Page 1 of 4 1234 LastLast
Results 1 to 10 of 37

Thread: 30/4/1975. CS Việt nam mang "Thảm Họa cho cả Dân tộc"

  1. #1
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    30/4/1975. CS Việt nam mang "Thảm Họa cho cả Dân tộc"

    30/4/1975. CS Việt nam mang "Thảm Họa cho cả Dân tộc"
    THẢM HỌA chính là TỘI ÁC của ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM


    1/. Tội Bán Dâng tổ quốc Việt Nam cho Đại Hán CS Trung Quốc, biến 86 triệu dân Việt Nam thành Giao Chỉ Quận nô lệ. Hồ Chí Minh nhân vật chủ chốt mang Thảm Họa Cộng Sản, tội đồ dân tộc .

    2/. Tội Diệt Chủng với Chính sách Cải Tạo Tập Trung hơn 1000000 Quân Dân Cán Chính VNCH cùng gia đ́nh và đồng bào doanh gia miền Nam Việt Nam. Giết hại và làm chết hơn 170000 người ở các Trại Tập Trung Cải Tạo từ Nam ra Bắc.

    3/. Tội Diệt Chủng và cướp đoạt tài sản của hơn 1000000 đồng bào đi "Vượt Biển t́m Tự Do", hơn phân nửa số người tới bờ Tự Do bị chết và mất tích trên biển. Hơn 1000000 đồng bào bị bắt "Cưởng Bức Cải Tạo" rrải rác trong các nhà tù từ Nam ra Trung, một số lớn bị giết, bị cướp đoạt tài sản khi bị bắt.

    4/. Tôi Diệt Chủng và cướp đoạt tài sản hơn 1000000 người với "Chính Sách Đánh Tư Sản Mại Bản" trên đồng bào miền Nam. Chính sách Kinh Tế Mới, Cưởng Bức Lao Động hàng trăm ngàn người bị chết v́ kiệt sức.

    5/. Tội Diệt chủng với Dân Tộc Việt Nam qua Chính sách Kinh tế XHCN, Dân Đói Dân Ngu Dể Trị làm dân tộc bị bại hoại, thục lùi hơn thế kỷ, thậm chí nhiều nơi trong nước bị chết đói, xả hội băng hoại, con người trở nên "Dối Trá, Thiếu Giáo Dục" cả nước.

    6/. Tội Tiêu diệt Văn Hóa Dân tộc Việt nam tạo cơ hội cho Hán hóa du nhập mạnh, do Bắc Kinh chỉ đạo, Văn hóa nô bộc cho "Chánh sách Đại Hán Giao Chỉ Quận" triệt để áp dụng.


    Xin mời bổ túc thêm...


    Thỉnh nguyện thư Nhân quyền cho Việt nam do Cộng đồng người Việt ở Mỷ do Nhạc sỉ Trúc Hồ và Tiến sỉ Nguyễn Đ́nh Thắng khởi xướng mở đầu cho "Cuộc Cách Mạng Tự Do Dân Chủ Việt nam Thế kỷ 21". Hơn 130000 chử kư tới hôm nay chứng minh người Việt hải ngoại đoàn kết và một ḷng dấn thân cho quê hương. Quốc nội Hải ngoại sẳn sàng bước kế tiếp ... Tự do Dân chủ cho Việt Nam.

    CS Việt nam trong t́nh thế khốn khổ "Hoặc Bán nước cầu vinh, hoặc tan rả". Chính sách đu dây cầu toàn chưa chắc cứu vản t́nh thế vô cùng nguy nan cho CS. Một mặt Kư thỏa mật ước " Nô lệ Đại Hán bằng cờ 6 sao, Bán dâng Cắt nạp Biên giới Biển Đảo". Cố t́nh dàn cảnh Tàu lạ Biển Đông rồi phát ngôn "Phản đối lấy lệ với Trung quốc" làm bằng chứng Chính phủ quốc gia độc lập, làm lắng dịu phẩn nộ Dân Việt nam nhẹ dạ tin tưởng CS. Trong khi đó thẳng tay đàn áp "Dân chúng Biểu t́nh chống Trung quốc". Bắt bớ tù đày các phần tử lên tiếng như Việt Khang, Hồ thị Bích Khương... và hôm nay Tiến sỉ Nguyễn Diện, Mặt khác theo lệnh Đại hán kư kết Hợp tác quốc tế với khối Tư bản Mỷ, Nhật, Úc, Ấn độ... như một quốc gia có "Độc lập". CS Việt nam dù có gian manh nhưng luôn bị lật tẩy


    Đảng viên CS Việt nam đă nhanh chóng chọn lựa cứu cánh " Toàn mạng toàn tài, tẩu nhanh là thượng sách", gia quyến và tài sản đả đưa ra nước ngoài, ngu sao ở lại với Đảng CS mà chết? Bánh xe "Cách Mạng đả lăn bánh" toàn dân Việt nam mau cùng bắt nhịp với Dân tộc "Xuống Đường Tự Do Dân Chủ cho Việt Nam".

    Hôm nay nh́n lại quá khứ ...hướng đến tương lai...










    Last edited by alamit; 11-03-2012 at 08:33 AM.

  2. #2
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    30/4/1975. CS Việt nam mang "Thảm Họa cho cả Dân tộc"

    30/4/1975. CS Việt nam mang "Thảm Họa cho cả Dân tộc"
    Mục Đích và Ư Nghĩa Ngày Quốc Hận
    Vĩnh Hiếu Phi Đoàn 215, Thần Tượng

    Nguồn: canhthep.com

    Xin nói sơ qua về tác giả:
    Không Quân Vĩnh Hiếu là một phi công trực thăng vơ trang thuộc Phi Đoàn 215 Thần Tượng, trú đóng tại Sư Đoàn II Không Quân, Nha Trang.
    Anh là một chiến sĩ xuất sắc đă từng lập được nhiều thành tích cũng như chiến công và đă từng tham dự hầu hết những mặt trận lớn tại vùng II và nhất là trong trận chiếm “Mùa Hè Đỏ Lửa” .
    Và đặc biệt anh đă được nhiều báo chí ngoại quốc nhắc nhở đến tại mặt trận Tuy Ḥa trên con Lộ máu 7B mà anh đă chiến đấu sát cánh bên quân bạn cho tới giây phút cuối cùng của cuộc chiến tranh Việt Nam.


    Kính thưa quư vị Quan Khách, Quư vị Niên trưởng cùng các chiến hữu,

    Ngày 30 tháng 4 là ngày đánh dấu chấm dứt cuộc chiến tranh Việt Nam, sau hai mươi năm tang tóc khói lửa. Cũng là ngày đánh dấu một khúc quanh của lịch sử, một khúc quanh lịch sử đen tối và tủi nhục cho dân tộc Việt Nam!
    Ngày 30 tháng 4 là ngày tất cả những người Việt chống Cộng khắp nơi trên thế giới, thắp lên một nén hương ḷng để tưởng nhớ đến những vong hồn tử sĩ đă hy sinh v́ Tổ Quốc cũng như hàng triệu đồng bào đă bỏ ḿnh trong cuộc chiến.

    Ngày 30 tháng 4 là Ngày Quốc Hận. Tại sao ngày 30 tháng 4 được gọi là Ngày Quốc Hận?

    Hận đây không phải là hận của một kẻ chiến bại hận kẻ chiến thắng!
    Quân Lực VNCH chưa bao giờ là một kẻ chiến bại!

    Không có một lực lượng quân sự nào có thể chiến thắng kẻ thù khi người pháo thủ pháo binh phải đếm từng viên đạn ra khỏi ṇng, người lính phải suy nghĩ khi bóp c̣ súng trước quân thù v́ thiếu đạn dược, máy bay không cất cánh được v́ không đủ xăng nhớt! Quân lực VNCH đă bị bỏ rơi và bôi nhọ để che đậy đường lối chính trị sai lầm của những nước cường quốc cũng như quyền lợi của họ.

    Hận đây là v́ hàng triệu sanh linh vô tội đă bỏ mạng cho một cuộc chiến tranh, phi nhân phi nghĩa, chỉ v́ tham vọng của một lủ Cộng Sản láo khoét, lường gạt, coi mạng sống con người như cỏ rác.

    Sau bao nhiêu năm trôi qua, cái gọi là “chiến thắng ba mươi tháng tư” mà bọn CSVN vẫn lếu láo khoe khoang chỉ là một kết quả được sắp đặt trên thế cờ chính trị thế giới, và cái gọi là “chiến thắng” đó chỉ là một kết quả tạm bợ. V́ bạo lực sẽ không bao giờ chiến thắng được công lư! V́ bánh xe lịch sử chưa bao giờ ngừng quay cả cũng như cuộc chiến chống Cộng của những người Việt yêu tự do vẫn chưa bao giờ ngừng cả.

    Sau bao nhiêu năm trôi qua, cái gọi là ” Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa” càng ngày càng để lộ bộ mặt thật: chúng chỉ là một tập đoàn khát máu tôn thờ “Chủ Nghĩa Cộng Sản”; một đám Cộng Nô cắt đất nhượng nước để trả ơn cho quan thầy đă hậu thuẩn chúng đạt được mục tiêu hầu được no cơm áo ấm. Và bây giờ chúng đă trở thành những tên đại tư bản tham quyền cố vị để tiếp tục làm giàu trên xương máu người dân!

    Sau bao nhiêu năm trôi qua, bị đè nén, áp bức và nhất là khi nh́n thấy cái hiễm họa mất nước gần kề cho đám Tầu phỉ phương bắc, người dân trong nước đă bắt đầu vùng dậy phất cờ khởi nghĩa, bất chấp hậu quả đàn áp và đe dọa của bọn CS khát máu. Chúng ta phải tin tưởng rằng giây phút mà tập đoàn lănh đạo CSVN sẽ bị bứt bỏ như những con đỉa hút máu no tṛn sẽ đến trong một ngày rất ngần đây.

    Kính thưa Quư vị Niên trưởng cùng các Chiến hữu,

    Tất cả những cựu chiến sĩ VNCH đă bỏ xương máu chiến đấu chống bọn CS xâm lăng sẽ phải tiếp tục chiến đấu một cuộc chiến chưa kết thúc bằng cách hổ trợ dưới mọi h́nh thức, cho phong trào lật đổ bọn CSVN đang bành trướng tại quê nhà. Sự hổ trợ của tất cả những người Việt chống Cộng tại hải ngoại sẽ là một nguồn nhiên liệu hữu hiệu để giúp cho đồng bào của chúng ta mau chóng thành công trong việc giành lại “Tư Do – Độc Lập – Dân Chủ” thật sự cho đất nước. Ngoài ra, những cựu chiến sĩ VNCH c̣n có một bổn phận thiêng liêng cao cả khác, đó là làm sáng tỏ lịch sử, nói lên sự oai hùng của QLVN/CH, phơi bày sự thật về cuộc chiến tranh VN để cho thế hệ con cháu mai sau này sẽ có một cái nh́n đúng đắn hơn để biết tri ơn QLVN/CH và hàng trăm ngàn chiến sĩ đă hy sinh tính mạng để bảo vệ Tổ Quốc Quê Hương.

    Ngày nào mà Cộng Sản Việt Nam bị tiêu diệt và lịch sử đấu tranh giành tự do độc lập cho dân tộc Việt Nam được sáng tỏ th́ ngày đó những vong hồn những anh linh tử sĩ, những chiến hữu đă bị bức tử trong những giây phút cuối cùng của cuộc chiến tranh đau thương này sẽ được ngậm cười nơi chin suối. Và sau cùng chúng ta xứng đáng hănh diện vinh dự là đă được mang một bộ quân phục đă từng được phục vụ dưới lá cờ Màu Vàng Ba Sọc Đỏ thân yêu!

  3. #3
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    30/4/1975. CS Việt nam mang "Thảm Họa cho cả Dân tộc

    30/4/1975. CS Việt nam mang "Thảm Họa cho cả Dân tộc
    THÁNG TƯ ĐEN





    (Một nén hương kính dâng Tổ Quốc VN. và tưởng niệm những
    người chết cho quê hương, v́ quê hương và v́ sự xâm lăng tàn
    khốc của CS trong Tháng Tư Đen 1975)

    Ngày Ba Mươi Tháng Tư xưa
    Lệnh hàng: vết chém ai đưa qua hồn
    Ḷng đau với Tháng Tư buồn
    Súng rơi cùng suối lệ tuôn nghẹn ngào...
    Ngày Ba Mươi Tháng Tư nào
    Ai đem dân tộc xô vào lầm than
    Xác người ai bón rừng hoang
    Biển xanh pha máu Việt Nam đỏ hồng!
    Ai làm cách núi ngăn sông
    Cha con chia biệt, vợ chồng ly tan?
    Ai làm tan nát Việt Nam
    Ḥa b́nh sao lại vô vàn đớn đau ?
    Tháng Tư đen. Tháng Tư sầu
    Một trăm cái trứng đào sâu oán thù
    Giết nhau bằng những mưu mô
    Giết nhau bằng súng Liên sô, đạn Tàu
    Giết nhau không nhận ra nhau
    Giết nhau chẳng chút ḷng đau. Lạ lùng!
    Giết nhau, vỗ ngực: Anh Hùng
    Ngàn trang uế sử trùng trùng máu tươi ...

    Tháng Tư đen. Tháng Tư ơi!
    Việt nam ! ai xót xa người Việt nam !?


    Ngô Minh Hằng

  4. #4
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    30/4/1975. CS Việt nam mang "Thảm Họa cho cả Dân tộc"

    30/4/1975. CS Việt nam mang "Thảm Họa cho cả Dân tộc"
    30 tháng Tư, 1975





    tàu Trường Xuân (30 tháng 4 năm 1975)
    30 tháng Tư là hôm nay
    nh́n nhau, hoảng hốt, ̣a khóc
    em khóc, anh khóc, chúng ḿnh khóc
    một ngày tổ quốc tả tơi rách

    đúng rồi em, 30 tháng Tư là hôm nay
    em hăy thắp cho anh chút nhan đèn
    em khóc, anh khóc, chúng ḿnh khóc
    rồi ḿnh qú cầu nguyện cho quê hương

    một ngày hết chiến tranh mà lắm nước mắt
    một ngày hoà b́nh mà nhiều tan tóc
    tại sao quê hương ḿnh đảo điên
    em thấy không người cha vừa mất đứa con
    em thấy không đứa em thơ vừa mất mẹ
    em thấy không người chồng lạc mất vợ
    em khóc, anh khóc, chúng ḿnh khóc

    em thấy không chiếc trực thăng cuối cùng vừa cất cánh
    em thấy không bao dân ḿnh chôn xác vào đại dương
    một ngày, một trang sử mới bắt đầu
    một ngày là măi ngàn sau
    em khóc, anh khóc, chúng ḿnh khóc

    đúng rồi em, hôm nay là 30 tháng Tư, 1975
    bắt đầu cho một số kiếp lưu vong
    của bao vạn dân ḿnh
    của đứa con sắp ra đời của ḿnh
    (tội cho con chưa ra đời đă làm người mất nước
    chưa ra đời đă đội khăn tan cho tổ quốc)
    đây là lá cờ vàng ba sọc đỏ
    em hăy treo lên tường để tưởng nhớ

    em khóc, anh khóc, quê hương oà khóc

    ViệtNam ơi
    ViệtNam của tôi
    của tôi
    của tôi

    30 tháng Tư, bàng hoàng đứng khóc

    KhêKinhKha
    Mass. đêm 30/4/1975
    Thoibao online

  5. #5
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    30/4/1975. CS Việt nam mang "Thảm Họa cho cả Dân tộc"

    30/4/1975. CS Việt nam mang "Thảm Họa cho cả Dân tộc"
    37 năm - Vui sao nước mắt vẫn trào ? P1



    Sau chủ trương rầm rộ của Nhà nước phát động “chiến dịch” toàn dân “Góp đá xây dựng Trường Sa” th́ các em, sáu sinh viên trẻ hiếu học, gia đ́nh nghèo quê dưới miền Tây đang thuê 3 pḥng ở trọ nhà tôi cứ ấm ức đau đáu một nỗi niềm: Sao trong chiến tranh, TQ vừa giúp VN (miền Bắc) lại vừa xâm lược đảo biển VN (Hoàng Sa)? Rồi sau chiến tranh, ḥa b́nh hữu nghị anh em láng giềng XHCN với nhau lại nảy sinh đ̣i hỏi tranh chấp chủ quyền tiếp tục xâm lấn Trường Sa? Bất chợt ngang nhiên tuyên bố lấy biển trời hải đảo sân nhà người ta làm cái ao nhà ḿnh? Thường xuyên bắt giữ đánh đập phá hoại tàu thuyền, tịch thu tài sản ngư cụ của bà con ngư dân chúng ta đang sinh sống bằng con tôm, con cá từ ngàn đời trên biển đảo của tổ tiên ḿnh mà hơn ba bốn thập niên trước th́ không hề có tranh chấp này? Mà nhà cầm quyền CSVN th́ chỉ khép nép “ho hen” chiếu lệ? Nhưng khi người dân Việt Nam bức xúc, yêu nước, phản ứng trong ôn ḥa chống lại hành vi rất đáng gọi là “thế lực thù địch” ngoại xâm ấy th́ lại bị nhà cầm quyền VN cấm đoán, xử sự với ác cảm ngược lại, coi như là “thế lực thù địch” trong nước của chính ḿnh!?

