Việt Nam tôi đâu?
Câu hỏi có vẻ ngô nghê nhưng không phải dễ trả lời. Nếu ai hỏi, thật khó cho tôi gỉải thích đủ và đúng trong một câu ngắn gọn. Việt Nam của tôi không phải là Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam và dĩ nhiên không phải là chế độ cai trị con người bằng nhà tù và sân bắn như hiện nay.
Nh́n chiếc ghe hư nằm trơ trọi trên bờ biển Chennai, tôi chợt nhớ đă có một thời, nhiều thuyền nhân Việt Nam từng hỏi “Việt Nam tôi đâu” và đă đồng ư với nhau rằng Việt Nam đă chết như trong bài hát Một lần miên viễn xót xa quen thuộc của nhạc sĩ Nguyễn Đức Thành:
Giờ đây, mỗi đứa con lạc loài mỗi nẽo
Đứa London, đứa Paris, đứa đèo heo gió hút
Gặp nhau từng hàng lệ xót xa, buông những câu chào
Đôi ba sinh ngữ, Bonjour, Au revoir, Hello, Good bye
Con gục đầu chua xót đắng cay.
Thưa me, thưa me, thưa me, quê hương ḿnh
Đă chết rồi, mẹ ơi, mẹ ơi, mẹ Việt Nam ơi ..."
V́ “quê hương ḿnh đă chết rồi” nên hàng triệu đứa con của mẹ phải bỏ ra đi khắp chân trời góc biển.
Có người không đồng ư và cho rằng quê hương vẫn c̣n đó, núi sông vẫn c̣n đó, chết chóc ǵ đâu mà than văn. Việt Nam là quê hương của tất cả chúng ta. Không có quê hương của người quốc gia hay quê hương của người cộng sản. Không có quê hương tư sản hay quê hương vô sản. Quê hương vẫn c̣n có đó và sẽ măi măi c̣n đó cho ngàn đời sau.
Đúng hay sai, c̣n hay mất, sống hay chết tùy theo cách hiểu và cách nh́n về đất nước. Với tôi và có thể với nhiều đồng bào cùng cảnh ngộ, quê hương không chỉ là những vật vô tri, vô giác nhưng phải là một quê hương sống động và có tâm hồn. Sau 30 tháng Tư năm 1975, quê hương Việt Nam đă mất tâm hồn và thậm chí trở thành tù ngục. Việt Nam, nơi con người bị đối xử như con vật. Việt Nam, nơi con người không có quyền nói những điều họ muốn nói, hát những bài hát họ yêu thích, viết những ḍng thơ họ muốn viết. Hàng triệu người Việt Nam đă không c̣n chọn lựa nào khác hơn là ra đi.
Hành tŕnh của hai hơn hai triệu người Việt Nam từ sau tháng Tư năm 1975 không chỉ được ghi bằng những bước chân rỉ máu trên những chặng đường đầy đauthương thử thách nhưng c̣n qua những bài hát được viết như tiếng thét gào của đoàn lưu dân trên sa mạc trần gian.
Mai tôi đi, tôi đi vào sương đen
Sương rất độc tẩm vào ngướ nỗi chết
Quê hương ta sống chia ḍng vĩnh biệt
Chảy về đâu những nước mắt đưa tin.
(Mai tôi đi, nhạc Nguyễn Đ́nh Toàn)
Những ngày tháng lênh đênh đó, ai không dừng tay dù đang làm việc ǵ khi nghe Người di tản buồn của nhạc sĩ Nam Lộc, Sài G̣n niềm nhớ không tên của nhạc sĩ Nguyễn Đ́nh Toàn hay Đêm nhớ về Sài G̣n của cố nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng cất lên từ giọng ca Khánh Ly?
Có ai không chợt nghe ḷng ḿnh chùng xuống khi chị Nguyệt Ánh cất lên những lời năo nùng trong Một chút quà cho quê hương của nhạc sĩ Việt Dũng?
Có ai không nghe như có tiếng mưa rơi dù đang đứng giữa phố Bolsa nắng gắt khi nghe giọng Ngọc Lan kể lể trong Khóc một ḍng sông của nhạc sĩ Đức Huy?
Và nhiều nữa, Phạm Duy với 1954 Cha bỏ Quê 1975 Con bỏ Nước, Nhật Ngân với Anh giải phóng tôi hay tôi giải phóng anh, Châu Đ́nh An với Đêm chôn dầu vượt biển, Phan Văn Hưng với Ai trở về xứ Việt, Phan Ni Tấn với Bài hát học tṛ, Tô Huyền Vân với Quê hương bỏ lại v.v..
Và tất cả đă đóng góp phần ḿnh viết nên bài trường ca đầy bi tráng của một bộ phận dân tộc Việt Nam sau mùa băo lửa 1975. Từ Camp Pendleton đến Leamsing, Palawan, Pulau Bidong, Sungai Besi, Bataan, White Head, Panat Nikhom, Galang, những tên tuổi địa danh đi vào lịch sử Việt Nam qua cái chết tủi buồn của mẹ, qua giọt nước mắt của em, qua tiếng gào thống thiết của anh vọng lên giữa Thái B́nh Dương bát ngát.
C̣n tiếp...
Bookmarks