Page 54 of 121 FirstFirst ... 44450515253545556575864104 ... LastLast
Results 531 to 540 of 1204

Thread: "Pháp nạn 1963" đang được khởi động lại tại Hải ngoại

  1. #531
    Member
    Join Date
    25-01-2011
    Posts
    4,929

    Thời TT Diệm. Nhân Dân Nam VN kể cả dân Huế, Tất cả người dân Nam VN kể cả tín đồ Phật tử sống hạnh phúc nhất .

    Quote Originally Posted by Cao Cầu View Post
    Huế và Ngô gia
    04:12:am 28/10/11 | Tác giả: Nguyễn Hội
    Thời nào dân Việt sướng nhất [2]?

    (Tiếp theo phần I)

    Năm 2009, cũng vào thời điểm này, tôi đă được hân hạnh cùng Quí Vị so sánh lương ngày của hai nhóm người lao động, không học nghề và có nghề chuyên môn, từ năm 1956 đến năm 1974 và năm 2006 với bài „Thời Nào Dân Việt Sướng Nhất?“. Do đa số người dân Việt là người lao động nên qua sự so sánh này chúng ta nhận thức được đời sống của đa số người dân Việt Nam trong 3 thời đại, Đệ Nhất, Đệ Nhị Cộng Hoà với năm 2006 đại diện cho những năm hưng thịnh nhất của XHCN Việt Nam. Kết quả chúng ta đă được như sau:


    Bảng 1: lương ngày của thợ tại VN
    Năm 1956, 2 năm sau khi đất nước chia đôi, người thợ không nghề mỗi ngày nhận được đồng lương tương đương với 11 kg gạo và người thợ có học nghề chuyên môn nhận được mức lương bằng 19,3 kg gạo. Chỉ 4 năm sau lương người lao động không có nghề vượt lên tới 18,1 kg gạo và người thợ chuyên môn nhận được mức lương tương đương với 25,6 kg gạo mỗi ngày. Theo dữ kiện trên đây, đại đa số người dân tại miền Nam Việt Nam có đời sống sung túc nhất vào năm 1960 và khổ nhất vào năm 2006, v́ người thợ không có nghề chỉ mua được mỗi ngày 5,1 kg gạo với đồng lương của họ trong năm 2006, chỉ bằng 28% đồng lương của đồng nghiệp trước đó 46 năm và tương đương 72% với mức lương tăng của đồng nghiệp họ trong 4 năm 1956-1960.

    Một số bài báo cho rằng, viện trợ và tài chánh từ nước ngoài đổ vào miền Nam Việt Nam ồ ạt trong thời gian này dẫn đến đời sống sung túc của người dân, đặc biệt trong thời kỳ Đệ Nhất Cộng Hoà. Chúng ta cùng t́m hiểu, có phải thực sự viện trợ và tài chánh từ nước ngoài đổ vào miền Nam trong thời kỳ Đệ Nhất Cộng Hoà nhiều hơn những thời kỳ khác hay không?

    Những dữ kiện từ năm 1956-1974 cần thiết cho mục đích nêu trên chúng ta có thể lấy từ cuốn sách „Foreign Aid, war and economic development – South Vietnam 1955-1975 “ được biên soạn bởi Douglas C. Dacy, xuất bản năm 1986 bởi Cambridge University Press. Những dữ kiện của năm 2006 được lấy từ trang mạng của Asian Development Bank www.adb.org và từ bản tường tŕnh về kinh kế Việt Nam năm 2006 của Toà Đại Sứ Đức tại Hà Nội (Jahreswirtschaftsbe richt Vietnam 2006. Dữ kiện về viện trợ và tài chánh nước ngoài nhằm hỗ trợ kinh tế cho nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà rất tiếc chúng tôi không t́m được nên không thể đưa ra trong bài này.

    Sau đây là tổng kết viện trợ kinh tế và các nguồn tài khoản từ nước ngoài vào miền Nam (từ 1956-1974) cũng như vào Việt Nam (năm 2006) phân loại theo từng năm được lấy từ những tài liệu được nêu trên:


    Bảng 2: viện trợ và tài khoản nước ngoài nhằm hỗ trợ kinh tế Việt Nam

    Tổng số viện trợ kinh tế và tài chánh nước ngoài vào Việt Nam trong năm 2006 được tính từ viện trợ của các nước gồm 3700 triệu USD và 4700 triệu USD do Việt kiều chuyển về chính thức qua ngân hàng, các dịch vụ. Ngoài việc chuyển tiền chính thức, Việt Kiều c̣n đem tiền mặt về Việt Nam, số tiền này rất khó đoán được là bao nhiêu (nhiều chuyên gia cho rằng có thể cao hơn tiền chuyển chính thức). Hai nguồn tiền trên tổng cộng là 8500 triệu, được ghi vào ḍng 2006a. Ngoài hai khoản tiền trền, từ nhiều năm nay Việt Nam c̣n có nguồn thu nhập từ xuất cảng dầu thô, thu nhập này được 8100 triệu USD trong năm 2006. Do nguồn thu nhập này không có dưới thời Việt Nam Cộng Hoà cũng như thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà nên việc tính tài khoản này vào phần viện trợ và tài khoản từ nước ngoài đưa đến sự chính xác hơn trong vấn đề so sánh giữa các thời đại với nhau. Ḍng 2006 (b) tổng cộng là 16.800 triệu USD gấp 110,5 lần viện trợ và tài khoản nước ngoài vài miền Nam Viện Nam năm 1961. B́nh quân mỗi người dân được 10,46 USD tài khoản giúp đỡ về kinh tế từ nước ngoài vào hai năm 1961 và 1962, trong khi đó năm 2006 số tiền này lên tới 199,67 USD.

    Mặc dù dưới thời Đệ Nhất Cộng Hoà tài khoản giúp đỡ về kinh tế từ nước ngoài thấp nhất trong những năm được so sánh nêu trên, nhưng chính quyền thời đó đă thực hiện thành công rất nhiều dự án lớn lao làm nền tảng cho những phát triển kinh tế về sau, thí dụ như: di chuyển và định cư ổn định cho khoảng một triệu đồng bào miền Bắc di cư vào Nam, tái thiết đường sắt Đông Hà – Sàig̣n bị hư hại 1/3 bởi chiến tranh, xây thêm đoạn đường sắt Chiêm Sơn – An Ḥa nhằm mở rộng dự án phát triển khu kỹ nghệ hóa chất và điện lực An Ḥa ở Quảng Nam, xây đường xa lộ Sàig̣n-Biên Hoà, tái thiết Quốc lộ 19 nối liền duyên hải Miền Trung và Cao nguyên Trung phần, thiết lập Viện và ḷ nguyên tử Đà Lạt, xây dựng nhà máy giấy đầu tiên Cogido An Hảo (1961) ở Biên ḥa (thỏa măn 30-40% nhu cầu tiêu thụ giấy trong nước), thực hiện hai xưởng dệt Vinatexco và Vimytex với năng suất 13,2 triệu mét vải mỗi năm, nhà máy thủy tinh Khánh Hội năng suất 15.000 tấn/năm; hai nhà máy xi măng ở Hà Tiên và Thủ Đức với năng suất 540.000 tấn mỗi năm, đập thủy điện Đa Nhim năm 1961, thành lập các viện đại học Sàig̣n, Huế, Đà Lạt vv…

    Qua bảng tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) Việt Nam Cộng Hoà được lấy từ trang mạng www.wikipedia.org chúng ta thấy được tổng sản phẩm trong nước (GDP) phát triển tốt trong thời Đệ Nhất Cộng Hoà và giảm rất mạnh sau năm 1963 (-17% vào năm 1967):


    Bảng 3: tốc độ tăng trưởng của GDP Việt Nam Cộng Hoà (nguồn: www.wikipedia.org)

    Tinh thần yêu nước chân chính và t́nh yêu thương đồng bào ruột thịt đă giúp chính quyền Đệ Nhất Cộng Hoà đạt được những thành tựu nêu trên. Đây không phải là tính chất dị biệt của chính quyền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hoà mà là tính chất của các chính quyền ở các nước được phát triển về mọi mặt. Tiêu biểu trong thời đại của chúng ta là các nước Nhật, Đức, Nam Hàn, Đài Loan, Do Thái và đặc biệt là Chile, một nước nhỏ bé ở miền Nam Mỹ Châu trong thời gian qua mặc dù nhiều thiên tai nhưng vẫn vững chắc như bàn thạch. Gần đây nhất, Tổng Thống Chile đích thân đến tận hiện trường chỉ đạo công việc cứu 33 người thợ bị kẹt dưới đất v́ sụp hầm mỏ… Điều kiện để có được một nước Việt Nam giầu mạnh, được thế giới cảm phục là chính quyền Việt Nam phải biết Yêu Nước và Thương Dân. Đ̣i hỏi một chính quyền v́ Nước, v́ Dân không phải là chuyện mơ hồ mà là việc rất thực tế trong thế kỷ thứ 21 ngày nay. Đ̣i hỏi một chính quyền v́ Nước, v́ Dân là nhiệm vụ của tất cả mọi người dân nước Việt cho dù phải hy sinh rất nhiều. Có như thế đời sống của chúng ta và con cháu chúng ta mới được cải thiện, tươi sáng. Có như thể chúng ta mới hoàn thành trách nhiệm và giao lại cho thế hệ sau một nước Việt Nam tốt đẹp hơn khi ta nhận của thế hệ trước. Có như thế chúng ta mới không phải tủi hổ với tiền nhân khi về bên kia thế giới. Có như thế chúng ta và con cháu chúng ta mới không phải tủi hổ bị lục soát „toàn thân“ khi ra nước ngoài mà luôn được thế giới mến phục v́ chúng ta „là người Việt Nam“.

    31.10.2010
    Tưởng Nhớ Cố Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm cùng các Anh Hùng, Liệt Nữ thời Đệ Nhất Cộng Hoà


    Xin nhắc lại câu nói cuối cùng của TT Ngô Đ́nh Diệm:
    “Bảo Duệ đừng nóng, Lữ đoàn chỉ cần bảo vệ thành Cộng Hoà và Dinh Gia Long, cố gắng tránh đừng để anh em binh sĩ phải đổ máu. Đánh vào Bộ Tổng Tham Mưu sẽ đổ vỡ sự thống nhất quân đội, mất tiềm năng chống cộng. Để Tổng Thống thu xếp với các Tướng lănh” (TT Ngô Đ́nh Diệm chỉ thị cho TT Duệ qua Đại Úy Đỗ Thọ ngày 1/11/1963)


    (http://www.danchimviet.info/archives...%A5t-2/2011/10)
    Last edited by Nhân Dân Tự Vệ; 13-02-2013 at 02:04 AM.

  2. #532
    Member
    Join Date
    25-01-2011
    Posts
    4,929

    Hòa Thượng THÍCH QUẢNG ĐỘ trả lời cho chuot_congus

    Quote Originally Posted by chuot_congus View Post
    .Công nhận gia đ́nh nhà Ngô nầy ác c̣n hơn đám vc bây giờ .
    Trong cuộc điều tra này, có ông Huỳnh Châu Sổ, phó thanh tra Trung ương từ Hà Nội vào, chủ tŕ cuộc họp. Ngoài ra có nhiều cán bộ địa phương, trong đó tôi để ư có một người to béo vạm vỡ, lúc nào cũng nh́n tôi trừng trừng với nét mặt hằm hằm dữ tợn, đằng đằng sát khí như muốn ăn tươi nuốt sống người ta, h́nh như để uy hiếp tinh thần tôi. Về giới sư th́ có sư cụ Thiện Hào và sư Huệ Thành là thầy của đại đức Thích Huệ Hiền. Có một số ‘nhân chứng’ được lựa chọn từ địa phương xảy ra vụ tự thiêu được đưa lên ngồi sẵn đó. Sau ngày đầu làm việc tại thành phố Cần Thơ, tôi yêu cầu được về tận Thiền viện Dược Sư cách thành phố Cần Thơ năm mươi cây số để xem xét hiện trường, nhưng họ bảo là về đó không an ninh! Tôi nói bây giờ chính quyền cách mạng làm chủ cả nước c̣n ai làm ǵ nữa mà không an ninh. Nhưng đó chỉ là cái cớ, chứ thực th́ Thiền viện Dược Sư đă bị san bằng và xối đất lên trồng chuối rồi. Sau khi mười hai tăng ni tự thiêu, cán bộ địa phương kéo mười hai cái xác ra để bên lề đường cho những người qua lại được thấy, sau đó hai ngày họ phun săng vào đốt rồi tất cả phần c̣n lại của mười hai xác chết được dồn vào hai cái quan tài và họ đưa đi chôn ở đâu, không ai biết.
    Sau ba ngày làm việc, ông Huỳnh Châu Sổ đúc kết biên bản cuộc điều tra qua mấy điểm dưới đây:
    1. Huệ Hiền (tức vị trụ tŕ Thiền viện Dược Sư đứng đầu trong mười hai tăng ni tự thiêu) trước đây làm chỉ điểm (CIA) cho Mỹ Ngụy, sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng, y sợ bị cách mạng trừng trị nên đă tự tử và bắt mười một người khác chết theo y;
    2. Trước đây Huệ Hiền được Mỹ Ngụy cung cấp lương thực đầy đủ, nhưng nay thấy không c̣n phương tiện sinh sống nên phải tự tử tập thể;
    3. Huệ Hiền đă dâm ô hủ hóa với mấy ni cô, sợ việc ấy bị đổ bể, nên y đă tự tử và đốt chùa cùng với mười một người khác.


    ( http://letungchau.blogspot.com/2009/...-cong-san.html )
    Last edited by Nhân Dân Tự Vệ; 13-02-2013 at 02:21 AM.