    Các em cứ tự vấn, tại sao lại ngược đời như vậy!? Cận cảnh tưởng như dễ hiểu với mọi người nhưng hoá ra lại là viễn cảnh rất khó hiểu của Đảng và Nhà nước trả lời cho nhân dân nên câu hỏi cứ lững lơ với các em cũng như với khá nhiều bạn trẻ sinh ra trưởng thành sau 1975 để cho tôi biết có một khoảng trống nhạt nḥa tối, sáng, không định h́nh trong tri thức của các em liên quan đến chuyện thời sự “nhạy cảm” nóng, lạnh bất thường này của các vị lănh đạo đất nước với láng giềng “đồng chí bạn vàng” TQ? Mà nguyên nhân suy cho cùng, một phần từ sự giáo dục nó cũng “nóng lạnh” bất thường theo khuynh hướng chính trị xu thời, định hướng từng giai đoạn v́ quyền lợi sống c̣n của Đảng CSVN chứ không v́ quyền lợi dân tộc. Mà trong một hệ thống độc tài toàn trị tuyệt đối như thế th́ giáo dục cũng không thể nằm ngoài cái quỹ đạo có đường đi thất thường hay trái qui luật và ngược với ḷng người này.

    Khi rỗi rảnh, đọc ké sách báo nhà tôi, chạm vấn đề biển đảo thấy tôi vui các em sinh viên cứ hay hỏi tôi hoài về chuyện này, tôi chỉ cười nói: Con người ta h́nh như ai cũng có cái định mệnh của số phần, đất nước ḿnh chắc cũng vậy. Nếu dân tộc Việt Nam may mắn như Hàn Quốc, Đài Loan hay Singapore có được những người lănh đạo yêu nước thương dân, đặt quyền lợi tổ quốc nhân dân lên trên quyền lợi đảng phái cá nhân th́ mấy em và đồng bào chúng ta đă không có những ưu tư trăn trở, bà con ngư dân không đổ máu, rơi lệ, tan nát tàu thuyền v́ TQ trên biển đảo của quốc gia ḿnh như ngày hôm nay. Nhưng đau đớn là sự không may ấy lại do chính người Việt Nam ḿnh thiển cận không sáng suốt gây ra chứ không do thần linh hay quyền lực siêu nhiên nào biến hóa thù hằn đày đọa. Có vài em sinh viên, khoa “xă hội nhân văn” h́nh như cũng “nhạy cảm” chính trị cứ đeo theo tôi mong phân tích cho rơ ngọn nguồn mà tôi th́ cứ hẹn hoài bởi cần những dẫn chứng thực tế rơ ràng diễn giải cho các em, những trí thức trẻ biết được có một giai đoạn mà dân tộc (đúng hơn là Chính phủ VNCH miền Nam) phải buông tay không thể nắm lại được. Nhưng nếu “may mắn” hay người CSVN “khôn ngoan” hơn th́ Hoàng Sa-Trường Sa và Biển Đông không đến nỗi phải “rối” như nồi canh hẹ và ngư dân chúng ta, không phải chịu cảnh bị Trung Quốc cứ bắt nạt, đe dọa không thấy điểm dừng như hiện nay.

    Những ngày này – Tháng 4, như vết thương cũ râm ran đau khi gió trở trời, phía Nam vĩ tuyến 17 nhiều triệu người dân Việt lại nhói đau từ vết thương ḷng măi vẫn như chưa chịu liền da, lại như mưng mủ khi hơn một tháng qua (ngày 29/2/12), quân đội TQ lại bắt giam giữ hai tàu cá và 21 ngư dân xă An Vĩnh, huyện đảo Lư Sơn (Quảng Ngăi) trên đảo Phú Lâm (quần đảo Hoàng Sa), đến nay phía Trung Quốc đ̣i người nhà các ngư dân phải nộp 70.000 nhân dân tệ (NDT) cho mỗi người mới thả về. Nếu vào năm 2010, Trung Quốc bắt tàu cá ngư dân VN liên tục bị truyền thông quốc tế lên án th́ đến 2011, Trung Quốc không bắt nữa mà chuyển qua đập phá thuyền, cướp tài sản ngư dân. Ngờ đâu, qua đầu năm 2012 này, phía Trung Quốc không chỉ đập phá tài sản mà c̣n bắt giam tàu thuyền và ngư dân đ̣i tiền phạt,… “Cứ hết bị đập phá tài sản, lại chuyển sang giam người, giữ tàu đ̣i tiền phạt như “hải tặc”. Sức đâu, tiền đâu để làm ăn nữa!” – nhiều ngư dân than thở…

    Ông Vinh (ngư dân) nói, tàu cá của ông bị phía Trung Quốc cướp tài sản, đập phá nhiều lần. C̣n nếu bị bắt giam th́ đây là lần thứ ba. Hai lần trước vào tháng 8/2003 và tháng 2/2009, tàu bị giam ở đảo Phú Lâm và đảo Hải Nam. Mỗi lần như thế, phía Trung Quốc bắt nộp 50.000 NDT. Lôi từ trong tủ ra hàng loạt giấy tờ nộp tiền phạt khi tàu bị Trung Quốc bắt, ông Vinh kể: “Sau khi nộp phạt, lúc được thả ra, phía Trung Quốc chỉ chừa lại chút ít lương thực, dầu máy, c̣n bao nhiêu hải sản đánh bắt được của tàu đều bị người Trung Quốc trên đảo cướp sạch, thậm chí bột ngọt, muối, nước mắm cũng bị lấy hết”. (SGTT Oline)

    “…VUI SAO… NƯỚC MẮT LẠI TRÀO ??…”

    Hoài niệm một thoáng quá khứ chính xác và rơ như ban ngày. Tàn cuộc thế chiến đệ II, cả thế giới mừng vui giă từ vũ khí hối hả xây dựng lại quê hương, cuộc sống trong điêu tàn đổ nát, cố hàn gắn những vết thương đạn bom th́ chỉ duy nhất trên thế giới, tại Việt Nam, ông Hồ Chí Minh và các môn đồ cộng sản của ông khởi sự gây chiến tranh đẫm máu, nước mắt với chính dân tộc, đồng bào, ngay trên Tổ quốc ông, kéo dài hơn 20 năm kết thúc bằng một cái gọi là “đại thắng mùa xuân” 30/4/1975. Họ, những người CS, nhảy múa ca khúc khải hoàn trên tử thi của gần 5. 000.000 (năm triệu) địch quân “máu đỏ da vàng” nói tiếng Việt Nam cùng chủng tộc với họ trong đó có hơn 1.000. 000 (một triệu) binh sĩ trọn một thế hệ trai gái thanh niên miền Bắc đă nằm xuống… Trong khúc “khải hoàn ca” ấy toàn dân nghe câu hát “Vui sao… Nước mắt lại trào”,… và nó cứ trào ngược đến măi tận hôm nay 30/4/2012 trong cay đắng bởi lịch sử bốn ngàn năm lập quốc, một ngàn năm bị đô hộ “giặc Tàu” mạnh yếu, thắng thua có lúc nhưng khi thu hồi độc lập ông cha ta chưa bao giờ nhượng một tấc đất nào cho quân thù từ phương Bắc th́ ngần ấy máu xương và quỹ thời gian vàng ngọc của cả dân tộc những người CSVN đă mang ra đánh đổi lấy lại một đất nước nhược tiểu mà cương thổ quốc gia không c̣n lành lặn đầy đủ như xưa?

    (Theo Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh - Nguyên Đại Sứ Việt Nam tại Trung Quốc (1974-1989) th́: “Trong đàm phán biên giới, họ (Trung Quốc) ép ta làm ta mất một nửa thác Bản Giốc, dân ta cũng không được đặt chân đến Ải Nam Quan nữa. Tất cả ta mất hàng trăm km2 đất nơi này. Một tọa độ điểm cao quan trọng khác là núi Lăo Sơn, phía Việt Nam gọi là Núi Đất mà theo ông Lê Công Phụng - Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Hoa Kỳ, nguyên Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại Giao, Trưởng đoàn đàm phán của Chính phủ về biên giới, lănh thổ với Trung Quốc trả lời báo Văn Hóa ngày 23/9/2008, khi kư Hiệp Ước Biên Giới Trên Đất Liền năm 1999, CSVN đă nhượng luôn cho TQ với lư do họ đă xây công sự (nghĩa trang…) (!?) trên đó rồi? Dân ta nói đất ta dọc đường Biên Giới mất vào tay Trung Quốc một diện tích bằng khoảng “một tỉnh Thái B́nh” (1. 542 km²)

    Có điều mỉa mai, lănh thổ miền Nam do Chính phủ VNCH quản lư mà CS Bắc Việt hay gọi là “Ngụy quyền tay sai bán nước” khi họ chiếm được lại toàn vẹn lănh thổ không mất một m2 đất nào?

    Nhưng nỗi đau “Vui sao nước mắt cứ trào” là hôm nay, quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa và Biển Đông, phên dậu ngàn đời, nơi nguồn sống của cả dân tộc VN giờ th́ bị TQ xâm lược, áp bức đe dọa ngư dân triền miên mà Nhà nước và Đảng CSVN th́ bó gối ngồi nh́n? Lực bất ṭng tâm.

    Người ta nói: “Một bác sĩ dù uyên bác nhưng chỉ một sự nhầm lẫn do cực đoan hay bảo thủ trong phác đồ trị liệu có thể giết chết một hoặc vài bệnh nhân nhưng một lănh tụ nắm vận mệnh quốc gia phạm sai lầm tương tự có thể giết chết rất nhiều người, đôi khi đưa cả quốc gia vào ṿng nhược tiểu với nhiều vấn nạn theo sau”. Điều này có lẽ đúng với ông Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản của ông. T́nh trạng đối diện tranh chấp Hoàng Sa-Trường Sa và Biển Đông bằng vị thế hèn mọn như kẻ dưới ngựa của những người CSVN với TQ hôm nay là di lụy bởi một chủ nghĩa lai căng, huyễn hoặc của những kẻ ngu muội nhưng cuồng tín và độc tài trong một tầm nh́n ấu trĩ, sai lầm của phường “giá áo túi cơm” (gần đúng với lời PCT. TQ Tập Cận B́nh mới đây ám chỉ đa số quan chức CS TQ thời nay).

    Có một giả thiết (Assumption) rất khó chấp nhận với người CSVN tại thời điểm ấy nhưng đă là giả thiết th́ vẫn có % dù rất thấp của hiện thực!?: “Chúng ta cứ thử “ví dụ” điều hăn hữu đó là có thực do hồn thiêng sông núi hiển linh từ 18 đời vua Hùng mách bảo (!?) để có một giây phút mà những người CSVN chùng ḷng xót xa nghĩ tới máu xương dân tộc đẫm ướt cơ đồ…mà…”

    Sau tổng tấn công tết Mậu Thân 1968, thiệt hại nặng nề trên toàn miền Nam, hy sinh hơn 100.000 ngàn quân (tương đương 12 sư đoàn). Sang năm sau 1969, ông Hồ Chí Minh ĺa đời, những người lănh đạo CSVN chợt loé ra một vầng sáng từ chân lư của ông Hồ để lại: “Nước Việt Nam là một, dân tộc VN là một, sông có thể cạn núi có thể ṃn, song chân lư đó không bao giờ thay đổi” và đă là chân lư th́ bất di bất dịch, bây giờ chưa thống nhất được th́ năm, mười, hai mươi năm sau cũng không muộn, đất nước c̣n nghèo, nhân dân đói khổ, tạm thời dừng lại kế hoạch “giải phóng miền Nam” bằng chiến tranh, dành mọi “tầm cao trí tuệ” của Đảng làm người xiếc đi dây, lúc nghiêng bên Nga, lúc ngă bên Tàu để móc túi viện trợ Nga, Tàu mà xây dựng XHCN miền Bắc cho hùng mạnh như các “đồng chí” CS Đông Âu rồi thống nhất đất nước sau! Vẫn là chân lư và bộ Chính trị CSVN cùng đồng tâm nhất trí cao, tạm dừng cuộc chiến – Nếu ba miền dân tộc Việt có phúc đức hân hạnh được như thế, tại thời điểm đó th́ chuyện ǵ sẽ xảy ra?

    Những ǵ lớn lao thuộc phạm trù có thể hay có lẽ cho cả dân tộc không dám lạm bàn nhưng lănh thổ và nhất là Hoàng Sa – Trường Sa cùng Biển Đông không ở t́nh thế thất thoát “bi đát” và phần c̣n lại của Trường Sa phải pḥng thủ như mành treo chuông hiện nay. Bởi “Việt Cộng” không chiếm miền Nam th́ TQ không tiếp cận Khmer đỏ, có nghĩa CSVN không phải “t́nh nguyện sang Campuchia làm nghĩa vụ”!? (hy sinh đến 50.000 quân) và nếu CSVN không tràn qua Campuchia th́ TQ không “nóng mặt” để có lư do tràn qua biên giới 2 lần dạy cho VN “một bài học” th́ cột mốc dọc biên giới và Ải Nam Quan (Hữu nghị quan) không bị TQ dời đi, phía Bắc VN không mất khoảng 1.542 km² và đau đớn với hàng trăm ngàn binh sĩ và người dân không đáng phải bỏ mạng hy sinh.

    C̣n Hoàng Sa -Trường Sa vẫn nằm chắc chắn trong tay Chính phủ VNCH do QL.VNCH trấn giữ (năm 1956, Pháp bàn giao) có sự pḥng thủ hỗ tương từ đơn vị tiền phương Hải quân Mỹ tại vịnh Cam Ranh và sự yểm trợ tuần tra giám sát an ninh biển trên toàn vùng Biển Đông của Hạm đội 7 Thái B́nh Dương Mỹ, bản doanh đóng tại vịnh SuBic Phillipnes đối diện VN. Từ năm 1973, chính phủ VNCH cũng đă tổ chức 2 ṿng đấu thầu khai thác mỏ dầu ngoài khơi thềm lục địa. Nhiều công ty khai thác dầu lửa nước ngoài đă tham gia, bất chấp là t́nh h́nh an ninh chưa ổn định. Chính phủ VNCH cấp giấy phép cho sáu tổ hợp công ty dầu lửa được khai thác 13 địa điểm trong một khu vực 82.000 km² (mới chỉ là 16% của thềm lục địa). Tới tháng 10/1974, hăng Mobil (Hoa Kỳ) khoan mỏ Bạch Hổ tại lô 04-TLD, ngoài khơi Vũng Tàu t́m được dầu dưới độ sâu trên 2,7 km. Ước tính là vào cuối 1975, sẽ có ít nhất 20 giàn khoan, sản xuất một lượng dầu khả quan sắp được bắt đầu, muộn lắm là vào cuối năm 1977. (Năm 1975, các mỏ dầu này do Liên doanh Vietsopetro Việt Nam – Nga quản lư và khai thác) (Wikipedia). Và như vậy để bảo đảm quyền lợi cho nhà đầu tư Hoa Kỳ khai thác dầu trên vùng biển VN th́ hải quân Mỹ c̣n tăng cường hơn nữa để bảo vệ toàn vùng Biển Trời của Biển Đông trong chiến lược kinh tế quân sự Đông Nam và Châu Á của ḿnh mà lực lượng hải quân TQ (thập niên70-80) có muốn đương đầu cũng không thể so sánh nổi với hạm đội 7 hải quân Mỹ đang đặt bản doanh tại Phillipine trực diện tham chiến tại VN khống chế toàn Biển Đông. Có chăng hải quân TQ cũng chỉ quanh quẩn quanh đảo Hải Nam của ḿnh chứ hoàn toàn không có cơ hội tràn xuống biển Đông cướp đoạt Hoàng Sa trong tay hải quân QL.VNCH năm 1974 và lại càng không thể tiến xuống Trường Sa để ngang ngược đưa ra cái lưỡi “con ḅ điên” h́nh chữ U trên toàn vùng biển Đông như hiện nay!


    Asean và Biển Đông (Xaluan. com)


    Hoàng Sa & Trường Sa (Ảnh nguoivietquocgia)


    Quân Pháp - Việt chào cờ trên đảo Hoàng Sa. ( 1945) Ảnh chụp tại pḥng lưu trữ tư liệu Hoàng Sa, Đà Nẵng - Ảnh: V. Hùng chụp lại


    Ngọn hải đăng và lá Quốc Kỳ (tam tài) Pháp ở quần đảo Hoàng Sa 1945


    Bia chủ quyền Việt Nam trên đảo Hoàng sa thời kỳ Pháp thuộc(1945)

  6. #6
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    30/4/1975. CS Việt nam mang "Thảm Họa cho cả Dân tộc"

    30/4/1975. CS Việt nam mang "Thảm Họa cho cả Dân tộc"
    37 năm - Vui sao nước mắt vẫn trào ? P2




    Trụ sở hành chính của Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa trên quần đảo Hoàng Sa trước năm 1974


    Bia chủ quyền mang h́nh ảnh quốc kỳ chính phủ “Việt NamCộng Ḥa”
    dựng trên đảo Trường Sa trong quần đảo Trường Sa (1961


    Không ảnh đảo Hoàng Sa với cơ sở quân sự, khí tượng
    của CP “Việt NamCộng Ḥa” (chụp năm 1968)


    Trên Sân thượng toà nhà Ty khí tượng của Việt Nam Cộng Ḥa
    tại đảo Hoàng Sa (Pattle Island, Shanhu Dao) (chụp năm 1969)


    Bia chủ quyền Việt Nam Cộng Ḥa ghi: “Quần đảo Trường Sa thuộc tỉnh Phước Tuy, Phái bộ quân sự thị sát nghiên cứu đến viếng quần đảo này ngày 22 tháng 8 năm 1956 được sự hướng dẫn của Hải Quân Việt Nam”

  7. #7
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    30/4/1975. CS Việt nam mang "Thảm Họa cho cả Dân tộc"

    30/4/1975. CS Việt nam mang "Thảm Họa cho cả Dân tộc"
    37 năm - Vui sao nước mắt vẫn trào ? P3







    Đây là cột mốc chủ quyền của đảo Nam Yết - là thủ phủ của quần đảo Trường Sa, dưới sự Trấn Giữ quản lư chủ quyền của những chiến sĩ Hải quân QLVN/CH trước 1975. Bia cũng ghi một nội dung: “ Quần đảo Trường Sa thuộc tỉnh Phước Tuy, Phái bộ quân sự thị sát nghiên cứu đến viếng quần đảo này ngày 22 tháng 8 năm 1956 được sự hướng dẫn của Hải Quân Việt Nam”


    - Đây là h́nh ảnh cuối cùng của QLVNCH tại đảo Trường Sa, những hầm hào công sự pḥng thủ quân sự chuẩn bị đối phó với quân TQ sau sự kiện TQ xâm lược đảo Hoàng Sa, hiện trường để lại cho quân đội CS BắcViệt sau 30/4/1975

  8. #8
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    30/4/1975. CS Việt nam mang "Thảm Họa cho cả Dân tộc"

    30/4/1975. CS Việt nam mang "Thảm Họa cho cả Dân tộc"
    THÁNG TƯ ĐEN QUỐC HẬN -
    Nhớ Lại Đêm 29-4-1975: Đêm Dài Nhất Của Sài G̣n

    Mường Giang



    ‘Sao quên được, Tháng Tư Đen mất nước
    máu nhuộm hồng cả sóng biển xanh mơn
    xương trắng phơi khắp sông núi Trường Sơn
    người chết thảm, nơi bến tàu sân đợi

    sau quên được những phút giờ hấp hối
    trong chiến hào, giữa đồn vắng không tên
    lính tuyệt vọng, nh́n mấy trắng cô đơn
    chờ pháo bạn, ngóng phi tuần trở lại.. ’ ’

    Ôi những lời thơ nhức nhối, khiến cho người Sài G̣n và các quân, dân, cán, chính cũng như đồng bào chiến cuộc miền Trung, đă có mặt tại thủ đô trong đêm 29 rạng ngày 30-4-1975, làm sao quên được? Đây là giây phút cuối cùng của cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai (1960-1975), những ai may mắn sống sót, sẽ không thể nào quên nổi cái đêm hôm ấy là đêm ǵ, trong thân phận nhược tiểu Việt Nam, mà thời gian như dài vô tận.

    Đêm đó cả Sài G̣n-Chợ Lớn và Gia Định đều bị cúp điện. Nhưng trên trời cao, trong cái khoảnh không gian bao quanh Sài G̣n, lúc đó lại được soi sáng mờ mờ ảo ảo, bằng đủ các loại đèn của máy bay trực thăng, cho tới trưa ngày 30-4-1975 mới dứt. Sau này, dân đen Sài G̣n và những người di tản ra ngoại quốc, qua báo chí cùng tài liệu mật được Mỹ công bố, mới biết được “Đêm 29-4-1975 là thời gian cuối cùng của Hoa-Kỳ tại Nam VN“. Cũng trong đêm đó, nhờ sự bảo vệ của các đơn vị c̣n lại của QLVNCH bị bỏ rơi và bán đứng vẫn đang tử chiến với Cộng Sản đệ tam quốc tế ở dưới đất, nên siêu cường Mỹ đă an toàn rời khỏi Sài G̣n trong danh dự, bằng hằng trăm trực thăng đáp khẩn cấp, trên các mái nhà khắp đô thành, trong khuông viên cơ quan DAO và Toà Đại Sứ.

    Đêm đó cũng là giờ thứ 25 của VNCH và chính tổng thống cuối cùng là Dương Văn Minh, đă ra lệnh cho quân đội miền Nam buông súng đầu hàng, cũng như kư lệnh đuổi Mỹ ra khỏi nước. Đây là hai đề tài dai dẳng và nhức nhối của những trang cận sử tháng tư đen. Chính nó, đă gây nên cuộc bút chiến, giữa các vị khoa bảng, trí thức xôi thịt của miền Nam, trong số này có rất nhiều người từng đâm sau lưng người lính trận. Đây cũng là dịp ngàn vàng hiếm hoi, để họ được sống lại cái thuở tự do báo chí của năm nào nơi quê nhà. Bởi vậy trên diễn đàn và báo chí hải ngoại, người ta lại đánh nhau bằng bọt mép và chữ nghĩa. Tóm lại suốt thời gian rất dài, không ai chịu thua ai, người nào củng cố vận dụng tất cả văn phong, dao to búa lớn, qua cái danh giá dơm của những tờ ‘đại nhật báo‘ để muôn đời sống măi với lập trường ‘ba làng ấm ớ‘ của ḿnh. Rốt cục, nhờ ánh sáng mặt trời soi sáng gần hết những bí ẩn của cận sử, trong đó có hai vấn đề liên quan tới Dương Văn Minh. Nhờ vậy mới chấm dứt được cuộc đấu vơ mồm vô duyên, đă làm phiền ḷng cũng như tốn giấy bút và thời gian quư báu của người Việt tị nạn Cộng Sản khắp hoàn cầu

    Th́ ra, cả hai hành động ra lệnh cho QLVNCH đầu hàng cũng như đuổi Mỹ ra khỏi Sài G̣n đều không phải là quyết định của Tổng Thống Dương Văn Minh và nội các hai ngày của ông. Theo tài liệu của Hứa Hoành trong ‘Nam Kỳ Lục Tỉnh số IV ‘, th́ ông Dương Văn Minh chỉ làm theo lệnh của Cộng Sản Hà Nội. Riêng việc đuổi Mỹ, thi do Đại Sứ Martin của Hoa Kỳ nhờ phổ biến. Đọc Phạm Bá Hoa, nơi trang 235 của tuỳ bút ‘Đôi Ḍng Ghi Nhớ‘, về việc chính ông Dương Văn Minh, đă xác nhận năm 1991 tại Paris, trong bàn tiệc lúc đó có Trần Văn Đôn và Nguyễn Linh Chiểu. Chính Đại Tá Chiểu đă hỏi Dương Văn Minh, tại sao mới nhậm chức có một ngày, đă đuổi Mỹ? Tổng Thống Minh đă trả lời: ’Moa không đuổi họ, bản văn (đuổi Mỹ) được phổ biến trên đài phát thanh vào sáng sớm ngày 29-4-1975, do chính Martin viết và nhờ Moa phổ biến. Có vậy Mỹ mới có thể rút khỏi Sài G̣n trong danh dự‘.

    Như vậy, hai sự kiện quan trọng nhất của cận sử VN đă được chính những người trong cuộc, xác nhận bằng văn tự chứ không phải là miệng đời, cho nên không thể nào nói là bịa chuyện hay là v́ ghét người mà bôi bác. Sự thật lúc đó người Mỹ đă phải tam rời khỏi mảnh đất đau khổ VN, v́ nơi này không c̣n một giá trị ǵ nữa, để mà nấn níu ḥng đổi chác và lợi dụng Có điều hành động tháo chạy của Hoa Kỳ vào giờ thứ 25, thật là tàn nhẫn và lố bịch. Năm 1954, người Pháp sau khi bị quốc dân VN đánh bại tại Điện Biên Phủ, lúc đó dù đă kiệt sức. Nhưng họ vẫn cố gắng giữ thể diện bằng cách tạo hoàn cảnh để rút quân về nước trong danh dự và tự trọng. Ngoài ra vào giờ 25 trên đất Bắc, người Pháp cũng không đem con bỏ chợ khi tận lực giúp đỡ các đơn vị của Quân Đội Quốc Gia VN đang chiến đấu tại đó và hơn một triệu người Việt không muốn sống chung với Cộng Sản được di cư t́m tự do tại miền Nam. Riêng người Mỹ sau khi đă liên kết được với Trung Cộng, hoạch định thế chiến lược mới, nên phải rút khỏi VN. Để có lư do biện minh với thiên hạ, Hoa Kỳ đă ngụy tạo một hiệp định ngưng bắn giả tạo mà thực chất là đă bán đứng đồng minh của ḿnh cho kẻ thù chung năm 1973. Rồi trong giờ phút hấp hối của VNCH nhưng với nguời Mỹ lúc đó, nếu muốn có thể lật ngược thế trận một cách dễ dàng, để bắt cọng sản quốc tế phải rút về phía bên kia vỹ tuyến 17, như họ đă từng đánh đuổi cả triệu quân Trung Cộng và Bắc Hàn, trong cuộc chiến Cao Ly năm 1950.

    Nhưng than ôi ! Mỹ đả cúi mặt chịu nhục nhă, trốn chạy khỏi Nam VN trong đêm tối, bằng các trực thăng đáp khẩn trên mái nhà, qua sự bảo vệ của QLVNCH trong giờ phút hấp hối dưới đất. Tàn nhẫn hơn, đám lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ tại Ṭa Đại Sứ c̣n bắn trái khói đạn cay vào rừng người VN trước mặt, đă từng phục vụ cho họ hết ḷng, lúc đó đang cần chạy khỏi nước để cứu mạng.

    Hành động trên đă nói lên đầy đủ bản chất thật của người Mỹ: ‘Tiền trao cháo múc‘, hay đúng hơn Mỹ vào VN v́ quyền lợi của họ thế thôi.

    1 - NGƯỜI MỸ VÀO VIỆT NAM:

    Người Mỹ bắt đầu ḍm ngó thương trường VN từ thời Vua Gia Long Nhà Nguyễn. Thế chiến II (1939-1945) Mỹ lại vào Việt Nam để chống lại quân phiệt Nhật và cuối cùng là trực tiếp tham dự Đông Dương thế chiến 2 (1960-1975). Từ sau năm 1991, Liên Xô và cọng sản Đông Âu tan ră, Trung Cộng lên thay thế làm bá chủ cọng sản đệ tam quốc tế, hằng lăm le dă tâm nuốt trọn vùng Á Châu và toàn cầu. Sự biến chuyển chính trị trên khiến người Mỹ phải xét lai hay nói đúng hơn là dịp để Mỹ thực thi kế hoạch cuối cùng ‘bất chiến tự nhiên thành‘. Thế là chiến dịch ‘t́m lính Mỹ mất tích tại VN ra đời‘, để Bắc Bộ Phủ công khai cho phép Hoa Kỳ quay lại chiến trường cũ vào năm 1985 và hợp thức hóa từ ngày 3-2-1995, qua cái gọi là 'văn pḥng liên lạc Việt-Mỹ‘ mở tại Hà Nội. Tóm lại, Hoa Kỳ đă tới nước ta qua các giai đoạn:

    + MỸ ĐẾN VN T̀M THƯƠNG TRƯỜNG:

    - 1803: Một tàu buôn Mỹ tên Fame do Thuyền Trưởng Jermiar Brigo’s đến VN xin giao thương nhưng vua Gia Long không chấp thuận.

    - 1819: Hai tàu buôn Mỹ khác tên Franklin và Marmion vào cửa Cần Giờ (Vũng Tàu) và theo sông Đồng Nai vào tới Gia Định Thành, tức Sài G̣n ngày nay nhưng v́ ngôn ngữ hai nước bất đồng, nên cuối cùng hai chiếc tàu trên lại quay ra biển.

    - 1833: Một chiến hạm Mỹ tên Peacock do Hạm Trưởng Edmund Robert, được Tổng Thống Mỹ Andrew Jackson đề cử làm sứ thần đến Đại Nam giao thiệp xin mua bán. Ngày 1-1 năm đó, hai chiếc tàu trên tới hải phận Đà Nẳng nhưng v́ gặp bảo, nên không thể vào vịnh để cặp bến; do trên tàu phải chạy xuống núp băo tại Vũng Rô, Phú Yên và được tiếp xúc với chánh quyền địa phương bằng tiếng Latin, qua sự thông dịch của một một tu sĩ Thiên Chúa Gíáo. Theo Giáo Sư Ellen Hammer, một học giả về Đông Phương, th́ trong lần tiếp xúc đó, vua Minh Mạng đă chính thức cho phép người Mỹ vào VN buôn bán giao dịch nhưng không hiểu sao, hai chiếc tàu trên đă không tới Đà Nẳng, sau khi rời Vũng Rô.

    + MỸ VÀO VN ĐỂ CHỐNG NHẬT TRONG THẾ CHIẾN II (1939-1945) :

    Ngày 9-3-1945, Nhật tấn công và giải giới toàn bộ lực lượng quân đội viễn chinh của thực dân Pháp trên bán đảo Đông Dương. Sau đó quân Nhật từ Hoa Nam tràn xuống chiếm đóng Việt-Miên-Lào. Bán đảo Mă Lai, lúc đó là thuộc địa của Anh Cát Lợi, cũng rơi vào tay quân phiệt Nhật. Từ đó, khắp lănh thổ VN luôn bị quân Đông Minh oanh tạc.

    Để thâu lượm các tin túc t́nh báo cũng như tiếp xúc giải cứu các phi công Đồng Minh bị Nhật bắn hạ bắt giữ, Anh-Mỹ đă thành lập một cơ quan t́nh báo đặc biệt gọi là GBT, chuyên hoạt động trên lănh thổ VN. Nhưng cơ sở này đă bị Nhật khám phá và dẹp tan. Sau ngày 9-3-1945, khi người Nhật chính thức trở thành chủ nhân ông Đông Dương, Để tiếp tục hoạt động tại mặt trận này, cơ quan t́nh báo Hoa Kỳ đă cử một nhóm sĩ quan OSS ( tiền thân của CIA), trong đó có Trung Úy Dan Phelan, Thiếu Uư Allison Thomas.. nhảy dù xuống các căn cứ của Việt Minh tại Việt Bắc, để phối họp chống Nhật. Chính trong giai đoạn này, để mua chuộc, người Mỹ đă cho bộ đội VM rất nhiều vũ khí cá nhân cũng như cộng cộng, đồng thời huấn luyện hướng dẫn họ cách sử dụng các loại súng cối, đại bác, ném lựu đạn, đặt ḿn bẩy.. Khi Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng Minh v́ bị thả hai trái bom nguyên tử, th́ cũng chính những sĩ quan t́nh báo này, đă giúp cho lực lượng VM cướp được chính quyền trong tay người Việt Quốc Gia, tại Hà Nội ngày 3 tháng 9 năm 1945. Bởi vậy, nên khi toán sĩ quan OSS từ Côn Minh, do Đại Uư Archimedes APatti cầm đầu tới Hà Nội, đă được Hồ Chí Minh và các lănh đạo khác trong Bắc Bộ Phủ đón tiếp rất trọng thể.

    Tại Nam Kỳ cũng có một nhóm OSS gồm 17 người, do Thiếu Tá A. Perter Deway cầm đầu, theo chân quân Anh-Ấn tới đây để giải giới quân Nhật, trú đóng phía bên này vĩ tuyến 16. Nhưng toán sĩ quan t́nh báo này đă phản đối quân Anh-Ấn khi thấy họ đă công khai cho thực dân Pháp vào lại Sài G̣n để tiếp tục đàn áp và bức hại người VN. Do đó, toán sĩ quan OSS này đă bị tướng Anh Gracey trục xuất khỏi Nam Kỳ. Tuy nhiên Thiếu Tá Peter và nhiều sĩ quan OSS khác trong toán, đă bị chết thảm tại Sài G̣n do sự tấn công lầm của lực lượng VM kháng chiến tại đây.

    Ngoài ra trong thời gian tù 1945-1954, chính phủ Mỹ đả cử các viên chức thuộc Bộ Ngoại Giao Kennet London, Abbot Lowmoffat.. do James O’Sullivan làm Tổng Lănh Sự tại Hà Nội. Nhưng rồi chỉ một thời gian ngắn, khi biết được Hồ Chí Minh hoạt động cho Đệ Tam Cộng Sản Quốc Tế nên người Mỹ đă cuốn cờ bỏ chạy khỏi miền Bắc.

    + MỸ THAM DỰ CUỘC CHIẾN ĐÔNG DƯƠNG 2 (1955-1975) :

    Tháng 12-1949, Trung Cộng coi như làm chủ hoàn toàn Hoa Lục, khi Lâm Bưu b́nh định xong đảo Hải Nam và Lư Hán tại Vân Nam cũng xin đầu hàng. Ngày 18-1-1950, Liên Xô lẫn Tàu Công là nước đầu tiên công nhận chế độ cọng sản của VC tại Hà Nội. Để trả đũa, Hoa Kỳ cũng công nhận Chính Phủ Quốc Gia VN của Quốc Trưởng Bảo Đại, đồng thời tiếp tục viện trợ quân sự cho thực dân Pháp, chống lại Cộng Sản VN, qua bức b́nh phong Mặt Trận Kháng Chiến Việt Minh.

    Tháng 6-1950, Thế Chiến III bùng nổ tại bán đảo Triều Tiên, giữa phe cọng sản Trung Cộng, Bắc Cao và Lực lượng Liên Hiệp Quốc. Sau khi chiến cuộc chấm dứt, đệ tam quốc tế coi như chỉ chiếm được nửa nước Cao Ly. Để ngăn chận vết dầu loang của chủ nghĩa Mác-Lê-Mao, lan tràn tới các phần đất c̣n lại của Châu Á, nên Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Mỹ mới đẻ ra cái gọi là Thuyết Domino vào ngày 1-2-1950 (Theo tài liệu mật NSC 649 vừa được giải mă). Trong chiến lược này, VN được chọn làm quốc sách, như một tiền đồn ngăn chận làn sóng đỏ lúc đó.

    Thật sự đây chỉ là một cái cớ, mang các danh từ hào nhoáng để che đậy công cuộc mậu dịch song phương và hoà b́nh, của bọn tư bản lái súng Mỹ (gốc Do Thái), đang lảng vảng sau bức b́nh phong của Ṭa Bạch Ốc, mà bất cứ thời nào từ trước tới nay, đều không thay đổi. Tóm lại v́ lợi nhuận của bọn lái buôn và nước Mỹ, nên lúc nào cũng phải kiếm cớ để có chiến tranh khắp nơi. Như vậy Mỹ mới điều ḥa nền kinh tế tài chánh để cung ứng nhu cầu quốc gia không bị xáo trộn v́ nạn thất nghiệp. Mở rộng chiến tranh Đông Dương lúc đó, để bọn tài phiệt lái súng, tiêu thu cho hết số vũ khí tồn kho, từ thời thế chiến I và II, đồng thời có dịp bày bán các sản phẩm mới của cuộc chiến hiện đại.

    Giống như nền kinh tế thị trường hiện tại, chúng ta xài các sản phẩm mang nhiều quốc tịch khác nhau nhưng thật sự gần hết đều là của Mỹ được làm tại ngoại quốc, v́ nhân công rẻ và tránh thuế nặng. Tương tự, các sản phẩm chiến tranh thời đó, mang nhiều nhăn hiệu như Liên Xô, Trung Cộng, Do Thái, Đông Âu.. thật sự đều là hàng Mỹ chính hiệu. Chẳng hạn chiến xa T54, xe vận tải Molotova, Zill.. cứ tưởng là do Nga-Tàu chế, thật sự là hàng của các xe Ford và Christie.. Cũng nhờ chiến tranh VN, công khai gia tăng ngân sách quốc pḥng, ngoại viện và bắt dân đóng thuế thêm 10%. Song song các đại công ty Mỹ như Howard Hughes, Lockheed Aircraft, General Dinamic, General Electric.. nhờ hợp tác với Bộ Quốc Pḥng, nên hốt được nhiều tỷ đô la. Bởi tất cả viên trợ cho VNCH đều miễn thuế nhập cảng và đổi hàng thành tiền, khấu trừ vào ngân khoản viện trợ hằng năm.

    Tóm lại nhờ chiến tranh VN, cả nước Mỹ và các đồng minh ăn ké liên hệ như Nhật, Nam Hàn, Đài Loan.ăn nên làm ra. Để thu hoạch được mối lợi to lớn trên, Ṭa Bạch Ốc phải đẻ ra một cuộc chiến dai dẳng, được các nhà quân sự gọi là ‘ đánh nhau có giới hạn ‘.Cũng v́ lư do trên, mà qua cuộc chiến gần 20 năm, quân đội Mỹ tham chiến tại VN, có thể nói là chưa bao giờ được trang bị đầy đủ các phương tiện, cũng như cung ứng quân số để đạt tới chiến thắng. Rồi với lư do không được chọc giận Liên Xô-Trung Cộng, nên chính phủ Mỹ cấm quân đội Hoa Kỳ và QLVNCH không được vượt vỹ tuyến 17 để tấn công Bắc Việt. Nhờ vậy Cộng Sản Hà Nôi luôn vững tâm có một hậu phương lớn, an toàn, không bao giờ sợ phản tặc đâm sau lưng như tại miền Nam VN.

    Nên đừng lấy làm lạ khi thấy gần như suốt cuộc chiến Hoa Kỳ chỉ viện trợ cho VNCH những thứ quân dụng và vũ khí lỗi thời như súng trường Garant M1, đại bác không giật 57 ly, súng cối 60-81 ly, đại bác ṇng dài 105-155 ly.. bởi Mỹ chỉ muốn Miền Nam sống thoi thóp mà thôi. Chỉ v́ bản chất chính trị con buôn, quyền lợi ích kỷ, nên Mỹ đă t́m đủ mọi cách để biến quốc gia của kẻ khác gần như một tiền đồn của ḿnh để thử nghiệm hiệu quả của các phát minh súng-đạn. Cũng từ đó, hai miền Nam-Bắc VN đă trở thành vật tế thần, để các siêu cường của hai khối quảng cáo vũ khí chiến lược và ư thức hệ.

    Nhưng người Mỹ cũng đă tiêu phí trong cuộc chơi giỡn mặt với tử thần trên qua số tiền 165 tỷ mỹ kim, tiền xương máu đóng góp của người dân. Về quân đội Hoa Kỳ, có 58.022 người chết, 300.000 bị thương và 2500 mất tích. Riêng VN cả hai miền Nam-Bắc chết 1,9 triệu người và 4,5 triệu người khác bị thương. Cả nước từ biên giới Hoa-Việt tới Cà Mâu-Hà Tiên, trên núi dưới biển, nông thôn cũng như thành thị, nơi nào cũng bị bom đạn của ngoại quốc, do chính người VN hai miền đem về tàn phá tận tuyệt, năo nùng.

    Để được đem quân vào VN, người Mỹ đă đồng mưu với các tướng lănh bản địa “giết chết một tổng thống“. Để có lư do chính đáng được người dân và quốc hội Hoa Kỳ tán trợ, chính phủ Mỷ đưa ra chiến lược hào nhoáng là ‘vào Nam VN để giúp ngăn chận sự xâm lược của Cộng Sản miền Bắc‘. Do đó ngày 7-3-1965, theo lệnh của Tổng Thống Johnson, một sư đoàn TQLC Mỹ gồm 3500 người, đầu tiên đă đến Đà Nẳng và cứ thế tới cuối năm 1967, quân số Hoa Kỳ tham chiến tại Nam VN đă hơn nửa triệu người.

    Trong suốt cuộc chiến Đông Dương lần thứ 2 này, có một sự kiện đặc biệt nhất : “Đó là việc hiện diện đông đảo của bọn kư giả, nhà báo, cơ quan truyền thông..” những đỉnh cao của nền văn minh duy lư da trắng. Nhưng cũng chính bọn này đă táng tận lương tâm của con người, đảo lộn trắng đen, nói càng viết bậy, để hướng dẫn dư luận thế giới trong đó có Mỹ, nhất là vụ VC tổng công kích VNCH vào dịp Tết Mậu Thân 1968. Rơ ràng nhất là lúc đó, Bắc Việt gần như nướng sạch cán binh, bộ đội khắp các chiến trường, kể cả tại Huế và Toà Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài G̣n; thế nhưng chỉ v́ những cái lưỡi tắc kè thay da đổi tiếng, nên VC tuy thua ở Nam VN nhưng lại chiến thắng trong màn ảnh truyền h́nh khắp các thủ đô Ba Lê, Luân Đôn, Hoa Thịnh Đón..

    Cũng từ đó, nhân dân Mỹ đă bắt đầu phản đối chiến tranh và đ̣i rút quân về nước. Nhưng lư do chính cũng vẫn là nền kinh tế, tài chính Mỹ đang có dấu hiệu suy thoái. Sự kiện này đả thực sự bộc phát mạnh vào năm 1971, làm Mỹ phải hai lần phá giá đồng đô la nhưng vẫn không thể nào cứu văn kịp. Đây cũng là dịp để cho bọn tư bản lái súng có cớ chuyển tiền bạc công ty ra ngoại quốc đầu tư, làm cho nạn thất nghiệp càng thêm trầm trọng.

    Đây là cơ hội ngàn năm một thuở để bọn điệp viên Liên Xô, Trung Cộng, Việt Cộng.. phối hợp với bọn tư bản Mỹ phản chiến, châm ng̣i cho cuộc bạo động khắp nước Mỹ, đ̣i rút quân về nước. Phong trào trên lan nhanh, từ California, Massachussetts, Newyork.. tới thủ đô Hoa Thịnh Đốn Tưới thêm xăng vào lửa, là bọn đại tài phiệt Do Thái, những siêu quyền lực cầm trịch trong guồng máy lănh đạo Ṭa Bạch Ốc, cũng gây áp lực, bắt chấm dứt chiến tranh VN, để dồn hết ngân sách ngọai viện dành cho Irael tại Trung Đông. Chính tên ngoại trưởng kiêm cố vấn an ninh quốc gia cho TT. Nixon là Henry Kissinger, người Mỹ gốc Do Thái, đă nhúng tay vào tất cả các âm mưu, trong việc ngụy tạo một hiệp ước ngưng bắn giả mạo vào năm 1973 để bán đứng VNCH cho khối Cộng Sản quốc tế, đổi lấy quyền lợi cho Do Thái tại Trung Đông.

    Hậu quả của phong trào phản chiến trên, khiến cho giới dân cử Mỹ v́ muốn kiếm phiếu trong lần sau, nên phải mị dân bằng cách ban hành nhiều đạo luật quái gở, hầu hết đều làm lợi cho cọng sản mà điển h́nh nhất là “War Power Art “ kư năm 1973, gần như trói tay tống thống và hành pháp Mỹ. V́ vậy cọng sản Bắc Việt đă công khai xé bỏ bản hiệp ước vừa mới kư tại Ba Lê chưa ráo mực, xua quân cưỡng chiếm miền Nam.

    Tháng 5-1975, Henry Winston, chủ tịch đảng cọng sản Mỹ đến thăm Hà Nội, đă công khai tuyên bố :’ chiến thắng của CSVN cũng là chiến thắng của đảng CS.Hoa Kỳ ‘.C̣n chủ tịch bù nh́n của Mặt Trận Ma-Nguyễn Hữu Thọ tại Mạc Tư Khoa th́ nói :’ chiến thắng của Bắc Việt là do công lao của Mỹ, đă viện trợ chính trị và cổ vơ cho họ ‘.Nhưng mai mỉa và nhức nhối tận cùng là lời của Lê Đức Thọ :’ Năm 1954 CSVN thắng Pháp tại Ba Lê , c̣n năm 1975 CSVN lại thắng VNCH tại Hoa Thịnh Đố

    2 - MỸ BỎ VIỆT NAM :

    Mỹ tới VN chỉ lợi ích và chiến lược. Bởi vậy sau khi đă bắt tay được Trung Cộng vào ngày 21-2-1972, song song với việc đă chế tạo thành công tàu ngầm nguyên tử cùng hỏa tiễn liên lục địa Polaris, th́ cái ư nghĩa sử dụng Nam Việt Nam, để làm tiền đồn ngăn chận làn sóng đó đả không c̣n tồn tại. Thêm vào đó là sự ngu xuẩn của Kissiger khi quá tin vào lời hứa cuội của Liên Xô tại hội nghị ḥa hoăn Helsinki-Phần Lan, là sẽ kềm chế VC. Bởi vậy để thưởng cộng trước, chính phủ Mỹ qua đề nghị của Kissinger, cho Liên Xô được hưởng ưu tiên tối huệ quốc.

    Cũng v́ vậy nên từ đó, lúc nào cặp Nixon-Kissiger cũng coi VNCH như là một thuộc địa của ḿnh không hơn không kém. Ngoài việc nhiều lần làm mất mặt chính quyền miền Nam trên trường quốc tế, Mỹ cón sử dụng viện trợ như là một thứ áp lực gông cùm, bắt ép một quốc gia đang có chủ quyền, dân chúng và lănh thổ, phải ngồi chung trong bàn hội nghị với công cụ của cọng sản Bắc Việt, qua danh xưng MTGPMN, mà Mỹ đă biết rất rơ ràng. Cuối cùng, cũng dùng viện trợ bắt buộc VNCH phải kư hiệp định ngưng bắn vào năm 1973, trong đó Mỹ công nhận MTGPMN như một chính quyền thứ hai củng như cho bộ đội Bắc Việt ở lại miền Nam, làm cho QLVNCH phải bó tay, để cho cọng sản đệ tam tiếp tục tấn công cưỡng chiếm miền Nam.

    Sau ngày 30-4-1975, Tướng Alexander Haig, một cựu bộ trưởng thời TT.Nixon đă viết: ’Chúng tôi gạt Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu kư vào bản hiệp ước ngưng bắn năm 1973 tai Ba Lê bằng cách gởi nhiều bức thơ viết tay của Nixon. Theo nội dung những bức thơ đó, th́ Nixon nhân danh nước Mỹ, cam kết sẽ sử dụng quân đội và pháo đài bay B52 trở lại trên chiến trường nếu Bắc Việt tiếp tục xâm lăng VNCH. Ngoài ra Nixon c̣n to miệng hứa là sẽ tiếp tục quân viện cho miền Nam, trên nguyên tắc mà hai nước đă kư kết từ trước ‘1 đổi 1‘. Nhưng than ôi tất cả chỉ là sự lừa bịp của một siêu cường đang lănh đạo khối tự do lúc đó, với một đồng minh từng sánh vai sống chết với ḿnh, trong lúc đang hấp hối v́ thù trong giặc ngoài. Cho nên Mỹ đă phủi tay khi đem được tù binh về nước, giúp TT Nixon đắc cử thêm một nhiệm kỳ (1971-1975).

    Bởi vậy vào ngày 21-1-1973, tại Ba Lê trong khi các nguyên thủ trên thế giới liên hệ đang nổ rượu Champagne nói là để ăn mừng v́ ḥa b́nh tại VN. Khôi hài hơn hết, là sự việc hai tên đại bịp Kissinger và Lê Đức Tho được cái gọi là Uỷ Ban Giải Nobel Ḥa B́nh tại Na Uy, phát giải thưởng. Th́ cũng lúc đó, Cộng Sản Bắc Việt đă xử dụng chính bộ đội mà Mỹ cho phép ở lại tại lănh thổ Nam VN, tấn công đồng loạt các cứ điểm VNCH tại Cửa Việt (Quảng Trị), Kon Tum, Kiến Tường.. Nhưng quan trọng hơn hết là tại Sa Huỳnh (Quảng Ngăi), B́nh Thuận và Trại Biệt Động Quân Biên Pḥng Tống Lê Chân (B́nh Long)..

    Tiếp theo khi biết chắc Mỹ đă phủi tay thật sự không bao giờ can thiệp vào chiến tranh VN, nên tháng 12-1974 Bắc Việt xua đại quân tấn chiếm quận Thường Đức (Quảng Nam), Phước Long, Ban Mê Thuột và toàn thể miền Nam vào ngày 30-4-1975.

    3- MỸ CHẠY KHỎI VN TRONG ĐÊM TỐI, TRÊN MÁI NHÀ :

    Từ khi có ư định phủi tay bỏ Nam VN, nên cuối năm 1974 ṭa đại sứ Mỹ tại Sài G̣n, đă bắt đầu lập bản dự thảo kế hoạch rút số viên chức c̣n lại, cũng như di tản những thành phần bản xứ có liên hệ với họ. Đó là chiến dịch ‘ Talon Vice ‘, sau được đổi thành ‘ Frequent Wind ‘.Theo sử liệu bật mí mới đây, sở dĩ kế hoạch trên vào phút chót trở thành ‘ đầu gà đít vịt ‘, là do sự bất đồng ư kiến giữa đại sứ Mỹ Martin và phái bộ quân sự Hoa Kỳ (Dao). Nhưng đây cũng chỉ là cái cớ, để phần nào làm nhẹ bớt tội tắc trách của ông đại sứ. Cũng theo tài liệu, sự thất bại c̣n có rất nhiều lư do khác, chẳng hạn do tướng Smith trưởng cơ quan Dao, đă tiết lộ kế hoạch chạy của Mỹ, trong bữa tiệc do Tổng Cục Tiếp Vận tổ chức trong đêm giáng sinh 24-12-1974.

    Tin này lập tức được loan truyền rộng rải, nên thay v́ Mỹ di tản các thành phần quan trọng có nguy hai tới tánh mạng khi VC vào, lại chỉ vớt toàn bọn nhà giàu, Tàu Chợ-Lớn, me Mẽo, bọn c̣ mồi phá thối chính quyền VNCH. và đặc biệt là bọn tướng-tá ăn không ngồi chơi xơi nước tại các cơ quan đầu năo trung ương về quân sự cũng như hành chánh. Bọn này đa số đều giàu có về tiền bạc cũng như quyền thế và phe cánh Mỹ, nên ra đi ngoài gia đ́nh nội ngoại ba đời, c̣n có cả con sen thằng ở. Sau rốt là do đại sứ Martin tới giờ phút chót, vẫn c̣n ngu xuẩn cả tin vào sự hẹn hứa của Bắc Việt, nên nuôi ảo vọng thương thuyết, khi chấp nhận điều kiện ‘ đổi ngựa ‘ hết Nguyễn Văn Thiệu, tới Trần Văn Hương và cuối cùng là Dương Văn Minh. Nhưng kết cuộc, Mỹ đă bị VC bịp xă láng, nên đă phải bỏ chạy nhục nhă trong đêm tối 29-4-1975, khắp các mái nhà Sài G̣n, đến nỗi quên cả cuốn và vác cờ theo. Thật là một tṛ hề vô cùng sĩ nhục của siêu cường Hoa Kỳ, lănh tụ của phe thế giới tự do.

    Theo bản dự thảo ban đầu, chiến dịch di tản gồm có bốn giải pháp, tùy theo hoàn cảnh để thi hành như 1- Dùng hàng không dân sự để di tản người tại phi trường Tân Sơn Nhất. 2- Sử dụng các vận tải cơ C123,130 và C5 để bốc người tại Sài G̣n cũng như các tỉnh lân cận. 3- Sử dụng các loại thương thuyền có sẵn tại bến Bạch Đằng. 4- Dùng trực thăng bốc người từ Sài G̣n, đưa ra các chiến hạm.

    Sau khi quân đoàn I và II tan ră ngày 1-4-1975, cơ quan Dao đă cho thành lập một cơ quan điều hợp di tàn, gọi tắt là DCC tại Tân Sơn Nhất và giải pháp (4) dùng trực thăng bốc người được chọn, nếu phi trường Tân Sơn Nhất bất khiển dụng.

    Ngày 3-4-1975, DAO lại thành lập thêm Toán Thiết Kế đặc biệt, có nhiệm vụ thanh lọc, để xác nhận tổng số người VN cần di tản và tới ngày 7-4-1975, có 70.000 người được lên danh sách. Ngay sau đó, Dao đă tổ chức một đoàn xe Bus, chuyên chở họ từ tư gia vào phi trường TSN. V́ hầu hết sân thượng tại Sài-G̣n, Chợ-Lớn và Gia-Địng, không đủ tiêu chuẩn để cho các loại trực thăng H46 và H53 đáp, nên Dao phải trưng dụng tất cả các trực thăng nhỏ của hăng Air American do CIA thuê mướn, bốc người khắp nơi về Dao, sau đó trực thăng lớn mới chở ho ra chiến hạm.

  9. #9
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    30/4/1975. CS Việt nam mang "Thảm Họa cho cả Dân tộc"

    30/4/1975. CS Việt nam mang "Thảm Họa cho cả Dân tộc"
    THÁNG TƯ ĐEN QUỐC HẬN -
    Nhớ Lại Đêm 29-4-1975: Đêm Dài Nhất Của Sài G̣n

    Mường Giang
    P2


    Ngày 9-4-1975, Bắc Việt xua đại quân tấn công Xuân Lộc. Cơn phẫn nộ của QLVNCH và dân chúng được bộc phát tại đây. Sư Đoàn 18 BB, Lữ Đoàn 1 Dù, Thiết đoàn 5 kỵ binh, Biệt Động Quân, Địa Phương Quân + Nghĩa Quân Long Khánh, chẳng những đă chận đứng cộng quân tại chiến trường mà c̣n tiệu diệt cả vạn quân xâm lăng phương bắc, khiến cho Hà Nội lại la làng là Mỹ bội tín đem bom nguyên tử vào thả tại V

    Do t́nh h́nh chiến trường biến động khắp nơi báo hiệu nguy cơ miền Nam sắp mất, nên Dao đă mướn nhà thầu sửa chữa các sân thượng tại đây, đồng thời yêu cầu toà đại sứ cho đốn cây cổ thụ trước sân, để làm băi đáp khi hữu sự nhưng đă bị Martin phản đối và bác bỏ.

    Ngày 16-4-1975 tướng Home Smith, chỉ huy trưởng Dao, ra lệnh đóng cửa các PX, đồng thời bắt buộc các quân nhân không cần thiết và tất cả nhân viên dân chính cùng gia đ́nh, đều phải hồi hương.

    Ngày 24-4-1975 thời TYổng Thống Trần văn Hương, do t́nh h́nh chiến sự bùng nổ dữ dội lhắp nơi, nên đại sứ Martin mới cho thi hành giải pháp (3) trong chiến dịch Frequeent Wind, sử dụng tất cả các thương thuyền trống, sau khi đă giở hàng để di tản. Trong lúc đó, v́ tuân thủ theo lệnh của chính phủ VNCH, nên hầu hết các máy bay quân sự của Mỹ khi rời Sài G̣n đều trống không, dù có rất nhiều người đang sắp hàng ngày lại ngày, để chờ phương tiện xuất ngoại.

    Ngoài việc di tản quân nhân, viên chức ṭa đại sứ rời VN, ngày 4-4-1975, Dao lại cho thực hiện chiến dịch ‘Baby Lift‘, di tản 250 em mồ côi VN tại các cô nhi viện sang Hoa Kỳ, bằng vận tải cơ khổng lồ C5A-Galaxy. Tháp tùng trong chuyến đi này, c̣n có 37 nữ thơ kư và phân tách viên của Dao, với nhiệm vụ giúp đỡ và săn sóc các em trong suốt cuộc hành tŕnh. Nhưng than ôi công tác đầy nhân đạo này, đă bị bàn tay bí mật nào đó phá vỡ ngay. Bởi vậy máy bay vừa mới cất cánh, th́ đă rớt xuống ngay tại đầu phi đạo tan tành. Rốt cục chỉ c̣n sống sót 175 người. Tới nay sự việc trên vẫn chưa được soi sáng , nên đâu biết ai là thủ phạm đă gây nên tai nạn thương tâm cho các em bé mồ côi khốn khổ trên.

    Tại Subic Bay-Phi Luật Tân ngày 17-4-1975, lực lượng đặc nhiệm 76 của Hải Quân Hoa Kỳ vừa mới cặp bến để tu bổ và sửa chữa tàu bè, sau một thời gian dài đă tham dự cuộc hành quân Eagle tại Ấn Độ Dương, th́ lại nhận được lệnh rời bến tới chờ lệnh tại Đông Hải, ngoài hải phận Nam VN.

    Những ngày cuối cùng của tháng 4-1975, t́nh h́nh chiến sự tại miền Nam vô cùng sôi động. Khắp nơi, những đơn vị c̣n lại của QLVNCH gồm sư đoàn Dù, sư đoàn TQLC, các Liên Đoàn Kỵ Binh, Pháo Binh, Lực Lượng III Xung Kích, Sư đoàn 18, 5, 25, 22, các Sinh viên sĩ quan Trường Vơ Bị Quốc Gia Đà Lạt, Chiến Tranh Chính Trị, Thủ Đức, Học Viện Sĩ Quan Cảnh sát, khóa sinh HSQ-Binh sĩ quân dịch các Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp, Quang Trung, lực lượng Địa Phương Quân-Nghĩa Quân, Trung Đoàn B́nh Thuận, Cảnh Sát Dă Chiến, Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn cả Nhân Dân Tự Vệ.. phối hợp với Không Quân, Hải Quân và Quân Đoàn IV, gần như tử chiến với mấy trăm ngàn cán binh-bộ đội Cộng Sản Bắc Việt, từng giây phút, suốt đêm ngày.. trong nổi đoạn trường máu lệ. Tất cả đă lấy xương thịt và thân xác, thay súng đạn ngăn chận xe tăng, đại pháo và biển giặc.. v́ người Mỹ đă cúp hết quân viện từ ngày 25-4-1975.

    Đêm 28-4-1975 Nguyễn Thành Trung hay Đinh Thành Trung (con rớt của một cán bộ tập kết ở Bến Tre) nằm vùng trong Không Quân VNCH, thi hành theo lệnh của Văn Tiến Dũng, tổng tham mưu trưởng quân đội VC, lái A37 dội bom phi trường Tân Sơn Nhất. Theo Lê văn Trí, tư lệnh KQ Cộng Sản miền Bắc th́ VC đă dùng các máy bay của QLVNCH đă bỏ lại tại các phi trường Đà Nẳng, Phù Cát để oanh tạc Sài G̣n. Sáng 28-4-1975, sáu chiếc A37 được chuyển vào sân bay Thanh Sơn (Phan Rang) do Trung làm phi đội trưởng, hợp với các phi công Bắc Việt gồm Từ Để, Nguyễn văn Lục, Hoàng Mai Vượng, Hàn Văn Quảng và một tên phi công phản tặc khác của VNCH là Trần Văn On. V́ các máy bay trên không mở đèn, hơn nửa lực lượng pḥng vệ ở dưới đất tưởng là bạn nên chúng mới toàn mạng. Vụ oanh tạc trên đă làm hư hại 3 chiếc Hỏa Long AC119, vài chiếc C47 nhưng quan trọng nhất là đă tạo t́nh trạng hỗn loạn tại phi trường đang có nhiều người đợi máy bay di tản. Ngoài ra c̣n có nhiều đoạn phi đạo bị bom và đạn pháo kích làm hư hỏng, không c̣n sử dụng được. Trước t́nh trạng hỗn loạn này, tướng Smith ra lệnh giới nghiêm Dao 24/24, trong khi đó tại ṭa đại sứ Matin vẫn bất động.

    Sau này qua các tài liệu báo chí, đọc được nhiều chuyện vui cười ra nước mắt, liên quan tới sự người Mỹ tiếp tục quân viện cho VNCH, theo tinh thần hiệp định Ba Lê 1975 và những lời hứa của Nixon, từ các tho riêng viết tay. Thật sự để có lư do hạ cánh những vận tải cơ khổng lồ C5, người Mỹ giả bộ chở tới một vài khẩu súng đại bác 105 ly thời Thế chiến 1, ít trăm bộ nón sắt cháo ḷng không giống ai. Tàn nhẫn nhất trong số những thứ rác phế thải này, có nhiều thùng băng cá nhân đă xử dụng. Biết Hoa Kỳ đă tận tuyệt rồi nhưng chính phủ VNCH vẫn giả đ̣ tương kế tựu kế, họp báo đăng tin, để phần nào giữ lại chút niềm tin cho người lính đang xả thân nơi chiến trường, trong giờ thứ 25 đối mặt với thù trong giặc ngoài. Riêng Mỹ th́ mục đích đến là để chuyển tải tất cả hồ sơ mật và những vật dụng máy móc điện tử quư giá về nước.

    Lạ lùng nhất là lúc 3 giờ sáng ngày 29-4-1975, tại Dao có 3 chiếc vận tải cơ C130, thường trực chuyển người ra chiếm hạm. Nhưng không biết v́ lẽ ǵ, lại chở từ biển vào Sài G̣n ba quả bom con heo tiểu nguyên tử (Blue 82 Daisy Cutter), loại bom 15.000 Lbs, mà QLVNCH đă sử dụng tại mặt trận Xuân Lộc-Long Khánh vừa qua. Khôi hài hơn là trong lúc các chuyên viên Mỹ-Việt đang h́ hục tháo gỡ đem bom vào kho, th́ một phi công Hoa Kỳ lại bạch thoại trên vô tuyến, khiến cho CS Bắc Việt bắt được tần số và nă ngay hỏa tiễn 122 ly vào phi trường, làm cháy một vận tải cơ C130 đang bốc người. Thế là Dao chấm dứt kế hoạch di tản bằng máy bay lớn ra hạm, v́ phi trường đă bất khiển dụng.

    Trong lúc những lănh đạo của Miền Nam “đang trầm kha trong ảo vọng thương thuyết ḥa hợp để kết thúc cuộc chiến“, th́ đúng nửa đêm 29-4-1975 cũng là giờ mà cọng sản đệ tam quốc tế Hà Nội, chọn là giờ ‘ G’ ngày ‘ N’ tổng tấn công dứt điểm VNCH. Sài G̣n đă rối loạn v́ hơn mấy chục sư đoàn cọng sản Bắc Việt đă áp sát thủ đô. Một số đại pháo được tập trung nă vào các khu vực đông dân cư trong nội thành. Phần khác là do đám quan quyền, ngày thường ngồi trên ăn đủ, cùng với bọn nhà giàu, me Mẽo.. tới tấp ra đi, khiến cho ḷng người càng thêm tơi tả. Tuy rằng trung ương không c̣n đại bàng nhưng khắp bốn hướng, Quân Lực VNCH vẫn chiến đấu dũng mănh, gần như lấy máu xương của chính ḿnh để ngăn cản bước tiến của giặc. Lữ Đoàn 4 Nhảy Dù, Sư Đoàn TQLC, Sư Đoàn 18 BB, Lực Lượng III Xung Kích, Liên Đoàn 4 Biệt Động Quân, Sư Đoàn 22 BB, Giang Đoàn 54 Tuần Thám, Lực Lượng Địa Phương Quân + Nghĩa Quân.. và đặc biệt là Chiến Đoàn 3 thuộc Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, từ ngày 26-4-1975, đă được lệnh về bảo vệ Bộ Tổng Tham Mưu.

    Nhưng giữa lúc người lính bộ binh đang lội trong biển máu thù, th́ trên trời gần hết những phi công anh hùng của QLVNCH đă ngoảnh mặt phủi tay ra đi không trở lại, hoặc bay về đất Thái hay hướng thẳng biển đông. Khiến cho phi trường Tân Sơn Nhất thêm hiu quạnh thảm thê với xác người nằm bất động, lẫn lộn với quân trang quân dụng, cơ phận máy bay, vũ khí và những lính quèn hèn mọn, giờ phút cuối vẫn ở lại tử thủ với phi trường.

    Nhưng không phải ai cũng tham sống sợ chết, chỉ muốn hưởng vinh hoa phú quư mà người Mỹ hứa hẹn. Vẫn c̣n vài chiếc Hoả Long AC119 K, cùng vớo hai khu trục A1 Skyraider, đă không ngừng lên xuống, nă đạn pháo, thả hỏa châu, soi sáng giúp quân bạn đang chiến đấu dưới đất. Anh hùng nhất là Trung Úy Phi Công Nguyễn Văn Thành, xuất thân từ Thiếu Sinh Quân. Ông đă lái AC119 bắn phá những vị trí pháo của VC quanh phi trường, nhờ vậy nhiều người trong số này có tướng Nguyễn Cao Kỳ, cựu tư lệnh KQ, cựu chủ tịch ủy ban hành pháp trung ương, cựu phó tổng thống VNCH.. mới bay được trực thăng riêng từ tư gia ở Tân Sơn Nhất, ra chiến hạm đi Mỹ. Thương thay người hiền không bao giờ sống lâu, nên Trung Uư Thành đă găy cánh vào lúc 6 giờ 46 phút, rạng sáng ngày 29-4-1975, khi chíếc hỏa long của ông bị một hỏa tiễn tầm nhiệt SA7 chém đứt cánh may bay và bốc cháy trên bầu trời

    9 giờ 30 sáng ngày 29-4-1975, Sài G̣n đă hỗn loạn khắp nơi. Do trên tướng Smith yêu cầu đại sứ Martin cho thi hành giải pháp ‘ 4’ trong chiến dịch di tản nhưng đă bị từ chối. Nguyên do v́ đại sứ Mỹ lúc đó vẫn c̣n ngây thơ tin rằng “ tổng thống VNCH Dương văn Minh có khả năng hoà hợp, ḥa giải với VC “ để văn hồi ḥa b́nh cho VN. Cùng ngày, từ thủ đô Hoa Thịnh Đốn, Kissinger đă gọi điện khẩn cấp sang Sài G̣n, ra lệnh cho đại sứ Martin phải di tản gấp. Từ đó, Martin mới cho lệnh đốn cây đa cổ thụ trước sân toà đại sứ vào lúc 11 giờ 01 phút, để làm băi đáp cho trực thăng. Đây cũng là thời gian, Martin gơi ư “ nhờ TT. Dương văn Minh giả bộ đuổi Mỹ trên đài phát thanh Sài G̣n “. Có như vậy siêu cường Hoa Kỳ mới chạy khỏi VN trong danh dự, đồng thời giúp TT Minh có chính nghĩa.

    Nhờ bài bản xuất sắc, diễn viên ăn khớp, Martin đă cứu nước Mỹ phần nào bớt mất mặt trước đồng minh thuộc phe thế giới tự do, cũng như kẻ thù Liên Xô-Trung Cộng. Nhưng đồng thời Martin chính là người đă phá hỏng kế hoạch di tản, v́ lúc chịu thi hành th́ trời đă tối nên các tài xế xe bus đều nghĩ việc, khiến cho nhiều người có tên trong danh sách di tản không được đón. Để cứu văn t́nh thế nguy cấp tồi tệ trên, tướng Smith đă cho các loại trực thăng nhỏ của hăng Air American đi bốc người thế xe bus.. nhưng đă quá trễ.

    Ba mươi bảy năm về trước, người Sài G̣n làm sao quên được cảnh tượng hai ngày 29 và 30-4-1975, nếu có dịp đi ngang qua ṭa đại sứ Hoa kỳ, kế toà đại sứ Pháp và nhà thờ Tin Lành, nằm trong chu vi các đường Hồng Thập Tự, Hai Bà Trưng và đại lộ Thống Nhất. Có thể gọi được là một biển người, đă tụ tập trước hai cánh cổng sắt vô tri của ṭa đại sứ. Lúc đó người nào giơ hai tay lên cao, trong đó ngoài các giấy tờ c̣n có những nắm đô la dầy cộm, với những tiếng gào thét, van nài nghe thật là bi thiết năo nuột, trước những cặp mắt gần như lạc thần lạnh lẽo của lính thủy quân lục chiến Mỹ. Ai cũng lăm lăm tay súng có gắn lưỡi lê, làm như đang lăm le sẵn sàng phanh thây xé xác bất cứ ai, muốn xé rào vượt cổng.

    Cùng lúc quang cảnh phía bên trong khuông viên của ṭa đại sứ cũng đâu có khác ǵ bên ngoài. Sóng người đang đùn ép, xô lấn, cấu xé với nhau để tới cho được chân tường, dẫn vào cầu thang lên sân thượng, nơi đoàn trực thăng dùng làm băi đáp lên xuống, để bốc người ra chiến hạm. Màn đêm lúc đó như được Thượng Đế ban thêm ân huệ, nên cứ kéo dài hơn, để cho những kẻ chờ đợi nuôi chút hy vọng mỏng manh trong cơn tuyệt vọng. Tóm lại đến giờ phút hỗn loạn đó, th́ không ai c̣n cần chú ư làm ǵ tới danh sách nửa. Bốc người tại chỗ, có nghĩa là ai mạnh chen được tới trước th́ đi, khiến cho hằng vạn người từng giúp Mỹ rất đắc lực như thơ kư, thông dịch viên, nhân viên t́nh báo, cảnh sát ch́m.. cứ ngóng cổ chờ di tản, rốt cục sáng ra mới biết Mỹ đă đi hết rồi.

    Để thi hành chiến dịch di tản bằng trực thăng, tướng tư lệnh Thủy Quân Lục Chiến Mỹ là Carey từ chiến hạm bay vào ṭa đại sứ lúc 13 giờ 15 ‘ chiều 29-4-1975 và hạ cánh tại Dao. Cùng lúc có một Toán Không Lưu do thiếu tá KQ Dave Cox chỉ huy. Họ dọn dẹp sân thượng và chỉ dẫn đoàn trực thăng từ biển vào bốc người. Trong lúc đó súng cối và đại bác của VC quanh Sài G̣n nổ tới tắp.

    15 giờ 06 phút chiều 29-4-1975, một đoàn 12 chiếc trực thăng Mỹ, chở TQLC do trung tá J.L Bowltan chỉ huy, thuộc Lực Lượng Đặc Nhiệm 76 tới bố trí quanh Dao để giữ an ninh. Đoàn trực thăng lên xuống bốc người không ngớt, mỗi chiếc chở một lần từ 50-60 người.

    Nhưng cuộc di tản đă gặp trở ngại v́ băi đáp trực thăng trúng đạn pháo kích của VC bốc cháy. Trong lúc sự liên lạc giữa toán không lưu và các phi công cũng bi trục trặc v́ máy truyền tin bị hỏng, c̣n trung tâm tiếp vận đài tại Sài G̣n hoàn toàn tê liệt.

    Những giờ phút cuối, để giải quyết số người c̣n ứ đọng, Mỹ phải dùng các loại trực thăng lớn CH6 và H53 đáp ngay tại băi đậu xe trước ṭa đại sứ. Song song với trực thăng Mỹ, trực thăng của KQ/VNCH cũng bốc người ra đi từng đoàn. Thành phố đă bị cúp điện hoàn toàn từ 6 giờ 30 tố́ 29-4-1975. Khắp nơi trời đất tối thui, dân đen th́ run rẩy núp kín trong nhà để giữ mạng, phần lính tráng c̣n lại, từ quan tới thuộc cấp, ai củng cố chóng con mắt chờ sáng trong các giao thông hào, đợi phép lạ mà tổng thống Dương văn Minh đă hứa là sẽ tới vào sáng ngày 30-4-1975.

    Sài G̣n đă chết từ đó, chỉ c̣n có tiếng quạt của các loại trực thăng gầm hét đinh tai điếc óc nơi khoảng không gian mà Mỹ c̣n làm chủ, nhờ sự bảo vệ của QL/VNCH trong giờ thứ 25 dưới đất. Đây cũng là những lời thóa mạ cuối cùng của người Mỹ trước khi về nước, để lại ngh́n đời trên xác chết chưa chôn của miền Nam VN trong thế kỷ XX.

    Cũng lúc đó, nơi các nẻo đường vắng ngắt dẫn về thương cảng, bến tàu Sài G̣n, từng chặp từng chặp lai xao động bởi tiếng máy nổ ṛn của đủ loại xe dân, lính.. xen lẫn đâu đó là các tràng súng ngắn. Lúc này bọn sĩ quan đào ngủ, bọn nhà giàu bất lương, bọn văn nghệ sĩ cà chớn một thời phá nát miền Nam.. cũng ôm đầu chạy trối chết, tới các bến tàu, để t́m đường vượt thoát cọng sản, trên các chiến hạm Hải quân và Thương thuyền đang hối hả nhổ neo ra khơi. Súng nổ, đạn cối rơi, hỏa tiễn xuyên phá, tiếng trực thăng gào thét.. như những giọt nước mắt trước cơn mưa thống hận VN, ba mươi bảy năm qua cũng vẫn là những h́nh ảnh và âm thanh , mà người Sài G̣n đă cảm nhận trước vài giờ, khi toàn thể non sông Hồng Lạc bị đắm ch́m trong vũng bùn ô uế của xă nghĩa thiên đàng.

    Đúng 9 giờ tối đêm 29-1-975 cuộc di tản tại Dao kết thúc. Người Mỹ vội cho thiêu hủy toàn bộ những ǵ c̣n lại trong toà nhà này, mà một thời được coi như một ṭa tiểu bạch ốc ở phương đông. Chiếc trực thăng cuối cùng cất cánh lúc 12 giờ đêm, bỏ lại đằng sau ṭa nhà trong biển lửa.

    Riêng tại ṭa đại sứ Mỹ, sự di tản đă gặp rất nhiều khó khăn v́ đèn không đủ soi sáng hiện trường, c̣n băi đáp th́ quá nhỏ không thích hợp cho các loại trực thăng lớn, Tuy nhiên việc bốc người vẫn được tiếp tục, từ 11 giờ đêm 29-4-1975 cho tới 3 giờ sáng ngày 30-4-1975. Sự liên lạc bằng vô tuyến giữa Sài G̣n và Hoa thịnh Đốn cũng chấm dứt lúc 1 giờ 06 phút, khi trạm liên lạc vệ tinh tại Dao đă bị phá hủy. Để nối liên lạc giữa Mỹ và toà đại sứ, Không quân Hoa Kỳ phải thiết lập một trạm liên viễn thông vệ tinh trên chiếc C130, nhưng vẫn không mấy hiệu quả.

    3 giờ sáng ngày 30-4-1975, bộ ngoại giao Mỹ ra lệnh cho ṭa đại sứ Sài G̣n chấm dứt di tản nhưng Martin không chịu thi hành, v́ lúc đó tại chỗ vẫn c̣n hơn 12.000 người chờ bốc ra chiến hạm. Tới 4 giờ 56’ sàng, chính Tổng thống Ford ra lệnh bằng điện thoại, bắt buộc ông đại sứ phải rời VN. Do không c̣n cách nào lựa chọn, Martin đành phải bỏ lại 420 người đang đợi, trong số người này có cả nhân viên của toà đại sứ Nam Hàn. Martin ra đi đơn độc với con chó nhỏ tên Nitnoy, trên chiếc trực thăng CH46, do Đại Uư Thủy Quân Lục Chiến tên G.Berry lái.

    Tù phút đó, chỉ c̣n lại toán lính TQLC Mỹ giữ an ninh Ṭa Đại Sứ. Họ rút hết vào bên trong ṭa nhà, đóng cửa sắt và lên trên sân thượng đợi. Đúng 7 giờ 30 sáng ngày 30-4-1975, trực thăng ngoài biển bay vào đón họ, chấm dứt sự hiện hữu lần thứ ba của người Mỹ trên nước VN, tính tṛn 21 năm, từ lúc Tướng Edward Landale của CIA đặt chân tới Sài G̣n. T́nh đồng minh, đồng hướng và chiến hữu giữa VNCH cùng Hoa Kỳ cũng chấm dứt từ đó.

    Theo tài liệu được Mỹ công bố, th́ Ṭa Đại Sứ và DAO ngày 29 rạng 30-4-1975 chỉ di tản được 7014 người, phần lớn không có tên trong danh sách được lập lúc ban đầu. Để hoàn thành công tác trên, người Mỹ đă xử dung trực thăng của Sư đoàn 7 Không quân và Hạm Đội 7 tại Thái B́nh Dương. Suốt thời gian chiến dịch, chỉ có một A6 bị mất tích, một trực thăng AH1J. Cobra rớt xuống biển và 2 lính TQLC Mỹ bị tử thương khi VC pháo kích vào Dao tại phi trường Tân Sơn Nhất.

    Tuy người Mỹ đă chính thức rời Sài G̣n vào lúc 7 giờ 30 sáng ngày 30-4-1975 nhưng trọn ngày đó cho tới hôm sau 1-5-1975, nhiều trực thăng của Không Quân VNCH khắp nơi bay tới Hàng Không Mẫu Hạm Midway đang bỏ neo ngoài khơi Vũng Tàu để xin đáp. V́ có quá nhiều người nên Mỹ đă phải xô nhiều trực thăng xuống biển để làm băi đáp cho các trực thăng tị nạn. Dù việc làm trên có thiệt hại hằng triệu Mỹ Kim nhưng cũng đă cứu vớt đươc nhiều chiến binh trong giờ phút cuối cùng, không c̣n một lựa chọn nào khác hơn, trong khi nước đă mất.

    Ba mươi bảy năm trước hay bây giờ, người Mỹ cũng chỉ nghỉ đến quyền lợi của quốc gia ḿnh mà thôi. Bởi vậy muốn đem quân vào VN, người Mỹ phải giết một tỏng thống dân cử của bản xứ. Rồi để rút quân an toàn về nước, khi đă đạt xong mục đích chiến lược kinh tế của ḿnh, Mỹ lại dùng áp lực quân viện, để bắt buộc đồng minh của ḿnh, kư vào một hiệp ước giả mạo phi luân. Cuối cùng dùng nó để bán đứng quốc gia VN, chôn vùi tương lai của dân tộc anh hùng trong ṿng nô lệ của Cộng Sản đệ tam quốc tế, suốt thời gian từ đó tới bây giờ. Tất cả đúng như lời Sir R.Thompson đă viết năm 1989 trong tác phẩm ‘ Make for the hill ‘, đại ư ông nói rằng, sự sống của miền Nam VN đă bị bán đứng , v́ cảnh cấu xé của nước Mỹ. Riêng Nixon, nhân vật chính đă cùng Kissiger đạo diễn tấn thảm kịch VN hôm nay, cũng đă viết những lời sám hối trong ‘ No More VietNam ‘.Ông viết rằng, tôi đă nh́n thấy những vấn đề nan giăi của hiệp định Ba Lê, nhất là sự thỏa hiệp, cho phép bộ đội Bắc Việt công khai ở lại và xâm lăng miền Nam . Nhưng đau đớn nhất, có lẽ là lời phát biểu của M. Gauvin, nguyên ủy viên Giám Sát Quốc Tế (ISCC) tại VN. Ngay khi thấy CS Hà Nội ngang nhiên xé bỏ hiệp định ngưng bắn mà chúng vừa kư kết chưa ráo mực, tấn công xâm lăng VNCH, bất chấp cả Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc, ông đă viết bài đăng trên tờ The Times số 59362 ngày 5-4-1975 rằng sự thất bại của VNCH đă bắt nguồn từ hiệp định Ba Lê, v́ nó chẳng bao giờ phản ảnh được ư muốn và nguyện vọng của dân-nước VNCH.

    Một thập niên sau ngày Mỹ bỏ chạy khỏi Sài G̣n trong đêm tối trên mái nhà, do những biến chuyển chính trị thế giới, quan trọng nhất là sự ḥa hoăn giữa Nga-Hoa cũng như sự liên hệ của Mỹ và Trung Cộng có chiều hướng thay đổi. Để chiếm phần ưu tiên, người Mỹ lại t́m cách mon men trở lại Đông Dương lần thứ 4 vào tháng 4-1985. Bởi vậy một phái đoàn cao cấp của Mỹ do Richard Armitage cầm đầu, cùng với Phụ Tá Ngoại Trưởng Mỹ Paul Wolfon Witz (đặc trách Đông Á và Thái B́nh Dương ), lần đầu tới Hà Nội, với chiêu bài ‘t́m lính Mỹ mất tích và hài cốt quân Hoa Kỳ c̣n tại VN’. Sự kiện giằng co úp mở giữa hai nước, cho tới khi phái đoàn nghiên cứu Mỹ do cưu bộ trưởng quốc pḥng Mc.Namara, sau khi thăm viếng Hoa Lục về, đă tiết lộ âm mưu Trung Cộng đang có dă tâm muốn trở thành bá chủ Á Châu và Thái B́nh Dương. V́ thế Hoa Kỳ mới mở pḥng liên lạc giữa hai nước vào ngày 3-2-1995 và nối lại bang giao năm 1996. Một Đại Sứ Mỹ tại Hà Nội được Thượng viện Hoa Kỳ chấp thuận sau 22 năm chiến tranh chấm dứt, đă chính thức xác nhận sự b́nh thường hoá ngoại giao với VC.

    Tóm lại lịch sử đă ngừng lại và quay tṛn đúng vào thời điểm cũ trên đất nước tội nghiệp VN. Cả hai : Tài phiệt Hoa Kỳ và cọng sản đệ tam quốc tế cũng đều v́ quyền lợi riêng tư của ḿnh, nên muối mặt đổi thù thành bạn. Lần này không c̣n sử dụng được chiêu bài VN là tiền đồn chống cộng, nên người Mỹ đă công khai tới VN qua danh phận lái buôn lái súng. Hiện trong cộng đảng cầm quyền đă manh nha hai phe theo Tàu, theo Mỹ. Nhưng dù VN có theo phe nào chăng nửa, th́ chắc chắn đất nước chúng ta cũng sẽ bị cuốn hút theo vết xe lịch sử, khi Trung Cộng công khai gây nên thế chiến lần thứ 4 tại Á Châu-Thái B́nh Dương.

    Đọc và viết lịch sử,không phải để khóc hận than thân, mà là lấy đó làm một kinh nghiệm để hành động cứu nước trong thực tại và tương lai. Năm 1954, khi Cộng Sản đệ tam chiếm được miền Bắc, một số ít trí thức khoa bảng chạy vào làm trùm tại Việt Nam Cộng Ḥa nên họ chẳng hề biết ǵ về kinh nghiệm sống chung với Việt Cộng. Ngày 30-4-1975, khi VC chưa vào Sài G̣n, số trí thức khoa bảng trên lại ù trốn chạy sang Mỹ hay ngoại quốc. Họ không hề biết thế nào là sự đổi đời của phận người xuống hàng súc vật. Ở ngoại quốc v́ quá tự do cái miệng, nên vẫn chứng nào tật đó, coi sự hiểu biết của ḿnh qua mớ bằng cấp có được (thật hay dơm đâu ai biết ?) ngang hàng với lănh tụ, muốn ai cũng phải theo ư và đứng sau lưng ḿnh. Họ v́ không sống thật với lịch sử nên chẳng bao giờ có kinh nghiệm lịch sử, vẫn ảo tưởng xây lâu đài và chức phận trên cát biển, vẫn ngây thơ muốn ḥa hợp ḥa giải, với một đảng cướp tàn bạo bất lương, qua tám mươi năm chỉ lừa bịp lường giết đồng bào và ban nước ḿnh mà thôi. Tệ nhất là những ngài trí thức và gia đ́nh ḿnh, lúc nào cũng thích sang giàu hạnh phúc nơi thiên đường Âu Mỹ, mà mồm th́ luôn xuí người khác, nếu đi hết biển, th́ phải trở về để làm nô lệ cho Cộng Sản.

    Cũng may bọn người này không nhiều và ngày nay hầu hết đều giống như những b́nh vội ǵà nua, mà Phan Khôi từng ví với bọn cán ngố miền Bắc trong tác phẩm ‘ Trăm Hoa đua nở ‘, chỉ nổ trên giấy hay nằm trơ trọi trong góc đời hiu quạnh về chiều.

    Thảm thê cho thân phận nhược tiểu VN.



    Từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
    Quốc Hận 30-4-2012
    MƯỜNG GIANG

  10. #10
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    30/4/1975. CS Việt nam mang "Thảm Họa cho cả Dân tộc"

    30/4/1975. CS Việt nam mang "Thảm Họa cho cả Dân tộc"
    Biến cố tháng Tư 1975 trong văn học Việt Nam hải ngoại
    Nguyễn Mạnh Trinh




    Tháng Tư năm 1975. Thời điểm gắng quên mà vẫn măi nhớ. Ba mươi mấy năm trôi qua. Bao nhiêu là hồi ức. Không phải riêng với từng cá nhân mà c̣n với rất nhiều người và nói rộng ra với cả dân tộc chúng ta nữa. Những vết chém tới bây giờ vẫn chưa lành miệng. Những đau xót đến ngày nay vẫn c̣n tồn tại trong tâm năo nhiều thế hệ. Mỗi năm cứ đến ngày 30 tháng Tư là lại một dịp để những hồi ức cũ, những đau xót xưa lại trở về. Hôm nay, chúng ta hăy thử giở lại những trang sách, đọc lại những đoạn văn, những câu thơ đă qua của văn học Việt Nam để nh́n lại những tâm t́nh của một thời đại lịch sử đầy biến động của đất nước ta.

    Có nhiều người nhận định rằng cuộc chiến tranh đă qua và bây giờ mọi người hăy bỏ quên quá khứ đau thương để hướng về tương lai của dân tộc. Nếu chúng ta giở lại những trang sách viết về ngày 30 tháng Tư năm 1975 đau buồn của lịch sử có phải là hành động đào sâu thêm hố thẳm ngăn cách dân tộc?
    Thực ra, th́ không hẳn nhắc lại chuyện xưa là để làm sống lại những năm tháng chiến tranh máu lửa, để chuyện quá khứ vẫn măi đeo đuổi trong tâm thức mọi người.
    Nhiều người kêu gọi xóa bỏ chiến tuyến gạt bỏ hận thù. Nói th́ dễ, nhưng hiện trạng bây giờ, vẫn c̣n rất nhiều điều để thấy rằng cái hố sâu ngăn cách dân tộc của thời nội chiến không dễ ǵ lấp đầy. Trong thời điểm hiện tại, đọc những bài thơ, những bài văn viết về biến cố này, không phải là làm nặng nề thêm sự chia rẽ dân tộc mà chính là dịp để mỗi người chúng ta nh́n lại lịch sử để hiểu biết thêm những kinh nghiệm đắng cay của những quốc gia nhược tiểu. Qua một cuộc chiến, dĩ nhiên có bên thua và bên được. Nhưng, ở chiến tranh Việt Nam, dân tộc Việt Nam là nạn nhân của những thế lực bên ngoài. Hiện trạng tụt hậu xă hội đến bây giờ vẫn là do một chủ nghĩa ngoại lai và một chế độ độc tài toàn trị...
    Một điều khác, chúng ta không thể nào quên được những anh hùng trong cuộc chiến, những người lính vô danh đă nằm xuống cho lư tưởng của ḿnh. Ngày 30 tháng Tư mỗi năm, nhắc đến họ như thắp lên nén hương ḷng để tưởng niệm...

    Biến cố ngày 30 tháng 4 năm 1975 là do cơ trời vận nước.
    Có nhiều sự kiện rất lạ lùng xảy ra trên đất nước Việt Nam vào thời gian đầu xuân năm 1975. Đầu tháng hai, không biết tại sao lại có một đàn ong to lớn đông đảo tụ tập đậu kín cả hai ṭa cao ốc ở Sài G̣n. Mọi người bàn tán xôn xao, và nhiều người cho rằng đó là một điềm triệu ǵ đó với thời cuộc đất nước. Ít ngày sau, một đàn sâu rầy và bọ hung cực kỳ đông đảo kéo nhau đi hàng đàn dài cả cây số che kín cả mặt đường ở Phan Rang, sinh quán của Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu. Mọi người bàn tán, chắc lại có điềm trời báo trước một biến cố sẽ thay đổi cả lịch sử. Rồi, ḥn núi Đá Dao thuộc dăy núi Ḥn Chồng ở vùng vịnh Phan Rang mà nhiều nhà phong thủy cho rằng là nơi kết phát linh địa của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bị sét đánh đổ sập. Theo những người địa phương th́ ở đây có Ḥn Mặt Quỷ tượng trưng cho ác thần bị ngọn Đá Dao như h́nh thanh kiếm chỉ ngay vào mặt trấn yếm. Nếu thanh kiếm bị đổ th́ ác thần sẽ tha hồ tung hoành. Dư luận bàn tán sôi nổi lan truyền trong dân gian. Có thể đây là một kỹ thuật chiến tranh tâm lư làm xáo động nhân tâm của Hoa Kỳ trước khi rút lui hoặc đối phương... Mà cũng có thể là cơ trời báo trước thực. Riêng tôi, tôi vẫn tin tưởng ở định mệnh. Con người có số mệnh th́ đất nước quốc gia cũng phải có. Chỉ tiếc một điều, định mệnh ấy quá khủng khiếp với đất nước dân tộc Việt Nam...

    Trong văn học Việt Nam cận đại có nhiều tác giả viết về biến cố ngày 30 tháng Tư năm 1975. Trong số những tác phẩm ấy, một mẫu số chung là thể hiện được tâm t́nh thời đại mà những xoay chiều của lịch sử đă ảnh hưởng toàn thể lên đời sống từ xă hội, chính trị, văn học... của dân tộc Việt Nam.

    Khởi đi từ trận chiến ở Ban Mê Thuột, rồi cao nguyên di tản, miền Trung di tản và chiến cuộc kéo dài tới tận Sài G̣n ngày 30 tháng Tư. Nhiều nhà văn cũng viết tác phẩm của ḿnh theo tŕnh tự thời gian ấy. Họ đă ghi lại sự thực bằng cái chủ quan của ḿnh, những người trong cuộc với tâm cảm bừng bừng xúc động.
    Nếu có ai hỏi sẽ bắt đầu như thế nào từ những tác phẩm viết về ngày 30 tháng Tư này th́ có lẽ tôi đọc tập truyện Ban Mê Thuột, Ngày Đầu Ngày Cuối của Trần Hoài Thư trong bước chân đầu tiên để dần dần đi đến những tác phẩm viết về ngày 30 tháng Tư ở Sài G̣n. Đây là một truyện ngắn được xây dựng từ những sự kiện có thực mà tác giả đă từ lời kể của một sĩ quan trinh sát của trung đoàn 45 sư đoàn 23 bộ binh là thiếu úy Nguyễn Lương Sơn đă tham dự cuộc chiến ở Ban Mê Thuột từ ngày đầu tiên đến ngày cuối cùng. Tác giả Trần Hoài Thư muốn nêu lên được phần nào sự thực về biến cố lịch sử này mà những người lính VNCH vô danh đă là chứng nhân của những tấn tuồng lịch sử viết bằng mồ hôi, máu và nước mắt. Trong cách diễn tả, có niềm kiêu hănh pha lẫn nỗi ngậm ngùi và niềm tủi nhục của những con chốt thí bị vùi dập trong những ngày giờ oan nghiệt của một thời thế đen tối. Một tuần lễ địa ngục có thực. Một tuần lễ mà những người lính đă cho rằng dài hơn thế kỷ. Ngày bắt đầu 10 tháng 3 và chấm dứt 17 tháng 3 cho một cuộc chiến bi đát trên địa danh Ban Mê Thuột. Những trang nhật kư chiến trường mà ḍng cuối lại là những hồi ức kể về một câu chuyện của một người tù binh chiến bại và một đứa trẻ mặc áo bộ đội canh giữ.
    Đoạn kết của một truyện ngắn chiến tranh mà như vậy th́ khá kỳ lạ và độc đáo. Mặc dù trong truyện nhiều máu lửa, nhiều chết chóc nhưng đoạn kết lại hiền ḥa, hiền ḥa đến độ không ngờ:

    "Rồi nó bắt đầu hỏi chuyện làm quen. Minh cũng hỏi lại. Nó đă xưng em với Minh. Nó kể về quê nhà, cha mẹ, về những bạn nhỏ. Nó hỏi về những người lính miền Nam ăn thịt người có đúng không. Minh trả lời hết. Nó c̣n lấy tấm h́nh của người d́ nó khoảng 18 tuổi chụp trong một tiệm chụp h́nh ở Ban Mê Thuột để khoe cùng anh. Tấm h́nh thật diêm dúa bởi ông thợ h́nh tô màu quá mức. Nhưng nó lại coi như một niềm hănh diện. Nó nói d́ nó hay đi công tác ở Ban Mê Thuột. Nó ao ước được ra Ban Mê Thuột một lần. Nó bắt Minh kể về thành phố. Minh kể về rạp hát, về phim chưởng... Dưới ánh lửa bập bùng của một đêm miền cận sơn, giọng Minh kể đều đều. Minh sẽ quên Minh là tên tù binh và những đứa bé đă quên chúng là những tên canh tù. Và một lát sau, tự nhiên Minh cảm thấy trên vai ḿnh một khối nặng. Thằng bé đă ngă trên vai anh mà ngủ lúc nào không hay..."

    Truyện của Trần Hoài Thư là truyện của những người lính vô danh, những thân phận của những người chịu nhiều bạc bẽo của thời thế. Ông viết với cái tâm của một người lính tác chiến thực thụ, nh́n thấy tất cả những cay nghiệt của chiến trường và nhiều khi rất xót xa khi bị đẩy vào những ngă đường tuyệt lộ.
    Nhưng đó không phải là toàn thể những ǵ Trần Hoài Thư đă viết. Chưa hẳn là như thế. Ông cũng đă viết truyện ngắn Khi Về Nữu Ước rất thành công, khi đề cập đến sự tuẫn tiết của hai ông tướng của quân đoàn 4. Trần Hoài Thư đă viết với cả tấm ḷng chân thực của ḿnh để tưởng niệm đến người đă khuất. Ngày 30 tháng Tư năm 1975, ông là một phóng viên chiến trường của quân đội VNCH ở quân khu 4 Cần Thơ và đă chứng kiến sự tử tiết của hai vị tư lệnh quân đoàn. Ông cũng viết một bài văn ghi chép khác với từng giờ từng phút tất cả những diễn tiến của sự kiện lịch sử với tư cách của một chứng nhân kể lại tất cả những điều mắt thấy tai nghe cùng những tâm cảm uất nghẹn của người trong cuộc. Bài văn này đă được in và phổ biến kèm theo nhiều h́nh ảnh ở hải ngoại khi Trần Hoài Thư c̣n ở trong nước. Chính tác giả sau này phải đi t́m kiếm cuốn sách này mà không được...
    Nhưng phần đông ông viết về những người lính của một người nh́n chiến tranh với sự khắc khoải, của nỗi ưu tư tràn ngập cay đắng hoài nghi. Ông mô tả sự thực và chính v́ những sự thực ấy mà có lúc ông được hệ thống tuyên truyền binh vận của phía bên kia gọi là nhà văn phản chiến. Có những người dù không muốn tham dự vào cuộc chém giết nhưng vẫn phải đi vào đời lính. Đó là bổn phận của người trai trong nhiệm vụ giữ ǵn đất nước bảo vệ chế độ chống lại chiến tranh xâm lược của Cộng Sản.
    Có phải truyện của Trần Hoài Thư là những thiên tự truyện mà ông viết về cuộc đời của ông?
    Phần đông là như vậy. Ông viết về ḿnh, cuộc sống, cuộc t́nh của ḿnh. Ông là một trung đội trưởng của đại đội thám kích 405 của sư đoàn 22 Bộ Binh, đă bị thương nhiều lần, rồi đào ngũ trốn ở Nha Trang và Phan Rang, viết nhiều truyện ngắn và thơ đăng trên các tạp chí văn học ở Sài G̣n. Sau khi tŕnh diện, bị giáng cấp, thuyên chuyển sang sư đoàn 23 Bộ Binh ở Ban Mê Thuột. Cuối cùng ông làm phóng viên chiến trường ở Quân đoàn 4 ở Cần Thơ. Những ngày cuối tháng Tư năm 1975 ông đă viết một thiên kư sự về những ngày cuối cùng ở Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 4 ở Cần Thơ.

    Sau khi thất thủ Ban Mê Thuột, là Pleiku di tản. Có nhiều tác giả đă viết về biến cố này. Như kư giả Nguyễn Tú đă viết những trang phóng sự với h́nh ảnh trên nhật báo Chính Luận đă mô tả lại tất cả những sự kiện thê thảm đầy máu và nước mắt của những người di tản từ cao nguyên ra phía biển. Ở đó, biểu lộ những cuồng nộ chiến tranh, những thân phận bọt bèo của người dân lành vô tội trong cơn băo lửa của chiến tranh.
    Nhà văn, nhà báo, phóng viên chiến trường Phạm Huấn cũng đă viết hai tác phẩm về biến cố lịch sử này. Đó là cuốn sách Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975 và Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước 1975. Với những dữ kiện ông thu lượm được trong khi là một nhân chứng với vai tṛ của một sĩ quan thân cận với Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn II, những tác phẩm này đă hé lộ một phần nào những bí ẩn của lịch sử. Ông viết về những sở đoản, những hèn nhát đến vô trách nhiệm của những người chỉ huy có trách nhiệm trong cuộc thất bại, nhưng cũng nêu lên nhiều gương anh hùng của những người lính, dù thua trận nhưng không hèn kém.
    Tác giả Phạm Huấn đă nêu những gương anh hùng như thế nào trong tác phẩm của ông?
    Những người lính đă được tác giả Phạm Huấn vinh danh với cả tấm ḷng thành thực và trân trọng. Ông kể lại cuộc nói chuyện giữa ông Tướng Tư lệnh quân đoàn với một người lính của trung đoàn 53 tại chiến trường ở sân bay Phụng Dực, binh nh́ xạ thủ súng cối Nguyễn Văn Bảy, người đă chiến đấu cho đến những giây phút cuối cùng. Ông cũng vinh danh những người lính VNCH, một chống 5 chống 10 mà vẫn kiêu dũng. Ông cũng đă vinh danh binh nhất Mai Hồng Bướm người trung đội trưởng bất đắc dĩ của Sư đoàn 22 Bộ Binh nhưng anh hùng của chiến trường B́nh Định. Cũng như ông đă rất thán phục những phi vụ cảm tử của những phi công thời chiến, đă găy cánh hy sinh trên các mặt trận mà pḥng không của địch ác liệt không kém những trận địa pḥng không dữ dằn nhất của lịch sử chiến tranh nhân loại. Và với các trung đoàn trưởng Bộ Binh như Đại tá Nguyễn Hữu Thông, Lê Cầu, Nguyễn Thiều, Vơ Ân, hay Tiểu đoàn trưởng Nhảy Dù Bùi Quyền,… tác giả đă nhắc đến như những anh hùng của một thời máu lửa... Đặc biệt, với những người lính mang cấp bực thấp nhất của quân lực cũng được phác họa với sự thân mến trân trọng.
    Thí dụ như đoạn đối thoại giữa ông Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn và Binh nh́ xạ thủ súng cối 81 ly Nguyễn Văn Bảy:

    - Em tên ǵ? Bao nhiêu tuổi?
    - Dạ, ...binh nh́ Nguyễn Văn Bảy... mười tám tuổi
    - Em thấy Việt Cộng chết nhiều không?
    - Nhiều... nhiều lắm... Thiếu Tướng
    - Em muốn xin Thiếu Tướng ǵ nào?
    - Xin... thuốc hút và... lựu đạn
    - Ǵ nữa
    - Thôi
    - Thiếu tướng thăng cấp cho em lên... binh nhất! Chịu không?
    Một giọng cười khúc khích trong máy:
    - Ông thầy! Ông tướng tặng tôi cái... cánh gà chiên bơ!
    - Không được... tao phản đối...

    Cái cánh gà chữ V đó là h́nh dáng của chiếc lon binh nhất. Ông thầy là tiếng gọi thân mật một vị Trung Tá Trung đoàn trưởng mà người binh nhất vừa được vinh thăng Nguyễn Văn Bảy thường hay sử dụng.
    Mẫu đối thoại trên cho thấy t́nh chiến hữu anh em của những người lính Trung đoàn 53 Bộ Binh. Đó cũng là một cách để chứng minh tại sao trong những ngày cuối cùng, họ vẫn sống chết bên nhau? Họ đă chia nhau từng viên đạn, từng dúm gạo sấy, từng hớp nước, từng hơi thuốc...

    Sau cuộc chiến tại thị xă Ban Mê Thuột là cuộc di tản từ cao nguyên Pleiku ra vùng duyên hải. Một tác phẩm khác đă viết và mô tả một cách khá trung thực bằng văn chương về biến cố này. Tôi đă đọc Ngày N+... của nhà văn Hoàng Khởi Phong. Đă có nhiều người viết về những ngày tháng Tư hoảng loạn của quê hương. Mỗi người một vẻ, mỗi một tâm tư, tuy khác nhau về chi tiết nhưng đại thể đều giống nhau. Ở trong tác phẩm Ngày N+... c̣n nhắc đến những thường dân khốn khổ của cuộc chiến. Chung tâm tư của những người bị dồn vào tử lộ ấy, không phải chỉ có những người lính VNCH mà thôi, mà, trong khung cảnh hỗn loạn ấy có cả triệu thường dân là nạn nhân. Trong một tṛ chơi sấp ngửa của định mệnh và tử thần không từ một ai. Chuyện tang tóc, tử biệt sinh ly là chuyện thường t́nh và con người trong cơn hồng thủy ấy đă có những phản ứng thật là kỳ lạ.

    Tác giả viết: "Mỗi thành phố chết một cách khác nhau. Pleiku như một mănh hổ bị lao. Phú Bổn như một con nai trúng đạn. Qui Nhơn như một con gấu bị dồn tới đường cùng, gầm gừ một hồi rồi cũng sập bẫy. Tuy Ḥa giống như một con cá lớn đă lọt vó, bốn góc nước cứ cạn dần, rồi trơ trên nền vải thưa. Bây giờ là Nha Trang.
    Nha Trang là một thành phố chết v́ bệnh dịch..."

    Một đoạn khác: "...Một cảnh thương tâm trước mặt, một em nhỏ chừng mười ba tuổi nằm trên cáng. Cáng được cột bởi những cây gậy đi rừng, rơ ràng là một cáng hướng đạo. Em bé chân trái bị mảnh đạn cắt gần ĺa đầu gối, máu ướt đầm lớp quần áo buộc quanh vết thương, đôi mắt em thất thần, em vẫy ba người bạn lại, hai em chừng mười bốn và một em chừng mười một. Em nói với bạn một cách rơ ràng cương quyết:
    - Minh. Ngọc, hăy bỏ tao lại đây, hăy đi với mọi người. Chắc tao không thể sống được. Mang tao theo tụi mày sẽ không thoát khỏi đây.
    Tôi thấy vẻ ngập ngừng của hai đứa lớn. Tôi tiến lại gần và nói với tất cả: Các em đi trước đi. Để em bị thương lại đây, tôi có bác sĩ lo hộ.
    Tôi đă nói dối. Tôi biết em bị thương nặng không thể sống nổi, cái chân trái gần cụt hẳn, máu ra như suối cả mấy tiếng đồng hồ rồi. Tôi biết một bác sĩ thiết giáp, tôi nhớ xe ông ta cách xe tôi chừng trăm thước. Tôi bảo người lính đi t́m, rồi hối hai em Minh và Ngọc phải đi ngay đi. Em nhỏ nhất bây giờ mới tiến lên mở ba lô lấy một chiếc chăn mỏng đắp lên người bạn bất hạnh. Cả ba lùi lại, tôi thấy các em chào nhau bằng kiểu chào hướng đạo. Ba đứa quay đi, nước mắt dàn dụa. Bóng ba đứa lúp xúp trên mặt đường..."

    Đă sống trong những hoàn cảnh hiểm nguy bi đát như thế, chúng ta mới hiểu được tấm ḷng với nhau. Bên cạnh những ích kỷ thấp hèn, những bội phản trắng trợn, những hung đồ tác oai tác quái,... vẫn c̣n những người anh hùng, những người lao vào nguy hiểm diệt chốt để mở đường cho cả đoàn di tản. Những cái chết thật hào hùng, của những anh hùng dường như vô danh.
    Viết trung thực, nhiều chi tiết được nhớ lại và kể về, trong hồi kư ấy, tôi c̣n thấy cả cái tâm cảm của một người vẫn c̣n lăng mạn dù trong những hoàn cảnh ngặt nghèo. Những tâm cảm ấy như những nét chấm phá để điểm tô cho một tác phẩm văn chương đúng nghĩa. Thí dụ như đoạn viết về một tiếng tiêu buồn thảm trong đêm di tản:

    "...Tiếng tiêu của người lính Biệt Động Quân này có lúc làm tôi bay bổng chín từng trời, có lúc dồn dập như đoàn xe hàng trăm chiếc hàng ngang chạy băng trảng cỏ, có lúc cuồn cuộn như nước sông Ba, có lúc thê lương như tiếng khóc của đứa bé chào đời ngoài đồng trống. Tôi quên hết quá khứ với những mong ước thời trai trẻ, quên hết hiện tại bi đát của đoàn triệt thoái kỳ lạ hôm nay, tôi quên cả tương lai vật vă".

    Ngày N+... có phải là những trang nhật kư ghi chép lại những sự thực mà lịch sử về sau này phải để ư đến?
    Dưới con mắt của một nhà văn và tâm cảm phẫn nộ của một người lính bị đẩy vào những thế đứng chênh vênh của kẻ bị bỏ rơi, Ngày N+ ... là những trang sách như những trang nhật kư ghi chép lại trong hồi ức không thể nào quên. Làm người chứng bất đắc dĩ, ghi nhận lại tất cả những chi tiết mà ở đó, sự tàn bạo lên ngôi cũng như t́nh cảm chân thành hy sinh che chở cho nhau cũng được đề cập tới để làm thành sự so sánh như nỗi khác biệt nhau giữa bóng tối và ánh sáng. Pleiku-Tuy Ḥa. Một chặng. Qui Nhơn-Phú Quốc. Chặng thứ hai. Sài G̣n-Subic Bay. Chặng kế và chưa phải là chặng chót. Nỗi thảm thương đau đớn của sinh ly vẫn c̣n, bắt đầu cho những ngày lưu lạc tha phương. Ở xứ người, dĩ văng vẫn c̣n là gánh hành trang nặng nề trên vai, của nỗi gánh chịu và nhục hèn của những người thua trận và chạy trốn khỏi quê hương. Hành tŕnh ấy có lẽ là của chung nhiều người của một thế hệ Việt Nam lớn lên từ bắt đầu cuộc chiến và trưởng thành từ tàn cuộc chiến. Bây giờ, đă ba mươi năm dù đă có tiếng gào thét kêu gọi để quên từ hai phía nhưng trong thực tế vẫn là những vết thương sâu chưa lành miệng. Nói không chẳng thể nào đủ mà c̣n cần những việc làm cụ thể biểu lộ được tinh thần ḥa hợp ḥa giải thực sự...

    Tôi nghe có người nói rằng mỗi ngày ba mươi tháng Tư có những người với dụng ư riêng đă tỏ lộ sự xúc cảm của ḿnh để như một cái tem dán lên xác nhận một vị trí chính trị rơ ràng. Và họ phê phán những người mà họ cho rằng tới bây giờ vẫn khư khư cái nh́n xưa cũ trong khi hiện t́nh chính trị đang đổi mới. Tôi nghĩ, cái nhận xét ấy phiến diện một chiều. Không thể bắt những nạn nhân quên đi thảm cảnh mà họ và gia đ́nh phải cam chịu. Cũng như, những trang sách Ngày N+... không phải bụi phủ đi khi nỗi đau nhục của người thất trận chưa phai mờ. Dù rằng, đoàn kết dân tộc là mục tiêu tối hảo để phú cường cho đất nước trong tương lai. Và quá khứ vẫn có nhiều bài học tốt để văn chương ghi chép lại những trang lịch sử tuy có ố máu đỏ nhưng vẫn ngời lên nét ngoi lên cho ngày mai...

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 2 users browsing this thread. (0 members and 2 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 2
    Last Post: 19-11-2011, 10:22 AM
  2. Replies: 1
    Last Post: 09-11-2011, 10:20 AM
  3. Replies: 9
    Last Post: 08-11-2011, 08:37 PM
  4. Replies: 22
    Last Post: 15-10-2011, 11:31 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •