Page 6 of 18 FirstFirst ... 234567891016 ... LastLast
Results 51 to 60 of 172

Thread: Sách "Bên Thắng Cuộc" - Huy Đức

  1. #51
    Member
    Join Date
    11-05-2011
    Posts
    201

    Hăy cẩn thận với anh Bộ Đội Cam Bốt Huy Đức

    Quote Originally Posted by Vân Nương View Post
    Sẽ thấy một đám vi khuẩn vẫy đuôi nòng nòng bơi trong nước mắt của loại thuồng luồng này.
    chấm hết.
    "...“Từng là một người lính ở Campuchia tôi hiểu, không có người lính nào sẵn sàng hy sinh nếu không nghĩ, sứ mệnh của ḿnh là giải phóng. Nhưng, không chỉ những người đă nằm xuống, người lính thường kết thúc sứ mệnh sau khi buông súng, mà những việc có ảnh hưởng tới “các giá trị thiêng liêng” khi ấy mới thực sự bắt đầu. Một cuộc chiến không c̣n được coi là “giải phóng” nếu những ǵ mà nhân dân cuối cùng được hưởng không phải là độc lập tự do” ...."

    Tôi thấy mùi vị của AK47 trung đoàn Gia định làm mưa làm gió ở K.
    Anh bộ đội "giải phóng" Huy Đức có kể về tội ác của lính cụ Hồ ở Cam chưa???Thằng Lê Đức Anh làm thái thú.Gây bao tội ác tại xứ chùa tháp sao nó không kể.Nếu bạn đặt ḿnh là người dân lương thiện tại CPC.Chưa chắc bọn CSVN "nhân đạo" hơn đâu.Tôi đă từng biết thấy Bộ đội Việt giết người Miên tàn bạo.Lấy vàng lương dân...
    Ai thổi ống đu đủ cho Huy Đức th́ nên chú ư điểm này :Tội Ác của CSVN tại CPC từ 1979 kéo dài đến 1990.Nghĩa là trên 10 năm .
    Mang lại đau khổ cho Lương Dân Cam Bốt.Xin đừng phớt lờ

  2. #52
    Member Truc Vo's Avatar
    Join Date
    11-08-2010
    Posts
    907

    Đọc “Bên Thắng Cuộc” (3) – cuộc chiến với người anh em

    Nguyễn Ngọc Chính
    (Tiếp theo)
    "Phải đưa chiến tranh đến ḥa b́nh
    chứ đừng đưa ḥa b́nh đến chiến tranh"
    (We must lead war to peace, not peace to war)

    Platon
    Platon, triết gia người Hy Lạp mà nhân loại tôn vinh là vĩ đại nhất của mọi thời đại, đă có một lời khuyên rất thâm thúy về chiến tranh như đă dẫn ở trên. Ông đă từng bị bán làm nô lệ, trở về Athena khoảng năm 387 trước Công Nguyên và sáng lập ra trường đại học đầu tiên trong lịch sử nhân loại, nơi dành cho nghiên cứu, giảng dậy khoa học – triết học.
    Platon đưa ra quan niệm về nhà nước lư tưởng trong đó sự tồn tại và phát triển cần phải giải quyết được các mâu thuẫn xă hội cũng như chính trị, trong đó vấn đề chiến tranh – ḥa b́nh là một trong những yếu tố quan trọng. Cần phải đưa chiến tranh đến ḥa b́nh chứ không bao giờ từ ḥa b́nh trở thành chiến tranh.
    Lịch sử cận đại của Việt Nam cứ luẩn quẩn trong chiến tranh và ḥa b́nh. Vừa thoát khỏi cuộc chiến lớn, hưởng được ḥa b́nh vài năm lại tiếp tục hướng đến chiến tranh. Khởi đầu là cuộc đối đầu giữa Việt Nam và Khmer Đỏ tại vùng biên giới Tây Nam năm 1977. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đến cuộc chiến tiếp theo tại biên giới phía Bắc với Trung Cộng.
    Cả Khmer Đỏ lẫn Trung Cộng đều là “anh em” với Việt Nam như vậy làm sao lại xảy ra xung đột, gây tổn thất về nhân mạng cũng như làm sứt mẻ “t́nh đồng chí” giữa cả 3 bên? Phải chăng Việt Nam là kẻ hiếu chiến hay chỉ là nạn nhân của hai nước “anh em”?
    Ngày 17/4/1975, Phnom Penh rơi vào tay Khmer Đỏ, Pol Pot[*] đem quân vào “giải phóng” thủ đô Campuchia. Quân giải phóng có cả những chú lính miệng c̣n hôi sữa nhưng khuôn mặt đằmg đằng sát khí với súng và lựu đạn trong tay. Bên Thắng Cuộc mô tả ngày Khmer Đỏ tiến vào Phnom Penh, lúc đó khoảng 7g30 sáng ngày 17/4:
    “Chính quyền Lonnol ra lệnh cho quân đội đầu hàng. Cờ trắng được nh́n thấy ở khắp nơi, trong khi hàng ngàn người dân, chủ yếu là thanh niên, học sinh, đă xuống đường chào đón Khmer Đỏ với niềm tin đă tới ngày ḥa b́nh. Thoạt đầu, người dân tỏ ra yên tâm khi thấy những người lính Khmer Đỏ chỉ bắn chỉ thiên nhằm ngăn chặn nạn hôi của và văn hồi trật tự.
    Khoảng 1 giờ trưa, khi lực lượng Khmer Đỏ từ Quân khu Bắc tiến về chiếm Đài Phát thanh Quốc gia, ra lệnh cho tất cả các bộ trưởng, tướng lĩnh, các viên chức cao cấp của Chính quyền Lonnol ra tŕnh diện vào lúc 2 giờ chiều, sách báo “của bọn đế quốc” bắt đầu bị ném ra đường và đốt.
    Hoàng thân Sirik Matak và Thủ tướng Long Boret từ chối di tản theo đề nghị của Đại sứ Mỹ. Sirik Matak sau đó bị bắt khi tị nạn trong ṭa Đại sứ Pháp c̣n Long Boret th́ gọi điện thoại chỉ đường cho Khmer Đỏ tới tận nhà. Cả hai đều bị giết”.

    Ngay ngày hôm sau, tướng lĩnh của Lonnol bị đưa đi hành quyết tại sân vận động Olympic trong khi các quan chức dân sự bị xử tử h́nh tại Hội quán Thể thao. Viên chức chính quyền ở các địa phương cũng cùng số phận. Tuy nhiên, phải đến khi Pol Pot ra lệnh trục xuất dân chúng ra khỏi các đô thị trên cả nước th́ người dân mới hiểu họ cũng là nạn nhân của chế độ mới.
    Tính cả số các quan chức, quân nhân bị hành quyết, người dân bị bắn do không chịu chấp hành, hơn hai mươi ngh́n người đă bị giết trong những ngày đầu “Phnom Penh giải phóng”. Pol Pot lặng lẽ vềPhnom Penh vào ngày 24/4/1975, sau khi ra lệnh đưa toàn bộ người dân thành phố về các vùng nông thôn.



    Quân “giải phóng” Khmer Đỏ gồm cả thiếu niên

    Theo Bên Thắng Cuộc, Pol Pot ban hành chính sách tám điểm: (1) di tản toàn bộ dân chúng ra khỏi tất cả các thành phố; (2) thủ tiêu tất cả chợ búa; (3) ngưng lưu hành tiền tệ; (4) buộc các nhà sư phải lao động tại các nông trang; (5) hành h́nh các nhà lănh đạo Lonnol; (6) thành lập các hợp tác xă cao cấp trên toàn quốc, áp dụng chế độ nhà ăn tập thể; (7) trục xuất toàn bộ người Việt Nam; (8) triển khai quân dọc biên giới, đặc biệt là biên giới Việt Nam.
    Cuốn sách tiết lộ: “Trong một tài liệu mật của Trung ương phát hành ngày 19-9-1975, nghĩa là sau vừa đúng năm tháng xây dựng chủ nghĩa xă hội, Khmer Đỏ khẳng định: “So sánh với cách mạng ở Trung Quốc, Bắc Hàn và Việt Nam, chúng ta đang đi trước họ ba mươi năm”.
    Tháng 9/1975, Pol Pot phái Phó Thủ tướng Khieu Samphan và Bộ trưởng Thông tin Yeng Thirith tới B́nh Nhưỡng (Bắc Triều Tiên) mời Sihanouk trở lại Phnom Penh. Khieu Samphan nói với ông Sihanouk: “Chúng ta đă có điều kiện để trở thành 100% cộng sản. Chúng ta có thể vượt qua thậm chí người anh Trung Hoa. Với bước đại nhảy vọt, chúng ta có thể tiến đến mục tiêu chủ nghĩa cộng sản bỏ qua giai đoạn chủ nghĩa xă hội”.
    Sự thật là Pol Pot chỉ cần uy tín của Sihanouk để lấy lại chiếc ghế của Campuchia tại Liên Hiệp Quốc. Ở Phnom Penh, khi ông Hoàng đề nghị Pol Pot cho gặp một người chú già và một người d́ của ông bị đưa đi công xă từ hồi tháng 4/1975, ông đă bị từ chối. Đại diện Pol Pot nói với Sihanouk là ông sẽ được gặp họ sau chuyến đi đến Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc.
    Huy Đức viết: “Kết cục là trong hơn ba năm sống với Khmer Đỏ, Sihanouk đă trở thành một tù nhân; năm người con và mười ba người cháu của ông đă bị Angkar đưa đến các công xă để rồi không bao giờ nghe nhắc đến tên họ nữa. Sihanouk khi mới trở về vẫn là quốc trưởng của Chính phủ Hoàng gia được lập ra ở Phnom Penh, nhưng ông và Thủ tướng Pen Nouth, người trung thành của ông, chỉ có hư danh”.


    Khmer Đỏ vào Phnom Penh

    Ba năm tại Campuchia với nhiệm vụ của một “chuyên gia” Quân đội Nhân dân Việt Nam, Huy Đức có thể được coi như “người biết khá nhiều về Khmer Đỏ”. Tuy nhiên, tôi có thể khẳng định những suy nghĩ của một sĩ quan vào thời điểm đó khác hẳn với nhà báo Huy Đức của ngày nay.
    Những ǵ mà Trương Huy San (tên thật của Huy Đức) được chứng kiến tại Campuchia chỉ là những điều “mắt thấy tai nghe” nhưng những thông tin mà nhà báo Huy Đức tiết lộ trong Bên Thắng Cuộc là kết quả của 20 năm lăn lộn trong nghề báo.
    Việt Nam có nhiều nhà báo nhưng không phải ai cũng có lợi thế như Huy Đức. Ngoài khả năng thu thập tài liệu phải kể đến sự “thân cận” của anh trong bộ máy chính quyền, kể cả những nhân vật “chóp bu” của Việt Nam như Lê Duẩn (và người vợ miền Nam của ông, Nguyễn Thụy Nga), Trường Chinh, Nguyễn Văn Linh, Lê Khả Phiêu, Vơ Văn Kiệt…
    Đó cũng là lư do tại hải ngoại một số người vẫn coi Huy Đức là “anh Việt cộng tập sự làm văn” (theo bài viết của Bùi Xuân Cảnh), “một người được đào tạo trong ḷ cộng sản 100%” (Phan Đông Anh trong bài Bên Thắng Cuộc, người quốc gia “thua cuộc” tiếp), “một nhân vật Việt cộng có nhiều ‘Dây mơ rễ má’ với nhiều nhân vật số một của Bộ Chánh Trị và Ban Lănh Đạo Trung Ương của đảng Cộng sản Việt Nam” (bài viết của Thanh Thủy), “ông nhà báo VC Huy Đức” (bài viết của Lăo Móc trên http://tieng-dan-weekly.blogspot.com/)...
    Thậm chí trong bài viết của Ngô Kỷ mang đề tựa Báo Người Việt chính thức làm "chó săn" cho cộng sản tại Việt Nam, đă đặt một câu hỏi thẳng thừng: “Thử hỏi tác giả Huy Đức lấy tư cách ǵ mà được tiếp xúc với Tổng bí thư đảng cộng sản Lê Khả Phiêu nếu Huy Đức không phải là thằng kư giả đóng vai tṛ "bưng bô" cho cộng sản?”.
    Về phần ḿnh, Huy Đức cho biết: ‘Tôi mong các nhà lănh đạo hiện nay đọc Bên Thắng Cuộc cho dù họ đánh giá cuốn sách như thế nào. Nhận ra những sai lầm để “đưa dân tộc Việt Nam đi đúng con đường dân chủ, phát triển” là mong ước của chúng ta. Nhưng tương lai dân tộc không thể chỉ được trông cậy vào một cuốn sách hay vào chỉ trông cậy vào các nhà lănh đạo ở “bên thắng cuộc”.
    Theo tôi, lẽ ra Huy Đức không nên nói “…tương lai dân tộc không thể chỉ được trông cậy vào một cuốn sách…”. Nói như vậy là thiếu khiêm tốn và quá tâng bốc cho cuốn sách của ḿnh v́, dù sao đi nữa, Bên Thắng Cuộc cũng chỉ là một trong những cuốn sách đáng tham khảo trong khi tương lai dân tộc là một phạm trù rất lớn.


    Năm 1985, chuyên gia quân sự Osin 23 tuổi, tại đám cưới của một sỹ quan Campuchia
    (Photo & caption by Facebook Osin HuyDuc)

    Trở lại Campuchia vào năm 1975, Pot Pot bắt đầu tỏ rơ chính sách thù địch với Việt Nam, đó là kết quả của sự dồn nén lịch sử trong nhiều thế kỷ đồng thời cũng là hậu quả của mối quan hệ đồng chí ngắn ngủi khi c̣n trong đảng Cộng sản Đông dương bao gồm Việt Nam, Lào và Campuchia.
    Bên Thắng Cuộc tiết lộ: “Tháng 7-1946, Hồ Chí Minh tới Fonteinebleau. Khi những người Việt Nam trong Đảng Cộng sản Pháp giới thiệu những đảng viên người Khmer với phái đoàn Việt Nam và đề nghị họ “đi gặp Bác Hồ”, Thiounn, người về sau là một bộ trưởng của Pol Pot, nói: “Chúng tôi trả lời, ông ta không phải là bác của chúng tôi. Họ lại bảo, chúng ta là anh em, các bạn nên thể hiện sự tôn trọng, nhưng chúng tôi cũng từ chối”.
    Từ năm 1970 khi cuộc chiến tranh Việt Nam c̣n đang tiếp diễn, nhiều đơn vị của miền Bắc đóng quân tại các căn cứ nằm dọc theo biên giới Việt Nam - Campuchia đă bị tấn công mà thủ phạm về sau được xác định không phải là quân lực VNCH mà là lực lượng của Khmer Đỏ.
    Hơn 800 cán bộ người Khmer tập kết ra miền Bắc Việt Nam được đưa trở lại Campuchia đă bị Khmer Đỏ dần dần thủ tiêu v́ coi họ là những “người Khmer, đầu Việt”. Không chỉ hướng sự thù địch vào người Việt, từ năm 1973, Khmer Đỏ bắt đầu chống lại cả Khmer Rumdo, lực lượng ôn ḥa, ủng hộ Sihanouk và từng được miền Bắc huấn luyện. Bên Thắng Cuộc đưa ra những chứng liệu:
    “Ngày 4-11-1973, sau khi bắt cóc ba nhóm Khmer Rumdo, lực lượng Khmer Đỏ thuộc Khu 25 ở Kandal, gặp những người Khmer Rumdo ở Prey Veng, yêu cầu Khmer Rumdo hủy bỏ chủ trương hợp tác với các lực lượng miền Bắc Việt Nam. Những người Khmer Rumdo từ chối. Cuộc tranh căi đă dẫn đến một cuộc đọ súng và với sự tham gia của các đơn vị Việt Nam, Khmer Rumdo đă tiêu diệt bốn mươi hai lính Khmer Đỏ, đẩy lui phần c̣n lại. Từ đó, các cuộc đụng độ giữa hai lực lượng gần như thường xuyên xảy ra”.
    Đó có thể coi như “bước dạo đầu” của những xung đột giữa hai người anh em cùng chí hướng “cộng sản” nhưng không “cộng hưởng”. Bên Thắng Cuộc cho rằng một trong những sai lầm của Việt Nam là quá “say sưa” với chiến thắng ngày 30/4/1975 nên những chiến dịch gây hấn biên giới của Pol Pot đă không được đánh giá đúng mức và các nhà lănh đạo trong các chuyến đi tới Campuchia, cũng đă không đủ nhạy cảm để nhận ra Khmer Đỏ là ai.
    Trái lại, Sihanouk nhận ra thái độ của Khmer Đỏ với Việt Nam từ trước khi ông trở về Phnom Penh. Nhà báo Nayan Chanda (Far Eastern Economic Review) cho biết: “Nhân dịp Quốc khánh Việt nam, 2-9-1975, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đă mời Sihanouk và Khiêu Samphan, khi ấy đang là khách của Việt Nam, dự “tiệc gia đ́nh”. Thành phần tham gia gồm Hà Nội, Chính phủ Lâm thời Cộng ḥa Miền Nam Việt Nam, các nhà lănh đạo Lào, và Khmer Đỏ.
    Khieu Samphan đă làm Sihanouk “mất tinh thần và ngạc nhiên” khi “lạnh lùng từ chối” và nói rằng Campuchia muốn một bữa tiệc song phương. Sau đó, Khieu Samphan giải thích với Sihanouk:“Chúng ta không bao giờ để rơi vào cái bẫy của người Việt Nam, kẻ đang muốn thống trị và nuốt chửng Campuchia bằng cách lôi kéo vào liên bang Đông Dương của họ”.

    Nhưng đến tận lúc ấy, Việt Nam vẫn coi biên giới Tây Nam là nơi tiếp giáp với một “người anh em”. Trên toàn tuyến biên giới dài hơn 1.000 km, Việt Nam chỉ bố trí bốn mươi hai đồn biên pḥng. Trong khi đó, bốn sư đoàn Khmer Đỏ gấp rút hoàn thành tuyến công sự dày đặc kéo dài từ bờ Vịnh Thái Lan đến vùng Sông Bé. Và cái ǵ phải đến, đă đến:
    “Ngày 14-1-1977, gần một trung đoàn Pol Pot tấn công các đồn, chốt Việt Nam ở khu vực Buprang, gây cho phía Việt Nam những thiệt hại nghiêm trọng. Dân t́nh lo lắng, cán bộ các cấp cũng bắt đầu hết sức băn khoăn.
    Chiến tranh bắt đầu leo thang trong năm 1977: 30-4-1977, Pol Pot cho quân tấn công trên tuyến biên giới thuộc địa bàn Quân khu IX; tháng 8-1977, tấn công trên địa bàn Quân khu VII; tháng 10-1977, tấn công trên địa bàn Quân khu V. Ở Quân khu IX lúc ấy, chỉ một sư đoàn bộ binh được giữ ở trạng thái thường trực, trong khi hai sư đoàn bộ binh c̣n lại chuyển sang làm kinh tế – Sư 4 ở tứ giác Long Xuyên, Sư 8 ở Đồng Tháp Mười, chủ yếu đào kinh”.

    Ngay đêm 30-4-1977, Tướng Lê Đức Anh ra lệnh cho Sư đoàn 330 chuyển sang trạng thái sẵn sàng cơ động lên tuyến biên giới đánh địch, đồng thời, theo ông Trà, Quân khu cũng được trên đồng ư cho thành lập thêm Sư đoàn 339 làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu. Bắt đầu từ đây, chiến sự không c̣n xảy ra trên đường biên.
    Một tháng rưỡi sau, Tư lệnh Quân khu IX Lê Đức Anh quyết định đưa một lực lượng gồm hai trung đoàn bộ binh có xe bọc thép M113, một trung đoàn tăng thiết giáp, hai phi đội máy bay tiêm kích, đánh hiệp đồng binh chủng ở quy mô sư đoàn từ hướng Kiên Giang, thọc sâu vào đất Campuchia, ṿng về tiêu diệt phần lớn lực lượng Khmer Đỏ đang chiếm giữ Đầm Chích, xă Vĩnh Điện.

    Trong một chuyến thăm Cần Giờ cuối năm 1977, Lê Duẩn trả lời một số thắc mắc của huyện ủy Cần Giờ tại sao “ta” lại đối phó với việc quấy rối, tàn sát, cướp phá dă man của Khmer Đỏ một cách rất… “lôi thôi”, Bên Thắng Cuộc đưa ra câu trả lời của Lê Duẩn:
    “Các đồng chí hỏi đúng vào một t́nh h́nh cả nước đang quan tâm. Chúng tôi đau đầu lắm, ngủ không được. Không phải là vấn đề Khmer Đỏ, vấn đề Pol Pot, mà là vấn đề ai ở đằng sau Khmer Đỏ, đằng sau Pol Pot. Ta đă đưa đại quân đâu, bọn nó làm sao chống ta nổi, nhưng ta đánh nó, Trung Quốc đánh ta thôi. Nếu ta không chiếm K, Trung Quốc cũng không chiếm ta”.
    Độ chính xác của câu trích dẫn này vẫn c̣n bỏ ngỏ. Người cung cấp thông tin là một ông Nguyễn Thành Thơ nào đó, có lẽ thuộc huyện ủy Cần Giờ. Khó tưởng tượng một viên chức nhỏ như ông Thơ lại dám chất vấn ông Tổng bí thư Lê Duẩn về một vấn đề “nhạy cảm” như vậy.
    Người ta không phủ nhận ư nhĩa của câu trả lời là quan trọng nhưng cách diễn ư của Bên Thắng Cuộc là không có tính thuyết phục. Cũng v́ thế một số người cho là Huy Đức có ư bao che cho những nhân vật nhân vật lănh đạo bằng cách đưa vào sách những đoạn viết như trên.
    Thêm một dẫn chứng trong việc “tô hồng” lănh đạo trong Bên Thắng Cuộc qua lời kể của ông Đậu Ngọc Xuân: “Cuba nhiều lần thiết tha mời anh Ba Lê Duẩn sang thăm. Fidel cứ giục măi, nhiều đồng chí nhắc, anh Ba mắng: ‘Các chú muốn dân đói à?’. Rồi, anh Ba nói với Bộ Ngoại Giao: ‘Đúng là Fidel sang ta mấy lần, nhưng ta mới thắng Mỹ, sang Cuba không tuyên bố chống Mỹ th́ Cuba không chịu, tuyên bố chống Mỹ th́, các chú thấy, sang cạnh nhà nó chửi nó, nó cấm vận ḿnh suốt đời th́ ḿnh chết. V́ lợi ích quốc gia, tôi chưa thể đi được’.
    Ông Đậu Ngọc Xuân là nguyên Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Hợp tác và Đầu tư Nhà nước; Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước; ông cũng có thời gian làm trợ lư cho Tổng Bí thư Lê Duẩn. Cũng là điều b́nh thường khi một trợ lư nói những điều tốt đẹp về cấp trên của ḿnh nhưng Bên Thắng Cuộc trích dẫn những lời trên đă làm mất đi tính khách quan của một tài liệu lịch sử.
    Trong các năm 1977, 1978, Trung Cộng viện trợ rất nhiều cho Khmer Đỏ về pháo binh, pháo pḥng không, thuyền tuần tiễu… Hơn thế nữa, 500 chuyên gia quân sự đă được gửi sang để huấn luyện Khmer Đỏ sử dụng vũ khí. Theo Bên Thắng Cuộc, “Cố vấn Trung Quốc thậm chí c̣n gặp cả người của lực lượng Fulro đang hoạt động chống Chính quyền Việt Nam ở vùng Tây Nguyên”.
    Ngày 2/6/1977, trên đường từ Đông Âu trở về, Đại tướng Vơ Nguyên Giáp ghé qua Bắc Kinh, nhưng người đồng nhiệm với ông là Bộ trưởng Quốc pḥng Diệp Kiếm Anh đă không ra sân bay đón. Tướng Giáp gần như đă bị làm nhục trong suốt chuyến đi này. Một tuần sau, khi Thủ tướng Phạm Văn Đồng dừng chân ở Bắc Kinh, Phó Thủ tướng Trung Quốc Lư Tiên Niệm chính thức cáo buộc Hà Nội “lật lọng đối với Công hàm 1958” . Sau những sự cố ngoại giao đó, Việt Nam càng cảnh giác cao với Bắc Kinh.
    Tháng 10/1977, chuyến thăm Việt Nam của phái đoàn quân sự Liên Xô được công khai trên các phương tiện truyền thông. Cùng lúc, Trung Quốc tăng cường viện trợ quân sự cho Pol Pot. Giữa tháng 10/1978, ở New York, Nguyễn Cơ Thạch hối thúc các nhà đàm phán Hoa Kỳ kư thỏa thuận b́nh thường hóa. Có lẽ ông Thạch cũng muốn có một nỗ lực cuối cùng. Nhưng Hoa Kỳ đă từ chối v́ ba “trở ngại” mới: (1) sự thù địch của Việt Nam với Campuchia, (2) mối quan hệ với Liên Xô, và (3) t́nh trạng ngày càng nhiều “thuyền nhân” bỏ nước ra đi.
    Bên Thắng Cuộc c̣n đưa ra một chứng liệu thuộc loại “quư” đối với những người quan tâm đến giai đoạn lịch sử cũng như kinh tế-tài chính của Việt Nam sau 1975:
    “Ngày 2-5-1978, Ủy ban Thường Vụ Quốc hội ra Quyết định đổi một đồng tiền dùng chung cho hai miền… Không có biến động đáng kể v́ lần đổi tiền này không nhằm “cải tạo tư sản” dù được đưa ra ngay sau “cải tạo tư sản”. Lư do công khai là “để thống nhất tiền tệ trong cả nước”.
    Nhưng, theo ông Nguyễn Nhật Hồng, đồng tiền Chính phủ Lâm thời Cộng ḥa Miền Nam Việt Nam phát hành tại miền Nam từ ngày 22-9-1975 là tiền thuộc lô “Hàng 65” được Trung Quốc giúp in. Tuy nhiên, sau khi in, bản kẽm bị “bạn” giữ lại, Việt Nam xin lại mấy lần không được. Năm 1978, nhằm tránh Trung Quốc sử dụng bản kẽm mà họ đang giữ để in tiền tung ra phá hoại, Chính quyền cho đổi “Hàng 65” bằng một loại tiền mới được in từ Tiệp Khắc”.




    Tiền do Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam phát hành

    Tại Liên Hiệp Quốc, Sihanouk đọc diễn văn lên án “hành động xâm lăng của Việt Nam” đồng thời tố cáo chế độ bạo tàn của Pol Pot. Theo đề nghị của Sihanouk, Liên Hiệp Quốc đă đưa ra thảo luận nghị quyết buộc Việt Nam rút quân khỏi Campuchia. Tuy nhiên, nghị quyết này đă bị Liên Xô dùng quyền lực Thường trực Hội đồng Bảo an phủ quyết. Từ phiên họp của Liên Hiệp Quốc, Sihanouk bí mật t́m gặp Đại sứ Mỹ Andrew Young, nhưng nước Mỹ đă đẩy Sihanouk trở lại tay của Đặng Tiểu B́nh khi từ chối yêu cầu của ông xin tị nạn.
    Ngày 15/12/1978, Mỹ và Trung Quốc ra thông cáo chung, chính thức công nhận nhau và tuyên bố thiết lập quan hệ ngoại giao kể từ ngày 1/1/79. Chỉ hai ngày sau khi Việt Nam đưa quân vào Phnom Penh, 9/1/1979, Ngoại trưởng Mỹ Cyrus Vance tuyên bố với ông Trần Quang Cơ: “Các cuộc nói chuyện Mỹ-Việt về b́nh thường hóa đă tan vỡ do cuộc xâm lược Campuchia của Việt Nam”.
    Trong cuộc chiến biên giới Tây Nam, tổn thất về phía Việt Nam, tính từ tháng 12/1977 đến tháng 6/1978, có 6.902 bộ đội bị hy sinh và 23.742 bị thương. Ngoài ra, có 4.100 thường dân bị thương và bị giết.
    Bên Thắng Cuộc dẫn người đọc vào cuộc chiến “huynh đệ” thứ hai giữa những người Cộng sản: “Vào lúc 5 giờ 25 sáng ngày 17-2-1979, Trung Quốc nổ súng trên toàn tuyến biên giới Việt Nam, đánh chiếm từ cực Tây Bắc (Phong Thổ, Lai Châu) đến cực Đông Bắc (địa đầu Móng Cái). Tiếng pháo chát chúa ở hướng Đồng Đăng và phía dốc Chóp Chài, Lạng Sơn đă dựng người dân dậy khi mờ sáng. Vào thời điểm ấy, Trung Quốc tập trung sát biên giới khoảng 450 ngh́n quân và sử dụng 200 ngh́n quân trong ngày đầu xâm lược. Việt Nam bị bất ngờ hoàn toàn”.
    Chiến tranh biên giới Việt-Trung, một cuộc chiến mà Đặng Tiểu B́nh nói là để “dạy cho Việt Nam một bài học” , theo các nhà phân tích quân sự phương Tây, “chính Việt Nam mới là người đă dạy cho Trung Quốc bài học”.
    Ngày 2/3/1979, như để giải thích cho việc “án binh bất động” khi đồng minh của ḿnh bị tấn công, tạiMoscow, Tổng Bí thư Brezenev tuyên bố: “Đừng ai nghi ngờ việc Liên Xô trung thành với Hiệp ước Hữu nghị và hợp tác gắn bó Liên Xô với Việt Nam”.
    Cùng ngày này, hăng thông tấn xă Tass của Liên Xô phát đi một tuyên bố: “Quân đội Trung Quốc phải rút ngay khỏi lănh thổ Việt Nam… Những tên xâm lược Trung Quốc cần biết rằng chúng càng gây nhiều tội ác bao nhiêu, th́ sẽ càng bị trừng phạt nghiêm khắc bấy nhiêu”.
    Theo Bên Thắng Cuộc, “Ngày 4-3-1979, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra lời kêu gọi “toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đoàn kết một ḷng, anh dũng tiến lên”. Lời kêu gọi cho rằng, “ngày nay, chúng ta có sức mạnh vĩ đại hơn bao giờ hết, sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc và của ba ḍng thác cách mạng của thời đại”.
    Trên báo Nhân Dân, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhà báo Hoàng Tùng xă luận: “Cả nước đánh giặc, toàn dân là lính” . Cùng thời điểm đó, hai quân đoàn tinh nhuệ nhất của Việt Nam, sau khi đuổi Pol Pot khỏi Phnom Penh, được vận chuyển bằng máy bay ra phía Bắc: (1) Quân đoàn II lên Đồng Mỏ, Lạng Sơn; (2) Quân Đoàn III tới Na Ŕ, Bắc Kạn.
    Ngày 5/3/1979, Hội đồng Chính phủ ra Nghị định số 83-CP, “quân sự hóa toàn dân, vũ trang toàn dân”nhằm “đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của bọn phản động theo chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc” . Cùng ngày, Chủ tịch nước ra lệnh “Tổng động viên”.
    Tuy nhiên, chỉ một ngày sau khi lệnh Tổng động biên được ban hành, ngày 6/3/1979, Trung Cộng tuyên bố “chiến thắng” rồi bắt đầu rút quân. Sách của Huy Đức đưa ra những con số thống kê về cuộc chiến biên giới phía Bắc chỉ trong ṿng một tháng:
    “Khoảng 25.000 lính Trung Quốc bị chết, 37.000 quân khác bị thương. Tổn phí chiến tranh hết khoảng 5.5 tỷ Nhân dân tệ trên tổng chi tiêu ngân sách năm 1979 của Trung Quốc là 22,3 tỷ.”


    Lính Trung Quốc và một nữ dân quân Việt Nam đang canh gác tù binh
    (Photo & Caption: Wikipedia)

    Người đọc không thấy nói đến tổn thất về phía Việt Nam trong Bên Thắng Cuộc. Để làm sáng tỏ vấn đề, chúng tôi trích nguồn Wikipedia: http://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%...7t-Trung,_1979
    Theo tướng Ngũ Tu Quyền (伍修权), phó tổng tư lệnh Quân giải phóng Trung Quốc, số quân Việt Nam bị chết và bị thương là 50.000, trong khi con số tương ứng của Trung Quốc là 20.000.
    • Theo nhà sử học Gilles Férier th́ có khoảng 25.000 lính Trung Quốc thiệt mạng và gần 500 xe bọc thép hoặc pháo bị phá hủy, con số này phía Việt Nam cũng là gần tương tự nhưng thấp hơn một chút.
    • Russell D. Howard cho rằng quân Trung Quốc thương vong 60.000 người, trong đó số chết là 26.000, một số nguồn khác cũng đồng ư với con số thương vong ít nhất khoảng 50.000 của phía Trung Quốc.
    • Nguồn của King Chen nói rằng riêng tại các bệnh viện lớn ở Quảng Tây đă có ít nhất 30.000 thương binh Trung Quốc.
    • Tháng 4 năm 1979, Báo Quân đội Nhân dân của Việt Nam ước lượng tổng thương vong của quân Trung Quốc là 62.500 người. Phía Việt Nam có hàng ngh́n dân thường chết và bị thương, theo tạp chí Time th́ có khoảng dưới 10.000 lính Việt Nam thiệt mạng (con số này phía Trung Quốc là trên 20.000).
    • Phía Trung Quốc bắt được khoảng 1.600 tù binh trong tổng số hơn 50.000 quân Việt Nam tham chiến tại mặt trận Lào Cai, Cao Bằng, Lạng Sơn.


    (C̣n tiếp)

    ***

    Nguyễn Ngọc Chính

    Nguồn:
    http://chinhhoiuc.blogspot.com/2012/...chien-voi.html

    (C̣n tiếp)
    Last edited by Truc Vo; 29-12-2012 at 11:14 PM.

  3. #53
    Member Truc Vo's Avatar
    Join Date
    11-08-2010
    Posts
    907

    "Đọc “Bên Thắng Cuộc” (3) – cuộc chiến với người anh em"

    Chú thích của bài viết "Đọc “Bên Thắng Cuộc” (3) – cuộc chiến với người anh em", post # 55:

    [*] Pol Pot: Theo Wikipedia, Saloth Sar (19/5/1928 – 15/4/1998), người Campuchia gốc Hoa, được biết đến dưới cái tên Pol Pot, là người lănh đạo đảng Cộng sản Khmer Đỏ và là thủ tướng Campuchia (tên chính thức Kampuchea Dân chủ dưới quyền ông) từ 1976 đến 1979.
    Trong thời gian cầm quyền Pol Pot đă tạo ra một chế độ cải cách nông nghiệp, nhằm tạo ra một xă hội cộng sản lư tưởng. Ngày nay, chế độ của ông bị hầu hết mọi người cho là nguyên nhân dẫn đến cái chết của khoảng 1,7 triệu người Campuchia (khoảng 26% dân số tại thời điểm đó).
    Năm 1949, ông được theo học kỹ sư radio ở Paris. Trong thời gian học, ông đă trở thành một người cộng sản và gia nhập Đảng cộng sản Pháp. Năm 1953, ông trở về Campuchia.
    Lúc ấy, cuộc kháng chiến do cộng sản lănh đạo đang diễn ra chống lại sự cai trị của Pháp ở Đông Dương. Trung tâm cuộc kháng chiến ở tại Việt Nam, nhưng cũng có các chi nhánh ở Campuchia và Lào. Saloth Sar gia nhập Việt Minh, nhưng thấy rằng tổ chức này chỉ chú trọng tới Việt Nam chứ không phải Lào hay Campuchia.
    Năm 1954, Pháp rời Đông Dương, nhưng Việt Minh cũng rút về Bắc Việt Nam, và Vua Norodom Sihanouk kêu gọi tổ chức bầu cử. Sihanouk thoái vị và lập ra một đảng chính trị. Sihanouk hất cẳng những người cộng sản đối lập và chiếm toàn bộ số ghế chính phủ. Saloth Sar chạy trốn cảnh sát mật của Sihanouk và đă sống trong cảnh trốn tránh bảy năm trời, chiêu mộ binh lính.
    Tới cuối thập kỷ 1960, Lon Nol là giám đốc tổ chức an ninh nội bộ của Sihanouk tiến hành các hành động chống lại những người cách mạng, lúc ấy được gọi là Đảng Cộng sản Campuchia. Saloth Sar bắt đầu một cuộc khởi nghĩa vũ trang chống lại chính phủ, được Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa giúp đỡ.
    Trước năm 1970, Đảng Cộng sản Campuchia là một tổ chức rất ít được biết đến trong đời sống chính trị Campuchia. Tuy nhiên, năm 1970, vị tướng được phương tây ủng hộ là Lon Nol lật đổ Sihanouk, bởi v́ Sihanouk bị coi là người ủng hộ Việt Cộng và Bắc Việt Nam.
    Để phản kháng, Sihanouk quay sang ủng hộ phe của Saloth Sar. Cùng năm đó, Tổng thống Mỹ Richard Nixon ra lệnh tấn công quân sự vào Campuchia để tiêu diệt những nơi trú ẩn của Việt Cộng gần biên giới Nam Việt Nam. Cùng với sự yêu mến của dân chúng dành cho Sihanouk và cuộc tấn công của Mỹ vào Campuchia, phe Saloth Sar được nhiều người ủng hộ và chỉ trong thời gian ngắn chính phủ Lon Nol chỉ c̣n kiểm soát được các thành phố.
    Khi Hoa Kỳ rời Việt Nam năm 1973, quân Bắc Việt rời Campuchia nhưng Khmer Đỏ tiếp tục chiến đấu với sự ủng hộ của họ. Không c̣n giữ được quyền kiểm soát đất nước nữa, chính phủ Lon Nol nhanh chóng sụp đổ. Ngày 17/4/1975, Đảng cộng sản Campuchea chiếm Phnom Penh và Lon Nol bỏ chạy sang Mỹ.
    Chỉ chưa tới một tháng sau, ngày 12/5/1975, các lực lượng hải quân Khmer Đỏ hoạt động trên vùng lănh hải Campuchia đă bắt giữ chiếc tàu buôn S.S. Mayaguez của Mỹ, chiếc tàu Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam, gây ra Cuộc khủng hoảng Mayaguez. Saloth Sar đổi tên thành Pol Pot vào khoảng thời gian này, rơ ràng là không muốn lộ diện.
    Chế độ Pol Pot đă giết hại từ 1,5 tới 2,3 triệu người trong giai đoạn 1975-1979, trong tổng dân số gần 8 triệu. Mục tiêu của chế độ là các nhà sư Phật giáo, những trí thức có ảnh hưởng phương tây, những người có vẻ là trí thức (như những người đeo kính), những người tàn tật, các dân tộc thiểu số như Lào và Việt Nam.
    Ngay sau khi Phnom Penh sụp đổ, Khmer Đỏ bắt đầu tiến hành những cuộc cải cách cộng sản triệt để, và Sihanouk bị đặt vào vị trí lănh đạo bù nh́n. Khmer Đỏ ra lệnh sơ tán toàn bộ khỏi Phnom Penhvà tất cả các thành phố, thị xă chính của đất nước. Những người sơ tán được tuyên truyền rằng họ phải ra đi để tránh những cuộc ném bom của người Mỹ.
    Năm 1976 mọi người được tái xếp hạng thành những người có đủ mọi quyền lợi (căn bản), ứng cử viên, và người mới đến - gọi thế v́ đa số người thuộc loại này là người mới đến từ các thành phố. Những người mới đến được đánh dấu để tiêu diệt. Các khẩu phần của họ bị giảm xuống c̣n hai bát cháo, hay “juk” một ngày. Điều này khiến cho nạn đói xảy ra bên trong tầng lớp mới đến.
    Lănh đạo Khmer Đỏ khoe khoang rằng chỉ một hay hai triệu người trong số dân chúng toàn cuộc là cần thiết để xây dựng một xă hội điền địa cộng sản không tưởng. Đối với những người khác, th́ theo câu châm ngôn, “sống cũng chẳng được ǵ; chết cũng chẳng mất ǵ.”
    Hàng trăm ngàn người mới đến đă bị xiềng xích, bị buộc phải đào mồ chôn chính ḿnh. Sau đó các binh sĩ Khmer Đỏ đánh họ đến chết bằng những thanh sắt và những cái cuốc hay chôn sống họ. Một chỉ thị của Khmer Đỏ về việc giết chóc đă ra lệnh, “Không được làm phí đạn dược.”
    Hàng ngh́n chính trị gia và quan chức bị buộc tội hợp tác với chính phủ cũ bị giết hại trong khi Phnom Penh biến thành một thành phố ma với rất nhiều người chết đói, bệnh tật hay bị hành quyết. Ḿn là thứ Pol Pot coi là “người lính tuyệt vời” và được rải khắp mọi vùng nông thôn.
    Danh sách thương vong thời Pol Pot hiện vẫn c̣n gây tranh căi. Các nguồn đáng tin cậy cho rằng số người chết dưới thời Khmer Đỏ là 1,6 triệu. Một con số cụ thể, là ba triệu người chết trong giai đoạn 1975 và 1979 được chế độ Phnom Penh là PRK đưa ra.
    Tới năm 1978, thảm hoạ nhân đạo ở Campuchia dưới chế độ Pol Pot đă hiển hiện. Những cố gắng của chế độ nhằm thanh trừng những yếu tố Việt Nam ra khỏi Campuchia ngày càng tăng dẫn tới các cuộc tấn công vào lănh thổ Việt Nam. Cuối năm 1978, để trả đũa những mối đe doạ ở biên giới và tới người dân Việt Nam, Việt Nam tấn công Campuchia lật đổ chế độ Khmer Đỏ.
    Quân đội Campuchia dễ dàng bị đánh bại và Pol Pot chạy tới vùng biên giới Thái Lan. Tháng 1/1979, Việt Nam hỗ trợ lập ra một chính phủ mới với người đứng đầu là Heng Samrin, gồm những người Khmer Đỏ đă chạy sang Việt Nam để tránh các cuộc thanh trừng. Pol Pot vẫn giữ được một vùng nhỏ ở phía tây đất nước. Lúc ấy, Trung Quốc, trước kia từng ủng hộ Pol Pot, tấn công Việt Nam, gây ra một cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung.
    Pol Pot tán thành một thứ tập hợp các triết lư cấp tiến, được gọi là Học thuyết Anka, được sửa đổi theo chủ nghĩa quốc gia Khmer. Muốn xây dựng một chủ nghĩa ruộng đất nguyên thuỷ, Khmer Đỏ tán thành một xă hội ruộng đất theo đó tất cả các phát minh kỹ thuật hiện đại đều bị cấm ngặt. Pol Pot là kẻ đối lập lại với thuyết chính thống Xô viết. Bởi v́ ông là người chống Xô Viết nên Cộng hoà nhân dân Trung Hoa coi ông là thích hợp để chống Việt Nam (và v́ thế cũng là chống Liên Xô).
    Ngược với bề ngoài giản dị với bộ áo quần bà ba đen, Pol Pot rất sành điệu khi chọn xe hơi với các chiếc xe Limousine Mercedes Benz Stretch đời 1973 cực kỳ sang trọng và quư phái. Pol Pot và các đồng sự được xem là đối tượng của Ṭa án quốc tế về tội ác diệt chủng. Việc lập ṭa án xét xử gặp nhiều khó khăn khách quan và chủ quan, một số thế lực từng ủng hộ Khmer Đỏ lấy làm tiếc về việc làm quá đáng của Pol Pot với người dân Khmer nhưng họ đều đă lớn tuổi và cái chết già sẽ là một sự dễ chịu cho các bên cũng như lịch sử.

    Nguyễn Ngọc Chính

    Nguồn:
    http://chinhhoiuc.blogspot.com/2012/...chien-voi.html

    (C̣n tiếp)

  4. #54
    Member
    Join Date
    11-05-2011
    Posts
    201

    Anh Bộ Đội CSBV gốc Nghệ không hiền hậu ǵ đâu khi "chốt" ở K

    Quote Originally Posted by johnchamber View Post

    "...“Từng là một người lính ở Campuchia tôi hiểu, không có người lính nào sẵn sàng hy sinh nếu không nghĩ, sứ mệnh của ḿnh là giải phóng. Nhưng, không chỉ những người đă nằm xuống, người lính thường kết thúc sứ mệnh sau khi buông súng, mà những việc có ảnh hưởng tới “các giá trị thiêng liêng” khi ấy mới thực sự bắt đầu. Một cuộc chiến không c̣n được coi là “giải phóng” nếu những ǵ mà nhân dân cuối cùng được hưởng không phải là độc lập tự do” ...."

    Tôi thấy mùi vị của AK47 trung đoàn Gia định làm mưa làm gió ở K.
    Anh bộ đội "giải phóng" Huy Đức có kể về tội ác của lính cụ Hồ ở Cam chưa???Thằng Lê Đức Anh làm thái thú.Gây bao tội ác tại xứ chùa tháp sao nó không kể.Nếu bạn đặt ḿnh là người dân lương thiện tại CPC.Chưa chắc bọn CSVN "nhân đạo" hơn đâu.Tôi đă từng biết thấy Bộ đội Việt giết người Miên tàn bạo.Lấy vàng lương dân...
    Ai thổi ống đu đủ cho Huy Đức th́ nên chú ư điểm này :Tội Ác của CSVN tại CPC từ 1979 kéo dài đến 1990.Nghĩa là trên 10 năm .
    Mang lại đau khổ cho Lương Dân Cam Bốt.Xin đừng phớt lờ

    Ai có kinh nghiệm tí xíu ǵ về tội ác Bộ Đội CS th́ phải hiểu sự tàn độc từ trong huyết quản của bọn cầm AK47 với lối đối xử vô nhân đạo và nhân tính.
    Mấy tṛ ṃ tôm, cột bao ni lông quanh cổ, xiết cổ,đập đầu ,chôn sống...Xuất phát từ đâu? Mấy Bác biết(biết rồi khổ lắm nói măi)từ miền Bắc xứ Thanh Nghệ của Bác Hồ kính yêu rồi lan rộng ra đó thưa các Bác.
    Đối với bọn này rơi vào tay chúng chỉ có chết

  5. #55
    Member Truc Vo's Avatar
    Join Date
    11-08-2010
    Posts
    907

    Đọc “Bên Thắng Cuộc” (4) – chuyện bên lề

    Nguyễn Ngọc Chính
    (Tiếp theo và hết)

    Đây là bài cuối cùng trong loạt bài Đọc ‘Bên Thắng Cuộc’. Bài viết này chỉ xoay quanh những câu chuyện nhỏ trong cuốn sách. Tuy là chuyện bên lề nhưng tôi cho rằng rất thú vị v́ mang nhiều ư nghĩa trong giai đoạn lich sử của đất nước, từ năm 1975 cho đến nay.
    Ngay sau ngày 30/4/1875, chính quyền mới muốn thay đổi đến tận gốc rễ cuộc sống của người dân miền Nam. Họ đă liên tiếp tung ra nhiều chiến dịch thuộc quy mô lớn như cải tạo viên chức – quân nhân chế độ cũ, cải tạo công thương nghiệp, chính sách kinh tế mới… cho đến những chuyện nhỏ như đợt phát động thanh niên “hớt tóc ngắn, sửa quần áo lai căng, không để râu tóc”.
    Theo Bên Thắng Cuộc, tháng 10/1975, ở Quận 10, Đoàn Thanh niên Cộng sản liên tục mở nhiều cuộc thảo luận về “tư cách, tác phong của người thanh niên” và Quận Đoàn đă đi đến quyết định: “Hớt tóc ngắn, sửa lại áo, eo quần loe, quần bó, không mang áo hở ngực, không ăn mặc lố lăng, sặc sỡ… Quận đoàn đă liên hệ với một số tiệm hớt tóc và nhà may để giới thiệu anh em đến hớt tóc và sửa lại áo quần với giá rẻ và mở ba địa điểm hớt tóc miễn phí tại phường Nhật Tảo và tại trụ sở quận đoàn”.
    Ngay tại Sài G̣n, những người vừa được “giải phóng” đă biết dùng những biểu tượng của chế độ mới như Karl Marx, Angel, Lenin và Mao Trạch Đông qua thơ để ta thán về sự “bất b́nh thường” của những người được mệnh danh là “giải phóng”. Trích từ Bên Thắng Cuộc:
    Các-mác mà đến Việt Nam
    Râu dài tóc rậm công an bắt liền
    Các-mác cầu cứu Ăng-ghen
    Ăng-ghen cũng phải đóng tiền tóc râu
    Truyền cho bốn biển năm châu
    (Đến Việt Nam th́ nhớ)
    Râu Mao Chủ tịch tóc đầu Lê- nin!

