Phác lại sử Tàu
Hàn Lệ Nhân (Danlambao)
P3
Về tư tưởng Mao Trạch Đông, có ‘tiểu sử’ này:
["Trong báo cáo chính trị của Hồ Chí Minh có câu: Về lư luận, đảng Lao động Việt Nam theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tiếp theo đó nói: lấy tư tưởng Mao Trạch Đông làm kim chỉ nam.
Sau đại hội, báo cáo chính trị này đă được in lại coi như đă được đại hội 2 thông qua, vẫn c̣n có ‘tư tưởng Mao Trạch Đông làm tư tưởng chỉ đạo đảng ta’. Nhưng theo tài liệu mới in gần đây th́ tư tưởng ấy trốn mất nên tôi (Nguyễn Văn Trấn) không biên ghi cho thật chính xác... Hôm đó, là tổ trưởng, tôi làm nhiệm vụ phản ánh trực tiếp. Một ḿnh bác Hồ, một ḿnh tôi. Tôi báo cáo t́nh h́nh, anh em trong tổ nói bộ hết duyên rồi sao mà lấy tư tưởng Mao Trạch Đông làm tư tưởng chỉ đạo đảng ta. Hồ Chí Minh nhắm hí mắt như Staline khi gặp ấn đề khó nghĩ, và t́m chữ.
Tôi thưa tiếp:
Có đồng chí c̣n nói: hay là ta viết ‘tư tưởng Mao Trạch Đông và tư tưởng Hồ Chí Minh’ có phải hay không!
Câu nói của tôi làm cho mắt ông già rạng lên theo lời đáp cấp kỳ:
- Không, tôi (HCM) không có tư tưởng ngoài tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lênin! Tôi chỉ có phương pháp để giải quyết thỏa đáng từng vấn đề của ta. Như tôi thường nói "lạt mềm buộc chặt", đó là phương pháp cột cái ǵ đó của tôi. Mà cho đến phương pháp như vậy th́ cũng có sự chỉ biểu của phương pháp biện chứng (của Mác). Chớ c̣n tư tưởng là quan niệm về vũ trụ, về thế giới và xă hội con người, th́ tôi là học tṛ của Mác, Ăngghen, Lênin, chớ làm ǵ tôi có tư tưởng ngoài triết học Mác". "Nếu người cai trị ngày nay mà đọc (tôi chép ra cho đó), th́ hẳn phải thấy ông Hồ Chí Minh đă nói ngắn ngủi và rất trong sáng, rất tinh khiết cái luân thường của bổn phận. Mà người cai trị bây giờ phải nghe theo đó mà làm. Chớ thuê người viết Tư tưởng Hồ Chí Minh th́ chẳng đi tới đâu, đâu!] (Nguyễn Văn Trấn, sđd, trang 150-152, 345).
Vậy mà ‘lịch sử tư tưởng Hồ Chí Minh’ vẫn phôi thai xuất hiện năm 1992. Đến năm 2008 th́ "tư tưởng HCM là chủ nghĩa Mác-Lênin ở Việt Nam"!
Sao lănh đạo Việt Nam khinh đồng bào Việt Nam đến thế!
Thủ đoạn xâm lược của các triều đế quốc Hoa Hạ, xưa và nay
-1) ["Di dân lấn đất, quấy rối biên cương:
Thủ đoạn này đă trở thành ‘quốc sách’ trong suốt chiều dài lịch sử của các đế quốc Hoa Hạ. Nếu nh́n lại các triều đại từ Tần, Hán, Đường đến Nguyên, Minh, Thanh ta thấy các đế quốc Hoa Hạ thường xuyên dùng chính sách di dân lấn đất, quấy rối biên cương, đặc biệt là di dân lấn đất. Chính sách này là thủ đoạn hàng đầu, hết sức nham hiểm, phục vụ đắc lực cho mục đích thôn tính, đồng hóa các dân tộc nhỏ yếu xung quanh.
Di dân lấn đất được chúng tiến hành cả trước và sau khi phát động chiến tranh xâm lược. Ví dụ khi đế quốc Tần phát động chiến tranh xâm lược phương Nam (214 TCN), Tần Thủy Hoàng đưa năm mươi vạn dân xuống vùng Ngũ Lĩnh, cho ở lẫn với người Việt. Khi đánh người Hung Nô, Tần Thủy Hoàng di ba mươi vạn dân, bắt họ phải ngụ cư hẳn ở vùng biên giới phía bắc.
Thi hành chính sách này, đế quốc Hoa Hạ nhằm biến số dân đó thành những công cụ giữ đất, khai thác tài nguyên và đồng hóa dân tộc bản địa.
Thời Hán, để tăng cường lực lượng phía bắc, chuẩn bị chiến tranh lâu dài với người Hung Nô, Hán Vũ Đế đă di hơn bảy mươi vạn người Hán tới dọc biên giới. Chúng lập đồn điền, mở băi chăn nuôi trên thảo nguyên. Ở đó được tổ chức ra những đơn vị ‘dân binh’ có vũ trang. Đồng thời quân đội cũng được đưa tới làm lính thú xây dựng đồn điền, thực hiện ‘ngụ binh ư nông’ (8).
Với lực lượng ấy, chúng luôn luôn tạo ra những chuyện náo động ở biên giới, như lấn chiếm dần đất đai, vượt sang lănh thổ bên kia bắt người, cướp trâu ḅ, gia súc, phá hoại mùa màng, phá hoại chăn nuôi, gây rối loạn cuộc sống yên ổn của đối phương, làm cho đối phương phải tập trung sức lực đối phó, hao người tốn của, đ́nh đốn sản xuất, dẫn tới suy yếu. Sau đó đế quốc Hoa Hạ mượn cớ ‘an biên’ (làm yên biên giới) đem quân đánh chiếm."]
-2) ["Lôi kéo, chia rẽ các nước, mượn tay nước này đánh nước khác:
Đây là một thủ đoạn truyền thống của đế quốc Hoa Hạ mà chúng ta có thể t́m thấy nhiều ví dụ điển h́nh trong lịch sử, như câu chuyện ‘hợp tung, liên hoành’ thời Chiến quốc (9). Từ thời Hán trở đi, thủ đoạn đó đă trở thành một quốc sách.
Các nhà tư tưởng chiến lược của chủ nghĩa bành trướng đế quốc Hoa Hạ thời Hán từng tính toán nham hiểm và đề ra chủ trương sau:
a) Nếu Hoa Hạ và nước đối thủ sức lực ngang nhau, hai bên không thể thắng nổi nhau th́ Hoa Hạ sẽ liên kết với bên ngoài để cùng chống nước kia.
b) Không làm mệt hại quân của Hoa Hạ, mà phải làm cho các nước nhỏ đồng loại kia tự đánh giết, tàn hại lẫn nhau... đến người cuối cùng!
Chủ trương này được khái quát thành phương châm chỉ đạo: ‘Hợp tiểu di công đại, địch quốc chi h́nh dă; dĩ Man Di công Man Di, Hoa Hạ chi h́nh dă’ (Hán Thư, Giả Nghị truyện), nghĩa là: Liên kết các nước nhỏ lại để đánh nước lớn là h́nh thế của nước địch; dùng Man Di đánh Man Di là h́nh thế của Hoa Hạ.
Đế quốc Hoa Hạ từ Hán, Đường tới Tống, Minh, Thanh, thời nào cũng sử dụng thủ đoạn này: đối với người Hung Nô, đối với các vùng Tây Vực thời Hán, đối với Việt Nam, Chiêm Thành, Lào thời Tống, Minh...
Ví dụ thời Hán, để bao vây, cô lập Hung Nô, Hán Vũ Đế dùng kế hoạch: phía tây t́m cách chặt đứt quan hệ giữa Hung Nô với các dân tộc Khương ở Thanh Hải, phía đông chặt đứt quan hệ giữa tộc Ổi với Hung Nô. Mặt khác, sai sứ thần đến các nước ở Tây Vực lôi kéo, dụ dỗ họ đánh Hung Nô... Thời Tống, trong chiến lược thôn tính nước ta (lúc đó là Đại Việt), nhà Tống cũng dùng thủ đoạn ‘liên minh ngoại viện’ xúi dục Chiêm Thành, Chân Lạp gây chiến với Việt Nam. Vua Tống xuống chiếu nói rằng «Chiêm Thành, Chân Lạp vốn là tử thù của Việt Nam, vậy sai Hứa Ngạn Tiên và Lưu Sơ, mộ dăm ba người buôn bể, đi dụ các quốc trưởng nước ấy cùng dự vào việc đánh Việt Nam. Khi nào b́nh định xong sẽ có thưởng» (Tục tư trị thông giám trường biên).
Nh́n vào đường lối đối ngoại của giới cầm quyền phản động Bắc Kinh ngày nay, ta thấy, để thực hiện chủ nghĩa bành trướng, bá quyền nước lớn của ḿnh, họ lại tái diễn thủ đoạn truyền thống đó. Họ lôi kéo, xúi dục, mua chuộc, gây sức ép với nhiều nước, buộc các nước này đi theo đường lối chính trị của họ"].
(Tiết này tôi ứng tác cũng từ bài của Tạ Ngọc Liễn, xem chú thích số 7)
Năm 1979, họ dùng bọn Polpot – Ieng Sary (Khờ-Me đỏ, anh-em-xnch-Campuchia) biến Campuchia thành tên lính xung kích chống phá phía tây nam Việt Nam. Cùng lúc, ở phía bắc, họ xua quân qua 6 tỉnh biên giới, "tiến sâu vào Việt Nam 40 kilômét" để vừa ‘đánh trả để thu hồi lănh thổ’, vừa ‘dạy cho Việt Nam một bài học’. Kết cuộc, Việt Nam (triều Lê Duẩn) diệt được Khờ-Me đỏ, ở lại ‘chăm sóc’ nhân dân Campuchia đến năm 1989 mới rút về. Bắc Kinh (triều Đặng Tiểu B́nh) rút quân về, NHƯNG không quên ["di chuyển nhiều cột mốc vào sâu lănh thổ Việt Nam: ở tỉnh Lạng Sơn 6 cột mốc, ở tỉnh Hoàng Liên Sơn 10 cột mốc, ở tỉnh Hà Tuyên 10 cột mốc. Ở những nơi đó, lính Tàu đào hầm hào, xây dựng công sự, lô cốt kiên cố, nhằm chiếm đóng lâu dài. Đại diện lâm thời của chúng ở Hà Nội là Lỗ Minh ngang ngược tuyên bố những điểm chúng chiếm đóng đó đều là lănh thổ của nước Tàu (?)"] (10). Tuy đă phải rút lui "nhưng vô vàn tội ác trời không dung đất không tha của chúng sẽ để lại những vết nhơ muôn ngàn đời không rửa sạch trên bộ mặt hiếu chiến ghê tởm của bọn phản động đầu sỏ đang ngự trị trong lâu đài Trung Nam Hải ở Bắc Kinh" (11).
*
Thay lời kết:
Không cần tính đến cái Công Hàm 1958 éo le của Phạm Văn Đồng, nội từ Hội nghị Thành Đô (Tứ Xuyên) năm 1990 (triều Nguyễn Văn Linh), năm 1991 (triều Lê Khả Phiêu) có hậu quả như thế nào đến cuối năm 2012 này, Việt Nam XHCN, trên mặt ‘chính thức’, đă dâng thêm vào tay người ‘anh em xhcn đời đời hữu nghị bá quyền nước lớn xâm lược’ những ǵ là điều bất cứ công dân Internet nào cũng có thể tính đếm được, nên tôi chịu dại tránh ghi ra đây, v́ chỉ tổ nát ḷng một lần nữa. Ở đây tôi chỉ ôn lại:
1) Thủ đoạn cổ truyền của họ: "Mua chuộc, hối lộ các phần tử phản bội dân tộc làm công cụ cho chính sách bành trướng của ḿnh..." (7) v́ "thế lực phản bội xưa nay thường đầu hàng hoặc trở thành đồng minh của chủ nghĩa đế quốc" (8).
* ["Hắn tên là Ḥa Thân. Gần như vô học v́ lăn lộn từ nhỏ nhưng thông minh, khôn khéo, mưu mô hay chỉ điểm, được ḷng Càn Long mà liên tiếp bẫy được mọi chức vụ lớn trong triều, nên triều thần ai cũng sợ hắn, sợ đến nỗi không dám gọi thẳng tục danh của hắn. Bọn tay chân của hắn ở triều đ́nh và khắp các quận huyện mua quan bán chức, thông đồng với ‘ngoại di’ cướp cạn đất đai, ruộng vườn của dân đen, đem về chia cho hắn. Hắn xây cất tộc miếu nguy nga ngang ngửa lăng tiên đế, dinh thự cao đẹp hơn cung chúa, chứa nhiều bảo vật hơn kho của vua nữa.
Càn Long vừa nằm xuống, chưa kịp chôn th́ Gia Khánh kế vị, bắt giam hắn liền, tịch thu tài sản, xử hắn tội giảo (thắt cổ). Hắn chỉ khai một phần gia sản (67 triệu lạng bạc, 27.000 lạng vàng, 456 hồng ngọc, 113 lam ngọc, 56 chuỗi ngọc trai (thực ra là 200). Bị tra tấn hắn mới khai chỗ chôn giấu, cuối cùng gia sản hắn là 900 triệu lạng bạc, ấy là chưa kể 23 tiệm cầm đồ và 13 tiệm bán đồ cổ để cha mẹ, anh em, con cháu hắn đứng tên». Hắn đa tài thật là không tưởng tượng nổi.
Sự thối nát, tham nhũng của quan lại nhà Thanh đạt đến kỷ lục, nó đánh dấu sự suy sụp sắp tới của chế độ"] (Mượn ư Nguyễn Hiến Lê, sđd, trang 480).
Nhờ được giáo huấn kỹ rằng "Gia hữu thiên khoảnh lương điền, chỉ thụy ngũ xích cao sàng / Dù có ngàn khoảnh ruộng tốt, cũng chỉ ngủ trên chiếc giường năm thước (1 thước Tàu = khoảng 40cm x 5 => khoảng 200cm)", nên lănh đạo Việt Nam không thể nào có được một người đa tài như hắn v́ gồm toàn "những người cộng sản cao quư ở chỗ suốt đời tuyết sạch, giá trong..., không tranh giành địa vị, quyền lợi, không xâm phạm lợi ích của nhân dân" (8)! May thật! Nhưng "những người cộng sản cao quư..." đó là ai, tên chi? Chứ tôi thấy ông Thái sử cộng sản ‘phản động’ Nguyễn Văn Trấn ghi rằng "đảng viên nhan nhản, cộng sản mấy người"!
Xa xưa, v́ ngây thơ Mỵ Châu cả tin chồng là Trọng Thủy mà nước Âu Lạc bị diệt vong. Ngày nay, cơ đồ Việt Nam dưới thể chế dân chủ tập trung, trách nhiệm tập thể nên hầu như luôn luôn có đến mười bốn ‘Mỵ Châu’, vậy mai đây lỡ khi thảm họa vong quốc xảy ra th́ nhân dân làm sao biết được đấy là do đứa ‘Mỵ Châu’ nào đă "trái tim lầm chỗ để trên đầu / nỏ thần cố ư trao tay giặc / nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu!" (Tố Hữu: Tâm sự); đứa ‘Mỵ Châu’ nào đă ‘cơng rắn cắn gà nhà’ (CTN Trương Tấn Sang); hoặc chẳng lẽ cả bộ sậu mười bốn đứa ‘Mỵ Châu’ đều là "lũ bán nước lột da dân nước / tan mồ cha cũng rước voi giày / máu đào nhúng đỏ bàn tay / biết chi đau đớn cỏ cây đồng bào!" (Tố Hữu: 30 năm đời ta có đảng).
2) Vài câu ‘danh ngôn Hoa Hạ’ đương đại:
- [“Các nước đế quốc, sau khi đánh bại ‘Trung Quốc’ (ư nói Thanh đ́nh), đă chiếm các nước phụ thuộc ‘Trung Quốc’: Nhật chiếm Triều Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, quần đảo Bành Hồ và Lữ Thuận. Anh chiếm Miến Điện, Bu Tan, Hương Cảng. Pháp chiếm An Nam...” (Hoàng đế Mao trạch Đông, 1939);
- “Nước chúng tôi th́ lớn nhưng không có đường ra, cho nên rất mong Đảng lao động Việt Nam mở cho một con đường mới xuống Đông Nam Châu Á.” (Thừa tướng Chu Ân Lai, 09/1963);
- “Chúng ta phải chinh phục trái đất. Đó là mục tiêu của chúng ta. (Hoàng đế Mao Trạch Đông);
- "Chúng ta phải trở thành quốc gia hàng đầu về phát triển văn hóa, khoa học, kỹ thuật và công nghiệp… Không thể chấp nhận rằng sau vài chục năm, chúng ta vẫn chưa trở thành cường quốc số 1 trên thế giới." (như trên, 1956);
- "Chúng ta phải giành cho được Đông nam châu Á, bao gồm cả miền Nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Ma Lay Xia và Sing Ga Po... Một vùng như Đông nam châu Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản… xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy... Gió Đông sẽ thổi bạt gió Tây.»"(như trên, 08/1965).
* Tiết 2 này tôi lược từ Tài liệu số 10.
Trong thời là bán thuộc địa của Tây phương và Nhật Bản, ngoài những điều ước nhục nhă đă nêu, dân Tàu triều Măn Thanh c̣n phải hứng chịu, như:
- Những nơi giết hại người ngoại quốc th́ phải đ́nh chỉ các khoa thi văn vỏ trong 5 năm;
- Phái thân vương, đại thần qua Đức, Nhật tỏ ư hối tiếc;
- Bọn ngoại quốc nói chung ["coi người ‘Trung Hoa’ không ra ǵ cả, hơi một chút là chất vấn chính phủ Bắc Kinh, đ̣i bồi thường và bắn xả vào dân bản xứ; tới nỗi trong một công viên ở Tô giới Thượng Hải, người Anh cắm một cái bảng: Cấm chó và người ‘Trung Hoa’ vào"...] (Nguyễn Hiến Lê, sđd, trang 592).
3) Vài thủ đoạn tàn độc mới Made in China: Thu mua móng ḅ, sừng trâu, rùa tai đỏ, ốc bươu vàng, hạt chè, dứa / khóm xanh, sầu riêng xanh, gốc bắp / ngô, đỉa phơi khô v.v... Bạn đọc chỉ việc gơ t́m trong gu-gồ chấm com là thấy tức khắc, chứ t́m trong gu-gồ chấm Tiên Lăng th́ bó tay, rồi lại toáng lên rằng người viết viết sai sự thật, tạo chứng cớ giả cho các ‘thế lực thù địch lợi dụng quyền tự do dân chủ’ gây sứt mẻ t́nh hữu nghị ‘16 chữ vàng + 4 tốt’ mà người ta và hậu duệ đă dày công dưỡng bồi hơn nửa thế kỷ qua!
Cũng như mọi người, tôi uất v́ không tài nào hiểu được lối đối ngoại nhũn nhược của đảng Cộng sản Việt Nam hùng-dũng-sang-trọng trước những bước lấn xâm lược tiệm tiến trắng trợn đất nước ta của tập đoàn Cộng sản Chai-Na và đặc biệt là cách xử sự sắt máu của họ đối với chính những con dân nước Việt đă thể hiện tinh thần yêu nước, nhiệt huyết bảo vệ chủ quyền quốc gia, chống kẻ thù xâm lược truyền kiếp Bắc Kinh bằng con chữ hay xuống đường: "Chúng đ̣i làm chủ chúng ta mà chính chúng làm nô lệ cho ngoại nhân" (lời trong một bài hát của sinh viên thời cuối Thanh).
* ["Tự do ngôn luận là phong vũ biểu dự báo nắng mưa giông băo đối với các nhân quyền và tự do dân chủ. Cái mà người ta nói trong đầu người ta, th́ đó là ư nghĩ. Không ai cấm ai suy nghĩ được. Cái mà người ta nói ra trên báo và trong các cuộc mít-tinh, cái đó mới là ngôn luận. Cái ngôn luận có thể bị cấm. Cho nên mới có cái đ̣i được nói: Đ̣i ngôn luận tự do!"] (14). Một suy nghĩ dẫu có hay ho cỡ nào mà không được ‘ngôn luận’ cũng chỉ là một suy nghĩ chết.
Như đă nói ngay từ đầu, đây là bài ôn sử của cá nhân tôi nhưng tôi lại rất tâm đắc lời này của cụ Nguyễn Hiến Lê: "Chép sử th́ không ai có thể hoàn toàn khách quan được, chỉ có thể thành thực được thôi; (song), chỉ ghi lại những việc xảy ra, không t́m hiểu nguyên nhân, không khen không chê, th́ theo tôi, không phải là viết sử. Có những giá trị t́nh thần mà chúng ta phải tôn trọng, phải bênh vực; trái lại th́ phải chê. Có như vậy mới là thành thực với người đọc và với chính ḿnh." (Sđd, trang 565). Bởi thế, chấm hết bài Phác lại sử nước Tàu này, tôi uất ức cùng cực: ‘16 chữ vàng, 4 tốt’ xă hội chủ nghĩa ư? "Người ta có thể tự xưng Xă hội chủ nghĩa và Cộng sản chủ nghĩa. Quần chúng và cuộc sống là người phán xét cuối cùng" (15). Và tôi có cảm giác: ‘đảng ta’ toàn những anh hùng, nước chưa ngập quá lưng th́ chưa chịu tập... nhảy"!
Ôn sử nước Tàu như trên, song thâm tâm tôi không hề oán ghét chính quyền nước Tàu, xưa cũng như nay, bởi dù thế nào, họ cũng v́ mưu cầu hạnh phúc cho dân họ đến bất chấp thủ đoạn, "tham lam, mặt người dạ thú"; nhưng, công dân Hán nói chung có biết chăng là tí hạnh phúc của họ thường được đắp xây bằng vô vàn bất hạnh, bất công của dân tộc khác và xác chết của chính đồng hương họ? Khổng Tử dạy "Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân / Điều ǵ ḿnh không muốn th́ đừng làm cho người khác" và "chỉ có loài cầm thú mới quay lưng lại với nỗi đau của đồng loại để lo chăm sóc bộ lông của ḿnh" (Karl Marx). Tôi quan niệm, Thà một lần đau khổ v́ sự thật cay đắng vẫn hơn là hạnh phúc trong dối trá ngọt bùi:
Đế quốc Hoa Hạ xa xưa, nay là đế quốc CHND Chai-Na mênh mông là do ‘quốc sách’ xâm lăng, thôn tính, tiêu diệt, đồng hoá láng giềng mà thành, ấy thế trong cuốn Giấc mơ Tàu / The Chinese dream (kỳ 13, chương 4) tác giả Đại tá Lưu Minh Phúc vẫn nhơn nhơn vô sỉ gọi đó là Vương đạo, ông ta nói: "Tính cách Chai-Na là tính cách Vương đạo chứ không phải tính cách Bá đạo; Chai-Na dựng nước dựa vào Vương đạo chứ không phải nhờ vào Bá đạo. Vương đạo là tôn chỉ quốc gia, cũng là đạo đức quốc gia của Chai-Na"; "Một vạn năm nữa, chúng ta cũng không xâm lược kẻ khác" (16): – Đó là Bá đạo, thưa ông!
C̣n cách đối ngoại nhục nhă của đảng Cộng sản Việt Nam trước kẻ thù truyền kiếp Chai-Na, ai nghĩ khác tùy ư, tôi cho đó là sách lược Vong quốc chi đạo, thưa quư vị. (16).
Mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh, mỗi người mỗi ư. Vậy, nếu bài ôn này có chút ǵ hợp với lăng kính bạn đọc nào đă chịu khó đọc kỹ vài lần, chắc chắn đó là do công của các bậc trưởng thượng; c̣n những ǵ khắc, đích thị là tội của riêng tôi: Bạn đă đọc kỹ chưa? Nếu rồi, xin tranh thủ làm người ném viên đá đầu tiên! Có điều, "đối thoại giữa chúng ta là lối đối thoại không chân dung, nghĩa là khiếm diện nhưng nhất định không khiếm nhă"!
Hàn Lệ Nhân
danlambaovn.blogspot .com
____________________ ____________________ ___________
Chú thích:
(1) Văn tự (chữ viết) ngày nay ở nước Tàu đă được thống nhất từ thời Tần Thủy Hoàng, c̣n quốc ngữ (tiếng nói chung cho cả nước) được khởi xướng từ thời Tôn Văn sau Cách mạng Tân hợi 1911 - chọn thổ ngữ Bạch thoại miệt Bắc Kinh làm chuẩn, tiếp tục bởi Quốc Dân Đảng thời Tưởng Giới Thạch và kiện toàn từ 1949 thời Mao Trạch Đông với phép giản thể (ít nét). Đài Loan vẫn giữ phép viết phồn thể (nguyên thủy gồm nhiều nét).
(2) Hàn Lệ Nhân: Văn hóa thi ca, văn hóa thi hót.
(3) Tư Mă Thiên: Sử kư, bản dịch Nhữ Thành, trang 31 – Nxb Văn Hóa, HN 1988. Tài liệu số 1.
(4) Hoàng Văn Chí: Trăm hoa đua nở trên đất Bắc, trang 7 - Nxb SudAsie Paris 1983. Tài liệu số 9.
(5) Vũ Thế Phan: Giống nội, quả ngoại.
(6) Có hai nhà Chu: Tây Chu và Đông Chu. Nhà Chu vốn là một chư hầu của nhà Thương (Ân), ở phía tây (tỉnh Thiểm Tây) nên bị nhà Thương gọi là Tây Di v́ họ không văn minh bằng Thương. Đến đời Chu B́nh Vương, dời đô qua Lạc Dương (Hà Nam ngày nay) ở phía đông, từ đó bắt đầu thời nh́ gọi là Đông Chu. Đời Đông Chu lại chia làm hai thời kỳ nữa: Xuân Thu (722-479) và Chiến Quốc (478-221). Chu Lễ là tên gọi khác của Kinh Lễ gồm những lễ nghĩa do đại công thần nhà Đông Chu tên Đán tức Chu Công biên soạn.
(7) Phạm Văn Lan: Trung Quốc thông sử giản biên, trang 107 – Nxb Nhân dân, Bắc Kinh 1958, dẫn theo Nguyễn Tài Thư: Chủ nghĩa bành trướng đại dân tộc và bá quyền nước lớn Trung Quốc, quá khứ và hiện tại (tập tài liệu Phê phán chủ nghĩa bành trướng và bá quyền nước lớn… trang 187-188. Tài liệu số 3).
(8) Dẫn lại từ cuốn Nguyện vọng thiết tha của nhân dân Việt Nam độc lập, tự do, ḥa b́nh, hữu nghị, trang 11 - Nxb Sự Thật, HN 10/1978).
(9) Tạ Ngọc Liễn: ... Chủ nghĩa bành trướng đại dân tộc của bọn cầm quyền phản động Bắc Kinh ngày nay (tập tài liệu Phê phán… như trên, trang 169-170).
(10) Ngụ binh ư nông (gửi việc binh vào nghề nông): Thời b́nh, dân làm ruộng, khi có chiến tranh nông dân sẽ trở thành lực lượng quân đội. Đây là chính sách do Quản Trọng đề ra cách nay 2.500 năm. Ngày nay phải cập nhật thành ‘Ngụ binh ư công’: Công trường Bô-Xít của đồng chí thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trên Tây nguyên ở nước ta là một ‘chủ trương lớn’ điển h́nh. Quản Trọng cũng là bố đẻ quốc sách ‘Mười năm trồng cây, trăm năm trồng người...’
(11) Thời Chiến Quốc, Tô Tần thuyết sáu nước Yên, Triệu, Hàn, Ngụy, Tề, Sở hợp sức đánh Tần nên gọi là Hợp tung. Tung nghĩa là chiều dọc. Ngược lại, Trương Nghi đề ra sách lược liên kết sáu nước phục vụ Tần nên gọi là Liên hoành. Hoành nghĩa là chiều ngang, như hoành phi: Biển có chữ Tàu lớn, treo ngang. Tung Hoành = Hoạt động một cách mạnh mẽ và ngang dọc theo ư muốn, không ǵ ngăn cản nổi. Đồng chí X mặc sức tung hoành trên chính trường Việt Nam XHCN; c̣n đồng chí Bú Lí nhà ta chỉ ‘Quan họ hoành hoành’ thôi.
(12) Nguyễn Ngọc Minh: Bọn bành trướng và bá quyền nước lớn Trung Quốc phạm tội ác xâm lược... (tập tài liệu Phê phán... như trên, trang 124-146).
(13) Phạm Như Cương: Bọn phản động Trung Quốc và chủ nghĩa bành trướng đại dân tộc…(tập tài liệu Phê phán... như trên, trang 7).
(14) Nguyễn Văn Trấn: Viết cho Mẹ và Quốc hội, trang 396 – Nxb Văn Nghệ, California, USA 1995.
(15) Báo Nhân Dân ngày 5 tháng 8 năm 1978: Nguyện vọng thiết tha... sđd trang 52.
(16) Vương đạo là chính sách của Khổng-Mạnh, lấy nhân nghĩa làm đầu; Bá đạo là chính sách Pháp gia, dùng vũ lực để giải quyết mọi sự việc; c̣n Vong quốc chi đạo là "chính sách của bọn cầm quyền phỉnh gạt dân để mưu cái tư lợi nhỏ mọn" (Nguyễn Hiến Lê, sđd, trang 131).
Tài liệu tham khảo và lược dẫn:
1- Tư Mă Thiên: Sử kư, bản dịch Nhữ Thành – Nxb Văn Hóa, HN 1988.
2- Trần Trọng Kim: Việt Nam Sử Lược – Nxb Tân Việt, SG 1958.
3- Nhiều tác giả: Phê phán chủ nghĩa bành trướng và bá quyền nước lớn của giới cầm quyền phản động Bắc Kinh – Nxb Khoa Học Xă Hội, HN 1979.
4- Nguyện vọng thiết tha của nhân dân Việt Nam độc lập, tự do, ḥa b́nh, hữu nghị – Nxb Sự Thật, HN 10/1978). Sẽ scan và đưa lên mạng nay mai.
5- Đào Duy Anh: Trung Hoa sử cương – Nxb Quan Hải Tùng Thư, Huế 1942.
6- Phan Khoang: Trung Quốc sử lược – Nxb Ấn quán Hồng Phát, SG 1958.
7- Will & Ariel Durant / Nguyễn Hiến Lê: Bài học của lịch sử – Nxb Lá Bối, SG 1973.
8- Nguyễn Hiến Lê: Sử Trung Quốc (trọn bộ 3 cuốn in chung) – Nxb Tổng Hợp, SG 2006.
* Lưu ư: Cuốn sách này là tác phẩm cuối đời của cụ Nguyễn Hiến Lê, khởi viết năm 1981, hoàn tất ngày 15 tháng 10 năm 1983 (xem chương Kết phần IV trang 776, đoạn 2), được xuất bản đến 700 (bảy trăm) bộ cho trên dưới 80 chục triệu dân số năm 2006! Cụ Nguyễn qua đời ngày 22 tháng 12 năm 1984 tại Sài G̣n, nhưng cuốn sử 809 trang khổ lớn này của cụ lại bị / được dứt ngang vào năm Mao Hoàng ‘băng hà’, 1976: Không có một chữ viết về cuộc chiến đẫm máu không có phe thua - chỉ có phe mất khối khối dặm đất, giữa Tàu cộng và Việt cộng đầu năm 1979. Bởi cụ đă không c̣n th́ làm sao – cương quyết nhưng nhă nhặn, lên tiếng cự nự tṛ rút ruột của Nxb Tổng Hợp - gồm toàn "những người cộng sản cao quư ở chỗ suốt đời tuyết sạch, giá trong"?
9- Hoàng Văn Chí: Trăm hoa đua nở trên đất Bắc, Nxb SudAsie, Paris 1983.
10- Sự thật về quan hệ Việt Nam-Trung Quốc trong 30 năm qua – Nxb Sự Thật, 10/1979.
11- Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc – Nxb Sự Thật, HN 1979.
12- Hoàng Lê & Khổng Doăn Hợi: Chủ nghĩa Mao không có Mao – Nxb Thông Tin Lư Luận, HN 1982.
13- Trần Trọng Kim: Nho giáo (2 cuốn) – Nxb Trung Tâm Học Liệu, SG 1971.
14- Đại Lai Lạt Ma Tenzin Gyatso: Freedom in exile (Tự do trong lưu đày, bản dịch của Chân Văn & Chân Huyền) – Nxb Văn Nghệ, Westminster, USA 1992.
15- Internet. Các bản đồ trong bài có ở đây.
Bookmarks