Tôi viết về nhiều nơi, những nơi tôi đă đi qua và cả những nơi tôi một lần đặt chân đến.
Tôi viết về Sài G̣n và những ngày băo lửa 75, về Hội An và những mùa lá đổ trước sân chùa, về khu kinh tế mới Đồng Xoài và những nơi mùa xuân không c̣n trở lại.
Nhưng, ngoại trừ những ḍng thơ của tuổi học tṛ nhiều sáo ngữ, măi đến hôm nay tôi mới viết riêng một bài về Đà Nẵng.
Tại sao? Đơn giản chỉ v́ tôi muốn giữ riêng cho tôi trong giấc mơ về một thành phố dấu yêu, về những con đường hoa phượng đỏ và một thuở hoa niên đầy kỷ niệm.
Đà Nẵng của tôi, một thời được xem như là một Lebanon của Châu Á, thành phố chiến tranh, xô bồ, tang tóc.
Nơi đó, tháng 3 năm 1965, bước chân của những người lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đầu tiên đổ bộ để làm đầu cầu cho cuộc chiến tranh tốn kém nhất trong lịch sử Hoa Kỳ.
Địa danh Đà Nẵng xuất hiện nhiều lần trong quân sử Mỹ, nhiều hơn cả những mặt trận lừng danh trong thế chiến thứ hai như Bulge, Ardennes, Midway v.v. Đà Nẵng với những doanh trại, băi biển được gọi bằng tiếng Mỹ: China Beach, TienSa Camp, Monkey Mountain.
Đà Nẵng của tôi, nơi những buổi chiều của tuổi mười ba, tôi vẫn thường đứng nh́n những đoàn xe mang nhăn hiệu Sealand, RMK, GMC nối đuôi nhau mỗi ngày trên chiếc cầu màu đen mang tên của một viên tướng Thực Dân.
Những chiếc chiến xa nặng nề, những khẩu đại pháo ṇng dài được cất lên từ chiếc tàu lớn neo ngoài cửa biển Sơn Chà.
Tiếng gầm thét của những đoàn phi cơ chiến đấu đang đáp xuống phi trường quân sự ngoài ngă ba Duy Tân.
Tiếng nhạc, tiếng cười, tiếng chọc ghẹo, okie, hello, goodbye của những người lính Mỹ và những cô gái Việt Nam vào tuổi chị tôi, vọng lại từ những hộp đêm dọc bờ sông Bạch Đằng.
Tất cả đă khơi dậy trong ḷng tôi nhiều câu hỏi, nhiều băn khoăn và cả những tủi thẹn đầu đời của một đứa bé Việt Nam, xót xa cho số phận của một cây cổ thụ bốn ngàn năm đang biến thành cây chùm gởi. Tại sao? Tại sao lại là Đà Nẵng?
Tại sao là Việt Nam quê hương tôi mà lại không phải một nơi nào khác?
Đà Nẵng của tôi, như định mệnh an bài, cũng là nơi an nghỉ của người lính Mỹ đầu tiên thuộc chiến hạm lừng danh Hoa Kỳ, USS Constitution.
Không phải đợi đến 1965, khi các chiến hạm thuộc Đệ Thất hạm đội thả neo tại cửa biển Đà Nẵng để đổ bộ các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đầu tiên, nhưng từ hơn 120 năm trước, Đà Nẵng đă là một nơi hẹn ḥ đầy định mệnh giữa quân đội Việt Nam thời Thiệu Trị và Hộ Tống Hạm Hoa Kỳ đầu tiên của hải quân Mỹ dưới quyền của hạm trưởng John Percival.
Theo các tài liệu c̣n ghi lại, năm 1845, chiến hạm USS Constitution của Hải Quân Hoa Kỳ, trên chuyến hải hành 2 năm ṿng quanh thế giới, dừng lại cảng Đà Nẵng để xin cung cấp thực phẩm và nước ngọt.
Cũng tại hải cảng lịch sử nầy, Hạm trưởng John Percival xin phép quan trấn thủ thành Đà Nẵng để chôn cất thủy thủ William Cook vừa qua đời, dưới chân Núi Khỉ nằm trong rặng Sơn Chà.
Thậm chí ông c̣n “viện trợ” 2 Mỹ kim để lo phần hương khói. Tiếc thay, chỉ vài ngày sau đó, v́ việc triều đ́nh Huế bắt giam Giám Mục Dominique LeFevre, đă làm cho tang lễ thắm đượm t́nh nhân đạo của con người, biến thành một xung đột quân sự giữa hai quốc gia.
Cuộc chạm trán ngắn ngủi năm 1845 rất ít người biết đến. Những viên đại pháo bắn vào lănh hải Việt Nam, dù chỉ để đe dọa, cũng đă vô t́nh gây thương tích cho quan hệ đầy oan trái giữa hai quốc gia Việt Mỹ sau này.
Đà Nẵng của tôi có khu Ngă Ba Huế nhộn nhịp, nơi tôi từ Hội An về thăm cô tôi những chiều thứ Sáu trong những chiếc xe khách hiệu Renault già nua màu xanh đậm.
