E=MC(2): E equals M C squared. Yêu nước là Yêu Chủ Nghĩa Xă Hội!
E=MC(2): E equals M C squared -- công tŕnh chỉ của một ông. Nhân loại áp dụng!
Yêu nước là Yêu Chủ Nghĩa Xă Hội -- "sáng chế" của một vài đứa đam mê. Toàn dân Việt Nam tin tưởng!
Đă dẫn, xin dẫn cho trọn. Ngày nay nhân loại ai cũng sử dụng computer (kết quả của những người đam mê) nhưng nhân loại đâu phải ai cũng biết computer làm việc ra sao đâu?
la-bồ
:) Cách ghép từ của cụ Phạm Thế Ngũ (1). La-Bồ-Nhật, Bồ-Hoa... v.v... (1c trang 58.)
Quốc ngữ phôi thai theo giáo sư Phạm Thế Ngũ
Trích trang 59 (1c):
-- Theo tôi, điều thú vị là trong nhóm
Sino-Xenic của nhà ngôn ngữ học Hoa Kỳ L.C. Thompson (3), chỉ có Việt Nam là thanh thản từ bỏ quá khứ, chấp nhận món quà chữ viết của người Tây Phương. Trong chúng ta, có ai hỏi tạo sao?
*
* *
Tóm lược nhận định về chữ Nôm của giáo sư Phạm Thế Ngũ (1)
Trích (1b) trang 47 đến 48:
Thờ kỳ sơ khởi: Triều Trần-Lê (1225 - 1527)
Một tính cách chung của thời này là sự thiếu thốn và mờ tối của tài liệu. Văn nôm tuy nói xuất hiện vào đời Trần mà cả đời Trần không lưu lại ǵ đích xác. Thơ Vương Tường cũng như truyện Trê Cóc, Trinh Thử được chấp nhận là theo ức thuyết và truyền thuyết. Hết đời Trần mới có vài áng đích văn về sứ giả Nguyễn Biểu (1413), song những áng văn ấy măi đến đời Lê mới được sao. Sang Lê th́ thơ quốc âm của Nguyễn Trăi là căn cứ vào một công tŕnh sưu tập vào đầu đời Nguyễn, thơ Hồng Đức cũng chỉ chép lại vào đời Trịnh (có nhiều bài hoặc đề tài lại lẫn lộn với thơ các Chúa Trịnh nữa). Đến tập Gia huấn ca th́ rơ ràng là một kết quả chắp nối và trùng tu cận đại.
Căn cứ vào tất cả những ǵ khả dĩ coi làm bằng cớ, chúng ta có thể nhận định Văn nôm suốt thời kỳ Trần Lê chỉ mới chớm dậy. Thơ phú dưới ng̣i bút của Nguyễn Thuyên cùng đồng chí, tuy không lưu lại, song có lẽ cũng chỉ là những bài tập non nớt. Thơ Vương Tường là một cách áp dụng vụng về bài thơ luật để kể chuyện. Truyện Trê Cóc, Trinh Thử dù đă có cũng chưa đạt tới địa vị tiểu thuyết được. Truyện Nghĩ sĩ hay v́ câu chuyện hơn là câu thơ. Đến Triều Lê tuy là thịnh, song chỉ thịnh về khoa cử về Hán học chớ phần đóng góp cho quốc văn không đáng bao nhiêu. Các nhà nho đời Hồng Đức, cũng như Nguyễn Trăi, vẫn chỉ làm nhiều thơ, một lối thơ từ ư tứ đến văn từ cú pháp đều chịu nặng ảnh hưởng Hán văn. Thể truyện, một loại thuần túy Việt Nam mà có nhiều tiềm lực, không thấy tiến lên, không thấy tái hiện nữa. Duy có điệu song thất lục bát thấy manh nha trong Gia huấn ca và Bài hát của Lê Đức Mao, nhưng cũng chưa thành quy cũ nào cả.
Tóm lại suốt thời kỳ lịch sử này, quang cảnh quốc văn c̣n thưa vắng. Sáng tác ít, lẻ loi, mà cũng không có mấy giá trị. Văn nôm c̣n ở chặng đường sơ khởi vậy.
Trích (1b) trang 111 đến 112:
Thờ kỳ phát triển: Các triều phân tranh từ Mạc đến hết Tây Sơn
Từ Mạc trở đi, lịch sử nước ta bước vào một thời đất nước phân tranh, cũng chính là thời kỳ văn nôm phát triển mạnh. Nhất là từ đầu thế kỷ 18, tài liệu lưu lại phong phú và khá xác thật, cho ta thấy những khía cạnh của sự phát triển ấy. Trước hết ở số lượng tác giả, tác phẩm. Văn nôm từ ấy trở đi không phải chỉ là những sáng tác trơ vơ, ngẫu nhiên mà tiến đến gây thành phong trào (nhất là ở Bắc Hà vào đời Trịnh), có liên quan đến sự sinh hoạt chánh trị, xă hội, phản ảnh đậm đà thời thế. Sau ở sự khai phát các thể cách Hán (Thơ, Phú, Văn tế) cũng như Việt (Ngâm, Truyện, Văn, Vè).
Sự phát triển ấy là theo định luật tiến bộ tự nhiên của quốc văn ta, song cũng bởi nhiều nguyên nhân đặc biệt khác: Xă hội loạn lạc, Hán học lùi bước cho câu nôm na tiến lên. Đất nước phân tranh nhưng lại mở rộng ra nhiều. Vua chúa cũng lại để ư khuyến khích hoặc trực tiếp tham gia sáng tác, khiến cho văn nôm dần dà muốn vươn lên địa vị văn học quốc gia. Ảnh hưởng của các nhà lănh đạo thật rơ rệt về đời Trịnh và dưới triều Tây Sơn.
Trong thiên này trước hết chúng ta nói về đời Mạc (chương I) trong đó Thơ nôm tiến bộ (Nguyễn Bỉnh Khiêm), Phú nôm xuất hiện (Bùi Vinh, Nguyễn Hăng). Kế đến nói về đời Trịnh (chương II và III) trong đó bên cạnh thơ phú, đến hậu bán thế kỷ thứ 18, xuất hiện ở Bắc Hà hai thể Ngâm và Truyện với mấy tác phẩm rất có giá trị (Chinh Phụ, Cung Oán, Hoa Tiên). Kế tiến xuống giang sơn tân tạo của các chúa Nguyễn (chương IV) ở đó hai thể Văn và Vè (Đào Duy Từ, Nguyễn Cư Trinh) tuy không đem lại ǵ mới lạ cho câu văn vần Việt Nam, song cũng là những đặc sắc của văn học Nam Hà. Sau hết đến thời Tây Sơn (chương V) trong đó với thêm thể Văn tế, và các thể Công văn biền ngẫu, quốc văn hiện ra sầm uất, đua chen, chính như bước đi tới, đoạn thành tựu của cả thời kỳ đất nước phân tranh và văn học phát triển này.
*
* *
Đả Nho nghinh La!
-- Xem như là ván đă đóng ḥm rồi! Nhân loại Việt Nam xem ra đă mất gốc tất!
Xin được nhắc lại câu hỏi trước: trong nhóm
Sino-Xenic của nhà ngôn ngữ học Hoa Kỳ L.C. Thompson (3), tại sao chỉ có Việt Nam bỏ chữ vuông và sử dụng kư tự Latin? Tại sao chỉ có người Việt chọn mất gốc?
Và nếu bảo, v́ sử dụng chữ Latin nên người Việt Nam không quán, nhận định này rất simplistic, rất phiến diện, theo cảm xúc nhiều hơn là dựa trên những nghiên cứu đứng đắn.
====
- (1) Phạm Thế Ngũ, Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên. Anh Phương, trước 1975, Nam Việt Nam. Bản in lại của Đại Nam, California, U.S.A.
Bộ này có ba quyển:
- (a) Tập I -- Văn Học Truyền Khẩu, Văn Học Lịch Triều: Hán Văn.
(b) Tập II -- Văn Học Lịch Triều: Việt Văn.
(c) Tập III -- Văn Học Hiện Đại: 1862-1945.
- (2) Dương Quảng Hàm, Việt Nam Văn Học Sử Yếu, Bản in lại của Xuân Thu, California, U.S.A.
- (3) L.C. Thompson, A Vietnamese Reference Grammar, Mon-Khmer Studies XIII-XIV A Journal of Southeast Asian Philology. University of Hawaii Press, 1987. Orginally published in 1965 as A Vietnamese Grammar.
Bookmarks