    Cái hay trong thơ dân gian là dùng h́nh tượng Mao Trạch Đông vốn “mày râu nhẵn nhụi” để làm chuẩn cho những ai thích để râu c̣n Lenin “đầu hói” được lấy làm mẫu mực cho việc hớt tóc! Xem ra, khổ th́ có khổ nhưng những nhà thơ đường phố vẫn c̣n chút khôi hài để cười cho quên cái khổ.
    Về quần ống loe, tôi xin trích dẫn chú thích số [348] khá dài của Huy Đức: “Từ Đông Đức trở về, quần áo mà ông Lê Xuân Nghĩa mang theo cũng là quần loe v́ nó đang là “mốt của toàn thế giới”. Một hôm, ông đang đạp xe giữa đường phố Hà Nội th́ bị công an ách lại và ngang nhiên rạch cả hai ống quần từ gấu đến ngang hông.
    Tức tối, ông Nghĩa về cơ quan là Ủy ban Vật Giá để nhờ giúp phản đối chuyện can thiệp thô bạo. Nhưng, cả lănh đạo cơ quan và Bí thư Đảng ủy đều cho rằng công an làm thế là đúng. Chủ nhiệm Ủy Ban Vật giá, ông Tô Duy nhận xét: “Cái quần nó loe th́ đầu óc nó cũng loe.
    “Tuy, ít nơi chính thức ban hành những “mệnh lệnh cấm đoán”; nhưng, nếu như các mệnh lệnh thường có giới hạn th́ các “phong trào” lại không có điểm dừng, nhất là khi các đoàn viên “hồng vệ binh” được huy động để chống những “kiểu ăn mặc càn quấy” ấy.
    Nhiều nơi, những người mặc quần loe, để tóc dài đă bị các đoàn viên, có nơi bị công an, giữ lại dùng dao, kéo cắt quần, cắt tóc giữa đường (Theo Đặng Phong, Tư Duy Kinh Tế Việt Nam). Ông Phan Minh Tánh, Bí thư Đoàn Thanh niên Cách mạng miền Nam kể, khi ra Hà Nội ông thấy, ở cơ quan Trung ương Đoàn cũng có bảng “không tiếp thanh niên mặc quần loe để tóc dài”.

    Sưu tầm trên internet, chúng tôi gặp bức ảnh một người thanh niên tên Nguyễn Minh Tâm bị đeo tấm bảng trước ngực có ḍng chữ “Mê Nhảy Đầm” giữa thành phố Sài G̣n vừa đối chủ. Ngày ghi trên bảng không rơ nhưng phía sau lưng anh là 4 chú bộ đội, không biết là vô t́nh xuất hiện hay chính họ là người đạo diễn cảnh bêu riếu này.


    Câu chuyện bên lề dưới đây được Bên Thắng Cuộc viết lại qua lời kể của cô giáo Nguyễn Thị Hoàng Bắc dạy tại trường Hoàng Văn Thụ, Nha Trang. Trong năm học 1976-1977 một học sinh lớp 10, lớp do cô phụ trách, đă viết 4 câu thơ lên bàn học của ḿnh:
    Không muốn ngồi yên để đợi trông
    Thích làm Từ Hải giữa muôn ḷng.
    Cộng lại những ǵ trong quá khứ,
    Sản khoái trong ḷng thoả ước mong

    Theo cô giáo, điều quan trọng không phải là học sinh này đă viết sai lỗi chính tả trong câu cuối cùng, thay v́ “sảng khoái” em viết “sản khoái”. Đó là một lỗi “cố ư” v́ đoạn thơ có 4 chữ bắt đầu bằng “Không”, “Thích”, “Cộng” và “Sản”, ghép lại thành cụm từ “Không Thích Cộng Sản”.
    Bên Thắng Cuộc b́nh luận: “Thái độ ấy có lẽ đă qua mấy năm tích tụ, nhưng hành động viết ra th́ chỉ là một phút bốc đồng. Có người đă báo cáo và học sinh đó đă bị bắt, bị điều tra và bị đuổi học”.
    Cô giáo Nguyễn Thị Hoàng Bắc kể thêm: “Tôi và một cô giáo đồng nghiệp khác (về sau định cư ở Canada) đă cố hết sức giúp em. Hai chúng tôi đứng trước cửa lớp giờ tan học che cho một cô giáo khác lấy dao cố cạo cho hết những nét khắc sâu vào gỗ của bài thơ nhưng có người đă nhanh tay sao chép, gửi đi cho công an. Nét khắc c̣n lờ mờ nhưng vẫn là bằng cớ”.
    Không chỉ có những đứa trẻ bồng bột phản ứng bằng những câu thơ viết trên bàn học, sự trải nghiệm “Sài G̣n giải phóng” đă giúp nhà thơ Đỗ Trung Quân [1] thai nghén những vần thơ cũng đau như dao cắt, nhưng nó không được dại dột khắc xuống mặt bàn để bàn tay học tṛ phải nhận cây c̣ng số 8.
    Năm 1982, Đỗ Trung Quân (tác giả Quê hương là chùm khế ngọt…” viết bài Tạ Lỗi Trường Sơn nhưng măi tới năm 2009 tác giả mới công bố bài thơ này trên blog cá nhân. Bên Thắng Cuộc đă trích lại bài thơ để minh chứng một góc nh́n của người dân Sài G̣n với những người đă “giải phóng” ḿnh:
    Một ngàn chín trăm bảy mươi lăm
    Các anh từ Bắc vào Nam
    Cuộc trường chinh 30 năm dằng dặc
    Các anh đến
    Và nh́n Sài G̣n như thủ đô của rác
    Của x́ ke, gái điếm, cao bồi
    Của t́nh dục, ăn chơi
    “Hiện sinh-buồn nôn-phi lư!!!”
    Các anh bảo con trai Sài G̣n không lưu manh cũng lính ngụy
    Con gái Sài G̣n không tiểu thư khuê các, cũng đĩ điếm giang hồ
    Các anh bảo Sài G̣n là trang sách “hư vô”
    Văn hóa lai căng không cội nguồn dân tộc
    Ng̣i bút các anh thay súng
    Bắn điên cuồng vào tủ lạnh, ti vi
    Vào những đồ tiêu dùng mang nhăn Hoa Kỳ
    Các anh hằn học với mọi tiện nghi tư bản
    Các anh bảo tuổi trẻ Sài G̣n là “thú hoang”, nổi loạn
    Là thiêu thân ủy mị, yếu hèn
    Các anh hùa nhau lập ṭa án bằng văn chương
    Mang tuổi trẻ Sài G̣n ra trước vành móng ngựa!!!

    Trong những năm đầu “giải phóng”, những văn nghệ sỹ miền Bắc khi đến Sài G̣n vẫn thích đeo bên hông khẩu K54. Những năm về sau, họ đă biết uống bia, biết áo phông (pullover), quần ḅ (quần Jeans). Theo Đỗ Trung Quân, bài thơ Tạ Lỗi Trường Sơn, ngoài sự dồn nén sau bảy năm “giải phóng”, c̣n lập tức “bật” ra thành chữ khi có một nhà văn miền Bắc, đến trước mặt anh, chỉ đôi dép sa-bô, cái quần ḅ đang mặc và hỏi: “Ê Quân, thấy bọn này Sài G̣n chưa?”.
    Sài G̣n lại bắt đầu ghẻ lở là chữ của Đỗ Trung Quân mà Huy Đức đặt tên một trong tiểu đề trong Bên Thắng Cuộc. Khi ấy, năm 1982, Đỗ Trung Quân viết:
    Bảy năm qua đi với nhiều buồn vui đau xót
    Một góc phù hoa ngày cũ qua rồi
    Những con điếm xưa có kẻ đă trở lại làm người
    giă từ ghế đá công viên để sống đời lương thiện
    Những gă du đăng giang hồ
    cũng khoác áo thanh niên xung phong lên rừng xuống biển
    T́m lại hồn nhiên cho cuộc sống của ḿnh
    Cuộc đổi thay nào cũng nhiều mất mát, hy sinh…
    Và khi ấy
    Th́ chính “các anh”
    Những người nhân danh Hà Nội
    Các anh đang ngồi giữa Sài G̣n bắt đầu chửi bới
    Chửi đă đời
    Chửi hả hê
    Chửi vào tên những làng quê ghi trong lư lịch của chính ḿnh
    Các anh những người nhân danh Hà Nội
    sợ đến tái xanh
    Khi có ai nói bây giờ về lại Bắc!!!
    Tội nghiệp những bà mẹ già miền Bắc
    Những bà mẹ mấy mươi năm c̣ng lưng trên đê chống lụt
    Những bà mẹ làm ra hạt lúa
    Những năm thất mùa phải chống gậy ăn xin
    Những bà mẹ tự nhận phần ḿnh tối tăm
    để những đứa con lớn lên có cái nh́n và trái tim trong sạch
    Bây giờ
    Những đứa con đang tự nhận ḿnh “trong sạch”
    Đang nói về quê mẹ của ḿnh như kẻ ngoại nhân
    Các anh đang ngồi giữa Sài G̣n nhịp chân
    đă bờm xờm râu tóc, cũng quần jean xắn gấu
    Cũng phanh ngực áo, cũng xỏ dép sa bô
    Các anh cũng chạy bấn người đi lùng kiếm tủ lạnh ti vi, casette, radio…
    Rượu bia và gái
    Các anh ngông nghênh tuyên ngôn “khôn & dại”
    Các anh bắt đầu triết lư “sống ở đời”
    Các anh cũng chạy đứt hơi
    Rượt bắt và trùm kín đầu những rác rưởi Sài G̣n thời quá khứ
    Sài G̣n 1982 lẽ nào…
    Lại bắt đầu ghẻ lở?

    Tội nghiệp em
    Tội nghiệp anh
    Tội nghiệp chúng ta những người thành phố
    Những ai ngổn ngang quá khứ của ḿnh
    Những ai đang cố tẩy rửa “lư lịch đen”
    Để t́m chỗ định cư tâm hồn bằng mồ hôi chân thật
    Xin ngả nón chào các ngài
    “Quan toà trong sạch”
    Xin các ngài cứ b́nh thản ăn chơi
    Hăy để yên cho hàng me Sài G̣n
    Hồn nhiên xanh muôn thuở
    để yên cho xương rồng, gai góc
    Chân thật nở hoa
    Này đây!
    Xin đổi chỗ không kỳ kèo cho các ngài cái quá khứ ngày xưa
    Nơi một góc (chỉ một góc thôi) Sài G̣n bầy hầy, ghẻ lở
    Bây giờ…
    Tin chắc rằng trong các ngài đă vô số kẻ tin vào “thượng đế”
    Khi sống hả hê giữa một thiên đường
    Ai bây giờ
    Sẽ
    Tạ lỗi
    Với Trường Sơn?



    Đỗ Trung Quân, “thanh niên chậm tiến”, và một bài thơ mới

    Xin trích lại nguyên văn đoạn dưới đây trong Bên Thắng Cuộc, chuyện bên lề về ông Lê Duẩn. Phần b́nh luận dành cho người đọc, dĩ nhiên tùy thuộc vào chính kiến và quan điểm của mỗi người:
    “Tháng Giêng năm 1976, theo đề nghị của ông Lê Duẩn, ông Đậu Ngọc Xuân và ông Trần Phương, theo đường bộ, đi xe vào thẳng Sài G̣n. Ông Xuân kể, trước khi đi, Lê Đức Thọ dặn: “Vào Nam muốn làm việc được, người ta kêu uống rượu, phải uống”. Tới Sài G̣n đă là cuối tháng Chạp, ông Lê Duẩn bảo: “Năm nay ta ăn Tết ở đây, chú nào muốn về th́ về trước”. Ông Đậu Ngọc Xuân đă ở lại.
    Sáng mùng Một Tết Bính Th́n, bà Nguyễn Thị Thập bên Hội Phụ nữ mời tiệc, ông Lê Duẩn tới, mâm cỗ đă “bày la liệt” nhưng ông không ngồi vào bàn. Khi các nữ lănh đạo hội mời, ông nói: “Ăn Tết làm ǵ, con cái miền Bắc chết ở Trường Sơn chưa ai nói tới đă nói là dân miền Bắc vào đây vơ vét hàng hóa”.
    Theo ông Đậu Ngọc Xuân th́ trước đó khi nghe bên công an báo cáo “miền Bắc vào đây vơ vét từ cái quạt máy, xe đạp”, ông Lê Duẩn tức lắm nhưng ngay khi đó ông không nói ǵ. Bà Bảy Huệ, phu nhân của ông Nguyễn Văn Linh, đỡ lời: “Thưa anh Ba, đấy chỉ là số ít. Chúng em không bao giờ nói thế”.
    Ông Lê Duẩn tiếp: “Các chị không nói nhưng nghe ai nói phải vả vào mặt họ chứ. Có những việc ở trong này tôi đă phải giấu đồng bào miền Bắc, ví dụ như chuyện các chị để cho bộ đội chết đói ở Trường Sơn. Xương máu con người ta, người ta không tiếc, giờ mua cái quạt th́ các chị kêu ca”. Theo ông Đậu Ngọc Xuân, nghe ông Lê Duẩn nói đến đó, “các chị Nam Bộ khóc như mưa”.



    Về quê

    Bạn có biết “deux cents bougies” là ǵ? và ai được gắn “danh hiệu” đó? Hăy đọc đoạn văn dưới đây trong Bên Thắng Cuộc:
    “Theo ông Vơ Văn Kiệt, ngay cả những bậc trí thức kháng chiến như Phạm Văn Bạch, Phạm Ngọc Thuần, Nguyễn Thành Vĩnh, Phạm Ngọc Thạch, Huỳnh Tấn Phát đều quư mến ông Duẩn và gọi ông là “ông deux cents bougies”, để diễn tả sức làm việc của ông như một “ngọn đèn 200 nến”. (?)
    Chân dung ông Lê Duẩn trong những ngày lănh đạo kháng chiến ở miền Nam được bà Nguyễn Thụy Nga [2] c̣n có tên Nguyễn Thị Vân, bí danh Bảy Vân, người vợ thứ hai của ông, mô tả như sau:
    “Anh mặc quần rách đít, áo rách cùi chơ, người anh lúc đó nặng bốn mươi bảy kư nhưng v́ cao nên trông anh khô quắt, khô queo, áo quần th́ nhuốn màu phèn Đồng Tháp Mười. Sinh hoạt của anh làm tôi xúc động.
    Những người như ông Phạm Văn Bạch, Phạm Ngọc Thuần, Lê Thành Vĩnh trong Uỷ Ban Kháng chiến Hành chánh Nam bộ, người nào cũng có nhà cửa, có người bảo vệ, người nấu bếp, tuy ở nhà lá nhưng cũng rất đàng hoàng. C̣n anh, chỉ có một chiếc thuyền tam bản, đến cơ quan nào, đến nhà bà mẹ nào, anh em thư kư, bảo vệ leo lên nhà ngủ, c̣n anh ngủ dưới ghe. Anh nhường nhịn điều kiện tốt cho mọi người”



    Nguyễn Thụy Nga (Bảy Vân)

    Loạt bài viết về Bên Thắng Cuộc xin “tạm ngưng” ở đây với những chuyện vui buồn bên lề góp nhặt từ Cuốn I “Giải Phóng”. Sở dĩ tôi viết “tạm ngưng” v́ chắc chắn c̣n có nhiều điều để bàn khi Cuốn 2 “Quyền Bính” ra mắt bạn đọc.
    Chúng ta lại c̣n tiếp tục nói đến “Hậu-Bên-Thắng-Cuộc” vào năm 2013 khi Huy Đức hoàn tất học bổng Nieman Fellowship tại Havard (Boston). Liệu Huy Đức có trở về Việt Nam?

