T́nh h́nh Biển Đông sôi động hiện nay có thể nói bắt đầu từ chủ trương về hải phận của Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc (CHNDTQ) trong thập niên 50 vào thế kỷ trước. Đây là một hiện tượng mới mẻ vào thời đó v́ dưới chế độ quân chủ trước thế kỷ 20, vua chúa Trung Quốc chưa nghĩ đến việc bành trướng ra biển cả.
1- Tâm lư điền chủ của các triều đ́nh Trung Quốc
Cho đến đầu thế kỷ 20, Trung Quốc là một nước thuần túy nông nghiệp, “dĩ nông vi bản” tức lấy nông nghiệp làm căn bản. Khi nói đến nông nghiệp là nói đất đai, ruộng đồng canh tác. Vua chúa Trung Quốc thường tự cho ḿnh cái quyền là điền chủ của tất cả đất đai trong thiên hạ. Trong Kinh thi do Khổng Tử (551-479) san định cách đây khoảng 2500 năm, có hai câu: “Phổ thiên chi hạ, mạc phi vương thổ”, nghĩa là “khắp cơi dưới trời, không có chỗ nào không phải là đất của vua”.(1)
Nh́n vào bản đồ Trung Quốc, phía đông là biển, phía tây là đất liền. V́ vậy, vua chúa Trung Quốc luôn luôn nuôi mộng chiếm thêm đất đai về phía tây, xâm lăng các nước láng giềng, chiếm Mông Cổ, Tân Cương, Vân Nam, Tây Tạng, nhiều lần tấn công Đại Việt… và hầu như không chú ư đến phía đông là Thái B́nh Dương. Chỉ có một ít dân chúng tiến ra các đảo cận duyên định cư v́ lánh nạn hay mưu sinh.
Trịnh Ḥa (Zheng He / Cheng Ho), sinh năm 1371, tên thật là Mă Ḥa (Ma Ho)
Trong lịch sử Trung Quốc, dưới đời Minh Thành Tổ (trị v́ 1403-1424), đô đốc Trịnh Ḥa (Cheng Ho, 1371-1433) đă bảy lần dẫn hạm đội Trung Quốc từ 1405 đến 1431, vượt Thái B́nh Dương, qua Ấn Độ Dương, xuống tận Phi Châu.
Thậm chí tác giả Gavin Menzies, trong sách 1421: The Year the Chinese Discovered the World, (1421: Năm Trung Quốc phát hiện ra Thế giới) (New York Magazine, 2002), c̣n cho rằng Trịnh Ḥa đă khám phá ra Mỹ Châu trước cả người Tây phương.
Tuy vậy, những chuyến hải hành của Trịnh Ḥa không phải để t́m kiếm thuộc địa, chiếm đất. Việc Trịnh Ḥa ra đi lần đầu tiên bắt nguồn từ một việc rất thường t́nh.
Nguyên vào năm 1398, Minh Thái Tổ (Minh Tai Zu, trị v́ 1368-1398) từ trần. Thái tử đă chết, con của thái tử, tức cháu nội Minh Thái Tổ, lên ngôi tức Minh Huệ Đế (Minh Hui Zi, trị v́ 1399-1402).
Người con thứ hai của Minh Thái Tổ, tức chú của Minh Huệ Đế, tên là Chu Đệ (Zhu Di) ở Yên Kinh (Bắc Kinh). Ông là một tướng tài nhiều tham vọng.
Năm 1402, Chu Đệ đem quân về kinh đô Yên Lăng (Nam Kinh), lật đổ Huệ Đế.
Khi vào Yên Lăng, quân của Chu Đệ t́m được xác của hoàng hậu, hoàng tử, và xác một người bị cháy không nhận diện, được nghi là Huệ Đế. Tuy nhiên, lúc đó lại có dư luận tại kinh đô cho rằng Huệ Đế có thể đă trốn thoát ra các hải đảo.
Chu Đệ lên ngôi hoàng đế, tức Minh Thành Tổ (Minh Cheng Zu, trị v́ 1402-1424). Thành Tổ vẫn lo ngại Huệ Đế c̣n trốn tránh ở hải ngoại, nên ra lệnh thành lập một hạm đội hùng mạnh và sai giám quan Trịnh Ḥa đi t́m Huệ Đế.(2) Không t́m được Huệ Đế, nhưng Trịnh Ḥa đem về nhiều ngọc ngà châu báu, nên từ đó có những chuyến hải hành kế tiếp.
Có thể nói, Trịnh Ḥa đưa hạm đội ra các đại dương hoàn toàn không phải là v́ tham vọng chiếm đóng thuộc địa của vua nhà Minh. Trịnh Ḥa là phái đoàn duy nhất của triều đ́nh Trung Quốc viễn du trên đại dương, nhưng không v́ mục đích chiếm đất.
Hai hải đảo lớn gần lục địa Trung Quốc là Đài Loan và Hải Nam.
Năm 111 trước Công nguyên, Hán Vơ Đế (Han Wu Ti, trị v́ 140-87 TCN) sai Lộ Bác Đức (Lu Bode) đem quân đánh nước Nam Việt (Quảng Đông) do nhà Triệu cai trị. Lộ Bác Đức tiến quân chiếm luôn đảo Hải Nam và đặt một binh trạm ở đây, nhưng vào năm 46 TCN, nhà Hán cho rằng việc chiếm đóng quá tốn kém nên rút lui.
Từ đó, Hải Nam tuy tự trị nhưng về hành chánh khi th́ thuộc Quảng Đông, khi th́ thuộc Quảng Tây. Trong thế chiến thứ hai (1939-1945), Nhật Bản chiếm đóng Hải Nam. Khi cộng sản chiếm được lục địa Trung Quốc năm 1949, cộng sản chiếm luôn Hải Nam năm 1950.
Đảo Đài Loan cũng thế. Nhà cầm quyền Trung Quốc có thể biết đến Đài Loan từ thế kỷ thứ 3, thời Tam Quốc (213-280).
Tuy nhiên thổ dân địa phương tự trị. Đây là một nhánh thuộc tộc người Mă Lai đa đảo (Malayo-polynesian). uối thế kỷ 16, người Bồ Đào Nha đến đây năm 1590, gọi đảo nầy là Ilha Formosa (Đảo xinh đẹp). Người Bồ không ở đây lâu.
Năm 1622, Công ty Đông Ấn Ḥa Lan (The Dutch East India Company) đặt căn cứ quân sự ở quân đảo Pescadore (c̣n gọi là Penghu hay Bành Hồ), nhưng bị người Trung Quốc đánh đuổi, phải bỏ qua Đài Loan và xây dựng cơ sở ở đây từ năm 1624.
Người Ḥa Lan cai trị Đài Loan cho đến khi bị Trịnh Thành Công (Cheng Cheng-kung), một cựu tướng nhà Minh, đánh bại năm 1662. Trịnh Thành Công dùng Đài Loan làm căn cứ chống nhà Thanh (Ch’ing, 1644-1911).
Truyền đến đời cháu nội là Trịnh Khắc Sảng, mới 12 tuổi, th́ Trịnh Khắc Sảng bị đô đốc của nhà Thanh là Thi Lang (Shih Lang) đánh bại năm 1683. Thi Lang chiếm Đài Loan.
( C̣n tiếp ...)
Bookmarks