  3. #533
    Member
    Join Date
    25-01-2011
    Posts
    4,929

    Nhân dân miền Bắc VN sau 1954 ;nhân dân VN sau 1975 và Đảng Cộng Sản theo lời kể của Hoà thượng Thích qủang Độ

    Quote Originally Posted by Cao Cầu View Post
    Huế và Ngô gia
    Sau khi Pháp rút đi, cộng sản tiếp thu Hà-Nội và cai trị toàn miền Bắc, bắt đầu thực hiện chủ nghĩa cộng sản (mà trong thời kháng chiến chưa dám làm v́ sợ mất ḷng dân) và chuẩn bị cho cuộc căm thù đấu tranh giai cấp, tức là đă đánh đuổi được kẻ thù bên ngoài rồi, bây giờ phải thanh toán những kẻ thù bên trong. Những kẻ thù bên trong ấy là ai? Đó là: Trí, Phú, Địa, Hào, Tôn giáo, Lưu manh và phải ‘đào tận gốc trốc tận rễ’. Nghĩa là trí thức – đặc biệt là Quốc-Dân Đảng – người giàu, địa chủ, cường hào, tôn giáo, lưu manh, đào tận gốc trốc tận rễ có nghĩa là phải tiêu diệt cho bằng hết! Và cuộc căm thù đấu tranh giai cấp ấy đă diễn ra năm 1956, dưới h́nh thức cải các ruộng đất và ‘ôn nghèo gợi khổ’ kéo dài suốt sáu tháng trời.
    Mỗi xă hội có một đội cải cách do Trung ương Đảng phái về, gồm toàn người xa lại, từ miền Trung ra. Những người miền Bắc th́ được phái vào miền Trung, v́ những người khác xứ như thế sẽ không có t́nh cảm địa phương và dễ bề thẳng tay tàn ác mà không sợ bị nhận diện. Khẩu hiệu của đội cải cách là: ‘Nhất đội nh́ trời’. Cũng như trong miền Nam năm 1975, cộng sản đang trong cái khí thế ‘thừa thắng xông lên’, tại các công trường làm thủy lợi, cộng sản trương khẩu hiện ‘Thằng trời đứng ra một bên, để cho thủy lợi tiến nên thay trời’! và ‘vắt đất ra nước, thay trời làm mưa’, c̣n ǵ ngông cuồng hơn! Một ông vua thời phong kiến bất quá cũng chỉ xưng là ‘thiên tử’ (con trời), nhưng ngày nay đội cải cách của Đảng cộng sản c̣n là ‘bố trời’ và mọi người nếu muốn kêu xin điều ǵ phải nói: “Con cúi đầu xin đèn trời soi xét.” Oái ăm thay! Một Đảng chính trị như Đảng Cộng sản Việt-Nam chủ trương đánh đổ vua chúa phong kiến, thực dân đế quốc để mang lại độc lập tự do hạnh phúc cho toàn dân, th́ giờ đây nghiễm nhiên lại là bố trời! Quyền lực và lợi lộc làm hư hỏng con người đến thế!
    Khi đội về xă nào th́ họ đến ở trong các nhà nghèo nhất xă, xưa nay chuyên đi cày thuê cuốc mước, hoặc ở chăn trâu cắt cỏ cho nhà giàu, hoặc là người làm mơ trong xă. Những người này được gọi là ‘thành phần cốt cán’ và được đội cải cách giao cho công việc ‘nghiên cứu điều tra’ xem ai là địa chủ, cường hào, phú nông, trí thức (tức đảng viên Quốc-Dân Đảng), nếu ai rơi vào những thành phần ấy th́ bị bắt giam riêng ở một nơi để chờ ngày đem ra đấu tố và coi như đă nắm chắc cái chết trong tay rồi. Trong thời gian các khổ chủ bị giam được canh gác rất cẩn mật, thân nhân không ai được đến gần, nếu đến cũng bị tội lây. Sở dĩ đội cải cách giao cho những người nghèo nhất xă làm công việc quan trọng như vậy là v́ những người nghèo khổ hay mang ḷng ghen ghép oán hận, đúng như kinh Phật đă nói ‘bần khổ đa oán’ (nghèo khổ nhiều oán), cho nên dễ bị kích động để trở thành căm thù, mà có căm thù th́ cuộc tố khổ mới thành công.
    Sau khi thành phần cốt cán nghiên cứu điều tra xong, đội cải cách quyết định ngày giờ đưa các khổ chủ ra đấu tố. Các khổ chủ được đưa đến đấu trường mà đội là là ‘ṭa án nhân dân’, thường là ở giữa cánh đồng hoặc trên một băi đất trống rộng. Ở giữa đấu trường, một cái đài cao được dựng lên (như lễ đài) dành cho đội cải cách và ‘bồi thẩm đoàn’ (dĩ nhiên là những người nghèo nhất và mù chữ trong xă) của ṭa án nhân dân ngồi. Các khổ chủ cúi đầu qú ở dưới, hai tay bị trói giặt về sau lưng. Khi đội cải cách luận tội, có điều ǵ oan ức muốn kêu, th́ các khổ chủ phải nói: “Con cúi đầu xin đèn trời soi xét…” Ngày ấy tất cả dân trong xă (mỗi gia đ́nh chỉ được để một người già ở nhà giữ nhà) phải đến dự để tố khổ chủ (tất nhiên là họ đă được học tập trước rồi). Đại khái họ kể: “Ngày trước chúng mày đă bóc lột chúng tao, cho chúng tao vay nặng lăi; ngày giỗ ngày tết chúng tao phải đưa gà, trứng gà, thịt lợn gạo nếp đến biếu chúng mày, tính đến nay đă có tới hàng ngàn hàng vạn con gà, quả trứng; làm thuê cho chúng mày th́ chúng mày cho chúng tao ăn đói, lại c̣n đánh đập hành hạ chúng tao, v.v… và v.v…” Có nhiều trường hợp con tố cha, vợ tố chồng, tṛ tố thầy, anh em họ hàng tố lẫn nhau v́ những nguyên nhân bất ḥa trong gia đ́nh trước kia. Tố xong, ṭa án nhân dân định tội và kết án tử h́nh, tất cả đám đông ở dưới phải hô to ba lần: “Tử h́nh! Tử h́nh! Tử h́nh!” vừa hô vừa dơ tay đấm lên hư không ba cái. Thế rồi khổ chủ bị bịt mắt lại đưa đến trói vào cây cột đă được dựng sẵn và đội hành quyết gồm năm người đứng nhắm bắn, khổ chủ gục đầu xuống và kết liễu một cuộc đời! Người ta kể có trường hợp bắn đi bắn lại mấy lần khổ chủ mới chết. Sau một hồi vỗ tay hoan hô, đám đông lần lượt ra về, để rồi ngày mai đi hoan hô nữa, hết xă này đến xă khác! Sau đó, tài sản của các khổ chủ tử h́nh, gọi là ‘quả thực’ được chia cho thành phần cốt cán, người được giao nhà, người được cái giường, cái bàn, cái ghế, cái ḥm, cái cối xay, cối giă, cái cày cái bừa, bát đĩa nồi niêu, dần sàng rổ rá, cho đến cái chổi cùn, rế rách… nghĩa là có cái ǵ chia cái ấy.
    Như đă nói ở trên, cuộc đấu tranh căm thù giai cấp diễn ra suốt sáu tháng trời, trên toàn miền Bắc chết chóc quá nhiều,đến bảy trăm ngh́n người trong đó, có nhiều trường hợp, như một cán bộ đă nói với tôi nguyên văn như sau: “Cộng sản chặt đầu cộng sản mới đau chứ” đến nỗi Đảng Cộng sản Việt-Nam đă phải ra lệnh sửa sai và, cũng người cán bộ kể trên đă nói: “Hồ chủ tịch đă đích thân đứng ra xin lỗi nhân dân.” Nhưng có điều mỉa mai ở đây là Đảng Cộng sản Việt-Nam thường tự hào không bao giờ bị sai lầm, thậm chí, hồi tôi bị cộng sản giam trong nhà tù Phan-Đăng-Lưu ở Bà-Chiểu Gia-Định năm 1977, tôi được nghe bài hát trên loa đài, ca tụng Đảng là ‘chân lư’, Đảng là ‘mặt trời’, thế sao lại phải sửa sai! Một điều đau đớn nữa là dù có sửa sai, có xin lỗi th́ bảy trăm ngh́n con người cũng đă mất mạng và tài sản của họ cũng đă tiêu tan rồi!
    Tuy nhiên, vẫn chưa hết chết chóc. V́ sau khi sửa sai, người ta lại chém giết nhau nữa. Chả là, trong thời gian tố khổ, có nhiều người v́ thù oán riêng tư, đă ‘mượn gió bể măng’ dựa vào cuộc đấu tố mà tố bậy, tố oan để trả tư thù. Do đó, khi sửa sai, thân nhân của những khổ chủ đă chết v́ bị tố oan, trở lại giết những kẻ tố oan để trả thù? Chẳng hạn như trường hợp một anh ‘cốt cán’ ở một xă nọ bị cụt mất ngón tay trỏ từ thuở nhỏ, đến thời cải cách tố khổ, anh ta dùng cái ngón tay cụt ấy mà tố đến mười người. Đối với người nào anh ta cũng nói: “Tao ở chăn trâu cắt cỏ cho mày, mày đă cho dăn đói và không trả công th́ chớ, mày lại c̣n chặt ngón tay tao!”. Sau anh này bị giết lại trong thời gian sửa sai. Con số những người chết trong trường hợp này cũng khá nhiều. Thật là một bầu không khí căm thù ngút trời mà từ bốn ngh́n năm lịch sử chưa từng có.
    Sư cụ chùa Long-Khánh xă Vũ-Đoài – nơi tôi bị quản thúc hơn mười năm nay (1982-1992) bị tố là đảng viên Quốc-Dân đảng và bị giam hai tháng, đến khi sửa sai mới được tha, không th́ cũng chết. C̣n một người nọ, tuy nghèo phải đi làm công, nhưng rất thật thà nhân hậu, cho nên người chủ nhà cũng thương t́nh, mỗi khi túng thiếu vay thóc ăn th́ người chủ cho vay mà không lấy lăi. Đến thời cải cách, người ta buộc ông phải tố người chủ, ông ta đành phải lên tố. Ông ta nói: “Tao nghèo khổ phải đi làm thuê làm mướn cho mày, mày cho tao ăn hai bữa cơm no, tối về mày c̣n trả công tao đấu gạo; khi tao túng thiếu đến vay thóc mày, th́ mày cho vay không, không lấy lăi…” Đội cải cách phải cho người ra lôi cổ ông ta xuống, không cho tố nữa. Lại ở một xă nọ, ông linh mục bị đưa ra đấu tố, người đứng ra tố là một bà đanh đá nhất xă, bà ta tên Đức. Khi ông linh mục quỳ giữa đấu trường, bà Đức (Đức là thất đức) đứng trước xỉa xói vào mặt linh mục chửi thậm tệ, rồi bà ta nói: “Tu hành ǵ mày, có mà tu hú; tu ǵ mà ăn những thịt gà cá gỡ cho béo vào, cái mặt phèn phẹt ra thế kia ḱa rồi đi theo cộng sản mà làm hại dân hại nước!” Lập tức đội cải cách sai người lên kéo bà ta ra, nhưng bà c̣n đang hăng máu, không chịu ra và nói: “Chưa hết! Nó c̣n nhiều tội lắm, chưa tố hết.” Nhưng một người bịt miệng bà ta và một người cầm tay lôi bà ta ra. Có lẽ bà ta đă được dạy nói là “đi theo quốc gia, theo Tây mà làm hại dân hại nước”, nhưng lúc đó bà đang hăng say, quên bẵng đi mà nói lộn là ‘đi theo cộng sản’ chăng? Sau đó ông linh mục được đưa đi và cho đến nay (1992) vẫn chưa về!
    Kể từ sau ngày cải cách và đấu tố trở đi, những thân nhân họ hàng của địa chủ, cường hào, trí thức, sư, linh mục bị gọi là thằng nọ con kia và mỗi khi ra đường gặp bất cứ người nông dân lớn bé già trẻ nào, cũng phải khoanh tay cúi đầu chào: “Con xin chào ông nông dân, con xin chào bà nông dân!” Người ta kể chuyện một em bé gái sáu tuổi bế em trai đi chơi, một bà già thân nhân của địa chủ gặp và khoanh tay cúi đầu chào: “Con xin chào bà nông dân bế ông nông dân đi chơi”! Thật là chuyện cười ra nước mắt. Chưa hết, sư cụ chùa Long-Khánh xă Vũ-Đoài, sau khi được tha về, hôm ấy là ngày 15, cụ nấu xôi cúng Phật, cụ đang đơm xôi vào đĩa, mấy bà già tín đồ trong xă, trông thấy, họ nói: “Mày không được đơm xôi cúng Phật, đồ phản động dơ dái! Việc của mày ở ngoài vườn. Để xôi đó cho chúng tao đơm, ra vườn làm cỏ!” Ôi luân thường đạo lư! “Than ôi! Văn minh Đông-Á trời thâu sạch, này lúc cương thường đảo ngược ru?” (Tản Đà). Nhà thơ đă biết trước, nhưng may cũng đă qua đời, khỏi phải chứng kiến cảnh đau ḷng.
    Kể từ sau ngày cải cách, tôn ti trật tự xă hội đảo lộn, luân thường đạo lư đổ nát, v́ cảnh con tố cha, vợ tố chồng, anh em họ hàng tố lẫn nhau, tất cả giá trị tinh thần truyền thống đều sụp đổ. Cuộc cải cách này và cuộc chiến tranh ư thức hệ huynh đệ tương tàn ṛng ră hai mươi chín năm, khiến ba triệu người chết, bốn triệu người bị thương và nửa triệu trẻ em sinh quái thai là một cái giá quá đắt mà dân tộc Việt-Nam phải trả để đổi lấy một học thuyết phi nhân và vô luân mà nay nó đă bị loại bỏ ngay trên mảnh đất nó đă được thí nghiệm lần đầu tiên cách đây bảy mươi tư năm (1917-1991). Những ai phải chịu trách nhiệm cho thảm họa ấy?
    Trên đây tôi chỉ kể lại sơ qua mấy nét tổng quát về cuộc đấu tố thôi, c̣n những chi tiết liên quan đến cách làm việc, những thủ đoạn khủng bố, cách đối xử với các khổ chủ trong thời gian họ bị giam cầm trước khi chính thức đưa ra đấu trường để bị tố và xử bắn, th́ thật khủng khiếp, không thể diễn tả được, chỉ có thể nói cũng tương tự như cái gọi là ‘the Reign of Terror’ trong cuộc Cách mạng Pháp 1793-94 vậy.
    Sau khi đă thanh toán những kẻ thù ‘có nợ máu’ với nhân dân rồi, Đảng cộng sản Việt-Nam hứa với nhân dân sẽ xây dựng một xă hội công bằng, ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng như ai, không có kẻ giàu người nghèo, không c̣n nạn người bóc lột người, không ai phải làm thuê làm mướn cho ai, nông nghiệp sẽ được cơ giới hóa toàn quốc; các cụ già sáu mươi tuổi trở lên, không c̣n sức lao động, sẽ có ‘an dưỡng đường’, mỗi cụ một căn pḥng khang trang đẹp đẽ, có người phục vụ chu đáo. Xă hội cộng sản sẽ không có ăn mày, trộm cướp, đĩ điếm, nghiện ngập, hút xách, ai cũng có công ăn việc làm, không có nạn thất nghiệp, tóm lại là một thiên đường trên mặt đất. Và sau này trên mặt đất nếu dân số tăng lên đông quá, không đủ chỗ ở, th́ sẽ đưa bớt lên mặt trăng!
    Để thực hiện lời hứa lấy ruộng của địa chủ chia cho nông dân, Đảng Cộng sản đă chia ruộng cho dân một cách đồng đều và cấp bằng ‘sở hữu chủ’ hẳn hoi. Bằng sở hữu chủ phải được cắm ngay trên thửa ruộng của ḿnh để chứng tỏ quyền sở hữu của mỗi người. Và để thực hiện không ai làm thuê làm mướn cho ai, Đảng bảo dân thành lập tổ năm nhà hoặc hơn tùy ư, hợp lại với nhau, rồi hôm nay cày cấy cho nhà này, ngày mai cày cấy cho nhà khác, cứ như thế cho đến hết lượt. Thuế nông nghiệp lúc này rất nhẹ. Nhân dân vu mừng lắm, nói theo danh từ thời thượng là rất ư ‘hồ hởi phấn khởi’. Từ bao đời nay, bây giờ ‘ơn Bác ơn Đảng’, người nông dân mới thực sự có được mảnh ruộng và làm chủ mảnh ruộng của ḿnh. Đời sống nông dân trong giai đoạn ấy tương đối sung túc, cho nên dân rất tin yêu đảng. Nhưng tiếc rằng sự hồ hởi phấn khởi ấy chẳng được lâu, v́ đến năm 1960, Đảng bắt dân phải góp hết ruộng vào Hợp tác xă lớn để ‘làm chủ tập thể’ chứ không sở hữu riêng nữa. Nông dân có ǵ đem góp hết vào hợp tác xă: trâu ḅ, cày bừa, cối xay cối giă, trục lúa v.v… tóm lại tất cả các nông cụ riêng trước đây đều sung vào hợp tác xă. Người nông dân bỗng nhiên thấy ḿnh hoàn toàn là người vô sản, chỉ c̣n hai bàn tay để đi làm thuê lấy điểm, có khác là trước kia làm thuê cho ‘bọn địa chủ tàn ác bóc lột’, nó cho ăn ngày hai bữa cơm no, tối về nó trả công cho đấu gạo; c̣n bây giờ th́ làm thuê cho hợp tác xă không cơm, tối lại được trả cho tám lạng hay một cân thóc đựng vào cái mo cau mang về (một cân thóc bằng sáu lạng gạo, người khỏe ăn một bữa không no). Bởi thế người dân đă nói với nhau là: “Hợp tác lên to lấy mo đựng thóc”. Một ông ‘cắc cớ’ nào đó lại nói: “Hợp tác lên to đói hết rồi”, bị gọi ra Ủy ban Nhân dân xă. Xă bảo: “Anh nói thế là nói xấu Cách mạng, bôi nhọ chế độ hả?” Ông cắc cớ trả lời: “Đâu dám! Ư tôi muốn nói là Hợp tác lên to hết cái đói rồi, nghĩa là không c̣n ai đói nữa, ai cũng no đủ cả”. Thế rồi ông cắc cớ thong thả ra về. Lại một ‘nhà thơ’ nào đó làm mấy câu thơ như sau:

    Sáng bước chân ra bụng đói rồi
    Trưa về lưng lửng tối ta thôi

    cũng bị gọi ra Ủy ban và gán cho tội bôi bác chế độ. Nhà thơ phủ nhận và bảo bài thơ tôi có bốn câu tứ tuyệt, nhưng nhân dân chỉ truyền tụng có hai câu mà bỏ hai câu cuối của tôi đi, làm cho bài thơ không trọn nghĩa. Ông xă hỏi thế hai câu cuối của anh như thế nào? Nhà thơ đọc:

    Đói no chi quản thời chinh chiến
    Mỹ cút đi rồi bác với tôi!

    Ông xă nói :”Ừ, vậy th́ hay quá chứ c̣n ǵ!” Thế là nhà thơ thung dung ra về.

    Đế năm 1980, Đảng Cộng sản thấy cách làm ăn tập thể kiểu Hợp tác xă bết bát quá, v́ chẳng ai chịu gắng sức làm, lại c̣n lăng phí, có khi phá ngầm nữa, bởi lẽ họ có làm mà không được hưởng, không đúng như lời Đảng đă nói “làm theo khả năng, hưởng theo nhu cầu”, nên họ chẳng thiết tha ǵ, chỉ làm qua loa cho xong việc rồi về nhà chăm lo con lợn con gà là chính, do đó, sản lượng nông nghiệp mỗi ngày mỗi giảm sút nặng nề, Đảng bèn đưa ra chính sách khoán sản phẩm, hy vọng cải thiện t́nh h́nh. Nhưng v́ hợp tác lấy sản quá nặng nên nông dân cũng chẳng c̣n được bao nhiêu thóc và đói vẫn hoàn đói. C̣n các cụ già hơn sáu bảy mươi tuổi, không làm được ruộng th́ sung vào đội trồng cây theo khẩu hiệu của bác Hồ “Trăm năm trồng người, mười năm trồng cây”. Loại cây chính được trồng ở hai bên lề đường là cây bạch đàn, xà cừ và phi lao. Hợp tác xă dùng chúng làm củi đốt gạch hoặc làm nhà kho.
    Một hôm, có bảy tám cụ ông cụ bà vác cây đến trồng ở hai bên con đường đi vào chùa Vũ-Đoài, các cụ vào chùa nghỉ giải lao, tôi hỏi các cụ đi đâu th́ các cụ cho biết đi trồng cây lấy điểm. Tôi ṭ ṃ hỏi các cụ trồng như vậy được bao nhiêu điểm, các cụ cho biết cứ năm cây được một điểm bằng một lạng thóc. Tôi nói: “nghe đâu các cụ đă có an dưỡng đường, có người phục vụ chu đáo rồi mà, thế sao các cụ c̣n phải đi trồng cây lấy điểm?” Các cụ trả lời: “Chả biết sau này thế nào, chứ hiện giờ th́ chúng tôi đang c̣n ‘ăn đứng đừơng’. An dưỡng đường mà các cụ nói chệch ra ăn đứng đường th́ cũng lạ thật. đă vậy, những cây các cụ trồng xong, chỉ ít ngày sau là người ta đă bẻ hoặc nhổ hết vào ban đêm, bởi vậy các em bé chăn trâu cho hợp tác xă (trước kia th́ chăn trâu cho địa chủ bóc lột) mới làm vè hoan hô các cụ:

    Hoa hô các cụ trồng cây
    Mười cây chết chín một cây gật gù!

    Các cụ cũng chẳng vừa, cũng làm vè ‘phản pháo’ lại:

    Các cháu có mắt như mù
    Mười cây chết tiệt gật gù ở đâu!

    Nghĩa là trong con mắt các cháu th́ mười cây c̣n sống sót được môt cây, nhưng dưới con mắt các cụ th́ mười cây chết hết cả mười! Thực ra th́ các cụ chỉ trồng chúng xuống đấy để lấy điểm sống qua ngày thôi, c̣n chúng sống hay chết cũng mặc, các cụ đâu có quan tâm. C̣n những người bẻ hoặc nhổ cây đi th́ lại nghĩ chúng có lớn lên ḿnh cũng chẳng được dùng, thôi th́ nhổ phứt đi cho khuất mắt.
    Nạn tham ô ở nông thôn cũng rất phổ biến. Nông dân phải trả sản nặng, thiếu phải bù lỗ, bởi thế phải nói khó với các ông lái máy cày máy bừa làm kỹ ruộng để cấy cho tốt lúa, bởi v́ các ông máy cày hay cày lỏi; hoặc hợp đồng bừa ba lượt th́ các ông chỉ bừa hai lượt thôi. Làm như vậy sẽ dôi số xăng mà hăng máy cày cấp cho mỗi máy, các ông lái máy cày lấy số dầu xăng đôi ra ấy đem bán chợ đen, mà cày bừa như thế th́ ruộng không kỹ, lúa sẽ xấu. Bởi vậy nông dân phải luộc gà nấu xôi chó các ông ăn mới được, v́ thế trong dân gian mới có câu ‘trâu đen ăn cỏ, trẩu đỏ ăn gà’. Trâu đen là con trâu thât, trâu đỏ là cái máy cày v́ nó được son màu đỏ cách mạng. Thật cũng trớ trêu, ngày xưa phải biếu gà cho địa chủ bóc lột, c̣n ngày nay th́ phải đút gà cho máy cày. Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa! Nhưng sau máy cày nghĩ ăn gà chỉ ăn được một ḿnh thôi, không vui, nên máy cày bèn lấy tiền và gạo đưa về nhà cùng vợ con ăn cho vui.
    Rồi đến điện lực cũng vậy Điện ở nông thôn chỉ được dùng để bơm nước vào đồng để cày bừa. Đến thời vụ, hợp tác xă nào muốn có nước vào đồng trước để cày bừa, th́ phải đưa thịt và gạo nếp đến ‘lót tay’ mấy ông cán bộ coi trạm điện bật cầu giao điện, nếu không th́ cứ chờ, quá thời vụ cũng mặc. Nhưng hợp tác xă sợ quá thời vụ lúa sẽ xấu, không đủ thóc đóng thuế cho Nhà nước cũng nguy, cho nên đành phải mang gạo thịt đi, chứ không thể chờ được. Bởi vậy, dân gian lại có câu tiếu lâm thời đại: ‘Có kí lô oét mới có kí lô oắt!’ Oét là tiếng kêu oen oét của con lợn, c̣n oắt (watt) là chỉ đơn vị điện lực. Hoặc câu nữa cũng không kém phần hóm hỉnh, như: ‘Có cầu thớt mới có cầu dao’. Cái thớt dùng để thái thịt luôn luôn đi với con dao, c̣n cầu dao là cầu dao của công tơ điện, hễ có gạo thịt th́ nó bật lên, không th́ nó cúp xuống! Lại trong làng xóm, nhà nào khá giả muốn có ngọn đền điện thắp sáng trong nhà, nhất là vào ba ngày Tết, hoặc đám cưới, đám ma v.v… th́ xin ông cán bộ trạm điện cho phép câu điện vào, dĩ nhiên, cũng phải có gà lợn và gạo nếp chỉ đường dẫn lối. Cho nên người dân lại có câu ca dao:

    Muốn cho điện sáng về nhà
    Ruột lợn ruột gà phải nối đến nơi!

    Thật cũng buồn cười, trước trước cộng sản lên án tư bàn nắm lấy các phương tiện sản xuất để thao túng bóc lột dân lao động, th́ giờ đây cộng sản có máy cày, có trạm điện cũng có tha dân đâu! Những câu tiếu lâm, ca dao về nạn tham ô ở nông thôn c̣n nhiều lắm, như:

    Mỗi người làm việc bằng hai
    Để cho cán bộ mua đài (radio) mua xe.
    Mỗi người làm việc bằng ba
    Để cho cán bộ xây nhà xây sân…

    và những tiếu lâm về các lănh vực khác cũng khá nhiều, nhưng ở đây tôi không chủ trương nói về điều đó, chỉ nêu mấy câu làm điển h́nh thôi.
    Cuối cùng chính sách khoán sản phẩm cũng thất bại, đến năm 1985 th́ Đảng cho khoán trắng. Nghĩa là cho dân thuê ruộng rồi đóng thuế cho Nhà nước, hệt như chính sách phát canh thu tô của ‘địa chủ bốt lột và bị giết’ trước kia, chỉ khác trước kia là địa chủ cá thể, bây giờ là địa chủ tập thể Đảng hoặc Nhà nước. Thế là mèo lại hoàn mèo. Rồi bắt đầu phá hợp tác xă: nào nhà kho, sân kho, nhà nuôi lợn, nhà chăn tằm, nhà thuốc, vườn ươm cây, của hàng hợp tác xă, ao cá bác Hồ, vườn cây bác Hồ v.v… phá hết, bán đấu giá hết. Một hôm, có người trong xóm ra chùa rủ tôi đi xem chỗ máy bay B52 của Mỹ bỏ bom, tôi hết sức ngạc nhiên. Tôi hỏi bỏ bao giờ, ông ta bảo mới vài hôm nay, tôi lại càng ngơ ngác không hiểu ra sao. Sau một lát ông ta mới nói dân chúng mua nhà muôi lợn của hợp tác xă, họ đang đập phá lấy gạch, trông y như B52 bỏ bom. Lúc đó tôi mới vở lẽ. Mấy hôm trước có nguời ở thành phố Nam-Định sang thăm và cho tôi món quà hiệu Liên-Xô, bên ngoài hộp có mấy chữ CCCP, không hiểu, tôi đưa ra hỏi ông ta là nghĩa ǵ, ông ta bảo đó là chữ viết tắt của các câu: “Các cha cứ phá, các chú cứ phá, các cô cứ phá, các cậu cứ phá, các con cứ phá, các cháu cứ phá, các chắt cứ phá, các chút cứ phá, các chít cứ phá’… nói xong ông ta cười sằng sặc. Tôi nghĩ bụng thật là mấy chữ quái ác, đây là định mệnh của dân tộc chăng? Thảo nào mà đ́nh chùa miếu mạo họ cũng phá, và bao nhiêu thế hệ mà cứ phá như thế th́ liệu đất nước sẽ c̣n ǵ. Tôi nhớ lại thời ‘tiêu thổ kháng chiến’.
    Bao nhiêu công của sức lực, mồ hôi và cả nước mắt của nông dân đổ ra suốt một phần tư thế kỷ để xây dựng, gom góp hết vào hợp tác xă, bây giờ tan thành mây khói, và số tiền bán đấu giá các tài sản ấy chui vào đâu, người dân không biết.
    Tổ tiên Việt-Nam qua bao nhiêu đời, bằng kinh nghiệm sống của ḿnh đă đúc kết thành những câu ngạn ngữ, ca dao ngắn gọn rất hay rất đúng để dạy con cháu đời sau về mọi lănh vực. Như về luật nhân quả th́ các cụ nói: “Đời cha ăn mặn đời con khát nước”, nghĩa là những kẻ làm điều ác th́ sớm muộn ǵ cũng sẽ phải chịu quả báo ác. Về số phận th́ các cụ nói: “Số giàu của đến dửng dưng, số nghèo con mắt cháo chưng vẫn nghèo”. Đúng vậy, như thời cải cách, những địa chủ và cường hào bị tịch thu hết nhà cửa ruộng vườn, thóc gạo đồ dùng và tiền bạc họ lấy sạch, chỉ để cho cái chuồng trâu cho con cái ở, giường chiếu không có, phải nằm đất, không c̣n ǵ ăn, phải đi ṃ cua bắt ốc sống qua ngày. Vậy mà bây giờ họ lại giàu có, nhà xây gạch, dư thóc lúa tiền bạc. Trái lại, những người ngày trước lấy của họ chia nhau ăn, chỉ sau ít lâu là ăn hết, rồi người được chia nhà th́ bán nhà, người được chia đồ đạc th́ bán đồ đạc, rút cuộc nghèo vẫn hoàn nghèo. Có điều mỉa mai là sau ngày cải cách, thân nhân con cái địa chủ, cường hào bị gọi thằng nọ con kia, khi gặp họ phải cúi đầu chào ông nông dân bà nông dân, th́ bây giờ lại chính những người ấy đến nhà các thân nhân con cháu của địa chủ, cường hào vay tiền vay thóc và gọi họ bằng cụ hoặc bằng bà tùy tuổi tác, chứ không dám gọi thằng nọ con kia nữa.
    Nhưng không lănh vực nào mà các cụ dạy bảo con cháu kỹ như lănh vực làm ăn tập thể theo kiểu cộng sản. Các lănh vực khác th́ thường chỉ có một câu hai câu là cùng, riêng lănh vực làm ăn tập thể th́ có tới ba câu, đó là: “Cha chung không ai khóc, nhiều săi không ai đóng cửa chùa, nhiều thầy rối ma nhiều cha con khó lấy chồng”. Ngày nay những người cộng sản Việt-Nam đă không chịu học bài học của tổ tiên ông cha, mà lại đi học ông Karl Marx, ông Lênin, tin rằng các ông ấy nói đúng hơn, hay hơn, nên mới bắt dân làm ăn tập thể, hao tiền tốn của phí công mà chẳng nên việc ǵ. Rồi đến lănh vực chính trị cũng thế, tổ tiên Việt-Nam thiếu ǵ đường lối chính sách hay, như vua Thánh-Tôn (1054-1072) đời Lư, một hôm ngồi xử án tại điện Thiên-Khánh, có công chúa Động-Thiên đứng hầu bên cạnh. Vua chỉ vào công chúa mà nói với các quan: “Ḷng trẫm yêu dân cũng như yêu con trẫm vậy, chỉ hiềm trăm họ dại dột, làm bậy phải tội, trẫm thương lắm. Từ nay về sau tội nhẹ th́ tha, tội nặng th́ giảm bớt đi.” Hoặc như Nguyễn-Trăi: “Lấy nhân nghĩa thắng hung tàn, đem trí nhân trừ cường bạo.” Những giá trị nhân bản cao quư đầy nhân tính như thế, tại sao người cộng sản Việt-Nam không học, lại đi học chính cách hận thù đấu tranh giai cấp, tố khổ nhân dân khiến hằng trăm ngh́n đồng bào vô tội phải chết oan!
    Trở lại vấn đề khoán trắng sau khi tập thể hợp tác xă thất bại. Nghĩa là bây giờ (1985) ruộng đem khoán trắng cho dân, nhưng khốn nỗi trâu ḅ cày bừa và tất cả nông cụ khác trước đây đă góp hết vào hợp tác xă, khi hợp tác xă giải thể, tài sản bán đấu giá nông dân không được trả lại một món ǵ, bây giờ lại phải mua sắm đồ mới. Nhưng khó nhất là trâu ḅ, hàng trăm ngh́n đồng một con trâu, dân lấy tiền đâu mà mua; xăng dầu lại đát, không đủ sức thuê máy cày. Vả lại, trước kia, khi vào hợp tác xă th́ các bờ ruộng phải phá hết đi để làm thành ‘ruồng đồng c̣ bay thẳng cánh, chó chạy cong đuôi’ để cày máy. Bây giờ ruộng khoán trắng, mỗi nhà vài ba sào (một sào Bắt bộ bằng 366m2), dân lại phải đắp bờ lên để đánh dấu và giữ nước, th́ dù người có khả năng thuê máy cày cũng chẳng cày được. Cho nên đa số nông dân dùng cuốc và mai để cuốc và bẩy ruộng, và cứ mỗi nhát cuốc dơ lên đập xuống, họ lại nói: “Cơ giới hóa toàn quốc”! Họ bảo ‘Đảng ta’ nói nông nghiệp sẽ được cơ giới hóa toàn quốc mà! Trẻ em bảy tám tuổi cũng phải cơ giới hóa toàn cuốc. Cuốc xông, nhà nào có nhiều người trẻ khỏe th́ bừa lấy. Cứ hai người kéo, một người cầm bừa, mấy người đi trên đường thấy thế ‘khen’: “Gớm, hai con trâu khỏe nhỉ!” rồi họ cười với nhau thông cảm.
    Cảnh ấy làm tôi nhớ lại năm 1975 được xem cuốn phim chiếu trên TV ở Sài G̣n kể lại cuộc đời của cụ Hồ-Chí-Minh (lúc đó trong phim cụ được gọi là anh Ba), từ bến Nhà Rồng Sài G̣n cụ xuống tàu ra đi t́m đường cứu nước, mà một trong những nguyên nhân khiến cụ phải ra đi là cụ thấy người dân phải làm thân trâu kéo cày. Bây giờ đây, sau gần nửa thế kỷ cách mạng thành công, xây dựng chủ nghĩa cộng sản, th́ người dân lại phải kéo bừa thay trâu! Ở Vũ-Đoài tôi chỉ thấy người kéo bừa chứ không ai kéo cày, v́ nặng lắm. Cuộc đời thật là cái đèn cù, quay hết ṿng th́ trở lại. C̣n các tệ nạn xă hội như trộm cướp, trấn lột, ăn mày, ăn hối lộ, nghiệp ngập v.v… th́ vẫn nhan nhản.
    Thế là từ sau ngày cải cách đấu tố giết chết bảy trăm ngh́n người, Đảng Cộng sản đă hứa hẹn với nhân dân miền Bắc xây dựng một xă hội thiên đường trên mặt đất, đến nay đă ba mươi sáu năm (1956-1992) mà vẫn chưa thực hiện được, có lẽ nó chỉ là cái bánh vẽ chăng?
    Last edited by Nhân Dân Tự Vệ; 13-02-2013 at 02:43 AM.