Tôi vẫn nhớ căn nhà nhỏ, ánh đèn dầu loe lắt, bàn tay xanh xao của cô khi dúi vào túi tôi những tờ giấy bạc được gói kín trong nhiều lớp vải.
Đó là những đồng tiền khó khăn và vô giá mà cô dành dụm cho đứa cháu trai vào Hội An nương náu trong chùa ăn học.
Tôi ra Đà Nẵng t́m cô vào đầu năm 1968
. Nhà cô nghèo, con cháu lại quá đông. Nhiều đêm tôi phải ngủ đói trên căn gác của một trại cây ở hẻm 220 Hùng Vương, ngang hông phường Thạc Gián.
Vài tuần sau, v́ nhà đông đúc, cô đưa tôi đến sống với người anh họ và bà chị dâu khó tánh ở Cỗ Mân, Sơn Chà.
Sau một thời gian ngắn, tôi không chịu đựng được nữa nên lặng lẽ bỏ đi.
Tôi vào chùa Viên Giác. Năm tháng như mây trời, bao độ hợp tan mang theo những giận hờn, thương ghét. Cô tôi đă về bên cơi khác nhưng ḷng tôi sao vẫn nhớ vẫn thương.
Trên xứ người, nhiều đêm không ngủ được, nhớ lại tiếng ho của người cô bịnh hoạn, tôi vẫn c̣n nghe nhức nhối như thuở mới về thăm.
Chiến tranh và nghèo đói đă cướp đi bao thế hệ Việt Nam vô tội.
Đà Nẵng của tôi không phải chỉ là điêu linh tang tóc mà c̣n là thành phố cảng đẹp tuyệt vời.
Những bờ biển uốn cong như mái tóc của người con gái Việt Nam đang đứng trông ra Thái B́nh Dương bao la bát ngát.
Từ eo biển mỹ miều đó những thương thuyền ngoại quốc đă đến thăm thành phố từ mấy trăm năm trước.
Đà Nẵng của tôi có hàng phượng đỏ hai bên đường Bạch Đằng, đường Độc Lập với những chiếc ghế đá dọc bờ sông mang chứng tích của một thời học tṛ đầy kỷ niệm.
Đà Nẵng của tôi có băi Mỹ Khê (chứ không phải China Beach), với bờ cát trắng chạy dài và hàng dương vi vu theo gió, có băi Thanh B́nh với những chiếc ghe đánh cá đi về và cảnh chợ chiều nhộn nhịp.
Những ngày hè oi bức, tôi và đám bạn vẫn thường ôm đàn ra ngồi dựa lưng vào những gốc dương liễu dọc băi biển.
Trong tiếng sóng từng nhịp vỗ vào bờ, chúng tôi cùng cất cao bài hát Ra Khơi như để cổ vơ cho những chiếc thuyền đánh cá đang giong buồm ra biển.
Tôi đâu biết vài năm sau, bạn bè tôi cũng lần lượt ra khơi như thế nhưng chẳng c̣n ai dám đến tiễn đưa.
Đà Nẵng của tôi có những hàng cây sao t́nh tự dọc đường Thống Nhất, nối từ bờ sông đi ngang qua Trường Nữ, nơi các cô cậu học tṛ Phan Châu Trinh, Phan Thanh Giản vẫn thường đứng đợi người trong mơ sau mỗi buổi tan trường. Những chiếc áo dài trắng thướt tha.
Những mái tóc thề chấm vai thơ mộng. Những đôi mắt nai tơ đó đă từng là nguồn cảm hứng của nhiều nhà thơ xứ Quảng đa t́nh. Xin mời đọc vài câu thơ của nhà thơ Luân Hoán viết về các cô nữ sinh Đà Nẵng:
chiều chiều luồn chợ Vườn Hoa
trôi theo Đồng Khánh bám tà áo bay
mắt hồng liệng cái ngoắt tay
dắt qua Độc Lập dựa cây đèn đường
chập chùng xuân ảnh vải hương
ngó ai ḷng cũng yêu thương tức th́
giả vờ châm thuốc nhâm nhi
nuốt thầm vóc đứng, dáng đi quanh ḿnh.
(Đà Nẵng, thơ Luân Hoán)
Các cô nữ sinh của một thời thơ mộng tung tăng như những con bướm vàng trên đường Thống Nhất, Lê Lợi, Hoàng Diệu, Khải Định ngày xưa, đă không về nữa.
Các cô đă ra đi, đă bỏ lại sau lưng ḿnh hàng cây sao rợp bóng bên đường, bỏ lại những chiếc ghế vuông, những ly chanh muối, những quán chè.
Các cô bây giờ đă lớn, đă trưởng thành. Nhiều cô đă là những bà mẹ tay bồng tay bế, để rồi, 17 năm sau ngồi nhớ lại năm ḿnh 17 tuổi.
Mười bảy năm trời không thấy nhau
Aó xưa giờ chắc đă phai màu
Tôi đi góp lá ngàn phương lại
Đốt lửa cho đời sương khói bay.
(Thơ Trần Trung Đạo)
Bookmarks