https://vi.wikipedia.org/wiki/Wikipe...a/Th%C3%A1ng_2
Ngày 13 tháng 02, 1913
• 1913 – Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 tuyên bố Tây Tạng độc lập từ Trung Quốc, Tây Tạng trở thành chính thể độc lập thực tế từ đó cho đến năm 1951.
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%A...ng_(1912-1951)
https://en.wikipedia.org/wiki/Tibet_(1912%E2%80%931951)
https://fr.wikipedia.org/wiki/Tibet_(1912-1951)
Tây Tạng (1912-1951)
Khu vực lịch sử Tây Tạng từ năm 1912 đến năm 1951 được đánh dấu sau khi nhà Thanh sụp đổ vào năm 1912, kéo dài cho đến khi nước Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa sáp nhập Tây Tạng. Chế độ Ganden Phodrang tại Tây Tạng tồn tại dưới quyền cai trị của nhà Thanh cho đến năm 1912, khi Chính phủ Lâm thời Trung Hoa Dân Quốc thay thế nhà Thanh cai trị Trung Quốc, và kư kết một hiệp định với chính phủ Thanh để nước cộng ḥa mới kế thừa toàn bộ lănh thổ của tiền triều, trao cho Tây Tạng vị thế một "địa phương" có quyền tự trị cực kỳ cao độ như trước.
Tuy nhiên, khi đó một số đại biểu của Tây Tạng kư kết một hiệp định với Mông Cỏ tuyên bố công nhận lẫn nhau độc lập khỏi Trung Quốc, song Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc không công nhận tính hợp pháp của hiệp định.
Với quyền tự trị cao độ và "tuyên bố độc lập" của một số đại biểu Tây Tạng, Tây Tạng giai đoạn này thường được miêu tả là "độc lập thực tế", đặc biệt là từ một số người ủng hộ Tây Tạng độc lập, song hầu hết các quốc gia trên thế giới, cũng như Liên Hiệp Quốc công nhận Tây Tạng là bộ phận của Trung Hoa Dân Quốc.
Thời kỳ này kết thúc sau khi Chính phủ Quốc dân thất bại trong Nội chiến Trung Quốc trước Đảng Cộng sản, khi Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc tiến vào Tây Tạng năm 1950 và Hiệp định Mười bảy điểm được kư kết theo đó xác nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Tây Tạng.
Hiệu kỳ Lục quân Tây Tạng
Vị trí Tây Tạng năm 1942
Lịch sử:
Điện Potala
Lịch sử Tây Tạng
• Thời kỳ cổ đại
o Tượng Hùng ?–645
o Đường Mao ?–632
o Phát Khương ?–633
• Thổ Phồn 633–877
• Thời kỳ phân liệt 877–1264
o Cổ Cách ?–1635
o Giác Tư La Quốc 1032–1104
• Thời kỳ các giáo phái thống trị 1264–1751
o Thời thuộc Nguyên
o Tát Già Ba 1253–1358
o Thời Minh
o Phách Mộc Trúc Ba 1358–1618
o Nhân Bạng Ba 1432–1565
o Tạng Ba 1611–1642
o Ḥa Thạc Đặc hăn quốc 1642–1717
• Thời thuộc Thanh 1751–1912
• Cận đại 1912–1951
o Vương quốc Tây Tạng
o Tây Tạng địa phương
• Hiện đại 1951 đến nay
o Thời Cộng ḥa Nhân dân
o Khu tự trị Tây Tạng
Nhà Thanh sụp đổ (1911–12) :
Tây Tạng nằm dưới quyền cai quản của nhà Thanh từ năm 1720. Sau Cách mạng Tân Hợi 1911, dân quân Tây Tạng phát động công kích bất ngờ vào doanh trại quân Thanh đóng tại Tây Tạng sau biến loạn tại Lhasa.
Sau khi nhà Thanh sụp đổ năm 1912, các quan của nhà Thanh tại Lhasa buộc phải kư vào "Hiệp định Ba điểm" về đầu hàng và trục xuất quân Thanh khỏi miền trung Tây Tạng.
Đầu năm 1912, Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc thay thế nhà Thanh cai trị Trung Quốc, kế thừa toàn bộ lănh thổ của tiền triều, gồm 22 tỉnh, Tây Tạng và Mông Cổ.
Sau khi thành lập chế độ mới, Tổng thống lâm thời Viên Thế Khải gửi một điện tín cho Đạt Lai Lạt Ma thứ 13, khôi phục các tước hiệu trước đó của ông ta.
Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 từ chối các tước hiệu này, trả lời rằng ông "dự định tiến hành thống trị cả thế tục và giáo hội tại Tây Tạng."
Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 trước đó đào thoát sang Ấn Độ khi nhà Thanh phái quân đi thiết lập quyền cai trị trực tiếp của triều đ́nh tại Tây Tạng vào năm 1910, đến năm 1913 ông trở về Lhasa và ban một tuyên bố rằng quan hệ giữa hoàng đế Trung Hoa và Tây Tạng "là giữa người bảo trợ và giáo sĩ và không dựa trên sự lệ thuộc của một bên với bên kia."
"Chúng tôi là một quốc gia nhỏ, tôn giáo, và độc lập,".
Tháng 1 năm 1913, Agvan Dorzhiev và ba đại biểu Tây Tạng khác kư kết một điều ước giữa Tây Tạng và Mông Cổ tại Urga, tuyên bố công nhận lẫn nhau độc lập khỏi Trung Quốc.
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ulaanbaatar
Nhà ngoại giao Anh Bell viết rằng Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 nói với ông rằng ḿnh không ủy quyền cho Agvan Dorzhiev kư kết bất kỳ hiệp định nào nhân danh Tây Tạng.
Do văn bản không được công bố, ban đầu có một số nghi ngờ về sự tồn tại của hiệp định, song văn bản tiếng Mông Cỏ được Viện hàn lâm Khoa học Mông Cổ công bố vào năm 1982.
Điều ước Simla (1914) :
Năm 1913-14, một hội nghị được tổ chức tại Simla giữa Anh, Tây Tạng và Trung Quốc.
(Shimla là một thành phố và là nơi đặt hội đồng thành phố (municipal corporation) của quận Shimla thuộc bang Himachal Pradesh, Ấn Độ.)
Người Anh đề xuất phân chia khu vực người Tây Tạng cư trú thành Ngoại Tạng và Nội Tạng (theo mô h́nh một hiệp định trước đó giữa Trung Quốc và Nga về Mông Cổ).
Ngoại Tạng gần tương đương với Khu tự trị Tây Tạng hiện nay, được tự trị dưới quyền tôn chủ của Trung Quốc. Trong khu vực này, Trung Quốc sẽ kiềm chế "can thiệp trong cai trị".
Tại Nội Tạng, gồm miền đông Kham và Amdo, Lhasa chỉ duy tŕ kiểm soát các sự vụ tôn giáo. Năm 1908-18, có một doanh trại Trung Quốc tại Kham và các lănh chúa địa phương phục tùng người chỉ huy.
Đàm phán đổ vỡ do vấn đề ranh giới cụ thể giữa Ngoại Tạng và Nội Tạng, trưởng đàm đàm phán của Anh là Henry McMahon thảo ra thứ gọi là đường McMahon nhằm vạch biên giới Tạng-Ấn, đồng nghĩa với cho người Anh sáp nhập chín ngh́n km² lănh thổ truyền thống của Tây Tạng tại miền nam, tương ứng với cực tây bắc của bang Arunachal Pradesh thuộc Ấn Độ hiện nay, trong khi công nhận quyền tông chủ của Trung Quốc đối với Tây Tạng và xác định địa vị của Tây Tạng là bộ phận của lănh thổ Trung Quốc, với cam kết từ Chính phủ Trung Quốc rằng Tây Tạng sẽ không bị chuyển thành một tỉnh.
Các chính phủ sau đó của Trung Quốc tuyên bố rằng đường McMahon chuyển giao bất hợp pháp lượng lớn lănh thổ cho Ấn Độ.
Lănh thổ tranh chấp được Ấn Độ gọi là Arunachal Pradesh và Trung Quốc gọi là Tạng Nam.
Vị trí Arunachal Pradesh tại Ấn Độ
Người Anh kư kết hiệp định với các thủ lĩnh bộ lạc địa phương và lập Khu Biên giới Đông Bắc để cai trị khu vực vào năm 1912.
Hiệp định Simla được cả ba phái đoàn kư tắt, song ngay lập tức bị phía Bắc Kinh bác bỏ do bất măn về ranh giới giữa Ngoại Tạng và Nội Tạng. McMahon và phái đoàn Tây Tạng sau đó kư kết một văn kiện với vị thế thỏa thuận song phương có ghi chú rằng bác bỏ bất kỳ quyền lợi nào của Trung Quốc theo quy định trừ khi họ kư kết.
Chính phủ Ấn Độ thuộc Anh ban đầu bác bỏ thỏa thuận song phương của McMahon là không phù hợp với Công ước Anh-Nga 1907.
Đường McMahon được chính phủ Anh và sau là chính phủ Ấn Độ độc lập cho là biên giới; tuy nhiên quan điểm của Trung Quốc là họ không kư hiệp định nên nó vô giá trị, và việc Ấn Độ sáp nhập và kiểm soát Arunachal Pradesh là phi pháp.
Năm 1938, Người Anh cuối cùng cũng cho phát hành Hiệp định Simla với vị thế là một thỏa thuận song phương và yêu cầu rằng Tu viện Tawang nằm tại phía nam đường McMahon ngưng nộp thuế cho Lhasa.
Tuy nhiên, Tây Tạng thay đổi lập trường về đường McMahon trong thập niên 1940.
Đến cuối năm 1947, chính phủ Tây Tạng viết một công hàm gửi cho Bộ trưởng Ngoại vụ Ấn Độ đặt yêu sách về các huyện Tây Tạng nằm phía nam đường McMahon.
Hơn nữa, bằng việc từ chối kư kết các văn kiện Simla, Chính phủ Trung Quốc thoát khỏi việc tuân theo bất kỳ công nhận nào về tính hợp pháp của đường McMahon.
Sau khi Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 từ trần năm 1933:
Ấn của Chính phủ Trung Quốc cấp cho Ban Thiền Lạt Ma, đọc là "Hộ quốc tuyên hóa quảng huệ đại sư Ban Thiền chi ấn 護國宣化廣慧大師班禪之印"
Organizational chart of Ganden Phodrang
Từ khi trục xuất Amban khỏi Tây Tạng vào năm 1912, giao thiệp giữa Tây Tạng và Trung Quốc chỉ được tiến hành thông qua trung gian là người Anh. Giao thiệp trực tiếp khôi phục sau khi Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 từ trần vào tháng 12 năm 1933, khi Trung Quốc phái một đoàn chia buồn đến Lhasa do tướng Hoàng Mộ Tùng đứng đầu.
V́ bài quá dài -> phải cắt bớt
Thập niên 1930 đến 1949:
Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 khi c̣n nhỏ.
[color=red]Năm 1935, Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso sinh tại Amdo thuộc miền đông Tây Tạng và được công nhận là hóa thân của Đạt Lai Lạt Ma thứ 13, song không sử dụng phương pháp "b́nh vàng rút thăm" của Trung Quốc. [color]
Sau khi Lhasa trả tiền chuộc, trái với ư nguyện của chính phủ Trung Quốc, quân phiệt người Hồi Mă Bộ Phương đang cai trị Thanh Hải cho phóng thích cậu bé để đến Lhasa vào năm 1939. Cậu sau đó được chính phủ Ganden Phodrang tôn lên ngôi tại cung điện Potala trong tết Tây Tạng. Trung Quốc tuyên bố rằng Chính phủ Quốc Dân Đảng phê chuẩn Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 hiện nay, và rằng đại biểu của Quốc Dân Đảng là Tướng quân Ngô Trung Tín chủ tŕ buổi lễ; cả sắc lệnh phê chuẩn và phim tài liệu về buổi lễ vẫn c̣n nguyên.
V́ bài quá dài -> phải cắt bớt
The 'approval certificate' of the accession of the 14th Dalai Lama said to be issued by the Government of the Republic of China on 1 January 1940
Năm 1947-49, Lhasa cử một phái đoàn mậu dịch dưới quyền Bộ trưởng Tài chính Tsepon W. D. Shakabpa đi Ấn Độ, Trung Quốc, Hồng Kông, Hoa Kỳ và Anh. Các quốc gia chủ nhà thận trọng không thể hiện ủng hộ tuyên bố Tây Tạng độc lập khỏi Trung Quốc và không thảo luận vấn đề chính trị với phái đoàn. Các quan chức trong phái đoàn này nhập cảnh Trung Quốc từ Hồng Kông với hộ chiếu Tây Tạng mới được phát hành mà họ xin tại Lănh sự quán Trung Quốc tại Ấn Độ và ở lại Trung Quốc trong ba tháng.
The Tibetan representative who attended the Chinese Constitutional Assembly.
Các quốc gia khác cho phép phái đoàn đi lại bằng hộ chiếu do chính phủ Tây Tạng phát hành. Hoa Kỳ không chính thức tiếp nhận phái đoàn mậu dịch. Phái đoàn họp với Thủ tướng Anh Clement Attlee tại Luân Đôn vào năm 1948.
Sáp nhập vào Trung Quốc:
Năm 1949, nhận thấy rằng phái cộng sản giành quyền cai trị Trung Quốc, chính phủ Kashag trục xuất toàn bộ quan chức Trung Quốc khỏi Tây Tạng bất chấp kháng nghị từ cả Quốc Dân đảng và phái cộng sản. Chính phủ cộng sản dưới quyền Mao Trạch Đông lên nắm quyền vào tháng 10 cùng năm và chỉ mất ít thời gian để khẳng định sự hiện diện mới của Trung Quốc tại Tây Tạng. Trong tháng 6 năm 1950, chính phủ Anh phát biểu tại Hạ viện rằng họ "luôn chuẩn bị công nhận quyền tôn chủ của Trung Quốc đối với Tây Tạng, song chỉ với điều kiện là Tây Tạng được xem như tự trị". Trong tháng 10 năm 1950, Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc tiến vào khu vực Chamdo của Tây Tạng, đánh bại sức kháng cự rời rạc của quân đội Tây Tạng. Năm 1951, các đại biểu của nhà cầm quyền Tây Tạng, dưới quyền Ngapoi Ngawang Jigme với ủy quyền của Đạt Lai Lạt Ma, tiến hành đàm phán tại Bắc Kinh với chính phủ Trung Quốc. Kết quả là Hiệp định Mười bảy diểm theo đó khẳng định chủ quyền của Trung Quốc đối với Tây Tạng. Hiệp định này được phê chuẩn tại Lhasa vài tháng sau đó. Trung Quốc gọi toàn bộ quá tŕnh là "giái phóng ḥa b́nh Tây Tạng".
Xă hội:
Xă hội Tây Tạng truyền thống gồm cơ cấu giai cấp phong kiến, chế độ nông nô và nô lệ, điều này là một trong những nguyên nhân để Đảng Cộng sản Trung Quốc tuyên bố rằng họ đă "giải phóng" Tây Tạng và cải cách chính phủ tại đây.
Giáo sư Tạng học và Phật giáo Donald S.Lopez nói rằng "Tây Tạng truyền thống có bất b́nh đẳng lớn giống như xă hội phức tạp bất kỳ, trong đó tầng lớp tinh hoa độc quyền quyền lực và họ gồm quư tộc nhỏ, giáo chủ các giáo phái.. và các tu viện Cách lỗ phái lớn."
V́ bài quá dài -> phải cắt bớt
Ngoại giao:
V́ bài quá dài -> phải cắt bớt
Năm 1936, sau khi Thịnh Thế Tài trục xuất 30.000 người Kazakh từ Tân Cương đến Thanh Hải, người Hồi dưới quyền Mă Bộ Phương thảm sát đồng đạo Kazakh của họ, cho đến khi chỉ c̣n lại 135 người. Từ miền bắc Tây Cương, có trên 7.000 người Kazakh chạy đến cao nguyên Thanh-Tạng qua Cam Túc và tiến hành phá hoại, Mă Bộ Phương giải quyết bằng cách cho họ đến vùng đồng cỏ được chỉ định tại Thanh Hải, song người Hồi, Tạng và Kazakh trong khu vực tiếp tục xung đột với nhau.
[url https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1t-lai_L%E1%BA%A1t-ma[/url]
Vị Lạt Ma Đầu tiên
Danh sách các vị Đạt-lại Lạt-ma:
1. Căn-đôn Châu-ba (Gendun Drup, དགེ་འདུན་གྲུབ་པ ་, 1391–1474)
2. Căn-đôn Gia-mục-thố (Gendun Gyatso, དགེ་འདུན་རྒྱ་མཚ ོ་, 1475–1542)
3. Toả-lăng Gia-mục-thố (Sonam Gyatso, བསོད་ནམས་རྒྱ་མཚ ོ་, 1543–1588)
4. Vinh-đan Gia-mục-thố (Yonten Gyatso, ཡོན་ཏན་རྒྱ་མཚོ་ , 1589–1616)
5. La-bốc-tạng Gia-mục-thố (Ngawang Lobsang Gyatso, ངག་དབང་བློ་བཟང་རྒྱ་མ ཚོ་, 1617–1682)
6. Thương-ương Gia-mục-thố (Tsangyang Gyatso, ཚངས་དབྱངས་རྒྱ་མ ཚོ་, 1683–1706)
7. Cách-tang Gia-mục-thố (Kelzang Gyatso, བསྐལ་བཟང་རྒྱ་མཚ ོ་, 1708–1757)
8. Khương-bạch Gia-mục-thố (Jamphel Gyatso, འཇམ་དཔལ་རྒྱ་མཚོ ་, 1758–1804)
9. Long-đa Gia-mục-thố (Lungtok Gyatso, ལུང་རྟོགས་རྒྱ་མ ཚོ་, 1806–1815)
10. Sở-xưng Gia-mục-thố (Tsultrim Gyatso, ཚུལ་ཁྲིམས་རྒྱ་མ ཚོ་, 1816–1837)
11. Khải-châu Gia-mục-thố (Khendrup Gyatso, མཁས་གྲུབ་རྒྱ་མཚ ོ་, 1838–1856)
12. Thành-liệt Gia-mục-thố (Trinley Gyatso, འཕྲིན་ལས་རྒྱ་མཚ ོ་, 1856–1875)
13. Thổ-đan Gia-mục-thố (Thubten Gyatso, ཐུབ་བསྟན་རྒྱ་མཚ ོ་, 1876–1933)
14. Đăng-châu Gia-mục-thố (Tenzin Gyatso, བསྟན་འཛིན་རྒྱ་མ ཚོ་, 1935–nay)
https://s20.postimg.org/odznh2svh/Da...University.jpg
Đăng-châu Gia-mục-thố (tiếng Tạng: Tenzin Gyatso, བསྟན་འཛིན་རྒྱ་མ ཚོ་; sinh ngày 6 tháng 7 năm 1935) là tên của Đạt-lại Lạt-ma thứ 14, là nhà lănh đạo thế quyền và giáo quyền của nhân dân Tây Tạng
Bookmarks