  4. #534
    Member
    Join Date
    25-01-2011
    Posts
    4,929
    Ngay từ trước ngày 30-4-1975, rồi sau ngày cộng sản toàn thắng và mở cuộc đấu tranh căm thù giai cấp đánh Tư bản miền Nam, đă có cả triệu người bỏ nước ra đi, thậm chí cho đến nay (1992) người ta vẫn tiếp tục ra đi. Trong số những người vượt biển ra đi ấy, đă có bao nhiêu người bất hạnh vùi thân dưới đáy biển hoặc làm mồi cho cá? Bao nhiêu người đă đến được một nước nào đó, nhưng thuyền của họ lại bị đẩy ra khơi trở lại và số phận họ sau đó ra sao? Bao nhiêu người đă bị hải tặc cướp bóc hăm hiếp rồi quăng họ xuống biển? Bao nhiêu người tuy đă đến được bờ tự do, nhưng quá sợ hăi v́ đă nh́n thấy những điều xảy ra trong cuộc phiêu lưu mạo hiểm, nên đă trở thành điên khùng, mất trí? Và hiện đang c̣n bao nhiêu chục ngh́n người đang sống lây lất như những con vật hai chân trong các trại tị nạn trên khắp vùng Đông-Nam-Á? Bao nhiêu người đă chết trong các trại tù trong số hàng trăm ngh́n sĩ quan binh sĩ và nhân viên của chế độ cũ mà cộng sản bắt đi học tập cải tạo? Rồi ngay trên đất nước Việt-Nam hiện giờ đây c̣n bao nhiêu nhà trí thức, giáo sư, văn nghệ sĩ, tu sĩ, đang phải sống đọa đày trong các nhà tù cộng sản hoặc bị lưu đày quản thúc chỉ v́ họ nói lên tiếng nói của lương tri, muốn cho dân tộc được tự do dân chủ thực sự? Tất cả đều không ai biết được. Thật là khủng khiếp. Suốt bốn ngh́n năm lịch sử dân tộc, chưa từng có giai đoạn nào đau thương khổ thảm như giai đoạn này. Ngay cả dưới chế độ thực dân phong kiến thống trị, người dân chẳng ai bỏ nước ra đi, vậy mà ngày nay được ‘độc lập tự do hạnh phúc’ th́ hàng triệu người lại ùn ùn bỏ nước ra đi bất chấp hiểm nguy chết chóc là nghĩa làm sao? Có nhiều người bảo v́ nghèo khó mà người Việt bỏ nước ra đi để t́m một cuộc sống khá hơn. Không phải thế đâu. Gần hai mươi năm qua đă biết bao nhiêu người bỏ hết tài sản cơ nghiệp mà có thể họ ăn đến mấy đời không hết để thoát thân, nếu không may phải chết đuối ngoài biển họ cũng vui ḷng và bảo chết thế càng mát! Ngay cả bây giờ đây (1992), các nước tư bản đă vào Việt-Nam kinh doanh, kinh tế đang phát triển, đời sống tương đối đỡ đói hơn trước; nhưng giả sử có nước nào hào hiệp sẵn sàng đón nhận người Việt-Nam đến sinh sống, hoặc có một ḥn đảo nào sinh sống được mà quốc tế giúp đỡ cho người Việt đến đó làm ăn và nhà cầm quyền Hà-Nội cho họ tự do ra đi không hạn chế, th́ tôi tin chắn rằng sẽ có một nửa dân số Việt-Nam, nếu không nói là hơn thế nữa, sẽ bỏ nước ra đi một cách không vấn vương thương tiếc.
    Tại sao vậy? Bởi v́ ở Việt-Nam hiện nay có cái tội danh ‘phá rối trật tự an ninh xă hội’ nó mông mênh lắm, không có giới hạn nào, không biết đâu mà tránh, cho nên người dân sống trong t́nh trạng nơm nớp lo sợ như con cá nằm trên thớt, không biết ḿnh bị bắt lúc nào nếu lỡ mồm lỡ miệng nói điều ǵ mà Đảng Cộng sản không vừa ḷng là bị khép ngay vào cái tội danh trên sẽ biến mất vào ban đêm, hàng xóm không ai biết. Bởi thế mỗi khi muốn nói điều ǵ có liên quan đến chính trị một chút th́ phải nh́n trước nh́n sau, thậm chí nh́n cả dưới gầm giường, gầm bàn xem có ai nghe lén không rồi mới dám nói, nhưng cũng không dám nói to đâu, chỉ nói thầm như bàn nhau đi ăn trộm ấy thôi, v́ sợ có người núp ở sau nhà nghe lén.
    Một người ở xă Vũ-Đoài ra chùa xin tôi mấy chữ Hán về treo trước bàn thờ tổ tiên trong ba ngày Tết. Tôi nghĩ treo trước bàn thờ tổ tiên th́ không có chữ nào hợp t́nh hợp cảnh bằng bốn chữ xưa nay rất thông dụng, đó là bốn chử ‘Ẩm Thủy Tư Nguyên’, nghĩa là uống nước nhớ nguồn. Vậy mà công an đến hỏi người chủ nhà là những chữ ǵ, v́ anh ta không biết chữ Hán. Sau khi nghe chủ nhà giải nghĩa, anh công an nói: “Coi chừng hắn (tức là tôi) định nói chính trị trong đó đấy!” Sống trong một xă hội luôn luôn bị ŕnh rập và nghi kỵ như vậy, đến mấy chữ uống nước nhớ nguồn mà cũng nghi là chính trị, cũng như tôi bị quản thúc lưu đày đă mười năm nay (1982-1992) chỉ v́ cái tội ‘làm việc tôn giáo cũng là làm chính trị’, th́ tôi thiết nghĩ dù có ngồi trên đống vàng cũng chẳng cảm thấy hạnh phúc. Bởi vậy bất cứ lúc nào có cơ hội là người Việt-Nam sẵn sàng bỏ nước ra đi, chứ không phải v́ nguyên do nghèo khó, kinh tế thiếu thốn đâu. Tôi xin kể một câu truyện cổ để chứng minh. Đức Khổng-Tử sang nước Tề, đi qua núi Thái-Sơn, thấy một người đàn bà đang khó ở ngoài đồng, nghe thảm thiết lắm. Ngài nói với đoàn tùy tùng: “người đàn bà kia h́nh như trong nhà có trùng tang.” Rồi sai Tử-Công đến hỏi. Người đàn bà nói: “Ở đây lắm hổ (cọp), bố chồng tôi chết v́ hổ, chồng tôi chết v́ hổ, bây giờ đến lượt con tôi cũng lại chết v́ hổ. Thảm lắm ông ơi!” Tử-Công bảo: “Thế sao không bỏ chỗ này đi ở chỗ khác?” Người đàn bà trả lời: “Tuy vậy, nhưng ở đây chính sách quan trên không đến nỗi hà khắc như ở các nơi khác.”
    Tử-Công đem chuyện thưa lại với Đức Khổng-Tử. Ngài nói: “Các ngươi nhớ đấy: chính trị hà khắc khốc hại hơn mănh hổ!”.
    Cũng thế, hàng triệu người Việt-Nam ngày nay bỏ nước ra đi là v́ sợ một chế độ chính trị hà khắc chứ không phải v́ sợ đói khổ, như tôi đă tŕnh bày ở trên, có những người ăn đến mấy đời không hết của mà vẫn bỏ nước ra đi và có chết ngoài biển cũng vui ḷng, như vậy chứng tỏ họ sợ chính trị hà khắc c̣n hơn cả sợ chết, cho nên ngài Khổng-Tử nới nói “chính trị hà khắc khốc hại hơn mănh hổ” là thế.
    Suốt hai mươi mốt năm trời (1954-1975), cộng sản Việt-Nam đă tận dụng nhân lực của nhân dân miền Bắc và của đại bộ phận nhân dân miền Nam, để ra sức ‘đánh cho Mỹ cút đánh cho Ngụy nhào’, th́ năn 1974 Mỹ đă ‘cút’ thật ........Nhưng sau mười tám năm (1975-1992) vinh quang oanh liệt, đến khi phe cộng sản Đông-Âu và Liên-Xô tan ră, th́ giờ đây cộng sản Việt-Nam thấy ḿnh hụt hẫng, không c̣n chỗ dựa, và để cứu văn nền kinh tế kiệt quệ v́ không c̣n được ai cho vay nên đành phải muối mặt mà mời người Mỹ trở lại hy vọng họ bỏ cấm vận. Nhưng khốn nỗi người Mỹ lại làm cao, đặt ra các điều kiện này nọ, mà điều kiện tiên quyết là phải t́m kiếm đào bới cho đủ số hơn hai ngh́n lính Mỹ c̣n bị liệt kê mất tích trong chiến tranh tại Việt-Nam. Cộng sản Việt-Nam phải trần lực ra đi đào bới t́m kiếm từng mẩu xương khô, và cứ mỗi lần cộng sản giao trả cho Mỹ mấy bộ xương th́ Mỹ lại ‘tưởng thưởng’ cho cộng sản một cái ǵ đó theo như lộ tŕnh họ đă định. Các ông cộng sản Việt-Nam có cám thấy ‘khó chịu’ không? ......nhưng v́ họ có nhiều đô-la (mà trước kia cộng sản cho là đồng tiền ‘vấy máu’) cho nên cộng sản phải cố làm vừa ḷng họ. C̣n những người dân Việt-Nam yếu hèn th́ cộng sản đối xử như những con vật, cho nên người dân miền Bắc đă phải nói: “ăn như lợn (tức ăn độn), ở như chuột, làm như trâu, đối xử như chó”. Lại như thượng tọa Huyền Quang và tôi chỉ v́ cộng sản làm bậy, đập tượng phá chùa, lấy chùa làm nhà hộ sinh (nhà đỡ đẻ), làm rạp chiếu bóng, bắt bớ tăng ni Phật tử một cách bừa băi, chúng tôi buộc ḷng phải phản đối những hành động ngông cuồng và phi pháp ấy của cộng sản, chứ có tranh giành quyền lợi ǵ với họ đâu, vậy mà họ giam cầm đày ải suốt mười mấy năm nay!
    Hơn hai ngh́n lính Mỹ mất tích c̣n có người t́m kiếm đào bới, thế c̣n hơn ba trăm ngh́n lính cộng sản Bắc Việt mất tích th́ ai t́m kiếm đào bới? C̣n các ông ‘ngụy’ đă ‘nhào’ mà thoát thân trước ngày 30-4-1975, và những người vượt biên sau đó, đều bị cộng sản lên án là phản quốc, bây giờ trở thành người nước ngoài gốc Việt, nếu muốn về thăm quê cũ với đô-la đầy túi, th́ cũng được hoan nghênh là ‘Việt kiều yêu nước’!
    C̣n một điều trớ trêu nữa là năm 1954 tại miền Bắc và năm 1975 tại miền Nam, bao nhiêu nhà tư bản Việt-Nam cộng sản đánh gục hết để rồi giờ đây phải giải thảm đỏ mà mời tư bản nước ngoài vào, c̣n ǵ nghịch lư hơn? Vậy tại sao cộng sản Việt-Nam không mời tư bản nước ngoài vào ngay từ năm 1945 hoặc 1954 hay ít nữa là 1975 có tốt hơn không? Tại sao lại đợi đến sau bốn mươi mốt năm (1954-1986) cố sức ‘đào mồ chôn sống bọn tư bản’ chẳng được, gây ra bao nhiêu tang thương khổ thảm đổ nát chết chóc rồi mới chịu rước tư bản vào? Đảng Cộng sản thường nói: “Giữa con đường xă hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, ai thắng ai?” Ngày nay rơ ràng tư bản nó thắng rồi đó: nó đă vào nằm trong sân, trong đầu giường, thậm chí chui cả vào túi của Đảng rồi đó, xă hội chủ nghĩa chỉ c̣n là cái vỏ thôi, lột bỏ luôn đi cho hợp thời! Danh có chính ngôn mới thuận, Đảng lănh đạo là Đảng cộng sản, tên nước là Cộng ḥa xă hội chủ nghĩa Việt-Nam, kinh tế là kinh tế thị trường tư bản, chắp vá như vậy nghĩa là làm sao? Nghe nó không ổn. Giá như Cộng ḥa xă hội chủ nghĩa Sô-viết c̣n tồn tại th́ nghe c̣n đỡ, bây giờ c̣n một ḿnh cộng sản Việt-Nam nghe lạc lơng lắm.
    Cộng sản giết địa chủ bóc lột để rồi trở lại chính sách phát canh thu tô của địa chủ, đào mồ chôn tư bản nội địa để rước tư bản nước ngoài vào. Thật cái ṿng lẩn quẩn. Thế mà mồn vẫn cứ nói là cách mạng! Rồi đây, tài nguyên của đất nước, thượng vàng hạ cám, có ǵ cũng sẽ bị những bạch tuộc nước ngoài ấy moi móc cho bằng hết. Giá như người Việt-Nam ḿnh, một nửa thế kỷ qua, làm được cuộc cách mạng kiểu Minh trị Duy tân của Nhật-Bản thay v́ cuộc cách mạng vô sản căm thù đấu tranh giai cấp tàn hại lẫn nhau, th́ ngày nay người Việt ḿnh đă có thừa nhân tài và kỹ thuật để làm chủ và khai thác tài nguyên của đất nước, chứ không đến nỗi phải lẹt đẹt theo sau các nước láng giềng và phải mất ba, bốn mươi năm nữa mới đuổi kịp họ như hiện nay. Nhưng trong khi ḿnh đuổi theo ba, bốn mươi năm ấy th́ họ lại tiến xa hơn nữa rồi, thành thử ḿnh cứ phải theo sau măi. Nên nhớ những nước láng giềng ấy, như Thái-Lan, Tân-gia-ba v.v… trước đây cộng sản Việt-Nam cho là tay sai đế quốc Mỹ, vậy mà bây giờ phải theo sau tay sai đó! Và vinh dự hơn nữa là c̣n xin gia nhập khối ‘tay sai’ và mời tay sai làm cố vấn kinh tế đó!
    Nhân đây tôi cũng xin nói với các ông tư bản nước ngoài rằng, các ông cứ nói Việt-Nam là một thị trường béo bở với bảy mươi hai triệu con người tiêu thụ. Các ông nghĩ lầm rồi đó, không béo bở như các ông tưởng đâu. Này nhé, nhân dân Việt-Nam tám mươi phần trăm là nông dân sống ở nông thôn, mà người nông dân Việt-Nam th́ chỉ lo sao cho có đủ hạt gạo để ăn no bụng là khó lắm rồi, chứ đâu dám mơ tưởng đến những món hàng đắt tiền của các ông. Các ông nên nhớ rằng, Việt-Nam đang c̣n là một trong những nước nghèo nhất, lạc hậu nhất trên thế giới, với lợi tức đổ đồng mỗi đầu người trên dưới hai trăm đô-la một năm, trong khi lợi tức đổ đồng của Nhật-Bản mỗi đầu người bảy ngh́n đô-la một năm. Cứ đó suy ra th́ Việt-Nam phải mất mấy trăm năm nữa mới đuổi kịp Nhật-Bản? Vậy các ông lấy đâu ra bảy mươi hai triệu người tiêu thụ mà cho là béo bở? Có béo bở chăng là béo bở mấy ông tư bản đỏ, các ông tham ô và những người buôn lậu thôi, chứ tuyệt đại đa số nhân dân Việt-Nam không dám đụng đến chai coca-cola của các ông đâu, chứ nói chi đến các món hàng khác. Như vậy, nếu các ông tính cả bảy mươi hai triệu người tiêu thụ để thu lợi th́ các ông sẽ lỗ to đấy!

    * * *

    Tóm lại, Đảng Cộng sản Việt-Nam đă phạm những sai lầm tai hại sau đây đối với dân tộc Việt-Nam:
    1. Đảng đă đưa vận mệnh nước Việt-Nam ràng buộc vào ư thức hệ cộng sản quốc tế, dùng dân tộc Việt-Nam đấu tranh tiêu diệt chủ nghĩa tư bản để truyền bá chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới bằng khẩu hiệu ‘Giữa con đường tư bản chủ nghĩa và xă hội chủ nghĩa ai thắng ai’, chống Pháp, chống Mỹ để bảo vệ ‘tiền đồn (tức là nước Việt-Nam) của phe xă hội chủ nghĩa’ khiến dân tộc Việt-Nam đă phải gánh chịu cuộc chiến tranh giành ảnh hưởng giữa hai phe tư bản và cộng sản quốc tế ṛng ră hai mươi chín năm trời (1946-1975) trên đất nước Việt-Nam, làm cho ba triệu người chết, bốn triệu người bị thương, nửa triệu tấn bom đạn, thuốc khai quang tàn phá đất nước Việt-Nam mà hậu quả c̣n di hại đến không biết bao nhiều thế hệ về sau.
    2. Thiết lập một chế độ độc tài độc đảng độc quyền chính trị, không chấp nhận đối lập, một ḿnh một chợ, coi như đất nước này là của riêng ḿnh, thu tóm hết quyền lực vào trong tay một nhóm người, thao túng lũng đoạn, đưa đến t́nh trạng lạm dụng quyền hành, tham ô thối nát, cai trị tùy hứng, muốn giết ai th́ giết, muốn bỏ tù ai th́ bỏ, bóp chết mọi mầm mống tư tưởng tự do: những người thông minh có nhiều sáng kiến có thể làm lợi cho đất nước dân tộc, nhưng không hợp với đường lối chủ trương của Đảng th́ không dám nói ra, phải dả điếc dả dại để bảo toàn tính mệnh, kết quả đă khiến cho bao nhiêu nhân tài của đất nước phải thui chột và đất nước rơi vào t́nh trạng nghèo khó nhất lạc hậu nhất trên thế giới hiện nay. Không nói đến quá khứ nữa mà ngay bây giờ đây, có bao nhiêu người Việt tài giỏi trên khắp thế giới, đủ mọi ngành nghề, có thể phát triển đất nước một cách mau chóng, nhưng có ai dám về để góp phần xây dựng đất nước đâu? Không những thế, nếu c̣n ai sót lại trong nước th́ cũng t́m mọi cách thoát thân ra nước ngoài làm giàu cho thiên hạ! Cái tai hại của một chế độ độc tài hà khắc là thế đó! Trong khi ấy th́ Đảng Cộng sản Việt Nam phải đi mời ông Lư Quang Diệu của Singapour (một đảo quốc mấy triệu dân) mà trước kia Cộng sản Việt Nam cho là tay sai đế quốc Mỹ làm cố vấn kinh tế cho Cộng sản, nhưng ông ta từ chối! Mới chỉ mười tám năm trước (1975-1992) những người cộng sản Việt Nam thường nói một cách tự hào rằng: “Việt Nam ra ngơ gặp anh hùng! Hà Nội là trái tim của loài người”, và chính ông Lê Duẫn lúc đó (1975) là Tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam đă nói ở Sài G̣n rằng: “Từ nay trở đi không c̣n một ngoại bang nào dám nḥm ngó Việt Nam nữa.” Vậy mà bây giờ phải hạ ḿnh đi mời ‘tay sai Mỹ’ làm cố vấn, nhưng lại bị từ chối! Con ǵ mỉa mai hơn? C̣n ǵ đau đớn hơn? C̣n ǵ đáng hổ hơn?
    3. Kích động căm thù đấu tranh giai cấp bằng cuộc cải cách đấu tố năm 1956 tại miền Bắc, khiến bảy trăm ngh́n người phải mất mạng và tài sản tiêu tan.
    4. Giết địa chủ, cường hào lấy ruộng chia cho nông dân, sau lại bắt dân gom hết ruộng vào hợp tác xă để thiết lập hệ thống kinh tế chỉ huy theo chủ nghĩa cộng sản. Công cuộc xây dựng hợp tác xă nông nghiệp đă làm hao tổn bao nhiêu công của sức lực của dân suốt hai mươi sáu năm (1960-1986) khiến dân đói khổ để rồi giờ đây giải thể, phá tan hợp tác xă mà trở về chế độ phát canh thu tô của địa chủ cũ tại nông thôn, và giải tán các xí nghiệp nhà nước, tuyên bố phá sản để theo hệ thống kinh tế thị trường tự do của chủ nghĩa tư bản tại thành thị.
    5. Năm 1954 tại miền Bắc va sau năm 1975 tại miền Nam, phát động căm thù đấu tranh giai cấp đánh tư bản Việt Nam, khiến hàng triệu người phải bỏ đất nước chạy trốn ra nước ngoài, để rồi giờ đây lại rước tư bản ngoại quốc vào làm ăn khai thác để học tư bản.
    6. Lấy học thuyết Mác-Lê làm nền tảng cho tất cả mọi lănh vực sinh hoạt trong xă hội, dạy dân căm thù đấu tranh giai cấp để giành giật miếng ăn bỏ hết luân thường đạo lư, truyền thống nhân ái, hiếu nghĩa và phá hoại các di sản tinh thần và vật chất của tổ tiên, ông cha Việt Nam mà cho là tàn dư của phong kiến.

    II. Đối với Phật Giáo Việt Nam

    Như đă nói ở đoạn trước, cộng sản là những người vô thần duy vật, chủ trương tiêu diệt các tôn giáo, v́ Marx cho tôn giáo là thuốc phiện của loài người mà ‘bọn’ tư bản dùng làm công cụ ru ngủ nhân dân lao động bằng cách khuyên họ cố gắng chịu những khổ cực ở đời này rồi sẽ được đền bù một thiên đường ở kiếp sau để dễ bề bóc lột họ, trong khi chủ nghĩa cộng sản chủ trương xây dựng thiên đường cộng sản ngay trên mặt đất này. Bởi vậy, cộng sản cho tôn giáo là một trở lực cần phải tiêu diệt.
    Tại Việt Nam có hai tôn giáo chính là Thiên Chúa giáo và Phật giáo. Cộng sản gọi Thiên Chúa giáo là Công giáo mà tiếng lóng của họ là ‘cứt gà’. Tại sao họ lại gọi là cứt gà và phân gà? Tức họ cho Công giáo khó tiêu diệt hơn Phật giáo. Họ phân tích rất kỹ và v́ nhiều lư do, nhưng quá dài không thể kể hết ra ở đây, tôi chỉ tóm tắt sự phân tích của họ như sau: cộng sản đánh giá Công giáo tuy là số ít, nhưng là những con sư tử, khó tiêu diệt, cũng như cứt gà sáp (cứt gà ướt sền sệt) đă dính vào quần áo th́ chỉ có cách cắt bỏ chỗ ấy đi thôi, chứ giặt khó sạch lắm; c̣n Phật giáo tuy là số nhiều, nhưng chỉ là những con cừu, dễ tiêu diệt, cũng như phân gà khô, chỉ cần gạt một cái là sạch! Nhưng dù khó hay dễ th́ cuối cùng cũng phải tiêu diệt. Nhưng cách thức tiêu diệt th́ tùy từng giai đoạn, tùy từng nơi chỗ. Người cộng sản có đường lối gọi là ‘biện chứng’, nghĩa là mục tiêu họ đă đặt ra là phải đạt cho bằng được; nhưng trên đường đi đến mục tiêu ấy mà êm xuôi th́ đi đến ngay, c̣n nếu gặp trở ngại th́ tạm thời dừng lại, nếu cần phải lùi th́ lùi, cần phải rẽ ngang cũng rẽ ngang, nhưng cuối cùng vẫn phải đạt mục tiêu, châm ngôn của họ là ‘lùi một bước tiến ba bước’. Đối với việc tiêu diệt các tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng, cũng vậy, nếu nơi nào xóa bỏ được ngay mà không gặp chống đối hoặc phản ứng bất lợi, th́ họ làm ngay, nếu thấy trở ngại th́ họ ngưng lại. Không những ngưng lại, mà nếu xét thấy tôn giáo trong giai đoạn ấy có lợi cho cộng sản th́ họ lại lợi dụng tôn giáo tối đa. Trong chủ trương tiêu diệt Phật giáo Việt Nam cũng không ngoài đường lối ấy.
    Last edited by Nhân Dân Tự Vệ; 13-02-2013 at 02:56 AM.

  5. #535
    Member
    Join Date
    25-01-2011
    Posts
    4,929
    Chẳng hạn, trong thời gian kháng chiến chống Pháp, cộng sản Việt Nam cần phải đoàn kết toàn dân, hơn nữa, cũng chưa rảnh tay để nghĩ đến việc tiêu diệt Phật giáo, cho nên họ lợi dụng Phật giáo bằng cách lập ra cái gọi Phật giáo Cứu quốc nằm trong Mặt trận Liên Việt. Lúc đó ‘sư cụ’ Phạm Thế Long trụ tŕ chùa Cổ Lễ tại phủ Xuân Trường tỉnh Nam Định, đưa ra lời kêu gọi thanh niên tăng ‘tạm xếp cà sa khoác chiến bào’, nghĩa là hăy tạm thời cởi bỏ áo nhà tu để đi cầm súng giết Tây. Thế là hàng hoạt sư trẻ bỏ chùa bỏ phật để đi ‘yêu nước’. Đây là chính sách dùng một mũi tên bắt hai con chim một lúc: trước mắt có thêm người cầm súng, đồng thời, lại được cái lợi (mà cái lợi này mới là chủ yếu) là tiêu diệt mầm non của Phật giáo trong tương lai! Mà lại dùng chính sư ra lời kêu gọi để tiêu diệt mầm non Phật giáo mới hợp thức, ai trách được cộng sản bắt sư đi lính! Điều đó cũng dễ hiểu thôi: nếu muốn bắt c̣ th́ phải dùng con c̣ làm chim mồi, muốn bắt cu th́ phải dùng con cu làm chim mồi, chứ nếu muốn bắt c̣ mà dùng cu làm chim mồi th́ bắt sao được. Lại nữa, xét thấy những ngôi chùa lịch sử danh tiếng, điển h́nh như chùa Thiên Trù (chùa Hương – chùa ngoài) ở huyện Mỹ Đức tỉnh Hà Đông, chùa Quỳnh Lâm tại làng Cổ Pháp xưa (nay thuộc tỉnh Quảng Ninh) do Thiền sư Định Không (702-808) sáng lập vào khoảng năm Trịnh Nguyên đời Đường bên Tàu, cộng sản thấy sau này, khi đă thành công, khó mà tự ḿnh ra tay phá được v́ sẽ có ảnh hưởng rất lớn, chi bằng mượn tay quân Pháp cho tiện. Cộng sản bèn đưa quân lính đến đóng tại các chùa đó, treo cờ đỏ sao vàng lên, máy bay thám thính của Pháp đến, thấy có cờ Việt Minh liền báo cho oanh tạc cơ đến bỏ bom (dĩ nhiên là Việt Minh đă rút trước rồi), thế là chùa tan nát! Trong trường hợp này cũng lại một mũi tên bắn hai con chim: một mặt kích động ḷng căm thù của nhân dân, lên án giặc Pháp phá chùa và kêu gọi toàn dân hết ḷng đánh Pháp; mặt khác, sau này, khi thành công rồi khỏi phải phá để tránh tiếng cộng sản phá chùa lịch sử danh tiếng!
    Tôi cảm thấy xót xa vô hạn khi đến nh́n lại nền chùa Quỳnh Lâm nơi thờ pho tượng là một trong ‘Việt Nam tứ khí’ do Thiền sư Không Lộ, quốc sư đời Lư, kiến tạo. Tôi đến đấy vào cuối năm 1991. Nghe người ta kể lại, sau khi Pháp dội bom phải mất hơn một tháng trời mới cháy hết ngôi chùa. Hiện c̣n lại những cái tảng đá chân cột rất lớn, chứng tỏ những cây cột gỗ lim ngày xưa phải đến một ṿng tay người ôm; một vài ngôi tháp đá không bị cháy. Sau ngày cải cách tố khổ, những gạch của chùa của tháp c̣n sót lại được dùng để xây nhà nuôi lợn của hợp tác xă ngay trước cửa chùa cũ. Sau ngày ‘đổi mới’, hợp tác xă giải thể, nhà nuôi lợn đă được bán đấu giá. Tôi thấy một vài tấm bia đá đổ úp xuống đất, nhờ người lật lên xem th́ thấy khắc pháp danh của mấy vị Tăng thống đời Trần. Ngày tôi đến đấy, sau sáu năm đổi mới, dân chúng địa phương đă góp sức làm được ba gian nhà gạch sơ sài trên nền chùa cũ để thờ Phật. Hiện có một vị sư trụ tŕ, vị sư duy nhất tại tỉnh Quảng Ninh, nhưng cũng là người tỉnh Hà Nam Ninh lên, chứ ở địa phương không c̣n sư nữa. Tôi được biết hầu hết các tỉnh trên Việt Bắc không c̣n chùa c̣n sư nữa. Ngay tại tỉnh Thái B́nh chổ tôi ở, cả tỉnh cũng chỉ c̣n tám vị sư tăng già tuổi từ bảy mươi trở lên và mấy chục sư ni vừa già vừa trẻ. Sau khi về Vũ Đoài được vài tuần, tôi nghe bộ Văn hóa của Nhà nước cộng sản Việt Nam đă xếp hạng chùa Quỳnh Lâm vào hàng ‘di tích lịch sử’ có cấp bằng và tổ chức rước hẳn hoi. C̣n ǵ nữa đâu mà di tích với lịch sử! Đến ngay cái nền nhà nuôi lợn hợp tác xă trước cửa chùa cũng chẳng c̣n!
    Chùa Hoa yên trên núi Yên Tử bị đốt cháy, chùa Phật Tích ở tỉnh Bắc Ninh xây dựng từ đời Lư cũng đă bị phá hủy. Chùa Thầy ở huyện Thạch Thất tỉnh Sơn Tây, nơi thờ Thiền sư Từ Đạo Hạnh, cũng được xây dựng vào đời Lư, đang trong t́nh trạng xuống cấp nặng nề, ngôi nhà Tổ phải chống đỡ bằng nhiều cây tre, chưa biết sẽ sụp đổ lúc nào. Chùa Pháp Vũ (Chùa Đậu) ở phủ Thường Tín tỉnh Hà Đông, nơi có nhục thân (xác khô) của hai vị Thiền sư đời Lê, một vị đă bị cưa trán ra để khám nghiệm. Chùa chính đă bị phá, c̣n ngôi bái đường và nhà tổ trong t́nh trạng xuống cấp. Chỉ có chùa Thiên Trù và chùa Quỳnh Lâm là mỗi chùa có một vị sư, c̣n các chùa kia không có sư. Những chùa được xếp hạng di tích lịch sử do Ty Văn hóa địa phương quản lư. Du khách đến tham quan hoặc khách hành hương phải mua vé vào cửa và trả tiền bến đậu xe. Hôm đoàn chúng tôi đến lễ, đậu xe chưa đến nửa giờ mà phải trả năm ngh́n đồng. Diệt Phật, đồng thời, bán Phật!
    Trên đây là mấy ngôi chùa điển h́nh mà tôi đă đến tận nơi thấy tận mắt và kể lại sơ qua thế thôi, chứ nếu đi sâu vào chi tiết th́ c̣n nhiều điều thương tâm lắm, việc ấy để cho các nhà viết sử Phật giáo sau này.

    Đến năm 1954, cộng sản về tiếp thu Hà Nội, đă hoàn toàn làm chủ miền Bắc từ vĩ tuyết 17 trở ra, bắt đầu thực hiện chủ nghĩa cộng sản, nhất là sau cuộc căm thù đấu tranh giai cấp, cải cách tố khổ, th́ ở nông thôn, việc phá chùa đ́nh miếu mạo không c̣n phải e ngại ǵ nữa. Nhiều đ́nh chùa bị trưng dụng làm nhà kho chứa thóc lúa, nông cụ, hoặc phá đi lấy gạch, gỗ để làm nhà kho, sân kho, nhà nuôi lợn v.v… của hợp tác xă; cột đ́nh cột chùa bằng gỗ lim đưa ra bắc cầu qua các rạch nước ở ngoài đồng cho những người gánh phân gánh lúa đi qua; các tấm gỗ câu đối sơn son thếp vàng th́ dùng đóng ghế dài cho học sinh ngồi học, úp mặt chữ xuống dưới. Đó là ở nông thôn, c̣n ở thành thị th́ chùa được trưng dụng làm cơ sở sản xuất công nghệ, làm trụ sở Ủy ban, làm nơi hội họp, cũng có chỗ làm nhà chăn nuôi. Và để thế tục hóa, chùa nào có sư ở th́ dân chúng vào chiếm các nhà phụ cận của chùa để ở, chỉ trừ chùa và nhà Tổ là để cho sư, c̣n các nhà họ chiếm hết. Họ nấu nướng, ăn uống, phơi quần áo chăn mền, nh́n vào không c̣n ǵ là vẻ tôn nghiêm của ngôi chùa nữa. Tôi c̣n nhớ năm 1975, ḥa thượng Thích Đôn Hậu về chùa Ấn Quang kể lại t́nh trạng chùa Quán Sứ tại Hà Nội, dân chúng vào ở đầy trong chùa, hệt như dăy chung cư, chứ không c̣n là chùa nữa. Rồi ḥa thượng có nói với sư cụ Trí Độ như sau: “Cụ ở đây mà để cho ngôi chùa thế này à?” Sau đó ḥa thượng Đôn Hậu kể tiếp, tại một cuộc họp của Liên minh Dân chủ Dân tộc và Ḥa b́nh do ông Trịnh Đ́nh Thảo chủ tọa, trong bài phát biểu của ḿnh, sư cụ Trí Độ nói: “Từ ngày được ánh sáng của chủ nghĩa Mác soi đường, tôi mới thấy rơ con đường ḿnh đi!” Th́ ra hàng mấy chục năm xuất gia theo Phật, sư cụ vẫn đi trong đêm tối; nhưng đến ngày đó và măi cho đến lúc chết, tuy không mặc áo Phật, mặc áo cộng sản, nhưng sư cụ vẫn cứ ở chùa và ăn cơm Phật! Khi nghe sư cụ Trí Độ nói thế, một bà Phật tử trước là hiệu trưởng trường Đồng Khánh ở Huế, cũng ra ‘bưng’ năm Mậu Thân (1/68), tỏ vẻ khinh thị. Rồi đến bữa ăn, bà này đến chỗ ḥa thượng Đôn Hậu xin một món ăn chay, v́ bà ăn mười ngày chay mỗi tháng, mà ngày hôm ấy là ngày 15, một cán bộ nói với bà: “Chị đă đi làm cách mạng mà ăn chay làm ǵ? Sư cụ Trí Độ kia có kiêng ǵ đâu?” Bà ta trả lời: “Trước đây tôi đă quy y Phật và tự nguyện sẽ ăn chay mười ngày, chứ Phật không bắt buộc. Đă tự nguyện như thế mà không giữ th́ tức tôi đă phản bội chính tôi, vậy là một phật tử xấu. Và đă là một phật tử xấu th́ làm sao trở thành người cách mạng tốt cho được?” Người cán bộ kia phải xin lỗi.

    Tóm lại, các chùa đều bị trưng dụng để làm cơ sở này cơ sở khác, c̣n không th́ cho người tại gia vào ở làm mất vẻ tôn nghiêm của chùa và thế tục hóa dần dần. Về các cơ sở vật chất th́ phá hoại bằng những cách như trên, c̣n đối với cơ cấu tổ chức của Giáo hội th́ cộng sản dùng thủ đoạn quen thuộc là ‘gậy ông đập lưng ông’, nghĩa là dùng tăng ni chia rẽ tăng ni để phá hoại nội bộ Giáo hội.
    Trước năm 1954, ḥa thượng Thích Tố Liên là trị sự trưởng lănh đạo Giáo hội Phật giáo miền Bắc nằm trong Tổng hội Phật giáo Việt Nam toàn quốc, gồm sáu tập đoàn tăng già và cư sĩ Bắc-Trung-Nam. Tổng hội Phật giáo Việt Nam là thành viên sáng lập của hội Phật giáo thế giới. Năm 1957, một số tăng ni hoặc bị hăm dọa, hoặc v́ sợ hăi, hoặc cũng có những người v́ động cơ danh lợi thúc đẩy, nên đă họp nhau tại chùa Quán Sứ để tố khổ ḥa thượng Thích Tố Liên (ta c̣n nhớ trong thời cải cách tố khổ, con tố cha, vợ tố chồng, tṛ tố thầy, tín đồ tố sư, tố linh mục, anh em họ hàng tố lẫn nhau, gây giờ đến lượt tăng ni tố tăng ni! ‘văn hóa’ cộng sản là thế đó!), rồi đem chùa Quán Sứ hiến cho ‘Phật giáo Cứu quốc’, mời sư cụ Trí Độ về ở chùa Quán Sứ và thành lập Hội Phật giáo mới là Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam do cụ Trí Độ làm hội trưởng, thế là Giáo hội Phật giáo truyền thống tại miền Bắc tan ră. Hai mươi bốn năm sau (1957-1982) họ cũng làm hệt như vậy đối với Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tại miền Nam (sẽ nói sau). Về mặt tinh thần th́ phá hoại bằng cách chùa nào cũng phải muôi lợn nghĩa vụ, thậm chí các sư giết lợn giết gà là thường. Nuôi lợn để phá bầu không khí thanh tịnh trang nghiêm của cảnh chùa, giết lợn giết gà là hủy hoại tinh thần từ bi và giới sát của đạo Phật để thế tục hóa đạo Phật, đó là cách tiêu diệt đạo Phật nhanh nhất.
    Trước năm 1954, chùa Quán Sứ là trụ sở Trung ương của Giáo hội Phật giáo miền Bắc, trong đó có viện Phật học đào tạo tăng ni, trường trung học Khuông Việt dạy chương tŕnh thế học, nhà in Đuốc Tuệ in nguyện san Phương Tiện và kinh sách, có thư viện v.v…, nhưng sau khi cộng sản tiếp thu Hà Nội th́ viện Phật học giải tán để tăng ni ở đâu về đó lo việc tăng gia sản xuất, trường trung học Khuông Việt đóng cửa, thư viện khóa kín, nguyệt san Phương Tiện đ́nh bản và nhà in Đuốc Tuệ bị chiếm dụng. Nghĩa là tất cả mọi hoạt động của Giáo hội hoàn toàn bị đ́nh đốn, hệt như trong miền Nam năm 1975.
    Bây giờ Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam về đóng đô ở chùa Quán Sứ đă làm được những ǵ cho Phật giáo miền Bắc? Phải trả lời ngay là chẳng làm được ǵ cả. Tại sao? Bởi v́ chủ trương của cộng sản là tiêu diệt Phật giáo trong ngắn hạn cũng như trong dài hạn, như vậy làm sao họ để cho Hội Phật giáo hoạt động được? Hơn nữa, như lời ḥa thượng Thích Đôn Hậu kể mà tôi vừa nhắc lại ở trên, cụ Trí Độ được ánh sáng của chủ nghĩa Mác soi đường cụ mới thấy rơ đường đi, th́ dĩ nhiên bây giờ cụ phải đi con đường sáng sủa của cụ để truyền bá chủ nghĩa Mác chứ, cụ đâu có làm ǵ cho Phật giáo nữa. C̣n cái Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam của cụ chẳng qua chỉ dùng để phục vụ đường lối chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam bằng cách thỉnh thoảng đi dự một vài hội nghị về ḥa b́nh do phe cộng sản quốc tế tổ chức họp tại Liên Xô, Mông Cổ để lên án giặc Mỹ xâm lược, đồng thời, cũng để cho miền Nam và thế giới biết, dưới chế độ cộng sản miền Bắc, tôn giáo vẫn được tôn trọng, thế thôi, chứ thực chất th́ Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam của cụ Trí Độ chẳng làm ǵ cho Phật pháp, nếu không nói là ngồi làm bù nh́n để hợp thức hóa cho việc cộng sản tiêu diệt Phật giáo. Không phải tôi nói ngoa đâu, lịch sử c̣n đó.
    Xuất phát từ âm mưu tiêu diệt Phật giáo ngắn hạn cũng như trong dài hạn, từ năm 1954 trở đi, cộng sản chỉ cho mỗi chùa một sư già ở làm chủ hộ, c̣n sư trẻ (nếu có, hiếm lắm) phải về quê cũ sản xuất làm ăn. Sau khi sư già chết, không ai kế tiếp, chùa bỏ không, nếu ở thành thị th́ bị trưng dụng làm cơ sở sản xuất, c̣n ở nông thôn th́ ủi bằng đi để làm ruộng cấy lúa. Giả sử (hiếm lắm) có ai muốn đi tu t́h phải làm đơn và khai lư lịch nộp cho công an, với lư do Nhà nước chọn công dân tốt cho đi tu để ích đạo lợi đời, nhưng có người chờ đến già mà vẫn chưa được phép! V́ Hiến pháp Nhà nước cộng sản có điều khoản “tự do tín ngưỡng, tự do không tín ngưỡng” (một cách chơi chữ), vậy người có tín ngưỡng muốn đi tu, chẳng lẽ lại nói huỵch toẹt ra rằng anh hay chị không được phép đi tu à? Thôi th́ nại lư do “chọn công dân tốt ích đạo lợi đời” để ngăn chặn là hợp hiến hợp pháp nhất! Tôi nghe người ta kể tại thị xă Thái B́nh có mấy người xin đi tu, chờ đợi đă lâu mà chẳng được phép, bèn tổ chức ‘thụ giới chui’ ở một chùa nọ bị công an đến tóm cổ hết! Dưới chế độ cộng sản tất cả thượng vàng hạ cám đều do Nhà nước quản lư, nếu tư nhân muốn làm ǵ riêng phải làm lén lút, họ gọi là ‘làm chui’. Như những người vượt biên gọi là đi chui, bán phở lén gọi là bán chui, rồi đến đi tu cũng thụ giới chui! Những người muốn xuất gia làm tăng ni th́ như thế. C̣n thanh thiếu niên nam nữ ngoài đời th́ đoàn thể nào vào đoàn thể ấy rồi, nếu em nào lai vảng đến chùa th́ bị đoàn thể phê b́nh chế riễu, v́ thế chẳng em nào dám bén mảng đến chùa; câu ‘trẻ vui nhà già vui chùa’ được ứng dụng một cách triệt để? Như thế là ngoài đời cũng vậy, chỉ c̣n một số rất ít các cụ già trầm móm mém hơn bảy tám mươi thuộc lớp người cũ c̣n lại là được tự do tín ngưỡng đến chùa, những người ấy qua đời rồi th́ tín đồ tại gia cũng hết!
    Một em bé trai mười hai tuổi ở thị xă Thái B́nh chỉ thích đi tu, em thường đến chùa Kỳ Bá tụng kinh, có khi ở lại chùa mấy hôm liền. Tối đến công an vào chùa đuổi, em chui vào gầm giường hoặc trèo lên cây để trốn. Sau nhiều lần như thế, bố mẹ em được gọi lên Ty công an bảo phải đến chùa bắt em về và ra lệnh cho sư già ở chùa không được chứa chấp, nếu không nghe sẽ bị ‘xử lư’. Đó là âm mưu tiêu diệt mầm non của Phật giáo và cộng sản hy vọng trong ṿng năm mươi năm là Phật giáo sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn trên cả nước. Nhưng người xưa đă nói: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”; người Tây phương cũng có câu tương tự: “Man proposes, God disposes”, nghĩa là con người mưu tính là một chuyện, nhưng nên việc hay không th́ lại do trời. Mà thực vậy, bức tường Bá Linh đă sụp đổ, khối cộng sản Đông Âu và Liên Xô đă tan ră, cộng sản Việt Nam không c̣n đủ th́ giờ để thực hiện được việc đó nữa đâu. Thời đại ‘nhất đội nh́ trời’ không c̣n nữa và chủ nghĩa duy ư chí “thằng trời đứng ra một bên, để cho thủy lợi tiến lên thay trời” cũng chẳng c̣n giá trị ǵ nữa. Khối cộng sản Liên Xô sụp đổ cũng chỉ v́ thái độ kiêu căng ngạo mạn và ngông cuồng ấy. Nhà sử học Hy Lạp sống vào thế kỷ thứ năm trước Tây lịch là ông Herodotus đă nói: “Vận mệnh một chế độ chia làm ba giai đoạn: giai đoạn thứ nhất là thành công, giai đoạn thứ hai là kiêu căng, giai đoạn thứ ba là sụp đổ.”
    .................... .................... .................... .................... .................... .................... .................... ...

    (http://letungchau.blogspot.com/2009/...-cong-san.html)

  6. #536
    chuot_congus
    Khách
    Nghe con cháu đám được cho miếng bánh của nhà Ngô khen kinh tế thời Đệ I Cộng Hoà ,tui thấy hắn nên đi xem tiểu thuyết Quỳnh Dao có ích hơn .

    ----------

    Lâm Lể Trinh là bộ trưởng tư pháp mà c̣n đi hỏi Ngô Đ́nh Cẩn cách xử ..... luật .Đă vậy qua Mỹ viết tùm lum chiện ,tui thấy hắn hèn đủ ṛi .Hắn nên im cái mơ lại ,rất nhiều người biết chuyện vẩn c̣n sống .:D

  7. #537
    Member
    Join Date
    25-01-2011
    Posts
    4,929
    Quote Originally Posted by chuot_congus View Post
    Nghe con cháu đám được cho miếng bánh của nhà Ngô khen kinh tế thời Đệ I Cộng Hoà ,tui thấy hắn nên đi xem tiểu thuyết Quỳnh Dao có ích hơn .

    ----------

    Lâm Lể Trinh là bộ trưởng tư pháp mà c̣n đi hỏi Ngô Đ́nh Cẩn cách xử ..... luật .Đă vậy qua Mỹ viết tùm lum chiện ,tui thấy hắn hèn đủ ṛi .Hắn nên im cái mơ lại ,rất nhiều người biết chuyện vẩn c̣n sống .:D
    Dù chống đối hay bênh vực TT Diệm. Ai cũng phải công nhận thời đệ I cộng hoà có đ̣i sống kinh tế sung túc nhất. dân chúng ấm no hạnh phúc nhất .

  8. #538
    Member
    Join Date
    25-01-2011
    Posts
    4,929
    Quote Originally Posted by Cao Cầu View Post
    Chính cố đạo Ngô đ́nh Thục, tên ác quỷ sa tăng , đội lốt thầy tu nầy đă giết hàng vạn người trong 9 năm v́ cuồng tín, tham lam vô độ,
    Đố tên tiểu yêu nào trưng được bằng chứng là Giám Mục Thục ra lệnh giết hàng vạn người trong 9 năm

  9. #539
    Member
    Join Date
    25-01-2011
    Posts
    4,929

    Dành cho những ai tin rằng TT Diệm t́m cách tiêu diệt Phật Giáo.

    Quote Originally Posted by Cao Cầu View Post
    Nhà Ngô cai trị miền Nam trong 9 năm với năo trạng đại ngu dốt và sự cuồng tín một cách điên khùng, mê muội, đă âm mưu biến một xứ sở có truyền thống tam giáo, Phật, Nho, Lăo thành quốc gia Vatican thứ hai.

    Tội kỳ thị địa phương tôn giáo nơi Tổng Thống Diệm mới thực là ghê gớm
    .Cái lưỡi không xương vốn ảo diệu! Tác giả hồi kư Nguyễn Hữu Duệ đâu phải là người sĩ quan Phật Tử miền Bắc duy nhất được Bộ Tổng Tham Mưu và Phủ Tổng Thống trao trọng trách bảo vệ an ninh cho vị nguyên thủ quốc gia.Trước ông, các vị Tư lệnh Lữ Đoàn Liên Binh Pḥng vệ Phủ Tổng Thống tiền nhiệm trong thời Đệ Nhất Cộng Ḥa hầu hết là người miền Bắc và không phải là tín đồ Thiên Chúa Giáo. Tôi c̣n nhớ không sai chạy, Trung Tá Lê Ngọc Triển, quê quán Nam Định, Phật Giáo, là vị chỉ huy đơn vị đầu tiên của tôi trong mấy năm liền. Sau này ông là Thiếu Tướng Tham Mưu Phó Hành quân Bộ Tổng Tham Mưu. Ông là người tôi rất quí trọng. Thiếu Tướng Triển hiện đang vui thú điền viên tại Pomona-California c̣n khỏe và yêu đời. Tôi mới đến thăm ông bà hai tháng trước và hàn huyên với nhau đủ chuyện. Trước nữa là Trung Tá Hoàng Lạc quê quán Hưng Yên ,Phật Giáo ,hiện cư ngụ tại Houston-Texas .Trước 30-4-1975, ông là Thiếu Tướng tư lệnh phó Quân Đoàn 1. Xin nêu một trường hợp khác ,Trung Tá Cao Văn Viên ,giữa khoảng 1956-1960 đứng đầu cơ quan Tham Mưu Biệt Bộ Phủ Tổng Thống, phục vụ sát cạnh Tổng Thống Diệm đêm ngày. Sau này ông là Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH. Đại Tướng Cao Văn Viên cũng là Phật Tử thuần thành. Chưa hết, cũng thời Đệ Nhất Cộng Ḥa, Đại Tá Nguyễn Xuân Vinh Tư lệnh Binh chủng Không Quân là người miền Bắc ,Phật Giáo. Giáo Sư Vinh hiện ở San Jose-California. Rồi Đại Tà Huỳnh Hữu Hiền, người miền Nam, Phật Giáo,cư ngụ tại Houston-Texas cũng là Tư lệnh Không Quân giữa thời nhiễu nhương 1963. Ấy là chưa kể đến những cộng sự viên thân tín của Tổng Thống Diệm trong guồng máy hánh chính và ngay trong Dinh Gia long, Dinh Độc Lập.Tôi có thể kể mà không sợ nhầm lẫn:Ông Vơ Văn Hải, Chánh Văn Pḥng Tổng Thống không phải là con chiên của Chúa, cụ Đoàn Thêm, Phật Tử miền Bắc, cụ Quách Ṭng Đức Đổng Lư Văn Pḥng Phủ Tổng Thống, Phật Tử miền Nam. Rồi Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ ,người miền Nam, Phật Giáo .Nhờ chưa lú lẫn nên tôi c̣n nhớ một số nhân vật quan trọng,tiếng tăm. Xem vậy, quả la oan cho Tổng Thống Diệm và chính phủ của ông có tư tưởng và hành động kỳ thị tôn giáo địa phương. Tạm đủ thấy, trong thời Đệ Nhất Cộng Ḥa, những người tài đức, có lập trường quốc gia vững chắc, hết ḷng phục vụ quân đội, đất nước đều có cơ hội để tiến thân nắm giữ những chức vụ quan trọng,then chốt, không phân biệt địa phương tôn giáo.

    (http://viteuu.blogspot.com/2013/01/v...hong-vnch.html)

  10. #540
    Member
    Join Date
    25-01-2011
    Posts
    4,929

    Đôi ḍng nh́n lại Tổng thống VNCH Ngô Đ́nh Diệm .


    Về chánh trị, ông Diệm đưa miền Nam Việt nam từ một t́nh trạng sứ quân, với những thành phần vơ trang cai quản từng vùng, dựa vào tôn giáo như Cao Đài , Hoà Hảo...và vùng Saigon-Chợ Lớn là B́nh Xuyên của Bảy Viễn, trở thành một miền Nam Việt nam có tự do , dân chủ pháp trị, tương tự như của Hoa Kỳ, trước cả Singapore, Nam Hàn, Thái Lan, Phi Luật Tân và Đài Loan.”

    VỀ ƯU ĐIỂM .

    UY và ĐỨC .

    Như phần trên đă tŕnh bầy, ông Diệm là một người có học thức cao về Hán tự. Ông cũng đă từng đi nhiều nước ở châu Âu, và có một thời gian dài sống tại Hoa Kỳ. Nhưng nếp nhà, và nhất là thuở thiếu thời theo Nho học, nên ông rất trọng lễ nghĩa. Trong bài viết NHỚ LẠI NHỮNG ĐIỀU KHÓ QUÊN (được dẫn chứng phần cuối của nhà văn Hà thượng Nhân) có viết : “ Tổng thống Diệm có thể có những khuyết điểm, nhưng cái tâm v́ nước v́ dân của ông, tôi cho là thành, cái chí của ông tôi cho là lớn. ..

    Cũng trong bài ĐƯỜNG LỐI DIỆM NHU ĐƯỢC THỰC TẠI CHỨNG NGHIỆM LÀ ĐƯỜNG LỐI ĐÚNG, giáo sư Tôn thất Thiện viết:

    “.....Và điều quan trọng nhất mà có liên quan mật thiết đến “Cụ” và chế độ Đệ Nhất Cộng Hoà nói chung, là nếu năm 1954 không có “Cụ” đứng ra lănh đạo quốc gia th́ miền Nam đă mất vào tay cộng sản.....

    Cụ đă đem lại cho những quân nhân, cán bộ, chiến sĩ, nhân dân thời đó sự tin tuởng và hăng hái tranh đấu nên đă giữ được miền Nam, tạo dựng lên một quốc gia có qui củ và căn bản chính trị, kinh tế vững chắc, tạo điều kiện cho Đệ Nhị Cộng Hoà tồn tại một thời gian, sau khi “Cụ” bị sát hại.

    Nhưng hơn nữa, nhân dân miền Nam được tiêm nhiễm tinh thần tự do, và được đào tạo vững chắc về kinh tế, sau này có điều kiện cưỡng lại áp chế của cộng sản, dần dần buộc cộng sản phải bỏ ư đồ “caỉ tạo xă hội chủ nghĩa” nhân dân miền Nam.

    Cuối cùng, nhờ có t́nh trạng đảng cộng sản tuy thắng trận , nhưng đă bị yếu đi nhiều, không c̣n đủ khả năng đàn áp triệt để nữa, nên những ngựi cộng sản như Nguyễn Hộ, Trần Độ, Đỗ trung Hiếu, Lữ Phương, Hà sĩ Phu và bao nhiêu người khác nữa, mới có điều kiện lên tiếng công khai như ngày nay....”

    Dưới đây là bài viết của ông Phan đức Minh, đăng trên Việt nam nhật báo cuối tuần, tại SanJose, số 4912,phát hành ngày 29-10-2005 với tựa đề TẠI SAO CÓ CUỘC ĐẢO CHÁNH LẬT ĐỔ ÔNG NGÔ Đ̀NH DIỆM:

    “Những tháng giữa năm 1960, ông Diệm với tư cách Tổng thống và là Tổng tư lệnh Quân đội Việt nam Cộng hoà, đi thăm các Bộ Tư lệnh Quân khu 1,2 ,3.4 và Quân khu Thủ đô, để nói chuyện với các sĩ quan thuộc các Quân Binh chủng về một vấn đề vô cùng quan trọng: Người Mỹ muốn đổ các đơn vị tác chiến (Combatant Units) của họ vào lănh thổ Nam Việt nam đề đảm nhiệm vai tṛ chủ yếu trong công cuộc chiến đấu chống cộng sản trên chiến truờng này...

    Tại hội truờng Quân khu 1, Đà nẵng, trước mặt rất đông sĩ quan: Cấp Tướng, cấp Tá và cấp Úy, ông Diệm đă nói rơ ư chí cuả ông là, nhất định không chấp nhận cho người Mỹ đổ quân tác chiến vào Việt nam, mà chỉ chấp nhận vai tṛ của người Mỹ trong nhiệm vụ cố vấn và huấn luyện cho Quân đội Việt nam Cộng hoà.

    Ông nói: “Chúng ta cần có sự cố vấn và huấn luyện của Mỹ, chúng ta cần có sự viện trợ quân sự, kinh tế của người Mỹ, nhưng chúng ta không cần để cho người Mỹ chiến đấu thay thế chúng ta trong công cuộc bảo vệ quê hương, đất nước này. Cuộc chiến đấu này không thể đơn thuần giải quyết bằng sức mạnh của vũ khí chiến tranh, nhất là bằng một đạo quân viễn chinh từ một quốc gia khác kéo đến. Nếu người Mỹ làm việc đó, chúng ta sẽ mất hết chính nghiă, mất sự hậu thuẫn của nhân dân, tôi sẽ trở thành Tổng thống bù nh́n và anh em, các sĩ quan sẽ chỉ c̣n là những kẻ đánh thuê cho ngoại quốc...”

    Ông nói thật nhiều với tất cả tấm ḷng và trái tim của ông. Rồi ông kêu gọi tất cả các sĩ quan Quân đội Việt nam Cộng hoà đă từng nêu cao tinh thần anh dũng, can đảm trên mọi chiến trường khắp các vùng chiến thuật, hăy cùng ông bằng mọi giá, giữ vững lập trường, đi đúng đường lối lănh đạo chiến tranh bảo vệ tổ quốc mà ông đă vạch ra và quyết tâm theo đuổi, bất chấp mọi áp lực, bất cứ từ đâu đến,

    Những cánh tay dơ lên. Những tiếng hô vang làm rung chuyển cả Hội trựng Bộ Tư lệnh Quân đoàn 1-Quân khu 1: “Quyết tâm ủng hộ Tổng thống ! Quyết tâm giữ vững lập trường chiến đấu của TT để bảo vệ tổ quốc!”

    Lúc đó tôi chỉ là một chuẩn uư hiện dịch.........

    Tôi nh́n các sĩ quan đàn anh đứng chung quanh h́nh như ai nấy đều cảm thấy có một cái ǵ nặng nề, nguy hiểm đang đợi chờ vị Tổng thống khả kính và can đảm của ḿnh. Phải thành thực mà công nhận rằng vào thời gian đó, dưới sự lănh đạo của ông Diệm, quân đội ra quân đội, Tướng Tá ra Tướng Tá, Sĩ quan ra Sĩ quan, chứ không có hổ lốn, bát nháo như một số khá đông của những thời gian sau này, sau khi ông Diệm không c̣n nữa...

    Tôi không phải là người công giáo như ông Diệm, mà chỉ là quân nhân hiện dịch thuần tuư, nhưng cũng thấy mắt ḿnh nhoà đi. Tôi cầu xin Ơn Trên phù hộ , che chở cho ông, cũng như cho đất nước này...”

    Ngày 19-6-1960, đại sứ Mỹ tại Saigon Elbridge Durbrow, gưỉ cho ngoại truởng Mỹ Christian Herter ở Hoa thinh Đốn 1 điện văn mật, thông báo t́nh h́nh Saigon: Có thể có một cuộc đảo chánh nhằm lật đổ chính quyền của ông Diệm; trong khi đó, ở nông thôn, hoạt động của cộng sản gia tăng mạnh mẽ...

    Phần cuối bản văn kết thúc : “ Nếu thế đứng của ông Diệm tiếp tục giảm sút, không c̣n phù hợp với t́nh thế chính trị, tâm lư, kinh tế và an ninh tại đây nữa th́ có thể là điều mà chính phủ Hoa Kỳ cần tính đến những phương cách hành động và những người lănh đạo khác, hầu đạt đến mục tiêu của chúng ta....( If Diem’s positon in the country continues to deteriorate as result failure adopt proper political, psychological, economic and security measures, it may become necessary for US Government to begin consideration for alternative courses of action and leaders in order to achieve our objectives)

    Trong bài MỘT VỊ TỪ MẪU của giáo sư Nguyễn xuân Vinh,(người Việt nam đầu tiên được vào làm trong Cơ quan Không gian Hoa Kỳ NASA, trong công việc tính quĩ đạo để phóng phi thuyền, ông cũng vinh dự được giới thiệu vào Hàn Lâm Viện Quốc gia Hàng không và Không gian của Pháp. Trước ngày đi du học, ông đă từng làm Tư lệnh Không Quân QLVNCH).

    Ông viết:.....”Lúc tôi tới Dinh Độc lập, vào pḥng ngủ của Tổng thống, là nơi cụ thường ngồi ở một ghế bành lớn để hỏi công việc. Tôi đă thấy có ông Nguyễn đ́nh Thuần, lúc đó là Bộ trưởng Phủ Tổng thống và ông Hùynh hửu Nghĩa, Bộ trưởng Bộ Lao động. Ng̣ai ra c̣n có ông Hà Di, một nhiếp ảnh gia rất được Tổng thống thương yêu, và thường được đi theo chụp ảnh mỗi khi cụ công du. Thấy tôi vào, cụ nói mấy câu đại ư là tôi không được đi cùng để ra Huế dự lễ đại thọ của cụ cố, thân mẫu của Tổng thống, nên cụ gọi tới để cho xem những phim ảnh chụp.

    Những ảnh mẫu được ông Hà Di chiếu cho mọi người cùng coi trên màn ảnh đặt ở cuối buồng theo thứ tự diễn tiến của buổi lễ. Thân mẫu của Tổng thống ngồi ở một ghế bành, mặc áo mầu đỏ, tuy trông mệt mỏi, nhưng nét mặt c̣n tươi sáng. Một tấm ảnh làm tôi chú ư là lúc cả 5 người con trai của cụ cố thân mẫu là Đức Giám mục Ngô đ́nh Thục, Tổng thống Ngô đ́nh Diệm và các ông Ngô đ́nh Nhu, Ngô đ́nh Luyện và Ngô đ́nh Cẩn đều mặc áo thụng, qú rạp đầu làm lễ trước bà từ mẫu. Trông cảnh này thật là cảm động và là sự việc mấy trăm năm mới thấy có một lần ở nước ḿnh, v́ ít khi có bà mẹ nào sinh ra những người con mà lại đứng đầu cả bên đời và bên đạo.....”

    Những ḍng viết trên đă chứng minh ḷng hiếu thảo của ông Diệm. Dù là Tổng thống, ông vẫn “qú rạp đầu trước mặt mẹ”. Không như Hồ chí Minh , khi nắm quyền Chủ tịch nước rồi, trên 10 năm sau mới trở lại quê nhà.

    Ông Diệm được Quốc trưởng Bảo đại bổ nhiệm làm Thủ tướng, trong lúc Pháp chuẩn bị rút quân theo Hiệp định Geneve 20-7-1954. T́nh h́nh mọi mặt ở miền Nam đều nát bét.

    Về chính trị và Giáo dục:


    Ông Diệm đưa miền Nam Việt nam từ một t́nh trạng sứ quân, với những thành phần vơ trang cai quản từng vùng, dựa vào tôn giáo như Cao đài, Ḥa hảo và vùng Saigon-Chợ lớn là B́nh xuyên của Bẩy Viễn, trở thành một miền Nam Việt nam có tự do, dân chủ pháp trị, tương tự như của Hoa Kỳ, trước cả Singapore, Nam Hàn, Thái Lan, Phi luật tân, Đài Loan.

    Chính phủ Việt nam Cộng ḥa chia làm 3 ngành: hành pháp, lập pháp và tư pháp. Bầu Quốc hội lập hiến để thảo luận và thông qua hiến pháp. Ngành lập pháp soạn thảo những bộ luật mới. Mở rộng trường luật để đào tạo những người có khả năng trong ngành tư pháp. Mở Học viện Quốc gia hành chánh để đào tạo các công chức cao cấp trong guồng máy cai trị. Soạn thảo các chương tŕnh giảng dạy bằng tiếng Việt, thay thế các chương tŕnh tiếng Pháp trong các trường Y, Nha, Dược, Bách Khoa, Luật Khoa.

    Từ trước năm 1954. các trường ở ḿên Nam từ tiểu học trở lên đều học tiếng Pháp, v́ miền Nam là thuộc địa của thực dân Pháp.

    Ông Diệm cũng là người đă cho thiết lập thêm Viện Đại học Huế, rồi Đại học Đà Lạt, mặc dầu thời kỳ đó đă bị một số giáo sư có đầu óc thủ cựu của miền Nam cản trở.

    Mời bạn đọc theo dơi phần trích đoạn dưới đây của giáo sư Nguyễn ly Châu, trong bài MỘT CÔNG TR̀NH VĂN HÓA CỦA TỔNG TỐNG NGÔ Đ̀NH DIỆM:

    “...Tổng thống Ngô đ́nh Diệm đă rất hết ḷng trong việc thành lập Viện Đại học Huế, ông muốn mở mang Viện Đại học Huế theo tiêu chuẩn Đại học ngọai quốc mà ông đă có dịp đi qua....Sự quan tâm đặc biệt này đă làm cho một số giới chức Đại học Saigon bất b́nh, nhất là khi ông ra thăm Đại học Huế và đưa ra ư kiến mở thêm Đại học Y khoa.

    Giới Y khoa Saigon được tham khảo ư kiến, đă lên tiếng bác bỏ dự án lập thêm Đại học Y khoa, với lư luận : Cả nước Việt nam chỉ cần có một Đại học Y khoa là đủ lắm rồi....

    Sau 38 năm ngày thành lập (tính đến năm 1995) , Viện Đại học Huế, một Đại học công lập thứ 2 của quốc gia Việt nam đă góp phần hữu hiệu vào công cuộc phát huy văn hóa và đào tạo nhân tài cần thíêt cho việc xây dựng đất nước về mọi mặt, nhân dân miền Trung và đất nước Việt nam thành kính biết ơn những người sáng lập....”

    Về quân sự:

    Khi ông Diệm được vua Bảo Đại trao phó giữ chức Thủ tướng, quân đội miền Nam Việt nam chưa h́nh thành.

    Sau hiệp định Geneve tháng 7- 1954, phía Việt cộng ở miền Bắc, ngoài thành phần cố vấn Liên sô, Trung cộng, chúng đă tổ chức quân đội lên

    đến cấp sư đoàn và chia ra các quân khu. Đó là chưa kể nhiều sư đoàn và hàng chục ngàn cố vấn quân sự của Tàu cộng c̣n đóng tại miền bắc Bắc phần, sau khi chúng trực tiếp đánh vào đồn binh Pháp tại Điện biên.

    Bọn cố vấn Tàu ở lại để dạy cho bọn đầu trâu mặt ngựa cộng sản Việt nam cách thức “thăm bần, vấn khổ”, cách thức phân loại “địa chủ, phú nông, trí thức, tư sản” để đấu tố giết người. Cán bộ cố vấn Tàu hưởng chế độ “tiểu táo”, tức là Việt cộng chỉ định, cứ một cố vấn Tàu th́ một bộ đội Việt nam hầu , nấu ăn và hầu hạ, phục dịch cho quan thầy cố vấn. Đích thực là quân hầu, nhưng Việt cộng dùng chữ nghĩa cho giảm bớt tủi nhục của người hầu này bằng từ ngữ “anh nuôi”.

    Trong khi đó th́ miền Nam chỉ có cấp tiểu đoàn, do quân đội Pháp trước khi rút lui trao lại, và một đơn vị Ngự lâm quân, tương đương 1 trung đoàn.

    Song song với việc ổn định guồng máy cai trị, ông Diệm cho thành lập các Trung tâm huấn luyện quân sự để đào tạo binh sĩ cùng hạ sĩ quan, đồng thời mở rộng Trường vơ bị quốc gia ĐàLạt và Trường sĩ quan trừ bị Thủ đức với mục đích tăng cường sĩ quan hiện dịch và trừ bị để đối phó với âm mưu xâm lược của Việt cộng.

    Ông c̣n cho lập các Binh chủng chuyên môn để yểm trợ các đơn vị như Truyền tin, Công binh, Quân nhu, Quận cụ, Quân y. Chỉ trong 5 năm, miền Nam đă chia ra 4 vùng chíên thuật và mỗi vùng có một Quân đoàn.

    Để yểm trợ các nơi trọng yếu, ông cho thành lập các đơn vị Tổng trừ bị như Nhẩy dù, Thủy quân lục chiến, Biệt đông quân, Lực lượng đặc biệt, Thiết giáp, Công binh và Pháo binh . Song song với việc phát triển bộ binh, ông cũng cho thành lập các quân chủng Không quân, Hải quân. Ngoài ra c̣n lập Địa phương quân để đảm trách an ninh diện địa.

    Tổng thống Ngô đ́nh Diệm không những là người có tài về kinh tế, ông lại am hiểu về chiến lược quân sự. Trong bài viết khác của ông Tôn thất Đính, một tướng lănh đă lầm lỡ theo đám đảo chánh, và nay đă ăn năn , như tŕnh bày ở phần trên. Ông viết loạt bài tự sự T́nh Sông Nghĩa Biển.

    Ông viết:

    “Cuộc nói chuyện giữa Tổng thống, ông cố vấn Ngô đ́nh Nhu và tôi về chiến lược Cao nguyên đă diễn ra trong bầu không khí vừa trầm lặng, vừa thân mật...Nh́n vào bản đồ, Tổng thống Diệm nói như tiên tri:...

    Nếu tui mà mở cuộc tấn công th́ tui sẽ đánh vào Ban Mê Thuột, Kontum và Pleiku, tuy là cái đầu con Rồng nhưng cắt cái bụng th́ con Rồng cũng chết, mà lại dễ chết nữa! Rồi từ đó, ép cả 2 phía đầu đuôi. Kontum, Quảng đức và Cao nguyên sẽ lọt vào tay tui.

    Thấy địa lư Trường sơn, tui nghĩ Ban Mê Thuột là chỗ nhược, nên tui quyết định đưa các cơ quan Vùng về đây là để tạo ra một vị thế kiên cố, có thể thoát qua được cái nhược đó mà bảo vệ miền Nam của ḿnh. V́ nếu sau ni, cộng sản nó đánh ḿnh, th́ chúng sẽ thử ở Kontum trước và sau đó dồn toàn lực đánh vào Ban Mê Thuột, nếu chúng nó nghĩ ḿnh thiếu pḥng vệ ở đó. V́ rứa, tuy ḿnh dời quân khu về Pleiku để Mỹ hỗ trợ cho xây cái Đầu Rồng, ḿnh phải dốc lực bảo vệ cái bụng, khúc xương sống ở đây, để khỏi bị đánh gẫy.

    Sau đó Tổng thống Diệm c̣n nói:
    “Đính cần chi th́ nói tui cho, mọi việc luôn luôn bàn với chú Nhu cho kỹ, kẻo một khi Mỹ dính vào nhiều quá th́ ḿnh khó gỡ cho ra! Tuy nói là đồng minh, nhưng ai thiệt bụng với ḿnh, họ luôn luôn theo quyền lợi của họ. Đất nước ḿnh th́ ḿnh phải lo. Mỹ th́ cũng như Tây v́ họ là người phương Tây, không hiểu nước ḿnh và người ḿnh bằng ḿnh được! Nên tui nhắc là ḿnh phải cẩn thận trong mọi kế họạch hợp tác. Để cho họ nhiều quyền quá th́ họ cai trị ḿnh, c̣n chi là độc lập của ḿnh.”

    Ông Nhu tiếp lời:
    “Như Đính thấy, từ khi Mỹ chi viện cho ḿnh đến nay, họ đều sắp đặt đưa dần các cố vấn vào trong các cơ quan chính phủ. Có khác chi Tây mô, dù là dưới các danh xưng khác nhau! Les mêmes dénominateurs (cùng mẫu số chung), mặc dầu quyền lợi khác nhau, cách chi viện khác nhau, nhưng cũng chỉ là một lối cai trị...Đại sứ Mỹ cũng chỉ là một Thái thú như Tàu, một thứ Toàn quyền như Tây...Không phải chỉ v́ cộng sản Bắc Việt; v́ cộng sản Tàu mà Mỹ đang có chủ trương không để chúng tràn xuống Đông Nam Á, V́ thế, Việt nam có thể là một chiến trường tương lai để Mỹ ngăn chặn sự bành trướng của Bắc kinh.”

    (http://www.uminhcoc.com/forums/showthread.php?p=1188084)

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 13 users browsing this thread. (0 members and 13 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 11
    Last Post: 14-07-2012, 11:05 PM
  2. Replies: 57
    Last Post: 08-12-2011, 09:43 PM
  3. Replies: 3
    Last Post: 16-08-2011, 10:37 AM
  4. Replies: 1
    Last Post: 31-10-2010, 03:53 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •