Tâm t́nh một nẻo quê chung

Người về cố quận muôn trùng ta đi

( Huy Cận )

Như vậy là ông Gẫy Súng đă lên tàu về quê.

T.Vấn

8 tháng 11 năm 2010

Lần này th́ súng của ông bị bẻ gẫy chẳng bởi tại người,hay bởi vận nước, mà bởi cái lẽ sinh lăo bịnh tử mà không một ai thóat ra khỏi được ṿng cương tỏa của nó.

Trước khi bước chân lên tàu, ông đă chiến đấu rất dũng mănh và can trường, không kém ǵ trận chiến năm xưa dù sau đó súng của ông ( và của rất nhiều những chiến hữu của ông ) đă bị bẻ gẫy. Súng gẫy th́ vất súng, ông cầm bút. Mấy chục năm nay lưu vong nơi xứ người, với cây bút trên tay ông đă làm được nhiều việc mà không phải ai cũng làm được. Cho đến giây phút ông không c̣n sức để cầm bút nữa, không một ai có thể bẻ gẫy được ng̣i bút của ông. Và ông vẫn là một chiến sĩ cho đến giây phút cuối cùng. Một con Ḱnh Ngư không hề biết sợ sóng, sợ gió.

Nay th́ con Ḱnh ngư sẽ về nằm yên nghỉ giữa biển cả mênh mông , ngày đêm nghe tiếng sóng vỗ ŕ rào như lời mẹ ru đón con ra khỏi cuộc đời , thay cho những tiếng thét đau đớn uất hận ngày nào trên băi biển Thuận An ( Huế).

Những người bạn chiến đấu của ông, những người nằm lại trên băi biển Thuận An từ dạo tháng Ba năm ấy, hẳn sẽ vui mừng chào đón ông, như chào đón một chiến binh quả cảm đă dũng mănh tiếp tục cuộc chiến, dù không cân sức, thay cho những đồng đội của ḿnh bị lọai khỏi ṿng chiến một cách tức tửi .

Tôi h́nh dung ra chuyến tàu “ suốt “ vừa ngừng lại đón ông Gẫy Súng, đang từ từ tiến vào trạm cuối cùng. Trên sân ga, lố nhố những bóng người quen thuộc của băi biển Thuận An năm nào . Người bạn chiến đấu năm xưa đă trở về, thể xác tuy mệt mỏi nhưng thần thái ung dung. Họ lại tiếp tục ngồi bên nhau uống rượu, hút thuốc lá, chửi thề, nhắc lại cho nhau những kẻ c̣n, người mất ( trong thế giới của những người lính gẫy súng ở giờ thứ hai mươi lăm , kẻ c̣n tức người đă chết và người mất, tức những kẻ c̣n nặng nợ trần gian, chưa măn hạn để có thể thảnh thơi bước lên tàu ). Và chắc chắn, ông Gẫy Súng có rất nhiều điều để nói cùng bạn hữu. Bạn bè ông, ngoài nỗi vui gặp lại bạn cũ, hẳn c̣n nỗi vui khác lớn hơn .Ít nhất, thằng Tháng Ba Gẫy Súng đă nói lên được cho họ nỗi uất ức đến chết không thể nhắm mắt của một ngày tháng Ba năm 1975.



Chỉ với một tác phẩm, quyển hồi kư “ Tháng Ba gẫy súng “, ông đă làm tṛn vai tṛ một chứng nhân lịch sử, làm tṛn sứ mạng thiêng liêng của một người cầm bút. Với người cùng thời, những người đă từng sát cánh với ông ở một bên chiến tuyến, ông là hiện thân của lương tâm , của sự dũng cảm , của những khát vọng được sống một cuộc sống b́nh thường như một con người b́nh thường. Với những người đă từng một thời cầm súng đứng ở bên chiến tuyến đối nghịch với ông và những bạn bè của ông, ông là ngọn gió thổi tan đi lớp sương mù ngộ nhận, gây ra bởi một guồng máy tuyên truyền vô nhân tính chỉ nhằm gieo cấy ḷng thù hận giữa những người cùng một ḍng máu đỏ da vàng. Với những thế hệ chưa một ngày sống qua chiến tranh, ông là ngọn đèn soi cho họ thấysự thảm khốc cùng cực của chiến tranh, sự vô nghĩa của thân phận con người trong lửa đạn, sự độc ác vô luân của những tham vọng áp đặt chủ thuyết này , ư thức hệ nọ lên quốc gia dân tộc.

Tất cả những thành tựu không nhỏ ấy, lại là kết quả từ một tập sách mỏng, của một người vốn trước đó không phải là nhà văn. Theo lời một vị thầy của tôi ( nhà văn Nguyễn Xuân Ḥang ), ông không phải là một nhà văn, nhưng đă viết nên “những trang văn xuôi lương thiện và giản dị về con người”.

Tôi nhớ có người nào đó bảo rằng con người ta ai cũng có hai lần chết. Lần chết thứ nhất là khi thân xác được bỏ vào quan tài . Lần chết thứ hai là khi không c̣n ai nhắc đến tên ḿnh nữa.

Nếu quả đúng như vậy th́ ông Gẫy Súng của tôi chỉ chết có một lần.

Bao lâu người ta c̣n nhắc đến, c̣n bàn luận về cuộc chiến tranh tương tàn khốc liệt giữa những người Việt ở hai miền Nam Bắc th́ ngày ấy người ta c̣n phải nhắc đến tên ông, nhắc đến những ngày cuối cùng bi thảm của cuộc chiến.



Hơn 25 năm nay, tiếng kêu bi phẫn của ông Gẫy Súng đă được nhiều người lắng nghe. Mỗi người, ở vị trí của ḿnh – trong và sau cuộc chiến – đều mang một tâm trạng khác nhau khi đọc ông . Người ta có thể phản bác ông, nhưng tôi tin rằng , không một ai – dù là người ở bên kia chiến tuyến với ông – có thể nghi ngờ tính nhân bản phủ đầy những trang viết của Tháng ba Gẫy Súng, kể cả những trang mô tả sự tàn nhẫn khốc liệt nhất, kể cả ở những câu đối thọai độc ác nhất , kiểu “ Đụ mẹ, đánh giặc đă quá ông thầy ! “

Khi tôi viết những ḍng này, hẳn đôi mắt ông Găy Súng đă nhắm lại ( tôi tin như vậy, v́ ông có quá nhiều lư do để thanh thản ra đi ). Ông có măn nguyện không ? tôi không thể quả quyết. Nhưng nếu tôi là ông, tôi sẽ măn nguyện. Những ǵ cần phải làm cho người chết với tư cách kẻ sống sót, ông đă ḥan thành xuất sắc.

Ông ra đi, những vẫn c̣n lại những trang viết, những “ trang văn xuôi lương thiện và giản dị về con người“. V́ chúng lương thiện và giản dị, nên chắc chắn chúng sẽ bất tử.



Cụ Tiên Điền Nguyễn Du đă từng kêu lên : Bất tri tam bách dư niên hậu. Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như ? Giả như ba trăm năm sau ngày cụ Nguyễn Du lên tàu “ suốt “, vẫn c̣n có người khóc cụ th́ phỏng có ích ǵ cho cụ không khi thân xác cụ đă chỉ c̣n là nắm đất vụn. Điều quan trọng là những câu lục bát của cụ vẫn c̣n được lưu truyền không chỉ ba trăm năm, mà sẽ là ba ngàn năm, ba triệu năm nữa.

C̣n ông Gẫy Súng của chúng tôi ? Ông có cần phải thắc mắc rằng ba trăm năm sau liệu có c̣n ai nhớ đến ông không ? Tôi không tin ông bận tâm về điều đó. V́ những trang viết lương thiện và giản dị của ông, không phải chỉ cho ông, mà c̣n cho một thế hệ tuổi trẻ ( ở cả hai miền Nam Bắc ) Việt Nam tội nghiệp. Nếu ba trăm năm sau, có kẻ hậu thế nào đó – nhờ đọc được Tháng Ba Gẫy Súng của ông – đă làm hết sức ḿnh để tránh cho lịch sử của ba trăm năm trước lập lại, thế cũng đă quá đủ một đời phong ba rồi, phải không ông ?

Mấy hôm trước, nghe tin ông đang ngấp nghé bên bờ tử sinh, tôi đă nhờ người quen kẻ biết nhắn với ông rằng “Chừng nào tới giờ lên tàu, ông cứ thanh thản lên tàu. Đừng lo cho chúng tôi. Thế nào cũng c̣n chỗ cho kẻ đến sau, chứ không phải như tháng Ba gẫy súng năm nào mà phải giành nhau đâu, ông Cao Xuân Huy ạ ! “.

Đường đời muôn vạn nẻo, nhưng chỉ có một nẻo đích thực để trở về cố hương. Đó là lối nhỏ đi qua những tấm ḷng bằng hữu, với hành trang trên vai là ḷng thương yêu của những người thân kẻ thuộc trong gia đ́nh.

Ông Gẫy Súng của tôi ơi ! lối nhỏ bằng hữu đang hân hoan đón chào ông, hành trang thương yêu của gia đ́nh đang sẵn sàng chờ ông ghé vai đỡ lấy.

Chúc người về cố quận thượng lộ b́nh an !

T.Vấn

Thứ Sáu 12 tháng 11 năm 2010

*Ông Cao Xuân Huy thở hơi cuối cùng vào lúc khỏang 4 giờ 53 chiều ( giờ Cali ) ngày thứ Sáu 12 tháng 11 năm 2010.Nhận được tin do một người anh em trong gia đ́nh TQLC của CXH cho hay qua e-mail lúc 8 giờ tối ( giờ Wichita , KS đi trước Cali 2 tiếng ) , tôi bỏ hết mọi công việc hàng ngày, v́ không thể làm được ǵ khác, ng̣ai việc ngồi vào bàn viết . Và dù không muốn rườm lời, nhưng tôi nghĩ , để đưa tâm cảnh người đọc vào thế giới “ ông Gẫy Súng “, tôi thêm phần phụ lục này vào cuối bài . Đó là bài phóng bút khi tôi vừa đọc được tin ông Cao Xuân Huy đang ở vào những ngày cuối cuộc đời ( đă được giới thiệu trên trang Web cá nhân của tôi – T-Van.Net – ngày 3 tháng 11 năm 2010).

Cao Xuân Huy tháng Ba gẫy súng

Đêm không ngủ được .Đọc lại những hàng chữ cũ. Chuyện của nhiều năm trước như hiển hiện trước mặt. Tươi rói như mới vừa xẩy ra hôm qua. Rồi bỗng nhiên biến mất và tối đen như màn h́nh chiếc Ti Vi bị mất điện. Ông già trong h́nh ảnh cặp vợ chồng già ngồi lặng lẽ giữa buổi chiều thu vàng ( của Ân t́nh tháng mười một ), – thở dài thườn thượt khi nh́n thấy con gà trống nhảy lên lưng con gà mái miệng kêu cục cục,- vừa mới lên chuyến xe cuối cùng về hư vô hôm tuần trước. 86 tuổi mới chết th́ cũng chẳng có ǵ tiếc nuối. Buổi tiễn đưa ông, tôi đứng trước quan tài, nh́n khuôn mặt người bạn già ( vong niên ) b́nh thản , bỗng thấy ḷng ḿnh cũng b́nh thản lạ lùng. Không gian tràn đầy tiếng hát của ông ( thu âm từ những ngày ông c̣n là một ca nhạc sĩ tài tử ), nghe ấm áp và an ủi. Một buổi lễ đưa tang không đượm chút u buồn. Một cảm giác nghỉ ngơi, nhẹ nhơm khiến mọi người trở nên thư giăn. Đây là h́nh ảnh lư tưởng của cái chết, của sự chia ly. Có ích ǵ đâu mà phải khóc lóc nỉ non níu chân người đi. Ai rồi cũng được một lần lên đường. Hăy t́m lại cái háo hức thời tuổi trẻ làm hành trang , đừng ôm đồm mang theo làm ǵ những kỷ niệm, chúng chỉ khiến người đi nặng xác nặng ḷng.

