Ăn cơm Quốc Gia Thờ ma Cộng Sản
Lư Quí Chung và Trịnh Công Sơn
Lư Quí Chung : "Hồi kư không tên", nxb Trẻ, 2005, 488 trang.
Lư Quí Chung sinh sau Trịnh Công Sơn hơn một năm (01/09/1940) tại Mỹ Tho, cũng học trường Chasseloup-Laubat, ban Triết, và mất sau Trịnh Công Sơn 4 năm, ngày 03/03/2005, cũng tại Sài G̣n.
Đọc quyển « Hồi kư không tên », nxb Trẻ, 2005, 488 tr., chúng tôi bắt gặp một số đoạn ông nói về Trịnh Công Sơn, và ảnh hưởng của Trịnh Công Sơn đối với ông ; để bạn đọc tham khảo, xin mạn phép chép lại những đoạn liên quan từ bản điện tử của Talawas, chúng tôi có đối chiếu với bản in, và có sửa lại vài lỗi đánh máy hoặc trích sai ca từ Trịnh Công Sơn từ bản in.
(PvĐ, 19/04/2008)
-trang 124 :
... Slogan tranh cử Quốc hội lập pháp của tôi – “Một miền Nam trung lập trong một Đông Dương trung lập” – như một thứ công chức ḥa b́nh – theo suy nghĩ của tôi – cho cuộc chiến mà lúc đó tưởng như không thể t́m ra lối thoát. Cái chính là chấm dứt chiến tranh, buộc người Mỹ rút quân, không can thiệp vào vấn đề nội bộ của người Việt Nam. Là một cá nhân độc lập, không đại diện cho bất cứ thế lực chính trị nào, cũng không c̣n là con cờ của một cường quốc nào – nên rốt cuộc lời kêu gọi của tôi cho công thức này như tiếng kêu giữa sa mạc. Tôi không khác ǵ một Don Quichotte của nhà văn Cervantès. Tôi cũng ư thức được việc ḿnh làm là “đội đá vá trời” nhưng tôi vẫn tin rằng trong tất cả các cuộc đấu tranh cho những chính nghĩa lớn, tiếng nói của từng người, dù là người rất b́nh thường, nếu được mạnh dạn bày tỏ công khai cũng có thể góp thành dư luận và sức mạnh. Nhưng mặt khác sự dấn thân và bày tỏ thái độ cũng là nhu cầu tự thân của những thanh niên trí thức như tôi ở vào thời điểm ấy. Vào những lúc này, tôi c̣n nhớ, nhạc Trịnh Công Sơn cũng là thứ thuốc kích thích tinh thần cho những người như tôi, lên lại “giây cót” mỗi khi cảm thấy buồn nản, bế tắc. Nhạc Trịnh đă thúc đẩy sự dấn thân cho nhiều thanh niên và trí thức đấu tranh v́ ḥa b́nh và dân tộc.
Scan lại từ phụ trang ảnh nằm giữa các trang 478-479 trong Hồi kư không tên
-trang 146-154 :
Rơ ràng lập trường “đứng giữa” của tôi lúc đó gây phản ứng với các thế lực chống Cộng như thế. Tôi chấp nhận sự “ngây thơ chính trị” của ḿnh để có thể tự tách ḿnh ra khỏi một chế độ không đáp ứng lư tưởng của ḿnh mà cũng không đại diện nguyện vọng của nhân dân miền Nam. Lập trường “đứng giữa” làm tức tối các phần tử chống cộng, nhưng cũng chính thức không nghiêng về phía cộng sản, nên không có đủ lư do để chính phủ Thiệu đóng cửa tờ báo.
Với tôi, lúc đó nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng là một “người Việt cô đơn”, một “người Việt đứng giữa”. Có một hôm tôi mời anh Sơn đến ṭa soạn TNDT chơi và trong một giây phút cao hứng tôi đề nghị anh sáng tác một bản nhạc dành cho người Việt đứng giữa. Nhưng Sơn khéo léo nói sang chuyện khác. Tôi biết Sơn ngại dính líu vào chính trị. Dù tôi không tham gia một đảng phái chính trị nào nhưng tôi cũng đang hoạt động chính trị. Sơn vẫn đặt các sáng tác của anh trên những xúc cảm chung nhất của dân tộc: chống chiến tranh, v́ ḥa b́nh thống nhất đất nước, vượt lên trên những vấn đề thời sự cụ thể. Anh đau niềm đau chung của dân tộc.
Nhạc Trịnh Công Sơn có những lúc là cái phao tinh thần cho cá nhân tôi. Nhiều buổi tối trở về nhà chán nản, tâm trạng khủng hoảng, bế tắc sau một cuộc xuống đường mệt mỏi nhưng chẳng lay động được ǵ chế độ Mỹ - Thiệu, tôi nằm ngay trên sàn nhà, không cần bật đèn, chỉ bật nhạc Trịnh Công Sơn để nghe như nghe chính tâm trạng ḿnh, nhưng đồng thời lại nuôi nấng được trong con tim niềm hi vọng ḥa b́nh và ước mơ được thấy một ngày nào đó, Huế - Sài G̣n – Hà Nội sẽ liền một dải. Thế là nhạc Trịnh làm tươi lại tâm hồn tôi và làm mới ư chí tôi.
Có những đêm, sau cuộc họp chính trị tại Dinh Hoa Lan (biệt thự của tướng Dương Văn Minh) tôi không về thẳng nhà ḿnh mà đến pḥng trà Khánh Lư trên đường Tự Do (nay là Đồng Khởi) để ngồi nghe một ḿnh nhạc Trịnh. Nhạc Trịnh chống chiến tranh nhưng không hề khiến những người yêu nước mềm ư chí. Anh kêu gọi ḥa b́nh nhưng không làm cho những ai đang chiến đấu v́ đồng bào và Tổ quốc lại gác súng. Trái lại nó nuôi ư chí làm quật khởi những tâm hồn yêu nước.
Cuộc sống quá hối hả, dồn dập lắm biến chuyển không có nhiều cơ hội để tôi và Trịnh Công Sơn gặp nhau. Vả lại tôi và Sơn hoạt động ở hai quỹ đạo rất khác nhau. Sau 1975, chúng tôi gặp nhau thường hơn, nhưng v́ tôi không uống rượu và cũng không sành về âm nhạc nên cũng không lọt vào cái quỹ đạo đặc biệt của Sơn gồm những bạn rượu và văn nghệ sĩ. Mỗi lần tôi tới chơi nhà Sơn, tôi đều báo trước và thường ngồi nói chuyện với nhau chỉ có hai đứa.
Khi tôi lấy vợ lần thứ hai (năm 1985) và tổ chức đám cưới tại hội trường báo Tuổi Trẻ, tôi có mời Sơn. Tôi và Sơn rất mê khiêu vũ nên giữa buổi tiệc chúng tôi dẹp bớt đi bàn ghế và cho nhạc trỗi lên. Vào thời điểm này hầu như không ai dám “liều” như chúng tôi. Khai mạc buổi khiêu vũ, Sơn mời cô dâu nhảy đầu tiên, c̣n tôi mời chị Kim Hạnh, Tổng biên tập báo Tuổi Trẻ. Tôi c̣n nhớ đó là một bản nhạc theo nhịp Be Bop. Sơn rất thích nhảy Be Bop. Sau này khi bệnh tiểu đường trở nặng, đi đứng khó khăn, Sơn không c̣n khiêu vũ được, làm anh hối tiếc vô cùng. Có một hôm (khoảng đầu năm 2000) tôi cùng vợ tôi khiêu vũ ở vũ trường Tự Do ở đường Đồng Khởi, đang nhảy ngoài piste, tôi linh cảm có ai nh́n ḿnh từ quầy bar, tôi quay lại và nh́n thấy Trịnh Công Sơn. Đứng bên cạnh là họa sĩ Trịnh Cung. Anh đưa tay lên chào tôi. Khi bản nhạc kết thúc tôi liền đến chỗ anh. Tôi hỏi Sơn: “Ông không nhảy à?”. Giọng Sơn buồn man mác: “Ḿnh đi đứng c̣n khó khăn th́ làm sao nhảy. Thấy toa nhảy, moa thèm quá”. Sơn c̣n hỏi thêm: “H́nh như toa nhảy disco hơi khác người ta phải không?”. Tôi cười trả lời: “Khiêu vũ đâu nhất thiết phải giống như người khác. Ḿnh nhảy theo cảm xúc của ḿnh – như thế tự do và hứng thú hơn”. Nh́n Sơn đứng bên piste mà không nhảy, tôi buồn và thương anh vô cùng. Tôi biết bệnh t́nh của anh đă tới thời kỳ khá nặng.
Mùng 5 Tết năm Tân Tị (năm 2001), tôi vào bệnh viện Chợ Rẫy cùng với họa sĩ Trịnh Cung thăm Sơn. Đây là lần cuối cùng tôi gặp mặt người nghệ sĩ tài hoa này. Chỉ một thời gian ngắn sau đó, ngày 1-4-2001, anh vĩnh viễn từ giă bạn bè và tất cả những người yêu thương và ngưỡng mộ anh. Cuộc gặp Sơn tại bệnh viện Chợ Rẫy, tôi có ghi lại thành một bài báo đăng trên tạp chí Đẹp số đầu tháng 2-2001:
“...Sơn vẫn nằm trên giường khi nói chuyện với chúng tôi, nhưng trông anh vẫn khỏe khoắn, thần sắc tinh anh. Tôi chợt cười thầm trong bụng bởi một ư nghĩ thú vị vụt đến: Con người gầy g̣ và nhẹ bâng này đang mang nhiều thứ bệnh trong người, tưởng như dễ dàng rơi vào tay tử thần, lại là người chiến đấu cho cuộc sống bản thân dữ dội nhất.
Cách đây mấy năm, Sơn bị đưa vào bệnh viện cấp cứu trong t́nh trạng hôn mê. Lần đó, bạn bè thật sự lo lắng cho anh. Cuối cùng Sơn vẫn trở về an toàn. Gặp lại Sơn tại nhà riêng của anh lần đó, tôi ṭ ṃ hỏi: “Đúng là ông trở về từ cơi chết, vậy ông suy nghĩ ǵ về... cái chết?”
Tôi vẫn gọi Sơn như thế, từ “ông” được dùng theo cách xưng hô thân mật. Có lúc chúng tôi gọi nhau bằng “toa” và “moa”, cách xưng hô giữa những người bạn có thời học trường Pháp. Sơn không cần suy nghĩ, trả lời ngay: “Chết là thiệt tḥi. Người Pháp nói: Les absents ont toujours tort. Chết, ḿnh không c̣n họp mặt với bạn bè, không c̣n được ngắm cuộc đời rất đẹp này”. Nhớ câu trả lời cách đây mấy năm, tôi ṭ ṃ muốn biết nằm trên giường bệnh lần này, anh nghĩ ǵ. Câu trả lời c̣n nhanh hon và gọn hơn lần trước: “Ḿnh muốn ra khỏi đây càng sớm càng tốt”.
Hăy cứ vui chơi cuộc đời
Đừng cuồng điên mơ trăm năm sau
C̣n đây em ngọt ngào
Đứng bên ngày yêu dấu
Nh́n mây trôi đang t́m về núi cao
(«Hăy cứ vui như mọi ngày»)
Vóc dáng mảnh khảnh, quen thuộc của anh Sơn với mọi người trong nhiều năm qua, khiến không ai có thể nghĩ rằng Sơn đă có một thời trai trẻ là con nhà thể thao chính cống. Mỗi sáng anh đều quần một hai hiệp quyền Anh. Anh đồng thời c̣n là đệ tử Vovinam từ những ngày đầu môn này được thành lập ở Sài G̣n, và là vận động viên điền kinh 10 môn. Nếu người em trai của Sơn không tung một cú quật trong một lần luyện vơ với nhau, khiến ngực anh đập xuống nền nhà làm vỡ mạch máu phổi phải nằm trên giường suốt hai năm, th́ chắc chắn chúng ta chỉ có một vận động viên Trịnh Công Sơn (chưa bảo đảm là xuất sắc) nhưng mất đi một Trịnh Công Sơn tài năng âm nhạc. Đó là khúc quanh cuộc đời của anh. Sơn nói: “Trên giường bệnh ḿnh suy nghĩ rất nhiều...”. Khi rời giường bệnh năm 1957, trong anh đă có một đam mê khác: âm nhạc. Với nhiều người, tác phẩm đầu tay của Sơn là “Ướt mi”. Nhưng Sơn tiết lộ:
“Bản nhạc đầu tiên đúng nghĩa của ḿnh có tên “Sương đêm”. Không ai biết sáng tác này. Nó đă thất lạc. Bản thân ḿnh cũng không nhớ lời và nhạc như thế nào!”.
Tác phẩm đầu tiên của Sơn – “Ướt mi” – như công chúng yêu nhạc biết, đă được Thanh Thúy – ca sĩ thời thượng những năm 50, người có giọng ca liêu trai, tŕnh diễn lần đầu tại pḥng trà Văn Cảnh. Không như suy nghĩ chung của nhiều người, Khánh Ly không phải là người đầu tiên và duy nhất hát thành công nhạc Trịnh Công Sơn trước năm 1975. Sau Thanh Thúy, một giọng ca lừng danh khác của Sài G̣n thời đó góp phần giới thiệu tác phẩm của Sơn – đó là nữ ca sĩ Lệ Thu.
Khánh Ly là người thứ ba và là người hát toàn bộ các nhạc phẩm của Trịnh Công Sơn. Lần đầu chính Sơn chủ động tiếp xúc với Khánh Ly tại pḥng trà Night Club ở Đà Lạt bằng cách tự giới thiệu ḿnh là tác giả bài “Ươt mi”. Sau một tháng tập bể cả giọng, Khánh Ly cùng Trịnh Công Sơn xuất hiện lần đầu tiên tại sân sau Đại Học Văn Khoa Sài G̣n (hiện là Thư viện Quốc gia) trước 5000 sinh viên. Khánh Ly tŕnh bày luôn 24 sáng tác của Sơn trong đêm đó. Sau đó Khánh Ly đă nói với Sơn: “Trước đây ḿnh chỉ hát trong pḥng trà, lần đầu tiên hát trước hàng ngàn sinh viên, tối đó ḿnh không làm sao ngủ được”. Đó là năm 1965, các sáng tác của Sơn bấy giờ đều là t́nh ca.
Đến năm 1968, Sơn mới sáng tác nhạc phản chiến.
H́nh như Trịnh Công Sơn có hai bài sáng tác về Hà Nội và chẳng có bài nào viết về Huế. Tôi hỏi anh điều ấy. Sơn không trả lời thắc mắc của tôi mà nói: “Có lần Hoàng Hiệp phát biểu, bài nào của Sơn cũng có Huế trong đó mặc dù không có đề cập Huế trực tiếp”.
Thêm một thắc mắc, ṭ ṃ khác: “Có bao giờ ông nghĩ đến chuyện lấy vợ?”
- Có một lần thoáng qua lúc ḿnh trẻ. Nhưng thời đó, các cô gái ít chịu lấy mấy ông chồng nghệ sĩ sống bấp bênh.
- Bao nhiêu phần trăm các sáng tác của ông lấy cảm hứng từ một người đẹp nào đó?
- Một phần năm ḿnh viết cho một người cụ thể.
Họa sĩ Trịnh Cung, bạn thân của Trịnh Công Sơn từ thời trẻ, nói chen vào:
- Theo tôi hơn con số đó. Phải là 40%. Tôi có thể chứng minh bài nào ông viết cho người nào.
Sơn không phản đối. Tôi lại hỏi Sơn: “Bửu Ư viết Thay lời tựa cho Tuyển tập những bài ca không năm tháng của ông, có đoạn nói rằng ông đă chuẩn bị tinh thần cho cái phút sau rốt cuộc đời bằng cách trích lại 4 câu ở 4 sáng tác khác nhau của ông:
... một trăm năm sau măi ngủ yên (“Sẽ c̣n ai”)
... mai kia chào cuộc đời (“Những con mắt trần gian”)
...một hôm buồn lên núi nằm xuống (“Tự t́nh khúc”)
...một lần nằm mơ tôi thấy tôi qua đời (“Bên đời hiu quạnh”)
- Vậy ông có thật sự chuẩn bị cho cái chết?
- Ḿnh không chuẩn bị cho cái chết. Lạ lùng là sau cơn hôn mê, ḿnh tỉnh lại vẫn không thấy vui mừng. Thế mà ngủ nằm mơ thấy chết, sáng thức dậy lại mừng. Đúng là có những người chuẩn bị hẳn ḥi cho cái chết của ḿnh và có những người chẳng chuẩn bị ǵ cả, coi thường cái chết. Riêng ḿnh hơi khác, ḿnh không sợ cái chết nhưng nếu phải rời bỏ cuộc đời này ḿnh rất luyến tiếc. (Sơn dùng thêm tiếng Pháp regret). Trong khi sống ḿnh đă nuối tiếc rồi, ḿnh sợ mất nó. Ḿnh khát sống.
- Ông có bao giờ nghĩ đến chuyện viết di chúc?
- Không. Một cô ca sĩ đă hỏi ḿnh câu đó. Ḿnh có tài sản chi đâu? Với ḿnh cái hiện tại là cái có thật, cùng sống với nó. C̣n cái sau đó...
- Bây giờ nh́n lại cuộc đời đă qua, về t́nh yêu, ông thấy thế nào?
- (Không cần suy nghĩ) Thất bại nhiều, thất bại nặng. Thời trẻ sự thất bại mang lại nỗi đau bàng bạc, kéo dài. Bây giờ nó dữ dội, nhưng ngắn. Ḿnh để nó rơi vào quên lăng, không lục soát lại, coi như một xác chết của quá khứ.
Tôi chuyển sang chuyện khác và hỏi: Ông có kẻ thù không?
- Có (Rồi dừng lại một giây suy nghĩ). Đúng ra là không. Dĩ nhiên cũng có người ghét ḿnh. Riêng ḿnh đă loại trong đầu ḿnh khái niệm kẻ thù.
- Ông là nhạc sĩ dấn thân – engagé?
- Từng giai đoạn, nhưng nói chung ḿnh chủ trương ‘nghệ thuật vị nhân sinh’ chứ không ‘nghệ thuật vị nghệ thuật’. Cho nên nếu v́ một hoàn cảnh nào đó buộc ḿnh đi tu, th́ ḿnh sẽ đi tu giữa cuộc đời này.
- Ông có hối tiếc v́ không có con để nối dơi?
- Không nghĩ tới. Ḿnh chưa bao giờ nghĩ tới một Trịnh Công Sơn con. Tại sao? Để ḿnh xem có lư do nào không? (Sơn suy nghĩ một lúc) Ḿnh không thấy lư do nào cả. Có lẽ cuộc sống vội vàng đi qua, đi qua, rồi... Thỉnh thoảng xưa kia các em ḿnh có nhắc, mẹ ḿnh cũng có nhắc nhưng không ai đặt thành vấn đề, rồi thôi...
Thoắt một cái người đă 61 tuổi, người đă 62. Nhớ lại lần gặp nhau tại ṭa soạn báo Tiếng Nói Dân Tộc ở Sài G̣n năm 1966, thế là đă 35 năm.
Cùng thời điểm Sơn sáng tác những bài hát phản chiến (bắt đầu từ năm 1968), phần tôi trên báo Tiếng Nói Dân Tộc cũng tổ chức cuộc thi viết phóng sự với chủ đề “Viết cho quê hương, dân tộc” dành cho bạn đọc. Các bài dự thi đều chống cuộc chiến, chống sự can thiệp của người Mỹ, phản ánh tâm trạng và thực trạng khắp miền Nam, tất cả hợp thành một bức tranh xúc động và trung thực của nửa phần Tổ quốc phía Nam. Những bài đoạt giải như “Phục sinh đất chết” nói về hậu quả của chất độc hóa học của quân đội Mỹ rải xuống ruộng vườn; “Khi người Mỹ đến”, mô tả chi tiết quá tŕnh một xă ven đô hiền ḥa bị biến thành một nơi buôn hoa bán phấn v́ chạy theo đồng đô la Mỹ; hoặc “Ông lăo trong vùng oanh kích tự do” bi kịch của một ông lăo sống trong vùng đất bị quân đội Mỹ coi là “Free Fire Zone” nhưng nhất định không chấp nhận dời căn lều của ḿnh đi nơi khác v.v...
-trang 387-388 :
Ông Minh nhận trách nhiệm trước lịch sử ở lại đóng nốt vai tṛ của ḿnh bất kể sự việc kết thúc sẽ ra sao. Sự ra đi của con gái và hai cháu ngoại giúp cho ông nhẹ bớt âu lo chuyện riêng tư. Bà Dương Văn Minh th́ vẫn ở lại bên chồng.
Măi đến 12 giớ đêm tôi mới về đến nhà ở đường Nguyễn Tri Phương. Vợ tôi chưa ngủ, vẫn thức chờ tôi. Năm đứa con đă ngủ. Đứa lớn nhất Lư Quí Hùng 13 tuổi, kế đó Lư Quí Dũng 11, Lư Quí Trung 9 tuổi, Lư Quỳnh Kim Trinh – con gái duy nhất – 7 tuổi và Lư Quí Chánh nhỏ nhất mới 5 tuổi. Trong giấc ngủ, chúng như những thiên thần. Trong đầu tôi bỗng lóe lên một ư nghĩ: chiếc thuyền tôi đang lèo lái chở khẳm quá, trong khi biển đang sóng to gió lớn, chẳng biết chuyện ǵ sẽ xảy ra. Nước mắt như chực trào ra. Không biết tại sao. Nhưng tôi kịp ngăn lại. Thay quần áo xong, tôi để một băng nhạc Trịnh Công Sơn vào máy AKAI, bật lên và nằm dài trên thảm. Nhiều lần tôi đă làm như thế sau một ngày chống Thiệu gay go. Với tôi, nhạc Trịnh Công Sơn luôn là một liệu pháp tinh thần kỳ diệu.
Người con gái Việt Nam da vàng
Yêu quê hương như yêu đồng lúa chín
Người con gái Việt Nam da vàng
Yêu quê hương nước mắt lưng ḍng...
Em chưa biết quê hương thanh b́nh
Em chưa thấy xưa kia Việt Nam
Em chưa hát ca dao một lần
...
(“Người con gái Việt Nam”, Ca khúc da vàng)
Cha mẹ tôi chưa biết quê hương thanh b́nh. Tôi cũng chưa biết quê hương thanh b́nh một ngày nào. Hy vọng thanh b́nh ấy sẽ đến với các con tôi chăng? Mây đen đang vần vũ trên bầu trời nhưng ánh sáng tươi đẹp đang ló dạng? Tôi thiếp ngủ lúc nào không biết...
Bộ mặt của Sài G̣n sáng 29-4-1975 khác hẳn ngày hôm trước. Đó là những dấu hiệu đầu tiên của hoảng loạn. Từ nhà riêng ở đường Nguyễn Tri Phương ra Dinh Hoa Lan, ô tô của tôi được hai chiếc xe Jeep của cảnh sát bảo vệ. Một chiếc chạy phía trước và một chiếc chạy bọc sau.
Trước khi bước lên xe, tôi nhận ra sự hiện diện của bốn viên cảnh sát đă từng theo dơi tôi đứng trong tư thế sẵn sàng bên chiếc xe đi theo bảo vệ. Khi ông Thiệu bỏ chạy ra nước ngoài, bốn viên cảnh sát này liền liên hệ với những người bảo vệ tôi và ngỏ ư nhập vào toán cận vệ của tôi nếu ông Minh trở thành tổng thống. Và tôi đă chấp nhận. Họ và tôi chẳng có ǵ để hận thù nhau. Họ chỉ làm phận sự do cấp trên giao.
-trang 420 :
Sau này khi ra Hà Nội nhiều lần tôi thường ghé lại thăm ông Nguyễn Tuân và ông Văn Cao. Khi có dịp vào TP. HCM, hai ông cũng thường đến dùng cơm tại nhà tôi. Hai người có cách sống hoàn toàn khác nhau. Căn pḥng của ông Tuân ấm cúng và sắp xếp như một appartement của một người sống độc thân... ở Paris. Căn pḥng vừa là nơi ăn ngủ làm việc và tiếp khách. Lúc nào ông cũng có rượu Tây loại ngon. Mùa đông có một ḷ sưởi cá nhân tự tạo đặt kế bên giường. Ông nói chuyện duyên dáng, dí dỏm và không né tránh những nhận xét đầy h́nh tượng dành cho các đồng nghiệp hoặc các nhân vật nổi tiếng khác cùng thời. Căn nhà của ông Văn Cao có vị trí thoáng đẹp hơn. Bao giờ ông tiếp khách cũng có vợ ông, bà Băng. Tại pḥng khách có treo bức chân dung rất đẹp của bà Băng thời trẻ do ông Văn Cao vẽ. Bất cứ lănh vực nào mà Văn Cao đặt tay vào cũng đều đạt đỉnh cao từ âm nhạc, thơ cho đến họa. Thường ông ngồi im lặng như pho tượng. Tôi có cảm tưởng: có lẽ người gần như duy nhất gây cho ông sự hứng thú để trao đổi là Trịnh Công Sơn. Cùng với Trịnh Công Sơn bên cạnh, ông đă đồng ư xuất hiện một lần tại Nhà Văn hoá Thanh Niên trong buổi giao lưu với thanh niên TP. HCM.
(Tư liệu PvĐ)
-trang 459 :
Hai ngày sau khi nàng mất tôi đă tổ chức cuộc chia tay cho Cúc Phượng với người thân và bạn bè đúng như nàng đă phác họa. Danh sách bạn bè được mời đến do chính Cúc Phượng nêu tên: Vợ chồng anh Tống Văn Công (cựu tổng biên tập báo Lao Động), anh Vĩnh An, nhà báo Lưu Trọng Văn, vợ chồng nhà báo Hoàng Thoại Châu, vợ chồng nhà báo Trần Trọng Thức, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, anh Nguyễn Trung Dân và vợ là chị Phan Thị Lệ, họa sĩ Trịnh Cung, cô Ư Nhi, hai nhà báo Đặng Hoàng, Thúy Hà và mẹ Thúy Hà.
Trên chiếc bàn dài, nhiều bó hoa tươi của bạn bè đặt chung quanh di ảnh của Cúc Phượng. Trong ảnh, nụ cười của nàng thật hiền ḥa, nụ cười mà tất cả những ai quen biết nàng đều không thể quên được. Một vài người bạn lần lượt đứng lên nhắc lại những kỷ niệm đẹp của ḿnh với Cúc Phượng, riêng anh Lưu Trọng Văn đọc một bài thơ viết tặng nàng:
THIÊN SỨ
Người đàn bà ấy
Từ đâu
Mà tới đây?
Rồi đột ngột đi đâu
Người hàng xóm ngớ ra
Bầu trời cũng ngớ ra
"Người ơi đừng hỏi!"
Tiếng ai nghe quen vậy?
C̣n tiếng ai nữa
ngoài người đàn bà ấy
suốt một đời chẳng muốn ai
bận tâm đến ḿnh
Biết trước ḿnh sẽ đi xa
Sợ úa lá dâu
không đ̣i manh áo
Sợ con ong buồn
không đ̣i ṿng hoa
Sợ đau cánh rừng
không đ̣i ván gỗ
Và tôi,
Tôi cũng biết trước người đàn bà ấy sẽ ra đi
Mà sao không đến chào, tiễn biệt?
Bookmarks