con người có quả tim chai đá. Ông Tzvetan Todorov nhấn mạnh : Kư ức tang chế của cá nhân ta đă cản trở ta cái tri giác cảm xúc các nổi đau khổ của người khác.. .
Thế kỷ 20 là thế kỷ xảy ra quá nhiều tang thương. Con người đă gánh chịu quá nhiều nổi đau khổ cho nên chẳng mấy ai c̣n có thể động ḷng trắc ẩn trước sự đau khổ của người khác.
Có ba lư do che dấu tội ác của Cộng sản :
1. Trước hết là vấn đề liên hệ đến ư thức cách mạng. Cho tới ngày nay nhiều người vẫn c̣n sùng bái ư niệm cách mạng của giữa thế kỷ thứ 19. Các biểu tượng như lá cờ đỏ, bài quốc tế ca, nắm tay dơ lên cao, có dịp xuất hiện khi có sự tranh chấp xă hội. H́nh ảnh Che Guerava trở thành cái mốt thời trang. Nhiều nhóm người làm cách mạng , sinh hoạt công khai ,lên tiếng phản đối những ai chỉ trích về tội ác của những người làm cách mạng đi trước. Họ không ngần ngại đọc các bài diễn văn ca tụng những tội phạm như Lenine, Staline, Mao,.. Có rất nhiều tác giả viết nhiều sách ca tụng và tin tưởng vào những lời tuyên truyền của Cộng sản.
2. Lư do thứ hai của hành động che dấu tội ác của Cộng sản là bởi Sô Viết đă tham gia vào cuộc chiến tranh chống Hitler và đă chiến thắng. Đó là cơ hội để cho những người Cộng sản chính thức đeo mặt nạ của những người ái quốc lương thiện ḥng đạt cho kỳ được mục tiêu tối hậu là nắm lấy chính quyền.
Từ đầu tháng 6 năm 1941, khi quân Đức xua quân xâm chiến lănh thổ Sô Viết, tất cả các đảng viên đảng Cộng sản ở các quốc gia bị Đức chiếm đóng, đồng loạt đứng lên, chiến đău vỏ trang chống lại Quốc Xă Đức hay Phát xít Ư. Những người Cộng sản cũng đă chịu cùng số phận của các tổ chức chính trị khác. Hàng ngàn đảng viên Cộng sản bị hành hung, bắt giam, lưu đày lao động khổ sai hay bị xử bắn. Cộng sản đă thần tựơng hoá những đảng viên bi tù đày hay bị xử bắn để nâng cao lư tưởng của chúng và c̣n dùng để chỉ trích những ai tố cáo tội ác của chúng. Ngoài ra, c̣n có rất nhiều người không phải là Cộng sản, cùng sát cánh với Cộng sản trong các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm, không chịu mở mắt ra. Tại nước Pháp, quân của cánh De Gaulle v́ cùng chung chống Đức quốc xă với quân của Xô Viết nên họ theo De Gaulle trở thành bộ phận của Xô Viết đối chọi với Hoa Kỳ.
Việc các người Cộng sản tham gia chống Phát xít được coi như là mẫu mực của phe tả. Những người Cộng sản tự coi ḿnh là tiêu biểu của lực lượng chống Phát Xít. Nhân danh nhản hiệu chống Phát xít này, Cộng sản đă làm câm họng những ai chỉ trích họ.
Francois Furet đă nhấn mạnh rất nhiều về cái điểm cốt cán này. Đức Quốc xă thua trận, các nước gọi là điều ác. Những người Cộng sản chiến thắng Đức , đó là điều thiện. Trong ṭa án Numberg, Cộng sản ngồi vào ghế biện lư. Chính nhờ vậy , họ đă che lấp các hoạt động xấu xa đối với giá trị dân chủ của các nước Tây phương. Cộng sản đă từng kư ḥa ước với Đức quốc xă vào năm 1939, cùng với quân Đức tàn sát các sĩ quan Ba lan tại Katyn vào mùa xuân 1940. Nhân dân các quốc gia bị Đức chiếm đóng và được các nước Đồng Minh Anh , Hoa Kỳ giải phóng th́ tỏ ra vô cùng biết ơn Hồng quân Nga và cùng chia sẻ với nhân dân Xô Viết về những sự mất mát v́ chiến tranh. Ngành tuyên truyền của Cộng sản khai thát triệt để các sự kiện này.Đồng thời, bộ máy tuyên truyền của Cộng sản cũng t́m cách che dấu những tội ác của chúng gây nên tại các quốc gia chúng chiếm đóng. Các nước Tây Âu cũng như dân chúng trên toàn thế giới đâu biết những ǵ đă xảy ra. Sử gia đă chia các cuộc chiến giải phóng ra làm hai loại : Một là dân chủ hoá các quốc gia nằm trong khối Đồng Minh Tây Âu. Hai là thiết lập chế độ độc tài ở các quốc gia thuộc quyền kiểm soát của Hồng quân Nga. Ông Witold Gombrowicz diễn tả thảm cảnh của các quốc gia bị Hồng quân chiếm đóng như sau : Chiến tranh đă kết thúc nhưng không giải phóng cho người dân Ba lan. Tại khu vực đau khổ Trung Âu này, đó chỉ là sự thay đổi bóng tối này bằng một bóng tối khác. Các hung thủ của Staline đến thay các hung thủ của Hitler mà thôi. Trong khi đó, tại thủ đô Ba Lê của nước Pháp người ta ca hát chào mừng nhân dân Ba lan đă được giải phóng khỏi gông cùm phong kiến..
3. Lư do thứ ba của sự che dấu tội ác rất tế nhị.
Sau năm 1945, sự kiện diệt chủng dân Do Thái đă trở thành một hiện tượng dă man hiện đại. Hiện tượng này xâm chiếm tất cả tâm tư của con người . Trước thế chiến, Cộng sản cho rằng họ không hề có hành động ngược đăi dân Do Thái. Và họ biết rất rơ là họ sẽ đạt được nhiều thắng lợi trên mặt tuyên truyền một khi họ khuyến khích phong trào chống Phát Xít. Gần đây, tại các nước Cộng sản lại xảy ra vụ xét lại tội diệt chủng dân Do Thái , với mục đích làm mờ đi tội ác tương tự của chúng.
Khúc quanh lớn đă diễn ra vào ngày 24 tháng 2 năm 1956. Đó là ngày chính thức nh́n nhận tội ác của Cộng sản. Buổi chiều ngày hôm ấy, Bí thư thứ nhất của đảng Cộng sản Liên Xô, ông Nikita Kroutchev khai mạc Đại Hội lần thứ 20 của đảng Cộng sản. Đại hội họp trong pḥng kín. Các đại biểu êm lặng và căng thẳng ngồi nghe Kroutchev vạch tội Staline, ṛng ră 30 năm là người hùng của chủ nghĩa Cộng sản thế giới. Bản phúc tŕnh mật từ ngày đó đă là nguyên nhân của sự chuyển hướng căn bản của chủ nghĩa Cộng sản ngày nay. Và đây là lần thứ nhất một người lăng đạo cao cấp Cộng sản chính thức thừa nhận những người lănh đạo từ năm 1917 đă gây ra tội ác.
Có nhiều lư do đă thúc đẩy Kroutchev phá vỡ một trong những điều cấm kỵ của Cộng sản. Mục đính chính của Kroutchev là t́m cách quy tội cho một cá nhân để chạy tội cho chính sách dă man của chủ nghĩa Cộng sản. Trong kế hoạch này , ông tấn công và khai trừ các đảng viện tay chân của Staline, những ngướ theo Staline và chống lại ông. Kết quả cho chúng ta thấy rơ vào mùa hè năm 1957, tất cả các đảng viên thân Staline ở mọi ngành, mọi nơi đều bị cách chức. Thí dụ điển h́nh này chỉ là một chi tiết tầm thường . Trên thực tế c̣n nhiều điều kinh ḥang hơn. Khi ông ta c̣n ở chức vụ Bí Thư vùng Ukraine , được coi như là lănh chúa của vùng, trong nhiều năm phát động nhiều vụ tàn sát khủng khiếp. Trong tập hồi kư, ông chỉ ghi lại những thành quả tốt đẹp cuả ông mà thôi. Đại hội kết thúc với những quyết nghị và chương tŕnh thi hành các nghị quyết. Nhưng rồi họ làm được những ǵ. Ông ta viết : Vậy chúng ta phải làm ǵ cho những người bị xử bắn vô tội; phải làm ǵ cho những người bị bắt và bị thủ tiêu? Chúng ta có bằng cớ rơ ràng rằng họ là những người công dân lương thiện, họ là những đảng viên trung thành với đảng. Họ đă hy sinh cho chủ nghĩa Cộng sản. Sớm hay muộn ǵ, những người hiện c̣n bị giam trong các khám sẽ được trả tự do. Họ sẽ kễ lại cho thân nhân nghe những ǵ đă xảy ra. V́ vậy tôi phải thú nhận trước các đại biểu hiện diện ngày hôm nay về đường lối lănh đạo sai lầm của đảng trong những năm đó. Làm sao chúng ta có thể nói là chúng ta không hề biết ǵ chuyện đó. Chúng ta phải biết rằng đó là một thời kỳ đàn áp và độc đóan ở trong đảng. Chúng ta có nhiệm vụ phải tŕnh bày trước đại hội những ǵ chúng ta biết. Trong cuộc sống, những người phạm tội sẽ nhận khoan hồng nếu như họ thú tôi.
Cũng có một số trường hợp hối hận xảy ra . Nhiều người trước kia tham dự trực tiếp vào các vụ tàn sát thời Staline, tiêu diệt các đảng viên khác để chiếm giữ các chức vụ quan trọng, nay cũng tư phê b́nh, tự kiểm điểm. Đó chỉ v́ sự cưỡng bách mà phải làm. Ai đó có thể trực tiếp đứng ra ngăn chận sự tàn sát này ? Đó là Kroutchev. Nhưng rồi cũng chính Kroutchev vào năm 1956 đă ra lịnh cho Hồng quân kéo xe tăng vào đè bẹp dân chúng Hung gia Lợi.
Trong các phiên họp đại hội thứ 22 của đảng Cộng sản, Kroutchev lại một lần nữa cho rằng đảng viên Cộng sản là nạn nhân của Staline. Ông cho xây đài tưởng niệm những người Cộng sản này. Ông đi trở lại con đường độc tài. Con đường độc tài tuyệt đối dành riêng cho Cộng sản.
Vào năm 1962 khi c̣n tại quyền Tổng bí thư đảng, ông Kroutchev cho xuất bản quyển Một ngày của Ivan Denissovitch của Alexandre Soljenitsine. Ngày 24 tháng 10 năm 1960 Kroutchev bị truất phế, nhưng không bị thủ tiêu. Ông mất âm thầm vào năm 1974. Chẳng ai hay biết , ngoại trừ thân nhân.
Nhiều người nh́n nhận rằng bản phúc tŕnh mật của Kroutchev phá vỡ căn bản chính sách của Cộng sản trong thế kỷ thứ 20.
Theo ông Francois Furet một đảng viên Cộng sản Pháp ly khai năm 1954 cho rằng bản phúc tŕnh mật chỉ là một sự thú nhận quanh co. Bản phúc tŕnh chỉ đề cập đến những ngướ Cộng sản là nạn nhân của Staline. Nhưng theo ông, dù sao bản phúc tŕnh mật cũng xác nhận là có xảy ra các vụ tàn sát kinh hoàng và ở mức rộng lớn trên đất nước Nga. Điều mà có nhiều người từ lâu nay vẫn nghi ngờ. Nhiều lănh tụ đảng Cộng Sản ở các quốc gia khác không chiụ thừa nhận tội ác như Kroutchev đă làm. Măi đến năm 1979, đảng Cộng sản Trung Quốc mới chịu phân tích con đường chính trị của Mao. Họ cho rằng Mao đă có công rất lớn cho đến năm 1957. Sau đó họ Mao đă làm sai. Cộng sản Việt Nam chỉ đề cập đến điểm này xuyên qua việc tố cáo hành động diệt chủng của Pol Pot . C̣n Castro th́ cho rằng không hề có bạo lực xảy ra dưới thời của ông.
Cho đến lúc này, chỉ có những người chống đối Cộng sản , những thành phần ly khai lên tiếng kết án tội ác của Cộng sản. Kết quả của các vụ tố cáo chẳng đi đến đâu. Chỉ có những người sống sót được trong các trại tù của Đức quốc xă, của Cộng sản mới đủ ư chí quyết liệt tố cáo tội ác. Nhưng ở Pháp không mấy ai chịu nghe họ. Pháp có trên 10.000 công dân sinh sống trong hai vùng Alsace và Lorraine, bị Quốc Xă sát nhập vào Đức. Trong chiến tranh, Những người Pháp này bị Đức gởi đi ra mặt trận trên đất Nga. Họ bị Hồng quân bắt làm tù binh và bị ngược đăi. Cho đến ngày hôm nay, 50 năm sau, gia đ́nh của họ không hề biết được tin tức ǵ cả. Chính phủ Pháp chưa giải quyết thỏa đáng.
Tháng hai năm 1956, bản phúc tŕnh mật do Kroutchev đọc trước Đại hội Đảng lần thứ 20 đă làm đảo lộn hàng ngũ Cộng sản. Lời tố cáo không phải xuất phát từ Phương Tây Tự Do mà từ Thánh địa Mạc Tư Khoa . Ư niệm Cộng sản bị lung lay, không phải chỉ ở Nga mà c̣n dao động ở các nước Cộng sản chư hầu. Bởi v́ lời tố cáo không phải phát xuất từ một đảng viên b́nh thường do bất măn , trái lại, nó do chính Chủ tịch nhà nước đương kiêm Đệ nhất Bí Thư Kroutchev đích thân tuyên đọc. Sự kiện này khiến cho người ta tự hỏi, liệu chủ nghĩa Cộng sản c̣n đáng được tin tưởng hay không ? Cả hội trường, không một đảng viên đại biểu nào phát biểu chống lại, chứng tỏ bản phúc tŕnh mật có một giá trị sức mạnh ghê gớm.
Từ đầu năm 1917, đă xảy ra nhiều sự kiện lịch sử nghịch lư. Một nhóm tỏ vẻ hồ hởi đón nhận cái gọi là tia sáng lớn lóe ra từ phương Đông . Nhóm khác cực lực chỉ trích các hoạt động của người Bônsêvich. Các cuộc tranh cải giữa hai khuynh hướng nhằm vào các cuộc khủng bố bạo lực của Lenine.
Trong những thập niên 20 và 50, cũng có nhiều ngưới lên án bộ mặt thật của những người Bônsêvich. Nhưng phải đợi đến khi người Cộng sản tự thú th́ tốc độ tố cáo mới có phần gia tăng . Nhiều uỷ ban thành h́nh co nhiệm vụ thu nhập những kư ức của nạn nhân. Như Uỷ Ban Quốc Tế về chế độ Trại tập trung của David Rousset hay Uy ban về sự thật tội ác của Staline,.. Nhưng tiếng nói của các Ủy Ban bị lấn át bởi tiếng trống tuyên truyền của Cộng Sản và được nối tiếp bởi sự yên lặng hèn hạ gần như thờ ơ. Ngay cả khi Soljenitsine cho xuất bản quyển Quần đảo Goulag và tác phẩm Ảo ảnh chết người của Pin Yathay dư luận ở Tây phương vẫn tiếp tục êm lặng. Xă hội Tăy Phương vẫn từ chối nh́ nhận sự thật đă xảy ra trước mắt họ : Chủ nghĩa Cộng Sản từ căn bản, ở mỗi cấp độ, tất cả đều đă nhúng tay vào tội ác.
Từ năm 1920 đến năm 1950 v́ Cộng Sản bưng bít, nên các nhà nghiên cứu các tài liệu về các tội ác, chỉ có thể căn cứ vào những lời khai cuả các nhân chứng trốn thoát khỏi địa ngục Liên Sô.
Năm 1959 một viên chức cao cấp của cơ quan t́nh báo Sô Viết KBG rời bỏ hàng ngũ chạy qua Tây Phương t́m tự do. Ông ta tŕnh bày tất cả các chi tiết về các trại Goulag và được viết lại trong tác phẩm Chế độ trại tập trung của Sô Viết từ 1930-1957 , tác giả là Paul Barton. Sách do nhà xuất bản Plon phát hành năm 1959. Ông Paul Barton là ai. Ông ta là người Tiệp Khắc lưu vong. Tên thật của ông là Jiri Veltrusky. Ông là một trong những người tham dự của nổi dậy ở thủ đô Prague của Tiệp Khắc vào năm 1945 chống lại Đức quốc xă. Năm 1948 ông trốn qua Pháp.
Vào những thập niên 70- 80, Soljenitsine cho ra đờI tác phẩm Quần đảo ngụ tù Goulag .
Dư luận có chú ư, nhưng Soljenitsine cũng đă gặp nhiều khó khăn khi t́
_________________
"Giữa sỏi đá vút vươn niềm hy vọng
Trong tro tàn dào dạt nhựa hồi sinh
Hận nội thù trên máu ruột Tiên Rồng
Căm giặc cộng cướp non sông Hồng Lạc"
YTKCPQ
Bookmarks