Cũng cuối tuần trước, một chiều thu rất điển h́nh của thu – không gian im ắng, lá rơi xào xạc, cơn gió vừa đủ cho cảm tưởng cần một chiếc áo khóac nhẹ – những người bạn của chiều thu năm nào lại hẹn ḥ gặp nhau ở Oklahoma. Tuy không đủ mặt, nhưng có c̣n hơn không. Thay v́ những tiếng đàn, tiếng hát của năm nào th́ nay chỉ c̣n những câu chuyện, kể về . . . chiều thu năm ấy. Rồi ngậm ngùi nh́n nhau. Rồi chép miệng than van : thời gian như chim bay, như gió thổi. Thóang chốc đă 5 năm . Thóang chốc đă kẻ ra đi, người ở lại.

Và sáng nay, trong lúc nhấm nháp ngụm cà phê thơm phức đầu ngày, ngụm cà phê quen thuộc cho cảm giác ḿnh vẫn c̣n sống, c̣n thở, chiếc màn h́nh cái laptop trước mặt chập chờn hàng chữ :

Nhà văn Cao Xuân Huy tác giả của tác phẩm Tháng 3 Găy Súng, là một cây viết được nhiều người yêu mến và cũng là một kư giả từng cộng tác với nhiều tờ báo Việt ngữ tại miền Nam California, ông cũng là một cựu sĩ quan thuộc Tiểu đoàn 4 Ḱnh Ngư Thủy Quân Lục Chiến, sau một thời gian vật lộn với căn bệnh Ung thu Gan, hiện nay ông đang mấp mé những ngày cuối đời, thời gian chỉ tính bằng ngày hoặc ráng lắm th́ bằng tuần mà thôi. . . ( Calitoday -11/02/2010 ).

Ngụm cà phê trong miệng bỗng nhạt thếch. Thêm một con nhạn là đà . . . sắp rụng. Cao Xuân Huy hơn tôi độ 1 hay 2 tuổi. Tôi chẳng quen ông, và ông cũng không biết ( không nhớ ) tôi là ai. Ngày mới qua Mỹ, quyển sách đầu tiên tôi đọc là quyển Tháng Ba gẫy súng, t́nh cờ t́m thấy nơi thư viện thành phố. Sau đó, tôi đă nhiều lần đọc lại, mỗi lần đọc là mỗi lần muốn chửi thề như tác giả đă chửi thề trong sách.
Ông nhà văn Ḥang Khởi Phong, tác gỉa “ Ngày N, Giờ G “, người mà trước khi vui vẻ nhận tôi vào vai em, đă cùng tôi “ chỏang nhau “ ra tṛ nhân một bài viết của tôi ông lấy từ trang Talawas về đăng trên tờ Người Việt ở Nam Cali ( hồi đó HKP c̣n là chủ bút của tờ báo ). Ông bảo , Cao Xuân Huy là em kết nghĩa của ông, ông cũng sẽ coi tôi như Cao Xuân Huy, v́ chúng tôi cùng độ tuổi, cùng tính t́nh ngang bướng (sic). Dầu vậy, tôi vẫn không quen Cao Xuân Huy.

Một thời gian sau, bỗng một hôm tôi nhận được bức e-mail chuyển lại từ Talawas của Phạm thị Ḥai. Tác giả là ông Cao Xuân Huy. Ông muốn tôi đồng ư cho ông đăng trên tạp Chí Văn Học ( CXH là Tổng Thơ Kư ), một bài viết của tôi vừa lên mạng Talawas, đề tài về thành phố New Orleans trong cơn băo Katrina. Tất nhiên là tôi hoan hỉ bằng ḷng. Sau đó, CXH gởi cho tôi một gói to tướng những số báo Văn Học, mới cũng như cũ ( thay cho nhuận bút , có lẽ! Nhưng có bao giờ tôi đ̣i hỏi nhuận bút đâu, nhất là với ông CXH, người dạy tôi chửi thề .). Dầu vậy, tôi vẫn không quen Cao Xuân Huy.



Mới đây, ông Cao Xuân Huy có in một quyển sách, nhan đề “ Vài mẩu chuyện “, ra mắt độc giả ở hội trường báo Việt Herald. Đến phần tác gỉa phát biểu, ông nói : “ Đây không phải là ra mắt sách. Thực ra, đây chỉ là giới thiệu cuốn sách vừa mới ra của tôi với anh em.” Ông chỉ nói thế thôi rồi đi xuống. Buổi ra mắt sách, theo lời tường thuật của Việt Herald ( nhờ vậy mà tôi được biết chuyện này ), có sự tham dự của nhiều giới, trong đó có 2 vị cựu lính Thủy Quân Lục Chiến ( cấp chỉ huy trong binh chủng của ông Cao Xuân Huy ) là cụ Trường Can Đ̣an Trọng Cảo và cụ Phila Tô Văn Cấp. Hai vị này vốn là “ bạn học “ nhiều năm của tôi từ hồi chúng tôi c̣n dùi mài cầy cuốc ở Đại-Hộc-Máu ( chữ của cụ Phila ). Hai cụ , trong buổi ra mắt sách ấy, khen rằng ông Cao Xuân Huy dám nói những điều mà ít người dám nói. Liều mạng cỡ như cụ Phila mà c̣n phải khen cái “ liều “ của ông Cao Xuân Huy th́ quả ông Cao Xuân Huy “ ngon “ thật. Không “ ngon” sao được khi mà ngay lần đầu tiên cầm bút viết quyển “ Tháng ba gẫy súng “ ông đă lừng lững đi vào văn học sử . . . hải ngọai. Trong suốt 25 năm nay, nhiều người đọc thuộc nhiều giới từ trong nước đến ng̣ai nước, vẫn c̣n nhắc tới “ Tháng Ba gẫy súng “ . Có người bảo cái tên CXH bây giờ đă trở thành “ Cao Xuân Huy Tháng Ba gẫy súng “. Cũng phải thôi, v́ ông không viết nhiều, v́ “ Tháng Ba gẫy súng “ có một số phận gắn liền với số phận cá nhân ông, số phận những người cùng lứa tuổi với ông ( trong đó có tôi ).

Giờ đây, ông Cao Xuân Huy đang nằm thoi thóp chờ chết. Có “ quậy “ cỡ nào th́ cũng đến lúc này. Tháng 3 năm nào ông chờ tàu hải quân vào rước ở cửa biển Thuận An, nhưng không có tàu. Tháng 3 năm đó, ông gẫy súng. Mấy chục năm sau, ông lại chờ tàu nữa. Lần này, không phải tháng 3 mà là tháng 11 ( tháng của những chuyến tàu suốt chạy liên lỉ ngày đêm phục vụ khách lữ hành đă măn hợp đồng trần gian) , nên có lẽ cái huông lỡ tàu không đến nỗi đeo đuổi ông. Bị ung thư gan th́ chắc chắn sẽ có tàu lại đón, chỉ c̣n vấn đề sớm muộn thôi. Một khi đă được lên tàu th́ gẫy súng hay không gẫy súng cũng chẳng c̣n ǵ để bàn căi, phải không ông Cao Xuân Huy, người tôi chưa bao giờ quen , chỉ biết mà thôi !

Cái tin không vui về ông khiến tôi bần thần cả buổi. Không gian mùa thu vốn chỉ làm tâm hồn con người cảm ḥai, nay trước cuộc sắp-sửa-chia-tay của ông Cao Xuân Huy với trần gian, mối cảm ḥai ấy lại càng thêm đậm đặc. Tôi giở ra đọc lần nữa Tháng Ba gẫy súng. Lại chửi thề !

Cám ơn ông nhé, người đă dạy tôi chửi thề ( nhờ thế mà đỡ phát điên ). Chừng nào tới giờ lên tàu, ông cứ thanh thản lên tàu. Đừng lo cho chúng tôi. Thế nào cũng c̣n chỗ cho kẻ đến sau, chứ không phải như tháng Ba gẫy súng năm nào mà phải giành nhau đâu, ông Cao Xuân Huy ạ !

Tạm biệt ông nhé, người không quen ! Nhưng có lẽ sẽ quen khi tôi gặp lại ông ở đâu đó. Nơi một cơi trên hoặc cơi dưới. Khi ấy, gẫy súng c̣n chẳng bận tâm huống hồ cơi trên hay cơi dưới ! Phải không ông Tháng Ba gẫy súng ?

Xin ông thứ lỗi, lúc này đây, một góc hồn cải lương của tôi bỗng bật câu hát nho nhỏ . . . Thôi về đi ! đường trần đâu có ǵ . . .

Hốt nhiên, ngồi trong nhà, mà tôi tưởng như ḿnh đang đi giữa cơn mưa thu ngọt ngào.

T.Vấn