LÊ DUẨN
Kỳ 4: Một di sản gây tranh cãi
Sau kết quả của điều gọi là “vụ án xét lại – chống Đảng”, cán cân quyền lực trong Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương Đảng nghiêng hẳn về phía ông Lê Duẩn.
Những người ủng hộ quan điểm của ông Lê Duẩn được đề bạt và trở thành một phần quan trọng trong cơ cấu lãnh đạo.
Các đồng minh
Sự trợ giúp mà ông Lê Duẩn nhận được từ ông Lê Đức Thọ trong suốt tiến trình thâu tóm quyền lực là vô cùng quan trọng.
Tham gia cách mạng từ những năm 1920, ông Lê Đức Thọ trải qua nhiều năm trong tù. Khi được thả năm 1945, ông được gửi vào miền Nam và làm phó cho ông Duẩn trong suốt giai đoạn xung đột giữa Việt Minh và Pháp. Quan hệ giữa hai người này sẽ có một ảnh hưởng sâu sắc trong đảng. Khi ông Lê Duẩn trở thành Tổng Bí thư, ông Lê Đức Thọ được cử làm Trưởng ban Tổ chức Trung ương, một vị trí mà theo William Duiker, được nhanh chóng “biến thành bộ máy hiệu quả để điều tra và kiểm soát các đảng viên.”
Pierre Asselin nói thêm rằng ông Lê Duẩn “không thể củng cố uy quyền một cách hiệu quả như đã làm nếu không có sự ủng hộ của ông Lê Đức Thọ; sự trung thành và trợ giúp của người này tỏ ra cần thiết để thanh lọc ban lãnh đạo ở Hà Nội.”
Một người đóng vai trò lớn trong cuộc chiến Việt Nam là đại tướng Nguyễn Chí Thanh. Cho đến giữa thập niên 1960, miền Bắc chỉ có hai đại tướng bốn sao là ông Vơ Nguyên Giáp (Bộ trưởng quốc pḥng kiêm Tổng tư lệnh) và ông Nguyễn Chí Thanh (Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị).
Một số chuyên gia nước ngoài như Douglas Pike đã ghi nhận sự cạnh tranh và khác biệt trong tư tưởng quân sự giữa hai vị tướng này.
Ông Lê Đức Thọ được xem là đồng minh thân cận nhất của ông Lê Duẩn
Trong một bài viết năm 1966, tướng Giáp nói cuộc xung đột ở miền Nam là một cuộc chiến kéo dài và rằng chiến lược quân sự có thể mất nhiều năm để đạt thắng lợi. Ông nói ông không tin vào “các trận đánh sử dụng đơn vị chính quy lớn vì điều này có lợi cho chiến lược của kẻ thù.”
Tướng Thanh ngay lập tức có phản ứng. Trong bài viết đăng ở tạp chí Học Tập, tướng Thanh cho rằng chiến lược tấn công ở miền Nam là con đường đúng dẫn đến thắng lợi và nói thêm rằng lập luận của những người chỉ trích là “không logich.”
Một trong những lý do đưa ông Lê Duẩn và ông Nguyễn Chí Thanh trở thành đồng minh gần gũi là vì ngay từ đầu, hai người cùng quan điểm rằng con đường dẫn đến thắng lợi ở miền Nam phụ thuộc vào quân sự.
Gần đây hơn, trong bài viết năm 2002 về vai trò của những người gốc miền Nam trong cuộc chiến mang tựa đề “Why the South Won the American War in Vietnam,” Robert Brigham ghi nhận tướng Giáp “từ lâu đã chỉ trích tư tưởng quân sự của tướng Thanh, và ông công khai bày tỏ nghi ngờ về hiệu quả của chiến lược tấn công của tướng Thanh...Ông Võ Nguyên Giáp ngày càng trở nên thận trọng và thực tiễn trong cuộc chiến chống Mỹ. Một số người nói điều này rốt cuộc khiến ông đánh mất uy quyền chính trị.”
Ông Lê Duẩn hiểu rằng việc giảm uy thế của tướng Giáp có thể tạo ra chỉ trích và chống đối. Vì thế, nói như lời của chuyên gia Pierre Asselin, “bằng cách đề bạt và tạo điều kiện cho sự nghiệp của tướng Nguyễn Chí Thanh, ông Lê Duẩn thành công trong việc tạo nên một thần tượng mới trong quân đội.”
Mặc dù đại tướng Nguyễn Chí Thanh qua đời đột ngột năm 1967, nhưng quan điểm của ông, rằng cuộc chiến nhân dân không thể thắng lợi nếu thiếu hỗ trợ của các đơn vị chính quy lớn, tiếp tục giữ ảnh hưởng ở Hà Nội. Từ cuối 1965 đến khi chiến tranh kết thúc năm 1975, ngày càng nhiều các sư đoàn bộ binh chính quy được đưa từ miền Bắc vào Nam.
Bằng cách giảm ảnh hưởng của những người như ông Hồ Chí Minh và tướng Giáp, và đề bạt những người trung thành, ông Lê Duẩn đã tạo ra một cơ cấu lãnh đạo mà những niềm tin và nguyên tắc lãnh đạo của nó để lại ảnh hưởng sâu sắc ở Việt Nam.
Thời hậu chiến
Cuối năm 1976, tại Đại hội Bốn, Đảng Lao động Việt Nam đổi tên thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ông Lê Duẩn tái đắc cử chức Tổng Bí thư . Bộ Chính trị gồm 14 ủy viên chính thức: Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng, Lê Đức Thọ, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Duy Trinh, Lê Thanh Nghị, Trần Quốc Hoàn, Văn Tiến Dũng, Lê Văn Lương, Nguyễn Văn Linh, Võ Chí Công và Chu Huy Mân. Ba ủy viên dự khuyết là Tố Hữu, Võ Văn Kiệt và Đỗ Mười.
Nói về những người cộng sản giai đoạn hòa bình lập lại, David Elliott, trong quyển sách được đánh giá cao The Vietnamese War (2003), nhận xét những thành viên cách mạng còn sống đến phút cuối cuộc chiến “thường là những người cứng rắn, giáo điều và tin tưởng tuyệt đối vào cách mạng. Nhưng đây không phải lúc nào cũng là những người đủ khả năng đưa VN đi tiếp trên đường phát triển.”
Sau chiến thắng là những khó khăn thời hậu chiến
“Họ đã từng thể hiện sự dũng cảm phi thường, thậm chí anh hùng. Nhưng họ cũng đã học những thói quen để sống còn mà giờ đây kiềm chế sự phát triển của một hệ thống cởi mở hơn thời hậu chiến...Quan trọng nhất, niềm tin rằng phong trào cách mạng quan trọng hơn mọi quyền lợi cá nhân đã dẫn tới sự coi thường quyền và lợi ích của nhân dân, và thường trở thành cớ cho việc lạm dụng quyền lực của những cán bộ, những người coi thường quy tắc pháp trị tư sản và cho rằng mục tiêu cách mạng có thể biện minh cho phương pháp.”
Pierre Asselin, trong tiểu luận về Lê Duẩn, đã nói thay nhiều người khi cho rằng “dưới thời Lê Duẩn, ít thay đổi tích cực nào xảy ra ở Việt Nam giai đoạn sau khi thống nhất.”
Tháng Bảy năm 1986, trước lúc diễn ra Đại hội Đảng lần thứ Sáu, ông Lê Duẩn qua đời. Sự ra đi này mở cánh cửa cho quan hệ gần hơn với Bắc Kinh – do ông Lê Duẩn sau này đã trở thành biểu tượng của sự không đồng thuận về nhiều điểm với Trung Quốc – và sau đó, với các chính phủ Tây phương, trong đó có Mỹ.
Cũng từ 1986, việc đề cử ông Nguyễn Văn Linh lên làm tân Tổng Bí thư, và chính sách Đổi mới, đã đánh dấu sự chấm dứt của thời kì lãnh đạo đất nước kiểu Stalin ở Việt Nam.
Ở đây, những thay đổi ngay sau năm 1986 ở Việt Nam cũng có thể được xem là tương tự giai đoạn “tan băng” ở Liên Xô sau khi Stalin qua đời, hơn là giống quá trình perestroika đang diễn ra khi đó dưới thời Gorbachev.
Một tác giả, Seweryn Bialer, viết về Liên Xô giai đoạn sau khi Stalin qua đời và Khrushchev lên kế nhiệm: “Đó là giai đoạn xôn xao, có phản ứng sẵn sàng hơn trước các sức ép cả có thật lẫn được mong chờ, một giai đoạn có tiềm năng cho phép nới rộng sự tham gia chính trị. Sự kế nhiệm, bên cạnh tầm quan trọng tự nhiên của nó, cũng là chất xúc tác cho các sức ép và khuynh hướng vốn từ lâu tồn tại bên trong xã hội nhưng đã không có cơ hội được bày tỏ và nhận diện.” Những diễn biến ở Việt Nam sau khi ông Lê Duẩn qua đời gần với những gì đã xảy ra sau cái chết của Stalin hơn là thời Gorbachev.
Niềm tin rằng phong trào cách mạng quan trọng hơn quyền lợi cá nhân dẫn tới sự coi thường quyền và lợi ích của nhân dân.
David Elliott, trích trong quyển The Vietnamese War
Giai đoạn nắm quyền của ông Nguyễn Văn Linh, giống như thời Khrushchev, cũng chấm dứt đột ngột để Đảng có thể bổ nhiệm một lãnh đạo khác ít “cấp tiến” hơn, thận trọng hơn.
Có thể đánh giá thế nào về cuộc đời và di sản của ông Lê Duẩn?
Với cương vị Tổng Bí thư, vai trò chính của ông Lê Duẩn cần được thừa nhận trong những quyết sách của Đảng Cộng sản trong cuộc chiến Việt Nam.
Mặc dù miền Bắc đã nhận nhiều viện trợ của Liên Xô và Trung Quốc, các nghiên cứu gần đây – như của Ilya Gaiduk, Chen Jian, Mari Olsen – cho thấy Hà Nội duy trì sự tự chủ trong cách tiến hành chiến tranh chống Mỹ. Tư liệu mới cho thấy trong từng thời kì, cả Bắc Kinh, Moscow và Hà Nội đều có sự bực bội và nghi ngờ lẫn nhau. Dưới thời ông Lê Duẩn, Đảng Cộng sản hợp tác với Liên Xô và Trung Quốc để đạt mục tiêu, nhưng không phải là con rối trong tay hai cường quốc.
Các tài liệu chính thống ở Việt Nam hiện nay đều dành sự ca ngợi vẹn toàn cho ông. Tuy nhiên, ẩn đằng sau những hàng chữ chính thống ấy còn là những sự tế nhị khác.
Cuối những năm 90, có quyển hồi ký của ông Trần Quỳnh – nguyên thư ký riêng của ông Lê Duẩn và sau này là Phó Thủ tướng.
Tập sách này không được lưu hành chính thức. Nội dung sách hoàn toàn ca ngợi ông Lê Duẩn, nhưng có thể cũng chính vì giọng văn quá ca ngợi này, cuốn sách – vô tình hay cố ý – đã khơi lại những tình cảm u uất trong nhiều người. Đáng lưu ý, tác giả nói một mục đích khi viết sách là để chống lại hành động “làm lu mờ bôi nhọ h́nh ảnh của Lê Duẩn.”
Nếu quả thật, như ông Trần Quỳnh cáo buộc, rằng “sau khi Lê Duẩn qua đời, những người lănh đạo đất nước, những người trước đó đă ca ngợi Lê Duẩn, không dám hé răng nói một lời xấu về Lê Duẩn, đă cố ư hay vô t́nh để cho chiến dịch bôi nhọ và phủ định Lê Duẩn ngày càng qui mô hơn,” thì là vì sao?
Trong giai đoạn làm Tổng Bí thư, ông Lê Duẩn có kẻ thù ở hầu khắp mọi nơi. Vì thế, như chuyên gia Pierre Asselin chỉ ra, sự nghi ngờ của ông Lê Duẩn lớn đến mức ông “dựa vào chỉ một vài cá nhân trong việc tìm lời khuyên và chuyên môn.” Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà từ 1986, công thức cân bằng vùng miền (Bắc – Trung – Nam) đã được dùng khi xét đến ba vị trí lãnh đạo nhà nước ở Việt Nam. Những bất mãn về sự tập trung quyền lực trong tay vài người đã là một trong các nguyên nhân dẫn tới việc phân bổ quyền lực rộng hơn sau 1986.
Stein Tonnesson, trong lời giới thiệu cho tư liệu “Lê Duẩn and the Break with China” (2001), nhận xét ông Lê Duẩn “là lãnh đạo có quyền lực lớn thứ hai ở Việt Nam trong thế kỷ 20.” Quyền lực ấy đã được sử dụng thế nào có lẽ là câu hỏi lớn mà bất kì nghiên cứu nào trong tương lai đều sẽ muốn tìm một câu trả lời đầy đủ.
Bookmarks