    ***

    Chú thích:

    [1] Đỗ Trung Quân sinh năm1955 tại Sài G̣n, là một nhà thơ với một số bài được phổ nhạc và được nhiều người yêu thích như Quê hương, Phượng hồng tại Việt Nam... Anh c̣n được biết đến với nhiều nghề "tay trái" khác như MC cho những chương tŕnh ca nhạc của bạn bè hay làm diễn viên cho một số phim truyền h́nh.
    Theo bài phỏng vấn trên báo Vietnam News giữa năm 2005 th́ trong khai sinh của anh không có tên cha. Đỗ Trung Quân được mẹ là bà Đỗ Thị Hảo nuôi lớn đến năm 15 tuổi th́ mẹ mất. Anh tiếp tục mưu sinh và sau khi tốt nghiệp Tú tài, vào học tại Đại học Vạn Hạnh.
    Năm 1979, Đỗ Trung Quân tham gia phong trào Thanh niên Xung phong và bắt đầu sáng tác. Một số bài thơ phổ nhạc được nhiều người biết đến như:
    Hương tràm (1978), Vũ Hoàng phổ nhạc
    Bài học đầu cho con (1986), Giáp Văn Thạch phổ nhạc thành bài Quê hương
    Chút t́nh đầu (1984), Vũ Hoàng phổ nhạc thành bài Phượng hồng (1988)
    Khúc mưa, Phú Quang phổ nhạc
    Trang blog “Chung Do Kwan”, nhại theo tên Hàn Quốc của Trung Đỗ Quân, khá nổi tiếng trong giới blogger tại Việt Nam (http://dotrungquan.com/). Anh giải thích về cái tên “củ sâm” của ḿnh:
    “Cái tên ấy thật sự chỉ là cách đọc trại tên thật của tôi: Đỗ Trung Quân mà thôi. Nó mang ư nghĩa vừa hài hước vừa tự châm biếm ḿnh trong giai đoạn mà ảnh hưởng văn hóa của xứ “Củ sâm” hầu như chiếm lĩnh xă hội ta từ giải trí, tiêu dùng đến cả hôn nhân gia đ́nh. Sự chiếm lĩnh có lẽ chỉ đứng sau ảnh hưởng của phim ảnh văn hóa Trung Quốc. Tất nhiên, chủ nhân blog cũng không phủ nhận những ảnh hưởng cần thiết, tốt đẹp giao thoa của mọi nền văn hóa có tính toàn cầu”.
    Đỗ Trung Quân trong thời gian gần đây thường xuất hiện tại các cuộc biểu t́nh của người Sài G̣n chống Trung Quốc xâm lược.


    Tranh của Đỗ Trung Quân

    [2] Nguyễn Thụy Nga: Huy Đức viết về cuộc t́nh của bà Nga và ông Lê Duẩn, vốn được các đồng chí của ông gán cho danh hiệu “ông 200 bougies” nhưng cũng có thể là “ông 400 bougies” khi có một người như bà Nga “kề cận chăm sóc”:
    “Bà Nguyễn Thị Nga sinh năm 1925, con của một tri huyện cáo quan về viết báo và mở ḷ gạch tại Biên Ḥa. Theo bà Nga th́ cha bà đă từng là chủ bút tờ báo tiếng Pháp ‘La Tribune Indigène’. Năm mười hai tuổi, cô tiểu thư Nguyễn Thụy Nga đă từng phải khai tăng tuổi để thi. Năm mười bốn tuổi, Thụy Nga theo “mấy chú” đi hoạt động và cũng từ đây, cô “trót yêu một đồng chí đă có gia đ́nh”.
    Người t́nh “đồng chí” của bà Nga chính là “hung thần chợ Đệm” Nguyễn Văn Trấn, một trong những người cộng sản lănh đạo “cướp chính quyền” ở Sài G̣n năm 1945. Đây là cuộc t́nh mà “cả hai người vừa duy tŕ, vừa ḱm nén trong suốt mười một năm”. Năm 1948, mối quan hệ của hai người bị lộ và bị Tỉnh ủy Cần Thơ họp kiểm điểm. Bà Nga bị buộc phải chuyển về Sài G̣n công tác.
    Đúng lúc ấy, ông Lê Duẩn từ Đồng Tháp Mười xuống Cần Thơ, dự cuộc họp Tỉnh ủy, ông cũng được nghe câu chuyện t́nh của bà Nga, bấy giờ đang là nữ đoàn trưởng Phụ nữ Cứu quốc. Bà Nguyễn Thị Nga được Tỉnh ủy giao nhiệm vụ kiểm tra bữa ăn sáng mà Tỉnh tổ chức cho Bí thư Xứ ủy.
    Khi được ông Lê Duẩn hỏi thăm về việc bị buộc chuyển công tác, bà Nga nói: “Lên Sài G̣n, đối với tôi là một công tác mới và khó, nguy hiểm nữa, nhưng tôi vui vẻ chấp nhận, không băn khoăn ǵ. Nhưng bảo tôi thôi yêu người tôi đă yêu th́ khó làm được. Xa nhau cũng được nhưng yêu là do trái tim tôi, đừng bắt buộc.
    Theo bà Nga th́ khi ấy ông Duẩn không phát biểu ǵ nhưng khi trở về Xứ ủy, gặp Lê Đức Thọ, ông nói: “Nếu có cưới vợ th́ tôi thích người có t́nh, chung thủy như chị Nga”.
    Ít lâu sau, Lê Đức Thọ xuống Cần Thơ công tác, gặp bà Nga: “Anh Ba muốn hỏi chị làm vợ, chị nên ưng anh ấy đi. Anh xa nhà hai mươi năm không có tin tức ǵ, gia đ́nh anh c̣n ở vùng địch. Nếu chị làm vợ anh ấy, chị chăm sóc anh để anh có sức khoẻ làm việc, đó cũng là một nhiệm vụ. Hiện nay trong lănh đạo, anh ấy rất thông minh và sáng suốt, anh em thường gọi là ông 200 bougies, khi có người kề cận chăm sóc th́ anh ấy sẽ trở thành 400 bougies. Sự sáng suốt của anh ấy rất có lợi cho cách mạng”.

    Bà Nguyễn Thụy Nga nhớ lại: “Nghe anh Sáu Thọ nói, tôi chưng hửng, v́ trong ḷng tôi lúc nào anh cũng là một lănh tụ mà mọi người kính yêu. Tôi lúc nào cũng ghi chép, đồng chí Lê Duẩn nói thế này, đồng chí Lê Duẩn nói thế kia. Tôi suy nghĩ măi. Một lần tôi lấy hết can đảm hỏi anh: ‘Nếu bây giờ anh lấy vợ, sau này về gặp gia đ́nh, phải giải quyết sao đây?’.
    Anh nói: ‘Anh cưới vợ trước kia là do cha mẹ cưới cho. Anh đi cách mạng, vợ ở nhà, sau có đưa ra Hà Nội ở một thời gian nhưng anh thấy hai người không hợp nhau. Có hai lần anh về nhà, anh nói với chị ấy nên t́m người chồng khác, anh đi cách mạng không giúp được ǵ cho gia đ́nh và không biết sống chết ra sao. Nhưng người phụ nữ miền Trung c̣n phong kiến hơn phụ nữ trong Nam, đă có chồng rồi th́ ở nhà lo cho cha mẹ chồng, nuôi con. Chồng đi xa có lấy thêm vợ th́ người phụ nữ miền Trung cũng dễ chấp nhận. Nếu sau này giải phóng chị cũng sẽ ở trong quê với cha và mấy đứa con, lâu lâu anh về thăm. C̣n chúng ḿnh đi hoạt động cách mạng, có điều kiện gần gũi nhau, chắc không có ǵ khó khăn”


    Thứ sáu, ngày 28 tháng mười hai năm 2012
    Nguyễn Ngọc Chính

    Nguồn:
    http://chinhhoiuc.blogspot.com/2012/...en-ben-le.html

  6. #56
    Member
    Join Date
    20-09-2011
    Posts
    1,523

    AI THẮNG ? AI THUA ?

    AI THẮNG ? AI THUA ?
    Trần Trung Chính

    Bàn luận về sắc đẹp của phụ nữ, chúng ta thường được nghe những mại viên của ngành costemic cũng như các chuyên viên trang điểm cho phụ nữ cho rằng : "Không có phụ nữ nào xấu cả, chỉ có những người chưa được đẹp v́ họ chưa biết trang điểm".

    Phản bác một phần của nhận định này , cá nhân người viết bài này cho rằng : "thực tế có một số phụ nữ thật sự xấu không phải v́ họ không biết trang điểm mà là v́ họ đă trang điểm nhiều rồi mà nhan sắc của họ vẫn chưa thể đẹp lên được chút nào cả. Thí dụ : Thị Nở -girl friend của Chí Phèo trong tác phẩm của nhà văn Nam Cao hay hoặc Chị Doăn được nhà văn Vũ Trọng Phụng mô tả " Chị Doăn có cái nhan sắc của một người đàn ông không đẹp giai".

    Ông bạn thân của tôi – nhà văn Trần Văn Giang – c̣n chua chát hơn khi cho rằng : "thực tế có một số phụ nữ thật sự xấu nhưng vẫn chưa chịu nh́n nhận là ḿnh xấu !!!"

    Thời gian gần đây, nhà báo Huy Đức đă phóng lên mạng phổ biến quyển sách với tựa đề BÊN THẮNG CUỘC và "phe ta" đă lên tiếng đáp trả khá sôi động. Tôi viết bài viết này để chứng minh BÊN THẮNG CUỘC không phải là phía Việt Cộng mà nhà báo Huy Đức được các "bề trên " của ông ủy thác tâm sự hay nhà báo Huy Đức ghi nhận các sự kiện theo cách riêng của ông. Cũng như các phụ nữ thật sự xấu nhưng vẫn chưa chịu nh́n nhận ḿnh là xấu, Việt Cộng chưa bao giờ nh́n nhận họ là BÊN THUA CUỘC. Sử Kư là ghi lại những sự kiện (facts), không ai có quyền và không ai có tư cách để sửa đổi sự kiện lịch sử, nhưng những thông tin tôi đưa vào bài viết này là những facts mà không thấy "phe ta" nêu ra trên diễn đàn, và tôi tin chắc rằng phía Việt Cộng sẽ thay đổi ư kiến (opinion) hoặc im lặng để ngậm ngùi cho thân phận "con ếch mà cứ muốn to bằng con ḅ".

    1.- Chiến tranh Triều Tiên 1950 – 1953 , khi Thống Tướng Mac Arthur chỉ huy 280,000 quân Liên Hiệp Quốc (trong đó có 250,000 binh sĩ Hoa Kỳ) đổ bộ Inchon bắt được hơn 130,000 quân Bắc Hàn và đẩy lui quân Bắc Hàn đến tận sông Áp Lục, Mao Trạch Đông chỉ thị nguyên soái Bành Đức Hoài chỉ huy 1 triệu chí nguyện quân Trung Hoa tràn sang Triều Tiên đẩy lùi quân Liên Hiệp Quốc xuống vĩ tuyến 38. Thống Tướng Mac Arthur tŕnh kế hoạch tấn công Trung Cộng vào sâu trong lục địa, Tổng Thống Harry Truman biết kế hoạch của tướng Mac Arthur chỉ đúng về mặt quân sự, ông cất chức tướng Mac Arthur triệu hồi về Mỹ và bổ nhiệm tướng Ridgway lên thay v́ ông không muốn sa lầy vào chiến trường Triều Tiên (kinh nghiệm 1 triệu quân Quan Đông của Nhật Bản rải vào Trung Hoa chả thấm vào đâu mà chỉ giữ được một số tỉnh ven biển) và khi sa lầy ở Trung Hoa th́ Hoa Kỳ sẽ mất Âu Châu vào tay Staline. Cù cưa mà chả bên nào lấn chiếm thêm được nữa nên Hiệp Định ngưng chiến Bàn Môn Điếm ra đời. Cả 2 nước Nam – Bắc Triều Tiên khi ngưng bắn vào năm 1953 vẫn c̣n trong t́nh trạng chiến tranh cho đến tận bây giờ (2012). Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai cũng như Đảng Cộng Sản Trung Hoa cảm thấy thất vọng v́ Hoa Kỳ vẫn không công nhận Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa. Và cũng không thèm đối thoại với các lănh tụ Trung Cộng trên b́nh diện ngoại giao chính thống.

    2.- Chiến tranh Việt Pháp từ năm 1946 đến 1954 đưa Trung Cộng đến Hội Nghị Geneve , nhưng Trung Cộng vẫn không tiến triển thêm được bước nào trong mục tiêu được Hoa Kỳ công nhận.. Tháng 5/1972 khi Tổng Thống Richard Nixon đến Bắc Kinh, chính Thủ Tướng Chu Ân Lai tiết lộ chi tiết bị người Mỹ coi thường vào năm 1954 ở Hội Nghị Geneve : Chu Ân Lai lúc đó là Thủ Tướng kiêm Ngoại Trưởng của Trung Cộng đến pḥng họp trước Ngoại Trưởng Dulles của Hoa Kỳ, khi Dulles đến, Chu Ân Lai tươi cười dơ tay trước. Ngoại Trưởng Dulles mặt nghiêm bước vào pḥng họp mà không bắt tay Chu Ân Lai, khi đi ngang Chu Ân Lai ông này quay mặt nh́n ngang sang Chu Ân Lai rồi bước vào pḥng họp nói chuyện với Ngoại Trưởng Liên Sô là Molotov và Ngoại Trưởng Anh là Sir Anthony Eden : Chu Ân Lai thừa hiểu là Dulles coi Trung Cộng là tay sai của Liên Sô nên Dulles chỉ nói chuyên với boss của Chu Ân Lai là Molotov . 10 năm sau, Tổng Thống Pháp là tướng Charles De Gaulle v́ kèn cựa với Hoa Kỳ nên năm nào cũng đề nghị cho Trung Cộng gia nhập Liên Hiệp Quốc (với sự đồng thuận và hỗ trợ của Liên Sô) nhưng Hoa Kỳ vẫn nói KHÔNG. Và Trung Cộng cũng đành bó tay không có cách nào khác.

    3.- Chiến tranh Việt Nam từ năm 1965 (tôi lấy thời điểm này làm mốc v́ quân đội Hoa Kỳ chính thức vào Việt Nam qua văn thư yêu cầu của Thủ Tướng Phan Huy Quát) đă khiến Tổng Thống Richard Nixon và Cố Vấn Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ là Henry Kissinger đến Bắc Kinh. Mao Trạch Đông , Chu Ân Lai và Đảng Cộng Sản Trung Hoa vui mừng "không c̣n chỗ nói", v́ qua bản thông cáo Thượng Hải 1972 Trung Cộng đạt được 3 mục tiêu chiến lược :

    A) Được Hoa Kỳ thừa nhận là một "thực thể quốc gia" (trước đó Hoa Kỳ chỉ coi chính quyền Trung Cộng là một "thực tế" ) cho nên sẽ có thiết lập bang giao với sứ thần đàng hoàng chứ không c̣n nhờ một quốc gia khác đại diện bảo vệ quyền lợi .

    B) Hoa Kỳ đồng ư cho Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa gia nhập Liên Hiệp Quốc thay thế cho Trung Hoa Dân Quốc, có quyền phủ quyết như trong Hiến Chương San Francisco quy định (mục tiêu này măi tới 21 năm kể từ 1949, Trung Cộng mới đạt được ) .

    C) Hoa Kỳ công nhận chỉ có một nước Trung Hoa duy nhất ( nhiều người tưởng là Hoa Kỳ ngu dại khi công nhận điều khoản này, trong khi Hoa Kỳ thừa biết là Trung Cộng muốn tiến đánh Đài Loan bằng vũ lực th́ phải có một hải lực cực mạnh, mặt khác v́ Tổng Thống Tưởng Giới Thạch dù thực tế chỉ giữ được Đài Loan nhưng ông vẫn có một Quốc Hội đại diện cho 18 tỉnh của Trung Hoa Lục Địa và ông cho rằng chiếc ghế của Trung Hoa Dân Quốc đại diện cho nước Trung Hoa. – [nên nhớ rằng năm 1943, khi họp tại Yalta, các lănh tụ phe Đồng Minh bàn định về kế hoạch chấm dứt Thế Chiến II và tương lai của thế giới sau khi chiến tranh chấm dứt, 4 lănh tụ đó là : Tổng Thống Roosevelt của Hoa Kỳ , Thủ Tướng Churchil của Anh Quốc, Chủ Tịch Staline của Liên Sô và Tổng Thống Tưởng Giới Thạch của Trung Hoa , nước Pháp không có đại diện v́ không được mời họp ] Khi Tổng Thống Lư Đăng Huy của Quốc Dân Đảng là người Đài Loan lên cầm quyền, th́ thế hệ của Tưởng Giới Thạch – Tưởng Kinh Quốc đă qua đời, nếu Trung Cộng tiến đánh Đài Loan bằng vũ lực th́ danh hiệu Trung Hoa Dân Quốc sẽ không c̣n và sẽ trở thành Cộng Ḥa Đài Loan đồng thời Cộng Ḥa Đài Loan sẽ chính thức xin gia nhập Liên Hiệp Quốc và Hoa Kỳ sẽ can thiệp v́ Trung Cộng đă xâm lăng một quốc gia khác) .

    Tuy tự công nhận là BÊN CHIẾN THẮNG trong chiến tranh Việt Nam, nhưng Trung Cộng không ồn ào khoe rùm beng như phía Việt Cộng v́ cả Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai đều hiểu rằng 2 kẻ chơi cờ đấu trí với nhau trên bàn cờ thế giới lúc bấy giờ là Hoa Kỳ và Liên Sô. Việc Hoa Kỳ không phải tự nhiên ban cho Trung Cộng nhiều đặc ân mà chính là Hoa Kỳ đă sử dụng Trung Cộng như một con cờ nhằm "chiếu bí" Liên Sô và Mao Trạch Đông + Chu Ân Lai chấp nhận vai tṛ ấy trong tinh thần "đôi bên cùng có lợi".

    Phía Việt Cộng do các đàn anh "phỉnh gạt" và cũng hay "nổ bậy để dương oai" để ḷe và lường gạt dân Việt nên lúc nào cũng rêu rao là " Cách Mạng Việt Nam đi hết từ thắng lợi này đến thắng lợi khác" (khi xưa, thất bại th́ hô lên do Mỹ - Ngụy phá hoại , bây giờ th́ nói bâng quơ là do "thế lực thù địch" không dám nêu đích danh quốc gia hay chính phủ nào cả ). Tôi liệt kê vào bài viết này những mất mát và thua thiệt của Việt Cộng để chứng minh rằng Việt Cộng chỉ là những kẻ THUA CUỘC trên bàn cờ thế giới. Dĩ nhiên phía Việt Cộng (trong đó có nhà báo Huy Đức) và cả "phe ta" đều thắc mắc là chính phủ VNCH sụp đổ , quân nhân cán bộ và viên chức chính quyền VNCH bị cầm tù đày đọa trong nhiều năm trời (trong đó có cá nhân người viết bài này cũng bị cầm tù 8 năm), dân chúng của miền Nam bị kỳ thị, bị xua đuổi ra khỏi thành phố và phải vượt thoát khỏi sự cai trị hà khắc của Việt Cộng… th́ không phải là PHÍA THUA CUỘC th́ là phía ǵ ?

    Việt Nam Cộng Ḥa (bao gồm chính phủ và nhân dân VNCH) không phải là phía "play game" trong chiến tranh Việt Nam 1954 – 1975, chúng ta bị buộc phải tham chiến để bảo vệ lănh thổ và sinh mạng người dân như Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố trước lưỡng viện Quốc Hội VNCH khi ông từ chối bước vào ḥa đàm Paris năm 1968 dưới thời Tổng Thống Lyndon Johnson : "chúng ta thà rằng chết bây giờ để hy vọng rằng con cháu chúng ta được sống…". Ba cuộc tấn công lớn trong những năm 1968 Tết Mậu Thân, Mùa Hè Đỏ Lửa trong năm 1972, cũng như cuộc Tổng Tấn Công vào đầu năm 1975 đều hoàn toàn do Bắc Việt chủ trương với sự yểm trợ tối đa về vũ khí của khối Cộng. Và biến cố 30 tháng 4 năm 1975 xảy ra v́ Hoa Kỳ không muốn play game nữa, trong khi quân dân VNCH đă chiến đấu tận t́nh trong khả năng và ư chí của ḿnh.

    Những ai trách móc Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm …phải có trách nhiệm để làm mất VNCH là nói bậy, ăn theo bả tuyên truyền của Việt Cộng : v́ muốn đem lại ḥa b́nh thật sự cho toàn cơi Việt Nam, th́ phải tiêu diệt kẻ đi xâm lược là Bắc Việt, các vị lănh đạo VNCH không ai có khả năng tiêu diệt Việt Cộng (tức là đánh gục Bắc Việt) cho nên tôi rất thương cảm các vị lănh đạo của VNCH. Người lănh đạo giỏi th́ chông cự quân xâm lăng được lâu, người lănh đạo dở th́ chống cự với thời gian ngắn hơn. Đối với tôi,khi gặp những kẻ chê trách các vị lănh đạo VNCH, tôi chỉ hỏi cá nhân hay phe nhóm của những kẻ đó hăy kể cho tôi nghe những nỗ lực giữ nước của họ, th́ những kẻ này bỏ đi v́ họ và phe nhóm của họ NOTHING TO DO (ấy là chưa kể họ và phe nhóm của họ dấu diếm và chứa chấp Việt Cộng trong nhà như là một h́nh thức "đâm sau lưng chiến sĩ" ).

    Sự thua thiệt thứ nhất : Hồ chí Minh cướp chính quyền trong tay của chính phủ Trần Trọng Kim, tuyên bố độc lập vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 nhưng không có một cường quốc nào công nhận cả ( kể cả Liên Sô là nước khai sinh ra chế độ Cộng Sản). Hồ chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam khoác lác tuyên truyền và sửa lịch sử rằng họ cướp chính quyền từ tay thực dân Pháp trong khi thực tế cho thấy rằng khi quân đội Nhật đảo chính quân Pháp tại Đông Dương vào tháng 3 năm 1945 th́ tất cả viên chính hành chánh và quân đội Pháp đều bị bắt giam hết cả : thực dân Pháp đâu c̣n nắm chính quyền nữa th́ lấy đâu ra chính quyền trong tay thực dân Pháp để cho Hồ chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam cướp !!!

    Đối với Anh Mỹ , qua cơ quan OSS và tài liệu của Sở Liêm Phóng Đông Dương, họ biết Hồ chí Minh là một tên Cộng Sản đệ tam quốc tế. C̣n Staline th́ cho rằng Hồ chí Minh là tay sai của Mao Trạch Đông nên Liên Sô không ủng hộ (Staline nhận định quá chính xác v́ quả thực Hồ chí Minh là tay sai của Mao Trạch Đông mặc dù mồm miệng vẫn ca tụng Staline) . Vả lại hội nghị Postdam xảy ra ngay sau khi Hitler tự sát và nước Đức Quốc Xă đầu hàng vào tháng 5/1945 đă phân định trách nhiệm và địa phận của các nước thắng trận trước khi nước Nhật đầu hàng vào tháng 8/1945.

    V́ Việt Nam không được các cường quốc công nhận sự độc lập vừa mới tự xưng nên khi quân đội Trung Hoa của Tổng Thống Tưởng Giới Thạch (do tướng Lư Hán chỉ huy ) vào Việt Nam giải giới quân đội Nhật từ vĩ tuyến 16 trở ra và quân đội Anh (do tướng Gracey chỉ huy) vào Việt Nam giải giới quân đội Nhật từ vĩ tuyến 16 trở vào th́ Hồ chí Minh không dám đưa ra bất kỳ lời phản đối nào. Tướng Charles de Gaulle – thủ lănh của nước Pháp Tự Do – vận động riêng với Thủ Tướng Churchill của Anh cho phép quân Pháp theo chân quân Anh vào Sài G̣n (quân Pháp do tướng Lecler chỉ huy). Tôi không thấy Hồ chí Minh và Bộ Ngoại Giao của nước VNDCCH đưa ra được một công hàm ngoại giao nào để lên tiếng phản đối về sự can thiệp của các lực lượng ngoại nhập vào công việc nội bộ của một nước độc lập tự chủ ? Như vậy chứng tỏ Hồ chí Minh và chính quyền của nước VNDCCH không hề có một thể diện nào trên chính trường thế giới. Khi quân đội Anh làm xong nhiệm vụ giải giới quân đội Nhật, tướng Gracey rút quân Anh ra khỏi Việt Nam th́ quân đội Pháp do tướng Lecler chỉ huy vẫn ở lại miền Nam, th́ chiến tranh Việt – Pháp là điều không thể tránh được.

    Sự thua thiệt thứ hai : năm 1949, sau khi đuổi được phe Quốc Dân Đảng phải chạy ra Đài Loan, Mao Trạch Đông và Đảng Cộng Sản Trung Hoa tiến chiếm toàn bộ Trung Hoa Lục Địa, Trung Cộng liền viện trợ ồ ạt cho binh đội của Việt Minh. Năm 1950, Tướng Vơ Nguyên Giáp đă đủ sức mở các cuộc tấn công quân đội Pháp dọc theo biên giới Hoa – Việt : quân khu Lạng Sơn của Pháp bị thất thủ rơi vào tay quân đội Việt Minh và chính phủ Pháp phải đưa Thống Tướng De Lattre Tassigni làm Tư Lệnh Quân Đội Viễn Chinh Pháp tại Đông Dương đồng thời tăng cường thêm viện binh như Thống Tướng De Lattre yêu cầu (không kể lính tráng người Việt Nam, quân số quân đội viễn chinh Pháp dưới thời Thống Tướng De Lattre chỉ huy lên tới 220,000 người).

    Là một tướng giỏi, Thống Tướng De Lattre đă đẩy lui quân đội Việt Minh trên nhiều mặt trận kể cả trận Ḥa B́nh, người con trai duy nhất của ông là Trung Úy Bernard De Lattre bị tử thương tại trận này. Nhưng ông biết rằng nước Pháp không đủ sức để đối đầu với Trung Hoa vĩ đại , nên sau khi biết Đại Tướng Eisenhower đắc cử Tổng Thống Hoa Kỳ nhiệm kỳ 1952 – 1956, ông sang Hoa Kỳ vận động tân Tổng Thống Eisenhower trợ giúp nước Pháp. Về mặt cầu viện Hoa Kỳ, chính phủ Pháp đă tỏ ra là một chính phủ lănh đạo kém : Ngoại Trưởng hay Thủ Tướng Chính Phủ sao không đi Hoa Kỳ làm công việc ngoại giao mà phải để một ông tướng đương nhiệmTư Lệnh chiến trường Đông Dương phải đi Washington D.C. trong lúc chiến trường đang trong t́nh trạng dầu sôi lửa bỏng cần sự có mặt liên tục của Thống Tướng De Lattre ? Phải chăng chính phủ Pháp lợi dụng sự thân t́nh giữa Đại Tướng Eisenhower và Thống Tướng De Lattre trong thời gian Đại Tướng Eisenhower làm Tổng Tư Lệnh quân đội Đồng Minh đánh lại quân của Hitler và Mussolini hồi trước năm 1945 ? Điều đó không sai khi Hoa Kỳ đồng ư viện trợ vũ khi, quân trang, quân dụng cho quân đội Pháp tại chiến trường Đông Dương.

    Tổng Thống Eisenhower gợi ư là nước Pháp nên trao trả độc lập cho Việt Nam (dĩ nhiên trao cho người quốc gia chứ không phải trao cho cán bộ Cộng Sản như Hồ chí Minh) và quân đội Pháp – do sự yêu cầu của chính quyền độc lập tự chủ chiến đấu tại chiến trường Đông Dương để ngăn chặn Cộng Sản như Hoa Kỳ đă làm tại chiến trường Cao Ly hồi 1950 – 1953. Thống Tướng De Lattre ghi nhận ư kiến của Tổng Thống Eisenhower, ông cũng cho Tổng Thống Mỹ biết là ông không có ảnh hưởng ǵ nhiều đến chính trường Pháp, tuy nhiên ông hứa là ông sẽ vận động trong chính giới Pháp. Từ Hoa Kỳ, Thống Tướng De Lattre trở lại Đông Dương ngay, và chỉ một thời gian sau đó ông phải trở về Pháp để chữa bệnh ung thư rồi chết tại Pháp mà chưa có kịp vận động hay thuyết phục chính giới Pháp ǵ hết !!!

    Với các thông tin này, chúng ta thấy rằng nếu Hồ chí Minh là người quốc gia th́ nước Việt Nam của chúng ta đă được Hoa Kỳ - Anh – Pháp ủng hộ từ lâu và sẽ không có chiến tranh, đổ vỡ, tan nát và chia rẽ như hiện nay : các nước Đông Nam Á cựu thuộc địa như Indonesia, Malaysia, Philippines …v́ không có Cộng Sản nên được trao trả độc lập, an hưởng thái b́nh và xây dựng quốc gia phú cường. Do đó Đảng Cộng Sản Việt Nam và các đảng viên Việt Cộng lúc nào cũng lớn lối về ḷng tự hào "đánh thắng nhiều tên đế quốc" mà không bao giờ tự hỏi "đánh thắng để được cái ǵ " chứ ?

    (Có lẽ để đạt danh hiệu "anh hùng Xă Hội Chủ Nghĩa" hăo huyền chăng, kư giả Huy Đức là người trưởng thành trong XHCN có thể giải thích hiện tượng "thích làm anh hùng" để người Việt tỵ nạn Cộng Sản hiểu thêm về con người Cộng Sản !!!")

    Sự thua thiệt thứ ba : khi cầm tù được tướng De Castries và khoảng hơn 10.000 binh sĩ Pháp tại thung lũng Điện Biên Phủ, Đảng Cộng Sản Việt Nam tự ca lên rằng đă đánh gục và đuổi được Đế Quốc Pháp để dành được độc lập cho Việt Nam. Tôi nói quân đội Việt Minh cầm tù được tướng De Castries v́ trong bức điện cuối cùng gửi cho Bộ Tư Lênh Quân Đội Pháp đóng tại Hà Nội, tướng Castries cho hay ông đă ra lệnh cho toàn thể binh sĩ dưới quyền trú đóng tại cứ điểm Điện Biên Phủ "ngưng chiến đấu" . 2 bức h́nh – do phía Việt Cộng chụp – đă minh chứng điều này : một bức h́nh chụp từ phía sau một cán binh Việt Cộng cho thấy anh này đang cầm cờ trắng chạy lên cắm tại nóc hầm chỉ huy của tướng De Castries chớ tướng De Castries không có cắm cờ trắng trên hầm chỉ huy của ông. Bức h́nh thứ hai chụp tướng De Castries từ trong hầm chỉ huy bước ra, ông không có dơ 2 tay lên cao khỏi đỉnh đầu th́ sao Việt Cộng dám bảo là tướng De Castries đầu hàng ?

    Chiến thắng Điện Biên Phủ của Việt Minh không phải là chiến thắng trọn vẹn v́ sự sụp đổ của căn cứ Điện Biện Phủ chỉ đánh sập được ư chí chiến đấu của chính phủ Pháp và nhân dân Pháp chứ quân đội Pháp tại chiến trường Đông Dương vẫn giữ vững được các cứ điểm trọng yếu khác. Nhà báo Huy Đức cũng như các "bề trên" trong Đảng Cộng Sản Việt Nam chắc chắn không biết câu châm ngôn danh tiếng của binh đoàn Lê Dương : "nước Pháp không hỏi bạn từ đâu đến, th́ bạn cũng đừng bao giờ hỏi nước Pháp sẽ đưa bạn đi đâu". Một người chú họ xa của tôi, sau năm 1975, vào Sài G̣n có kể một câu chuyện về tính liêm sỉ của một người Đức – nguyên là lính SS của chế độ Quốc Xă sau năm 1945 t́nh nguyện vào binh đoàn Lê Dương – người lính Lê Dương này dù quân số ít hơn vẫn không chịu đầu hàng, sau cùng bị thương nặng ngất xỉu th́ bị bắt làm tù binh. Sau khi được cứu chữa tỉnh dây, sĩ quan quân báo của Việt Minh đến hỏi lư do tại sao không đầu hàng để được sống, người lính Lê Dương gốc Đức này trả lời khiến mọi người ngạc nhiên : "t́nh nguyện vào binh đoàn Lê Dương tức là lính đánh thuê, tao mà đầu hàng th́ về sau ai mà thuê người Đức làm lính đánh thuê nữa".

    Việt Cộng và Trung Cộng th́ chê tướng Navarre (cha đẻ ra cứ điểm Điện Biên Phủ) là dở v́ 16,000 quân Pháp nằm dưới thung lũng sẽ ăn đạn pháo mà chết không thể phản pháo được. Khi thiết lập căn cứ Điện Biên Phủ, tướng Navarre biết điều đó nhưng đây là chiến thuật "cục đường nhử đàn kiến", 16,000 quân của Đại Tá De Castries nằm dưới thung lũng Điện Biên Phủ đă quyến rũ được 40,000 quân Việt Minh của tướng Vơ Nguyên Giáp (không kể số dân quân đi tải vật liệu và trang cụ vũ khí). Quân của tướng Vơ Nguyên Giáp sẽ bị tiêu diệt bởi lực lượng Không Quân Chiến Lược của …Hoa Kỳ (v́ không lực của Pháp tại Đông Dương yếu lằm) . Khi căn cứ Điện Biên Phủ vừa bị tấn công, quân đội Pháp tại Đông Dương trông chờ tiếp cứu từ Không Lực Hoa Kỳ nhưng v́ chính phủ Pháp vẫn c̣n đầu óc thực dân không chịu trao trả độc lập cho người quốc gia Việt Nam nên chính phủ Hoa Kỳ không muốn ủng hộ Đế Quốc Pháp để duy tŕ t́nh trạng thuộc địa tại Đông Dương.

