Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu: Công và Tội?
Nguyễn Đạt Thịnh
Lịch sử sau này sẽ phán xét công và tội của ông Thiệu nhưng rơ ràng là ông vẫn có trách nhiệm rất lớn trong sự sụp đổ của chế độ VNCH mà không ai có thể phủ nhận được. Sau 33 năm, nhiều người Việt Nam vẫn nhớ đến thành quả đáng chú ư của nền đệ nhị cộng ḥa, những cố gắng của Nguyễn Văn Thiệu cùng một lúc vừa chống Cộng, vừa b́nh định Miền Nam Việt Nam để so sánh với những sai lầm, thất bại, hèn hạ của lănh đạo CSVN; nhất là khi chế độ cộng sản Việt Nam tỏ ra khiếp nhược, run sợ và lụy thuộc CSTQ và tư bản phương Tây sau nhiều năm lên án “ông Diệm & ông Thiệu đă được người Mỹ đưa lên cầm quyền, làm tay sai cho đế quốc Mỹ”. Những ǵ ông Thiệu làm được, chúng ta thực sự biết ơn và trân trọng song chúng ta cũng cần phải thấy là những sai lầm của ông Thiệu rơ ràng đă gây ra những hậu quả tai hại cho hàng chục triệu người Việt Nam sau khi CSVN chiếm được cả nước. Điều mà nhiều người muốn nghe một lời giải thích từ ông Thiệu là:
- V́ sao ông quyết định rút quân ở vùng 1 & 2 trong những tháng đầu năm 1975 đưa đến ngày 30-4-1975?
- V́ sao ông (và những người từng lănh đạo nền đệ nhị cộng ḥa) không hề có một hành động, cử chỉ hay lời nói nào để bày tỏ “thiện chí” với những quân-cán-chính đă ở lại trong nước & bị tù “cải tạo”, những đồng bào vượt biên ở các trại tị nạn hay vừa mới định cư ở xứ người trong suốt 20 năm (1975-1995)?
Tiểu sử: Nguyễn Văn Thiệu sinh ngày 5 tháng 4 năm 1923, tại làng Tri Thủy, xă Tân Hải, quận Thanh Hải, tỉnh Ninh Thuận.
Sau khi tốt nghiệp lớp 9, ông lên Sài G̣n để học nghề. Tuy nhiên, không lâu sau, ông đăng kư vào khóa đầu trường Sỹ quan quân đội Việt Nam, sau trở thành trường Vơ bị Đà Lạt. Năm 1949, ông tốt nghiệp với quân hàm Thiếu úy, tham gia binh nghiệp trong lực lượng người Việt trong quân đội Liên hiệp Pháp.
Sau khi Pháp rút khỏi Việt Nam, năm 1955 ông gia nhập Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa, với quân hàm Trung tá, giữ chức Chỉ huy trưởng Trường Vơ bị Đà Lạt. Đến năm 1962, ông giữ chức Tư lệnh Sư đoàn 5 bộ binh, hàm Đại tá.
Năm 1963, ông tham gia lực lượng đảo chính lật đổ chính quyền Ngô Đ́nh Diệm. Sau đảo chính, ông được phong hàm Thiếu tướng.
Khi tướng Nguyễn Khánh thực hiện “chỉnh lư”, nắm quyền lănh đạo chính quyền, ông được cử giữ chức Tham mưu trưởng sau đó được cử giữ chức Tổng trưởng Quốc pḥng. Năm 1965, ông được thăng Trung tướng. Cũng năm này, chính phủ của Thủ tướng Phan Huy Quát đă giải tán và trao quyền lănh đạo quốc gia lại cho Hội đồng tướng lĩnh. Hội đồng tướng lĩnh đă bầu ông giữ chức Chủ tịch “Hội đồng lănh đạo Quốc gia” và tướng Nguyễn Cao Kỳ làm Chủ tịch “Ủy ban Hành pháp Trung ương”. Ông trở thành Quốc trưởng và tướng Kỳ trở thành Thủ tướng của chính phủ mới.
Năm 1967, Nguyễn Văn Thiệu được bầu làm tổng thống, với 38% số phiếu. Ông giữ chức này cho đến khi chính quyền Sài G̣n sắp sụp đổ vào đầu năm 1975 (Xem Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975). Thời kỳ này chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa cần sự giúp đỡ của Hoa Kỳ nhiều hơn chính phủ của Ngô Đ́nh Diệm. Ông Thiệu là người sáng lập đảng Dân chủ (Việt Nam). Ông đă tập trung quyền lực vào ngành hành pháp, làm suy yếu quyền của ngành lập pháp (quốc hội).
Năm 1969, Tổng thống Thiệu kêu gọi ḥa b́nh bằng cách đề nghị bầu cử bao gồm cả lực lượng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam nhưng phó Tổng thống Kỳ đă cảnh báo rằng bất kỳ nỗ lực nào để Liên minh với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đều rất nguy hiểm. Cũng trong năm này, Nguyễn Văn Thiệu đă vượt quyền hiến pháp, cụ thể là điều luật quy định sự bất khả xâm phạm của dân biểu, để bắt giữ và mở ṭa án quân sự kết án dân biểu Trần Ngọc Châu 10 năm khổ sai, sau khi vị dân biểu này đề nghị lập một đoàn gồm các nhà lập pháp Việt Nam Cộng ḥa ra Bắc để đàm phán với Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa.
Năm 1971, Việt Nam Cộng ḥa tổ chức bầu cử tổng thống. Sau cố gắng không thành công của Nguyễn Văn Thiệu nhằm gạt Nguyễn Cao Kỳ ra khỏi cuộc đua, Dương Văn Minh rút lui không tiếp tục tham gia tranh cử, Nguyễn Cao Kỳ từ chối thế chỗ ông. Cuối cùng, cuộc bầu cử trở thành một cuộc trưng cầu dân ư mà Nguyễn Văn Thiệu đạt được 94% số phiếu.
Năm 1973, sau khi kư kết Hiệp định Paris, Mỹ triệt thoái hoàn toàn quân đội ra khỏi miền Nam. Một thời gian ngắn sau đó Hoa Kỳ cũng cắt giảm hầu hết các kinh phí viện trợ cho chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa khiến khả năng quân sự của chính quyền bị suy giảm nặng. Tháng 3 năm 1975, sau khi Ban Mê Thuột (nay gọi là Buôn Ma Thuột) bị quân đội chính qui miền bắc đánh chiếm, quân đội miền nam phản kích thất bại, Nguyễn Văn Thiệu tỏ ra lúng túng và quyết định rút bỏ cao nguyên. Sai lầm chiến lược đó đă đưa đến những cuộc tháo chạy hỗn loạn khỏi các tỉnh Tây Nguyên và bị Quân giải phóng miền Nam tấn công gây thiệt hại nặng. Sau đó các tỉnh miền Trung cũng thất thủ.
Khi Quân giải phóng miền Nam sắp giành được chiến thắng, ông từ chức vào ngày 21 tháng 4 năm 1975, 9 ngày trước khi Việt Nam Cộng ḥa đầu hàng vô điều kiện. Phó tổng thống Trần Văn Hương thay làm tổng thống.
Đêm 25 tháng 4 năm 1975, Nguyễn Văn Thiệu rời Việt Nam với tư cách là đặc sứ của Việt Nam Cộng ḥa đến Đài Bắc để phúng điếu Tưởng Giới Thạch. Sau đó, ông đến Anh định cư. Ông sống một cuộc sống thầm lặng trong quăng đời c̣n lại và qua đời vào ngày 29 tháng 9 năm 2001 tại Boston, Massachusetts, Hoa Kỳ.
Bookmarks