Gánh hát miền quê thái b́nh
Miền Nam Việt Nam có được một thời kỳ thái b́nh thạnh trị, nghệ thuật cải lương đem nguồn sống tươi vui tới tận những miền quê hẻo lánh.
Hát bội ở đ́nh làng, một h́nh thức thưởng thức nghệ thuật ở nông thôn Việt Nam
Những năm cuối thập niên 1950 sau ngày chiến tranh Việt – Pháp chấm dứt, đất nước thái b́nh, thiên hạ đi lại dễ dàng do bởi trên các quốc lộ từ Nam ra Trung xe cộ chạy suốt ngày đêm. Đây là thời kỳ mà các nhóm đờn ca tài tử mọc lên như nấm, nghệ thuật cải lương nở rộ, đem lại sinh khí tươi vui cho vùng nông thôn.
Lúc bấy giờ người ta thấy ở miền thôn quê có những gánh hát nhỏ dọn đến tận nơi phục vụ bà con, và ở đâu có gánh hát dọn tới th́ ở đó vui như ngày hội từ chiều tối cho đến nửa đêm. Những gánh hát đi xuống tận xă ấp nầy tuy nhỏ nhưng cũng có phông màn, tranh cảnh, trang phục. Đào kép th́ đầy đủ để đảm nhận các vai tṛ, cộng với giàn đờn và công nhân tính chung trên dưới 20 người. Địa điểm tŕnh diễn thường là các đ́nh làng, các nhà lồng chợ, và mỗi xuất hát có bán vé.
Những gánh hát nhỏ này thường th́ dọn đến đâu là ở cả tháng hoặc hơn, có khi mỗi tuần chỉ hát 1, 2 ngày. Những ngày không hát th́ đào kép tự mưu sinh với bất cứ nghề ǵ mà ở địa phương đó thuê mướn, kể cả gặt lúa, cày ruộng v.v..., và cũng có thể đi bắt cua bắt cá để sống.
Ngoài những gánh hát nhỏ có bán vé kể trên, lại c̣n có rất nhiều gánh hát nhỏ hơn, chẳng có phông màn trang phục ǵ hết, thông thường chỉ có khoảng từ 5 đến 7 người, mà thiên hạ gọi là gánh hát dạo bán thuốc, bởi h́nh thức cùng hoạt động nghệ thuật chẳng khác ǵ mấy gánh hát Sơn Đông măi vơ của người Tàu.
Khi dọn đến một xă ấp nào th́ các gánh hát này thường hay chọn băi đất trống nào đó, có thể là trước sân chợ, sân banh v.v..., và hát miễn phí chớ không có bán vé. Họ chỉ mong bà con thương t́nh mua giúp cho một vài chai thuốc, vài gói cao đơn hoàn tán.
Buổi chiều trước khi trời tối, việc trước tiên là đánh trống quy tụ bà con, và khi 2 chiếc đèn măng-xông được cháy sáng th́ bắt đầu rao bán thuốc bằng cách ca các bài bản cổ nhạc. Lúc này th́ ban đờn làm việc liên tục, đờn cho các nghệ sĩ vừa ca vừa cầm thuốc giới thiệu, lời ca cũng được sáng tác nói lên sự công hiệu của loại thuốc nào đó. Tóm lại đối với gánh hát này dù khán giả có mua thuốc hay không, cũng được nghe ca, nghe đờn, và xem tŕnh diễn cải lương.
Thông thường th́ diễn viên gồm 4 người: kép mùi, kép độc, một cô đào và một anh hề (có gánh 2 hề) là đủ cho buổi diễn. Nghệ sĩ của những gánh hát bán thuốc này là mấy người biết ca cổ nhạc, sau thời gian đi ca tài tử th́ bầu gánh mời đi theo. Hoặc cũng có thể là đào kép của các gánh bầu tèo bị ră gánh, thất nghiệp nên tạm gia nhập các gánh bán thuốc để có cơm ăn thôi, khá hơn một chút là có tiền cà phê, chớ c̣n lương đêm th́ hầu như chẳng có.
Về tuồng tích th́ thường là sao chép lại của các gánh, rồi bỏ bớt đi để cho vừa với thời lượng 45 phút, hoặc nhiều hơn cũng một giờ đồng hồ là văn hát. Bà con miền quê rất thích xem các gánh hát bán thuốc cao đơn hoàn tán này, bởi họ đi đến tận nơi nơi để hát mà lại coi không mất tiền. Do đó mà đêm nào khán giả cũng đông đảo bao quanh địa điểm bán thuốc cũng là sân khấu luôn.
Về phía gánh hát th́ đêm nào bán được nhiều thuốc th́ hầu hết đều vui vẻ, hăng say hát. C̣n như đêm nào bán ế, thuốc c̣n chất đầy th́ kể như đêm đó cả đoàn đều xuống tinh thần phải miễn cưỡng mà hát vậy.
Dù sao th́ các gánh hát bán thuốc này cũng tạo nguồn vui cho bà con nông thôn được một thời gian vài năm. Cho đến năm 1961 th́ hầu hết các gánh tự nhiên biến mất. Lư do chiến tranh bắt đầu nổi lên ở nông thôn. Từ đó bà con vùng quê kể như không c̣n được coi cải lương, muốn coi hát phải ra quận, ra tỉnh. Tuy vậy ở vài nơi vùng nông thôn thỉnh thoảng cũng được coi hát cải lương...Gánh bầu tèo Huỳnh Long vừa mới đến là được tiếp đón một cách niềm nở với trọn vẹn cảm t́nh, khán giả ủng hộ nồng nhiệt nhưng phải hát ban ngày, bởi t́nh trạng không c̣n như những năm thái b́nh, tối đến là không ai ra khỏi nhà.
Đoàn hát gồm gần hai mươi người, tất cả chỉ cần chở ba xe lôi là hết... Có vài tấm đề co, một hai tấm màn đă phai màu, có nhiều chỗ đă dậm vá. Đào kép mỗi người mỗi va li nhỏ, hoặc túi xách tay. Vợ chồng ông bầu kiêm luôn cặp đào kép chánh. Một cô đào phụ kiêm luôn vũ nữ; anh kép độc kiêm luôn thầy đờn... Nói đúng hơn hết cái h́nh ảnh của đoàn Huỳnh Long nầy là mỗi người kiêm nhiều chức, kép hát, thầy đờn, thợ đèn, quảng cáo viên v.v...
Vừa đến, đoàn đă thu hút được một số khán giả con nít rất đông... và chẳng bao lâu, đoàn hát Huỳnh Long được khắp chợ xă, xóm đều hay biết.
Sự bỡ ngỡ của bầu gánh không lâu, bởi ngay khi ấy, có vài người lớn tuổi sẵn sàng hướng dẫn, giúp đỡ những việc cần thiết.
Sân khấu được lập trên một khoảnh đất rộng, không có tường vách, chỉ có một ít lá buông làm khung để dựng rạp. Đào hát, kép hát quét dọn sân khấu đất cho sạch sẽ. Nhờ những tàn cây to nên khi nắng lớn không gây sự khó chịu nhiều. Chu vi rạp được che bằng lá buông đủ chứa vài trăm người, không có ghế, khán giả đứng. H́nh ảnh rơ ràng nhứt để người ta so sánh khi đoàn diễn có khán giả.
Buổi hát đầu tiên với tuồng “Hiền Thần Cứu Giá” (tức Tiết Nhơn Quí chinh đông) khán giả hoan nghinh nhiệt liệt. Và nhờ thế mà thu hút khán giả mănh liệt. Giá vé có ba hạng, hai hạng cho người lớn và hạng thứ ba dành cho trẻ em.
Khán giả cũng bày tỏ nhận xét, tức giận kép đóng vai Cáp Tô Văn, thương cảm Tiết Nhơn Quí, bởi cái t́nh cảm đó mà người ta ghi nhận một chuyện hết sức buồn cười. Đó là sau khi văn hát, mấy chú trẻ em làm quen và dễ làm quen sớm nhất với Đường Thế Dân, Tiết Nhơn Quí. Những kép đóng vai trung thần thường bị hoạn nạn được các em “thông cảm” dẫn đi chơi... Trái lại những vai ác, dữ như Cáp Tô Văn, Bàng Hồng, Quách Ḥe th́ nhóm trẻ nầy coi bộ không thích và không chịu làm quen.
Một tuần qua, đoàn Huỳnh Long tươi tỉnh hẳn nếp sống, bởi ngoài sự có tiền họ c̣n được sự tiếp tế của đồng bào nữa. Nhưng rồi dần dần khán giả bắt đầu thưa thớt, bởi đến mùa cá. Đó là căn bản của sự sống người dân ở đây, và khi có những ghe cá đầy ắp về đậu ở dưới bến th́ gánh hát bắt đầu bán vé hát bằng cá.
Khán giả không thích trả bằng tiền nữa, có phương tiện nào th́ họ trả bằng phương tiện ấy, và dĩ nhiên bầu gánh phải chấp nhận hơn là để hát mà không có khán giả. Do vé hát đổi cá nên bầu gánh cũng trả lương đào kép bằng cá, và một sự mới lạ lan nhanh vào nếp sống nghệ sĩ: khi văn hát đào kép bắt đầu xẻ cá phơi khô.
Chỉ một tuần thôi, mỗi nghệ sĩ đă có vài mươi kư lô khô. Có vài chị giữ việc xếp đồ hội, gác cửa cũng bắt đầu có một “kế hoạch” mới trong đầu họ. Họ mua thêm cá, hễ họ mua th́ đồng bào bán với giá đặc biệt rẻ hơn bán cho lái cá, rồi mấy bà nầy đă xông xáo làm khô có cả vài trăm kư lô.
Tuy không c̣n thu hút được khán giả nhiều nữa, nhưng đoàn vẫn sống phây phây. Bây giờ vé hát được bán bằng cá, bằng khô và luôn cả bằng gạo nữa...Một “chiến dịch” quảng cáo miệng được tung ra: “Chỉ c̣n hai đêm nữa, với hai tuồng đặc sắc: “Thần Nữ Dâng Ngũ Linh Kỳ” và tuồng “Tên Trộm Thành Bá Đa”. Đoàn sẽ dời đi nơi khác...Tuy chiến dịch được quảng cáo hết ḿnh khéo léo, nhưng cũng không thu hút được khán giả, bởi đời sống của dân ấp Mương Vũ đă gắn liền với sông, với nước, với cá... rồi. Họ dành thời giờ để lo cho cuộc sống, nên không c̣n thời giờ giải trí cải lương.
Cô Bảy Phùng Há, một đại danh lừng lẫy của nền cải lương từ thập niên 1940s
http://www.rfa.org/vietnamese/progra...012111744.html
Bookmarks