    Các hồ sơ được giải mật sau này cho thấy là Tổng Thống Eisenhower đă nói với đại diện chính phủ Pháp là Hoa Kỳ sẽ tham chiến nếu đồng minh Anh Quốc cũng đồng ư như vậy, trong khi đó Thủ Tướng Churchill trả lời với Thủ Tướng Daladier là : "nước Anh đă trao trả độc lập cho thuộc địa Ấn Độ từ năm 1947, th́ không có lư do ǵ lại đi giúp nước Pháp để duy tŕ thuộc địa tại Đông Dương" . Như vậy sự sụp đổ của cứ điểm Điện Biên Phủ là do chính phủ Pháp chứ không phải do tướng lănh và quân đội Pháp. Sau khi căn cứ Điện Biên Phủ sụp đổ, Thủ Tướng Daladier từ chức và chính khách Mendes France lên thay thế với khẩu hiệu "phải kư cho được một thỏa ước ngưng chiến với Việt Minh trong tháng 7/1954, nếu không được, chính phủ của tôi sẽ ra đi".

    Sự thua thiệt thứ tư : T́nh h́nh căn cứ Điện Biên Phủ sắp tới hồi kết thúc, th́ Thủ Tướng Bửu Lộc của chính phủ Quốc Gia Việt Nam từ chức, ông Ngô Đ́nh Diệm lên thay thế. Tại hội nghị Geneve 1954, trưởng phái đoàn của chính phủ Quốc Gia Việt Nam lúc bấy giờ là luật sư Nguyễn Quốc Định được thay thế bởi ngoại trưởng Trần Văn Đỗ (bác sĩ Trần Văn Đỗ là em trai của Luật Sư Trần Văn Chương, là chú ruột của bà Ngô Đ́nh Nhu nhũ danh Trần Lệ Xuân). Khi mới sang Geneve, ông Phạm Văn Đồng có hỏi ngoại trưởng Trần Văn Đỗ là có nhận chỉ thị ǵ của chính phủ Sài G̣n về việc chia cắt đất nước Việt Nam hay không ? Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ trả lời là ông không có chỉ thị nào về việc này và cũng không nghe dư luận bên ngoài chính phủ bàn tán ǵ về việc chia cắt đất nước.

    Thời gian sau đó, ngoại trưởng Trần Văn Đỗ mới biết là các đại cường đồng ư với việc chia cắt Việt Nam ra làm 2 , chỉ c̣n bàn căi là cắt ở đoạn nào mà thôi. Phía Việt Cộng muốn lấy vĩ tuyến 16 làm ranh giới ( tức là toàn thể tỉnh Thừa Thiên tới sát Đèo Hải Vân), phía Pháp muốn lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới hoặc nếu Việt Minh muốn lấy tới vĩ tuyến 16 th́ phải nhường hành lang Bùi Chu – Phát Diệm – Nam Định cho Pháp. Molotov cho Chu Ân Lai và Phạm Văn Đồng hay rằng Liên Sô có kinh nghiệm cay đắng về hành lang Tây Đức nối với Tây Bá Linh nên phía Liên Sô cảnh báo là không nên nhận giải pháp này v́ "lợi bất cập hại". Phía Mỹ th́ không có ư kiến v́ phái đoàn Mỹ đến Geneve trong vai tṛ giám sát và bảo chứng cho việc kư kết một hiệp định ngưng bắn giữa Pháp và Việt Minh. Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ điện về Sài G̣n báo cáo t́nh h́nh h́nh cho Thủ Tướng Ngô Đ́nh Diệm và xin chỉ thị về việc chia cắt đất nước. Thủ Tướng Ngô Đ́nh Diệm chỉ thị cho ngoại trưởng Trần Văn Đỗ phản đối việc chia cắt đất nước Việt Nam và phía chính phủ của Quốc Gia Việt Nam sẽ không kư vào hiệp định Geneve 1954 .

    Sau khi Đặng Tiểu B́nh dạy cho Việt Cộng một bài học vào năm 1979, Ban Lănh Đạo của Đảng CSVN mới công bố Sách Trắng về Trung Quốc, th́ nhân dân miền Bắc và các đảng viên cấp dưới mới biết rằng chính Chu Ân Lai thúc ép Hồ Chí Minh và Phạm văn Đồng phải nhận Bắc Việt (nói theo kiểu dân chơi trong giới giang hồ : "thế là mất mẹ miền Nam cho bọn Mỹ - Ngụy). Ông Huy Đức và những người có ăn học hiểu biết trong XHCN có bao giờ thắc mắc đặt câu hỏi là : tại sao đang thắng lớn mà lại không tiếp cuộc chiến để dành hoàn toàn độc lập cho VN ? Tại sao lại chịu nhận làm chủ chỉ có một nửa nước để rồi 6 năm sau phải thành lập MTGPMN và phải đợi tới 15 năm sau mới "giải phóng" toàn bộ VN với tổn thất riêng miền Bắc không thôi cũng đă lên tới con số suưt soát 3 triệu người ? Câu trả lời chắc chắn chỉ có Đảng CSVN mới đủ kích thước và tư cách để trả lời.

    Sự thua thiệt thứ năm : từ năm 1969, phái đoàn Bắc Việt căi chầy căi cối, căi ḷng ṿng rất mất th́ giờ về bàn vuông, bàn tṛn, bàn h́nh chữ nhật… với mục đích là để được nói chuyện tay đôi với Hoa Kỳ nhằm chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam .

    Nhưng tới năm 1972, Tổng Thống Richard Nixon và Cố Vấn của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ là Henry Kissinger đi thăm Liên Sô và Trung Cộng,, th́ không một ai trong hàng ngũ lănh đạo của Bắc Việt lại chịu hiểu rằng số phận cả nước Việt Nam được định đọat tại điện Kremlin và khu biệt thự có tên gọi là Trung Nam Hải., chứ không phải được định đoạt tại ḥa đàm Paris. Hiệp Định Paris năm 1973 là một "bẫy rập", nhằm giúp Hoa Kỳ rút chân ra khỏi Đông Dương, miếng mồi béo bở mà Hoa Kỳ đặt trong bẫy này là điều 21B trong bản Hiệp Định : " Hoa Kỳ sẽ viện trợ 3 tỷ dollars cho Việt Nam nếu các bên tuân thủ các điều kư kết. Quyền tự quyết của nhân dân phải do nhân dân Việt Nam quyết định bằng lá phiếu bầu cử…" (hay đại loại gần giống như thế v́ tôi không trích nguyên văn điều khoản này )

    Khi Việt Cộng dứt điểm VNCH bằng vũ lực, tức là phía Việt Cộng ngang nhiên xé bỏ bản Hiệp Định Paris 1973 do chính họ đặt bút kư th́ Hoa Kỳ đă có lư do để "xù nợ" tức là không viện trợ cho Việt Nam một xu nào hết mà bọn lănh tụ Việt Cộng không thể kiện cáo vào đâu được. Nên nhớ là vào năm 1976, sau khi thống nhất 2 miến, chính quyền Việt Cộng kiểm kê dân số Việt Nam được 45 triệu người và tổng sản lượng quốc gia là 4 tỷ dollars, do vậy số tiền 3 tỷ dollars đối với chính quyền Việt Cộng là một số tiền rất lớn (Cũng qua tờ báo Nhân Dân in tại Hà Nội, trong trại tù chúng tôi được biết rằng ḍng họ Morgan có tích sản 170 tỷ dollars, được xếp hạng nhất tại Hoa Kỳ, ḍng họ Rockefeller có tích sản 127 tỷ dollars được xếp hạng nh́, trong khi tồng sản lượng quốc gia GNP của Hoa Kỳ là 2,000 tỷ dollars. Nêu ra chi tiết để kư giả Huy Đức và các "bề trên" trong Đăng CSVN thấy rằng, tổng sản lượng quốc gia của Việt Nam không bằng số lẻ của tích sản ḍng họ Rockefeller)

    Nếu kư giả Huy Đức và các đảng viên Đảng CSVN cứ ngoan cố cho rằng Việt Cộng là BÊN THẮNG TRẬN th́ tôi yêu cầu kư giả Huy Đức hăy đưa ra những thành quả cụ thể mà phía Việt Cộng thủ đắc được sau khi cướp đoạt được miền Nam bằng vũ lực, dĩ nhiên thành quả cụ thể phải tính bằng tiền chứ nói thành quả chung chung như Việt Cộng đă nói từ hơn 50 năm qua, là điều người đọc không chấp nhận được.

    Trung Cộng sẽ xâm chiếm Việt Nam và nếu họ chiến thắng Việt Cộng và cai trị toàn cơi Việt Nam, liệu kư giả Huy Đức và những "bề trên" cao cấp trong Đảng CSVN có đủ liêm sỉ để ca ngợi mấy anh Ba Tàu Đỏ là BÊN THẮNG CUỘC hay không ? Nếu có th́ tiếp tục giữ tựa đề quyển sách này, nếu không th́ có lẽ tựa đề VIỆT NAM ƠI ! HĂY KHÓC LÊN ĐI QUÊ HƯƠNG YÊU DẤU là thích hợp nhất.

    Trần Trung Chính
    San Jose ngày 25 tháng 12 năm 2012
    Last edited by SilverBullet; 30-12-2012 at 04:27 PM.

  7. #57
    Member
    Join Date
    20-09-2011
    Posts
    1,523

    Giữa thua và thắng

    Giữa thua và thắng
    Alan Phan
    BLOG CỦA ALAN NGÀY THỨ BẨY 29/12/2012

    Gần đây, trên mạng Net của các cộng đồng Việt Nam, người ta bàn luận nhiều về cuốn sách "Bên Thắng Cuộc" của nhà báo Huy Đức. Tôi không có ư kiến v́ đây chưa phải là một tài liệu lịch sử theo chuẩn mực của khoa học (cần nhiều soi mói và điều nghiên hơn). Nhưng chữ "người thắng cuộc" mà tác giả dùng vẫn là một thể hiện của suy nghĩ cổ điển.

    Qua 10 ngàn năm của lịch sử nhân loại, khi cuộc chiến chấm dứt, kẻ chiến thắng thường được phép hôi của, hiếp phụ nữ, bán trẻ con, cầm tù bại quân và nhục mạ mọi văn hóa tàn tích của nhửng phe thua cuộc. Nói chung, kẻ thắng thường có nhiều chiến lợi phẩm và huân chương, tạo nên một động lực mạnh mẽ cho các cuộc chiến tiếp theo.

    Lần đầu tiên trong lịch sử, một nghịch lư hiện diện sau 1975. Cuộc sống của 95% người thua cuộc sau vài năm (phải lang bạt kỳ hồ khắp năm châu) lại sung túc về vật chất gấp 10 lần 95% những người thắng cuộc. Chưa kể đến những thỏa măn khác về tinh thần như tự do, chất lượng giáo dục, môi trường sống và tương lai con cháu…hay thế đứng trong xă hội.

    Trong khi những người thua cuộc ổn định với đời sống của nhiều thế hệ và có th́ giờ tạo dựng một văn hóa mới cho Việt Nam, phe thắng cuộc vẫn loay hoay t́m lối ra trong cái đầm lầy họ tự đào. Sau 30 năm chiến tranh và 38 năm xây dựng xă hội trong ḥa b́nh, nhiều chuyên gia tiên đoán là phe thắng cuộc sẽ cần hơn 40 năm nữa để bắt kịp cuộc sống hiện tại của Thái Lan.

    Tôi nghĩ anh Huy Đức nên dùng một danh từ về "thua" và "thắng" chuẩn xác hơn?

    Alan

  8. #58
    Member
    Join Date
    20-09-2011
    Posts
    1,523

    Không có bên thắng cuộc



    Chiến thắng của một quốc gia, một dân tộc không phải và tuyệt đối không phải là chiến thắng của một Đảng phái này với một đảng phái khác, không phải chiến thắng của hệ tư tưởng này với hệ tư tưởng kia; càng không phải là chiến thắng của người này với người kia. Chiến thắng đó hẳn phải là quốc gia thịnh vượng, dân tộc tự do và công dân hạnh phúc.


    Không có bên thắng cuộc #1.

    Chế độ Sài G̣n sụp đổ ngày 30/4/1975, nhưng "chúng ta" chỉ thắng trong trận chiến nhỏ: Trận chiến của tư tưởng này thắng tư kia, của Đảng phái này thắng Đảng phái kia (trong giai đoạn lâm sàng của sự thất bại). Sẽ không có ai là "Bên thắng cuộc" chỉ có nhân dân là thua cuộc và Việt Nam đang thua trong một tương lai lâu dài và bền vững.


    Ngược trở về với Nhân văn - Giai phẩm những năm 1954 - 1957 cùng việc đàn áp, khủng bố giới nhân sỹ trí thức văn nghệ sỹ trong hai tờ tạp chí này. Người ta hẳn có thể biện minh rằng Miền Bắc không thể chiến thắng miền Nam nếu có những bài ca ủy mị, có những tư tưởng đi lệch ra khỏi đường lối... Nhưng biện hộ thế nào th́ biện hộ đó không bao giờ là một chiến thắng, đúng hơn đó là sự thất bại thảm hại của khao khát tự do, tư duy độc lập và hướng mỹ.


    Nhân văn giai phẩm họ là ai?

    Đó là những văn nghệ sỹ trí thức hàng đầu của Việt Nam hiện đại. Những con người này đă tin và đi theo Hồ Chí Minh, họ sống chiến đấu v́ dân tộc và khát vọng tự do. Tự do không chỉ cho riêng họ.


    Bản thân tên tuổi đă nói lên tất cả: Bùi Xuân Phái danh họa hàng đầu Việt Nam với phố cổ, với tinh thần Hà Nội; Hoàng Cầm nức danh với Bên Kia Sông Đuống: Bên kia sông Đuống/Ta có đàn con thơ ngày tranh nhau một bát cháo ngô/Đêm ríu rít chui gầm giường tránh đạn; Văn Cao làm nên Tiến quân ca - Quốc ca của nước Việt Nam hiện đại, Trần Đức Thảo nhà Triết học hàng đầu của Việt Nam, vân vân và vân vân...

    Họ là ai? Họ là tinh hoa của dân tộc, là những con người đă hội tụ trong ḿnh ḍng máu Việt Nam, T́nh yêu tổ quốc, tinh thần phương đông và tư duy phương Tây. Họ là sự kết hợp giữa Đông và Tây, là những tinh hoa mà chính người Pháp - nền giáo dục của nước Pháp đă góp phần tạo nên.

    Chừng ấy đủ chưa?

    Cần phải nhớ rằng thời kỳ họ sống là thời kỳ oanh liệt nhất của xứ sở này. Thời kỳ tang thương, dâu bể nhất của xứ sở này. Thời kỳ mà vừa làm nên chiến thắng, ông Cụ cũng như Đảng Cộng Sản Việt Nam đă quay ra khủng bố giới nhà giầu. Đảng Cộng Sản Việt Nam nhân danh ruộng đất về tay dân cày nghèo, nhân danh cải tạo thông thương nghiệp để cướp đoạt điền sản, nhà máy, tiền của của giới Tư sản và người giầu có ở nông thôn.

    Những đóng góp của tư sản hay giới nhà giàu không đủ để cứu họ thoát khỏi cảnh trở thành công dân hạng hai, vô tù trong nhà tù xă hội, nhà tù tư tưởng? Phải định nghĩa là ǵ? Nếu không phải là bội phản hay một cú lừa, cú tát thẳng tay vào mặt những ân nhân của ḿnh. Hệ quả thật đau xót, không chỉ là nền kinh tế trong một giai đoạn ngắn hạn mà cả không khí khủng bố bao trùm. Và đến tận bây giờ chính con cháu phải gánh chịu chỉ bới cha ông đă trót giàu có c̣n tư duy làm kinh tế th́ bị thui chột đến mức điêu tàn.

    Đă bao giờ Đảng này dám nhận tội đó chưa? Chưa chưa hề luôn. Chỉ là vài giọt nước mắt muộn mằn của ông Cụ, một vài nhân vật bị kiểm điểm và hậu quả là cả dân tộc phải chịu đựng.

    Và v́ cớ ǵ những trí thức của Nhân Văn - Giai phẩm bị khủng bố, bị ruồng rẫy? V́ yêu tự do và đ̣i hỏi dân chủ à? V́ không sùng bái cá nhân à? V́ họ dám nh́n và dám bay đến những chân trời mới à? "Tôi tiếc những người bay không có chân trời và những chân trời không có người bay". Và vâng! Tôi đă sai v́ nh́n thấy Đảng sai, nh́n thấy ông Cụ sai; vâng tôi đă sai v́ khao khát tự do ha ha!! Đáng kiếp, đáng đời TÔI!

    "Những chân trời không có người bay"

    Cuộc khủng bố Nhân Văn - Giai Phẩm nói cho đúng đó là cuộc chiến về tư duy, cuộc chiến về tư tưởng. Sau khi đă đả bại kẻ thù lớn nhất là người Pháp và sự cai trị của họ, những người Cộng Sản đă thực hành ước muốn thống trị kinh tế và cả tư tưởng trên toàn bộ xứ sở này. Quyền lực kinh tế th́ đă có bởi cuộc Cải cách ruộng đất, Cải tạo công thương nghiệp nhưng vẫn c̣n đó Quyền lực về tư tưởng, quyền thống trị tư duy.

    Những kẻ đă nghĩ khác, đă yêu một t́nh yêu lớn hơn cần phải được tẩy năo, hoặc bị tiêu diệt. Đảng không cần họ nghĩ ǵ khác ngoài Đảng với "mặt trời chân lư chói qua tim". Vậy là cuộc chiến nổ ra.

    Đương nhiên ng̣i bút không thể thắng sức mạnh của một chính thể vừa có chiến thắng oanh liệt nhất. Họ những trí thức văn nghệ sỹ của hai tờ Nhân Văn và Giai Phẩm bị bắt, bị đưa ra xét xử trước "ṭa án nhân dân" và rồi bị ruồng rẫy, gạt ra ngoài lề xă hội. Biện hộ thế nào th́ biện hộ, nhưng cái án văn chương vô tiền khoáng hậu ở xứ này mà ông Cụ, và ĐCS VN tạo nên là không thể chối căi.

    Hậu quả thực sự là quá đau đớn. Tinh hoa văn hóa - tri thức của xứ sở này đă bị thui chột. Những giá trị của nền giáo dục khai phóng mà người Pháp tạo đựng trên Đông Dương đă lụi tàn. Trí thức chỉ c̣n là những kẻ khoác áo công nông và nói tiếng nói của Đảng.

    Vậy là có cả một đàn người bay không có chân trời để cho có "những chân trời không có người bay".

    Vậy th́ ai là người chiến thắng?

    Cho đến tận bây giờ nước Nam này c̣n có được Văn Cao? C̣n có được Bùi Xuân Phái, Trần Đức Thảo, Hữu Loan, Nguyễn Bính hay Hoàng Cầm. Không, đéo c̣n ai? Nền giáo dục của xứ này, tư duy của xứ này không đủ sức để tạo dựng hay xây đắp tương lai cho những con người như vậy.

    Và cả cho những người anh hùng như Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu hay ông Cụ.


    Ai là người chiến thắng?

    Không hề, không có ai là người chiến thắng. Chúng ta đă thua, người dân đă thua! Tham nhũng thành quốc nạn mà vô kế khả thi, đồng chí X ḿnh đầy lỗi, đầy khuyết điểm mà không thể kỷ luật, đất đai của người dân bị lấy đi mà chỉ được đền bù theo đơn vị tính đúng bằng bát phở.


    Nói thế để biết rằng: Dân chủ không phải ngày một ngày hai mà có được. Nó phải được bắt nguồn từ cái mạch nguồn tư duy, từ coi dân là gốc. Điều khốn nạn chính là mạch nguồn đó đă bị bít kín, vét sạch. Bởi sao? Bởi Đảng đéo bâu giờ sai! Đảng là Vinh quang, Đảng là Vĩ đại muôn năm!!

    Bên nào thắng cuộc? Không chẳng có bên nào thắng, tất cả chúng ta đă thua. Thua về văn hóa, thua về tư duy và thua so với ngay với lịch sử, với quá khứ! Chúng ta chỉ c̣n sở hữu lại một cái ống cống và chỉ tuôn ra một thứ nước duy nhất. Thơm hay thối, là nhân văn hay ưu việt hoặc phản động đó là do nhận thức của mỗi người.


    Lănh tụ hoàn toàn đéo ke! Nhưng đcm càng biên anh càng sôi máu!!

  9. #59
    Diêt VC
    Khách
    Trong thực tế,thiếu chi bọn ăn cướp đă từng "thắng" trong các vụ cướp.

    Và lịch sử chánh trị VN cũng đă quá rơ ràng,khi mà "kẻ thắng cuộc" thực chất là thắng bằng sự dàn xếp đổi chác giữa Mỹ và tàu.Chính sự phản trắc của Mỹ mới là chất xúc tác đă giúp cho "kẻ cướp" thành công,chứ bọn cướp này tài giỏi chi mà thắng.

    Và nếu ai biết nh́n sâu sắc,th́ rơ ràng" kẻ thắng cuộc" thực chất chỉ là "kẻ thua cuộc".Khi mà cái mặt nạ nguỵ chánh nghĩa của "kẻ thắng cuộc" đă sớm rớt ra,ḷi ra bộ mặt thật cùa một chế độ "bán nước cầu an".VC chỉ "thắng" bằng chiến thắng cướp đất,nhưng chúng măi thua bởi chúng không bao có được ḷng dân.

    Sẽ chỉ là thắng cuộc đúng nghĩa,nếu như người chiến thắng đưa đất nước đến chổ tốt đẹp hơn chế độ cũ.Nhưng đáng tiếc,sau mấy mươi năm "thắng cuộc",VN càng ngày càng thua cuộc thê thảm,thua về dân trí,thua hầu hết mọi mặt.VNCH ngày xưa được xếp hạng hơn các nước láng giềng như Nam Hàn,ThaiLan....nhưng từ khi "kẻ thắng cuộc" leo lên ghế" lănh đạo",và nhờ lănh đạo quá" thần kỳ",nên VN ngày nay trở thành nhược tiểu và lệ thuộc ngoại bang.

    Kẻ thắng cuộc mà lại hèn đến mức tàu nó vừa đánh rấm,th́ bọn" thắng cuộc" liền hít và khen thơm.

    Thắng như thế thật là nhục nhă.

    V́ thế,kẻ thắng chưa chắc là kẻ có chánh nghĩa.
    Last edited by Diêt VC; 30-12-2012 at 06:37 PM.

  10. #60
    Member
    Join Date
    20-09-2011
    Posts
    1,523

    Đọc ‘Bên thắng cuộc’ của Huy Đức

    Đọc ‘Bên thắng cuộc’ của Huy Đức
    LÊ MẠNH HÙNG

    VRNs (28.12.2012) – Sài G̣n – Mấy lúc gần đây nhiều diễn đàn của người Việt tại hải ngoại đă xôn xao bàn luận về cuốn sách mới được xuất bản của tác giả Huy Đức, Bên Thắng Cuộc. Ông Huy Đức là một nhà báo trẻ. Sinh ra và lớn lên trong chế độ cộng sản miền Bắc, nhưng sau này ông đă thức tỉnh và trở thành một người bất đồng chính kiến. Ông có một trang blog, blog Ôsin, phê b́nh chỉ trích chính quyền hiện tại. Cuốn sách Bên Thắng Cuộc của ông khi đưa ra đă gây được nhiều ồn ào trong dư luận v́ được coi như là đă trung thực dám kể lại những ǵ xảy ra tại miền Nam trong suốt hơn 10 năm đầu sau ngày 30 tháng 4 với những đau khổ của người dân miền Nam dưới chế độ cai trị của miền Bắc.

    Thành ra tôi rất mừng khi nhận được ấn bản điện tử của tác phẩm này của một người bạn như một món quà Giáng Sinh. Tôi lại c̣n mừng nữa khi đọc qua những lời giới thiệu có những lời giới thiệu nồng nhiệt của một số người tôi quen biết. Nhưng khi bắt đầu vào đọc tôi đă rất thất vọng.

    Trước hết phải công nhận là ông Huy Đức đă có những cố gắng viết lên những ǵ mà những người miền Bắc chưa hề dám viết ra. Nhưng những ǵ ông viết ra lại không có ǵ lạ đối với những người miền Nam, nhất là những người từng sống tại Sài G̣n trong những năm đó. Và điều đó cũng đúng với những tài liệu viết về cải tạo, thăm nuôi, cuộc sống trong trại cải tạo cũng như là giai đoạn sau đó, chiến tranh biên giới, việc đuổi người Hoa và phong trào vượt biên qua sự tổ chức của nhà nước. Điều mà người đọc, nhất là tôi, muốn được biết là những phân tích và những tiết lộ về chính sách mà ông Huy Đức hé mở cho người ta biết, nhưng không nói thêm. Một tỷ dụ là quyết định thanh toán gấp rút chế độ Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam vào tháng 6 năm 1975. Tác giả viết:

    “Khi chiến dịch bắt đầu, Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam đă tuyên truyền về việc sẽ lập ở miền Nam một “chính phủ ba thành phần.” Tuy nhiên, khi cờ đă được cắm trên Dinh Độc Lập, Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn quyết định dẹp bỏ ư tưởng này. Ngày 1 tháng 5, 1975, Tố Hữu đă chuyển “lệnh” tới Trung Ương Cục: “Gửi anh Tám, anh Bảy [Nhờ Trung Ương Cục chuyển anh Tám]. Xin báo để các anh biết: Theo ư kiến anh Ba42, về chính phủ, không c̣n vấn đề ba thành phần. Cấu tạo chính phủ không thể có bọn tay sai Mỹ, không để cho Mỹ có chỗ dựa và phải làm cho quần chúng thấy rơ sức mạnh, thế mạnh của cách mạng; ta vừa phát động quần chúng lại vừa buộc Mỹ phải thay đổi chiến lược.”

    Việc thay đổi chính sách này như vậy là của riêng ông Lê Duẩn hay là có ư kiến của Bộ Chính Trị và các người khác? Và nếu là chỉ riêng ư kiến của ông Lê Duẩn th́ phản ứng của những người khác ra sao, tác giả không hề nhắc tới. Ngoài ra c̣n một câu hỏi khác đặt ra: điều ǵ đă khiến cho ông Lê Duẩn và Bộ Chính Trị Hà Nội thay đổi chính sách một cách đột ngột. Và việc loại trừ này không chỉ riêng đối với những người miền Nam bị coi như là tay sai Mỹ dù có chống đối ông Thiệu và ủng hộ họ mà đối với ngay cả những thành phần miền Nam không đi tập kết mà chiến đấu chống chính quyền quốc gia ngay từ những năm đầu. Tôi c̣n nhớ lúc đó tôi đang bị giam tại khu biệt giam AB ở khám Chí Ḥa và đă được nói chuyện với một số cán bộ cao cấp Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam được gọi về Sài G̣n họp và sau đó bị bắt đưa vào Chí Ḥa mà không được biết một lư do nào. Những thí dụ đó có đầy trong cuốn sách của ông Huy Đức.

    Một vấn đề khác mà không được ông Huy Đức cho thấy một cách rơ ràng là vấn đề ra đi bán chính thức với nhà nước công khai tổ chức vượt biên cho dân chúng ra đi bất chấp những luật lệ của chính ḿnh. Trong suốt đoạn này không có một lúc nào ông Huy Đức cho biết v́ sao chính quyền lại chọn giải pháp này, một giải pháp rất đặc biệt mà có lẽ chỉ có nước Việt Nam Xă hội Chủ nghĩa mới làm được. Không hiểu trong những cuộc phỏng vấn mà ông Huy Đức thực hiện với giới lănh dạo chính trị ông có đặt câu hỏi đó với họ không.

    Yếu tố quốc tế cũng không được ông Huy Đức nhắc đến mặc dầu nó rất quan trọng. Ông Huy Đức nhắc đến những bàn căi trong chính quyền Ford đối với việc cứu miền Nam Việt Nam, nhưng ông không hề nhắc đến những thương thuyết nhằm b́nh thường hóa quan hệ Mỹ-Việt dưới chính quyền Carter trong những năm 1978-79 mà đại diện về phía Mỹ là ông Richard Holbrooke và về phía Việt Nam là ông Nguyễn Cơ Thạch. Nó có quan hệ tới miền Nam Việt Nam v́ số phận những người tù cải tạo cũng là một đề tài được những người Mỹ đề ra. Để chứng tỏ thiện chí, chính quyền đă thả ra khỏi cải tạo nhiều người trong những năm đó, nhưng sau khi Mỹ quyết định đứng về phía Trung Quốc th́ chính sách đối với tù cải tạo lại thắt lại và hầu như không có bao nhiêu người được thả trong những năm 1980-81.

    Tác giả tuy rằng tỏ ra khách quan và cố gắng diễn tả cảm t́nh với người dân miền Nam, nhưng những di sản của một sự giáo dục nhồi sọ của chế độ vẫn c̣n. Chẳng hạn như tác giả vẫn c̣n tỏ ra tin vào huyền thoại tổng khởi nghĩa – tổng nổi dậy tuyên truyền của miền Bắc khi mô tả những ǵ xảy ra tại Sài G̣n trong ngày 30 tháng 4, 1975. Nói rằng dân Sài G̣n vui mừng đón chào “anh bộ đội” vào giải phóng như trong đoạn sau:

    "Khi tiếng súng của quân Giải Phóng bắn tới tấp vào các căn cứ quân sự của địch, nhân dân phường Cây Bàng đồng ḷng nổi dậy phá kềm, truy quét kẻ địch, giành quyền làm chủ về tay ḿnh và tràn ra đường đón chờ quân giải phóng. Khi các chiến sĩ ta tiến vào, đồng bào mừng reo, hoan hô nhiệt liệt. Ngay sau khi dẹp xong giặc, ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tự quản được thành lập. Các tổ chức nhân dân cách mạng cũng được khẩn trương xây dựng. Đến nay, 2 tháng 5, phường Cây Bàng đă thành lập xong Tổ An Ninh, Hội Mẹ Giải Phóng, Tổ Thông Tin Tuyên Truyền, Tổ Y Tế và Ủy Ban Tự Quản. Đang xúc tiến thành lập Tổ Cứu Đói và Pḥng Chống Hỏa Hoạn."

    Thú thật là những người đă sống những ngày đó ở Sài G̣n, tôi không thấy chuyện đó xảy ra. Vả lại ông Huy Đức đă chứng tỏ sự thiếu hiểu biết của hệ thống hành chánh miền Nam nơi một phường không có ǵ để mà "cướp chính quyền." Hơn thế, chính quyền miền Nam tự sụp đổ, viên chức về nhà, có chăng là mấy người cơ hội "ăn theo."

    Tuy nhiên tất cả những điều đó không phải là những điều làm tôi thất vọng nhất. Điều làm thất vọng nhất là sự thiếu nhất quán trong lời văn của tác giả. Người ta có thể thấy qua việc tác giả dùng đến ba danh từ để tả chính quyền và quân đội cũ tại miền Nam. Có lúc tác giả viết quân đội Việt Nam Cộng Ḥa, nhưng cũng có lúc viết một cách miệt thị là "ngụy quân" có lúc lại viết một cách miệt thị nhẹ hơn, quân đội Sài G̣n. Thành ra khi đọc người ta có cảm giác tác giả đă chắp vá nhiều bài viết khác nhau ở những thời điểm khác nhau làm một, một h́nh thức “cắt – dán” nhưng không thay đổi để chúng không chỏi nhau. Một điều cẩu thả khác nữa là có những sự kiện lịch sử có thể kiểm tra được dễ dàng nhưng tác giả cũng đă không làm, tỷ như ông Phan Kế Toại không phải là thủ tướng mà chỉ là kinh lược Bắc Kỳ và ông cũng không phải bộ trưởng kinh tế chính phủ Hồ Chí Minh đầu tiên. Trường Quốc Gia Hành Chánh không phải do Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm thành lập mà được thành lập từ thời Quốc Trưởng Bảo Đại.

    Mặc dầu vậy, cuốn Bên Thắng Cuộc cũng là một cố gắng lớn của tác giả, và đối với những người c̣n sống tại Việt Nam, đây là một cuốn sách rất có ích v́ nó cho họ biết một số khía cạnh về quá khứ mà họ vẫn bị che giấu.

    LÊ MẠNH HÙNG
    Nguồn

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 1
    Last Post: 09-10-2012, 07:43 PM
  2. Replies: 5
    Last Post: 09-10-2012, 07:20 PM
  3. Replies: 0
    Last Post: 05-10-2012, 10:47 PM
  4. Replies: 1
    Last Post: 07-09-2012, 07:41 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •