Đầu năm nói chuyện… tham nhũng & hối lộ
http://chinhhoiuc.blogspot.com/2014/...ng-hoi-lo.html
https://nuocnha.blogspot.com/2019/02...ng-hoi-lo.html
Thứ Hai, 13 tháng 1, 2014
Tham nhũng & hối lộ
Không phải là t́nh cờ mà tôi chọn đề tài “tham nhũng & hối lộ” để khai bút muộn, mừng năm mới 2014. Thay v́ những đề tài nhẹ nhàng, vui vẻ hơn, tôi chào đón năm 2014 với một vấn đề gây bức xúc trên toàn thế giới từ bấy lâu nay đến độ Liên Hiệp Quốc phải vào cuộc. Ngày 31/10/2003 tổ chức quốc tế này đă thông qua Nghị quết 58/4 với tên gọi “Công ước Liên Hiệp Quốc pḥng chống tham nhũng” có nguyên gốc tiếng Anh là United Nations Convention Against Corruption, được viết tắt là UNCAC.
Hiệp ước có hiệu lực từ ngày 14/12/2005, sau khi hội đủ 30 quốc gia đầu tiên phê chuẩn. Tính đến ngày 1/7/2009, đă có 140 chữ kư phê chuẩn, chấp nhận và chấp thuận của 136 quốc gia. Gần đây nhất là Việt Nam cũng đă phê chuẩn UNCAC vào ngày 19/8/2009.
Để chống lại tham nhũng, công ước quy định những quy ước và chuẩn mực chung về các vấn đề chính bao gồm:
Công tác pḥng chống tham nhũng;
H́nh sự hóa tội phạm tham nhũng;
Thu hồi tài sản bị thất thoát và
Hợp tác quốc tế và hỗ trợ kỹ thuật.
Mối tương quan giữa tham nhũng và hối lộ
Tham nhũng và hối lộ luôn luôn “đồng hành” như h́nh với bóng nhưng lại có hai phạm trù riêng biệt: một bên “đưa” và một bên “nhận”, người có chức, có quyền mới tham nhũng và những kẻ yếu thế hơn mới đưa hối lộ. Hiện tượng này xảy ra trên khắp thế giới, ở cả các nước giàu cũng như nghèo, tiến bộ cũng như chậm tiến. Tham nhũng và hối lộ cũng diễn ra vào bất cứ thời đại nào, từ cổ chí kim, nhưng chưa ai có thể xác định tệ nạn này bắt đầu từ đâu và từ bao giờ.
Học giả Vương Hồng Sển[*] đă viết trong tác phẩm Hơn nửa đời hư như sau: “Hối lộ là một độc dược thâm căn cố đế, mọc gốc mọc rễ từ nhiều đời, không biết Đông có trước hay Tây có trước, duy biết nay đă tràn đồng, nước nào cũng có, đời nào cũng có, dây dưa thời b́nh như thời loạn, lúc thạnh như lúc suy…”
Hối lộ c̣n được gọi qua những từ ngữ khác như măi lộ, đút lót… là hành vi đưa tiền, hoặc vật phẩm có giá trị, hoặc những thứ khác khiến cho người nhận cảm thấy hài ḷng. Từ đó, người nhận hối lộ sẽ giúp đỡ người hối lộ qua h́nh thức thực hiện các hành vi trái pháp luật, trái lương tâm hoặc làm hại đến người khác.
Đặc điểm chung, người nhận thường là những người có khả năng ảnh hưởng hoặc chi phối đến người khác hay công việc khác. Tiền là thứ phổ biến nhất để hối lộ. Thời phong kiến, người ta c̣n dùng vàng, bạc, ngọc ngà, châu báu hoặc của ngon vật lạ để mua chuộc cảm t́nh của người có chức, có quyền.
Người ta thường nói đến “bổng lộc” của các quan chức. Chữ “bổng” luôn đi kèm chữ “lộc”, một đằng là tiền lương chính thức nhận được và một đằng là lộc “của trời cho”. Theo quan niệm xưa, cái lộc đó đến một cách tự nhiên nhưng những ai đ̣i lộc về ḿnh tức là đă đ̣i của hối lộ.
Trong Chuyện đời xưa, Trương Vĩnh Kư có kể chuyện nhờ đút sáp cho cọp ăn mà khỏi chết. Chuyện được diễn trong tuồng hát bội, anh hề kể lại, “Ư cha chả! Hôm trước tao đi ăn ong về, gặp ông cọp, tưởng đă xong đời rồi… cũng may, tao có vác một bó sáp trên vai, tao mới chàng hảng ra, tao đút sáp ra đằng sau, ổng chạy theo ổng táp, mắc nhai sáp, tao chạy thoát…”.
Câu chuyện chỉ có vậy nhưng quả là thâm thúy. Ăn đàng sau tức ăn dưới trôn. Đi làm một chuyện ǵ, tỉ như nay ta đi làm áp phe, giả cớ gọi đi… ăn ong. Quan th́ gọi ổng nầy ổng kia và muốn cho ổng ăn cứ chàng hảng ra, đút cái ấy dưới háng ổng vẫn táp như thường!
Thời Pháp thuộc, có những viên chức trọn một đời làm công bộc không nhận của hối lộ, đến khi trở về già sống trong cảnh thanh bần mà vẫn vui v́ lương tâm thanh thản. Nhưng cũng có những người thấy bạn đồng liêu đă từng nhận tiền “ĺ x́” nay vợ con đều ấm no, sung sướng, bất giác than thở: “Phải chi ḿnh cũng làm như họ th́ giờ đây đă khác!”.
Đối với những người đă hối tiếc không ăn của hối lộ lúc c̣n tại chức, Vương Hồng Sển đă đưa ra một nhận xét: “Một lời nói khiến bao nhiêu tiếng thơm trong sạch đều trôi sông trôi biển, v́ xă hội có thể tha thứ một con điếm ăn năn, nhưng vẫn không dung một ông quan ưa ăn vụng”.
Tác giả Hơn nửa đời hư kể lại chuyện trước đây, lúc Nam Kỳ c̣n hội đồng Quản hạt, trong một phiên nhóm đại hội, De la Chevrotière là quan thực dân hạng nặng, công kích hàng phủ, hàng huyện và mấy ông thông phán toà án, rằng họ ăn lương không bao nhiêu mà ông nào cũng có ruộng, có vườn, có nhà lầu, xe hơi, trong khi đó, các quan toà, quan chánh án Pháp về hưu nghèo khổ.
Chevrotière đang ngon trớn th́ một viên chức người bản xứ, ông Nguyễn Phan Long, đứng dậy, ông nói chỉ một câu mà quan thực dân phải ngồi xuống v́ bẽ mặt: “Xin lỗi, danh từ “pot-de-vin” phải chăng người gô-loa có sẵn? Chớ phải nào của ông cha chúng tôi bày đặt!”.
Người Pháp dùng danh từ “pot-de-vin”, hiểu theo nghĩa đen là hũ rượu nhưng nghĩa bóng là hối lộ v́ theo tích xưa, người Pháp có việc dâng rượu nguyên hũ, nguyên ṿ để mua chuộc ḷng người.
Tham nhũng & Hối lộ = Tù tội
Tại Việt Nam dưới thời Pháp thuộc Sở Thuế Thân là nơi “ngon lành” nhất và no đủ nhất: nếu chỉ tính ở một địa phương có 20.000 dân đinh đến tuổi chịu thuế, chỉ cần một nửa số “biết điều”, mỗi đầu người chỉ cần “ăn” 5 cắc là một năm các quan chức có thể kiếm được 50.000 đồng!
Sở Hành Chánh cũng quan trọng không kém và “ăn” cũng không ít. Các ông hương chức muốn được vinh thăng huyện hàm, phú hàm, hoặc muốn tiến cử làm hội đồng tỉnh hay cử làm sung biện, ban biện, phó tổng đều phải đội mâm “có sấp nhiều bộ lư” hoặc “cỡi voi” đến nói chuyện… Lư và voi là giấy bạc một trăm thời Pháp thuộc.
Vương Hồng Sển nói về một ông chánh án người Pháp, tên Bernard, trước kia có vợ Việt c̣n “ăn” một cách công khai, trắng trợn:
“Ông có sắm một chiếc tam bản cho lính chèo để dành rước từ bên sông mé chợ những ai muốn sang sông qua “nói chuyện” với ngài th́ khỏi tốn tiền đ̣, và ngài nhận lễ tại trong dinh cho thêm phần kín đáo… Ngài mập cho đến mặt bàn phải khoét lỗ chứa cái bụng nước lèo ngài mới với kư tên tới mặt giấy tờ, khi đi tiêu phải dùng khăn bàn lông kéo như kéo đờn c̣ chớ tay ngài với không tới trôn, và khi lên thang lầu phải có hai tên tuỳ phái đỡ cái bụng phệ nâng lên th́ ngài mới bước lên nấc thang được, y như trên sân khấu lúc Đổng Trác bước lên xe loan hay lên ngai rồng…”
H́nh ảnh ông chánh Barnard với cái bụng thuộc loại “thùng nước lèo” khiến ta liên tưởng tới một quan chức người Mỹ của hăng Apple ngày nay, ông ấy cũng có “một cái bụng thật tốt”. Đó là Paul Shin Devine, người đă nhận tiền hối lộ lên đến một triệu đô la của các công ty châu Á chuyên cung cấp thiết bị cho Apple.
Chính công ty Apple đă khởi đơn kiện, FBI (Cục điều tra liên bang) và IRS (Sở thuế vụ) đă vào cuộc để phanh phui “người tốt bụng” đă nuốt đến hơn 1 triệu USD và rất nhiều món quà hối lộ có giá trị khác.
“Người tốt bụng” Paul Shin Devine
Cũng vẫn chuyện nước Mỹ nhưng lại có liên quan đến Việt Nam. Michael T. Sestak đă từng là viên chức đứng đầu bộ phận cấp thị thực (visa) tại Lănh sự quán Mỹ tại Sài G̣n từ tháng 8/2010 tới 9/2012.
Theo hăng AP, đưa tin ngày 5/11/2013, Sestak đă thú nhận một số tiền hối lộ lên đến 3 triệu đô la, gấp 3 lần Paul Shin Devine, dĩ nhiên là tiền đó của người Việt Nam xin visa vào Mỹ. Sestak chỉ mới 42 tuổi và anh chàng này cũng đă đồng ư trả lại tiền thu được do phạm tội, trong đó có tiền bán 9 cơ ngơi đă từng mua ở Thái Lan, và có nguy cơ đối mặt với án phạt tù từ 19-24 năm.
Cựu nhân viên lănh sự quán này nhận tiền bán visa qua tài khoản của một ngân hàng Trung Quốc, rồi lại chuyển qua tài khoản mà anh ta bí mật mở ở Thái Lan. Sestak bị bắt vào tháng 5/2013 ở nam California.
Trước đó, ba đồng phạm của Sestak là Binh Vo, 39 tuổi, và em gái Hong Vo, 27 tuổi, cùng Truc Tranh Huynh, 29 tuổi, lần lượt bị cảnh sát Mỹ bắt giữ vào tháng 9, tháng 5 và tháng 6. Ngoài ra, các công tố viên c̣n xác định một nghi phạm khác là Anhdao Thuy Nguyen, hay Alice Nguyen, vợ của Binh Vo, trong đường dây gian lận visa này.
Cũng theo AP, những người Việt xin cấp thị thực vào Mỹ đă phải trả từ 15.000-70.000 USD và theo các nhân viên điều tra, có ít nhất 500 đơn xin visa gian lận đă qua tay Sestak. Từ ngày 1/5 đến ngày 6/9/2012, lănh sự quán Mỹ tiếp nhận 31.386 hồ sơ xin visa phi di dân và từ chối 35,1%. Trong số đó, Sestak xử lư 5.489 đơn xin visa và chỉ từ chối 8,2%.
Thế mới biết, dân Việt nói chung th́ rất nghèo nhưng một thiểu số “đại gia”, cả xanh lẫn đỏ, vẫn thừa đô la xanh để mua đứt Sestak.
Cựu nhân viên Lănh sự quán Mỹ tại Sài G̣n, Michael T. Sestak
(Ảnh Usconsulate.gov)
Người Mỹ dùng từ ngữ “bribery” để chỉ hành động hối lộ. Họ c̣n dùng tiếng lóng “kickback” để chỉ “tiền hoa hồng”, nói theo kiểu miền Bắc là “tiền lại quả”, hay nói chung là tiền hối lộ qua h́nh thức “under the table” trong cuộc thương lượng ngầm.
Câu thuyện “thương lượng ngầm” tai tiếng nhất giữa Úc và Việt Nam xảy ra năm 2002 khi Việt Nam chuyển qua dùng tiền in trên nhựa polymer thay v́ trên giấy thường. Securency, một công ty Úc, trong đó Ngân hàng Trung ương Úc nắm 50% cổ phần, đă giành được hợp đồng in tiền béo bở này.
Thế nhưng gần đây, nhật báo Úc The Age đă tiết lộ rằng công ty Úc đă dành được hợp đồng nói trên nhờ tung ra hàng triệu đô la để hối lộ tại Việt Nam có dính líu đến quan chức nhà nước của cả hai bên. The Age nêu rơ tính danh một doanh nhân Việt Nam là trung tâm điểm của vụ tham nhũng lên đến hơn 12 triệu đô la Úc, tương đương với gần 11 triệu đô la Mỹ. Nhân vật này là ông Lương Ngọc Anh, Tổng giám đốc Công ty Phát triển Công nghệ CFTD ở Hà Nội.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Ngay từ năm 2007, khi vụ hối lộ này bắt đầu thu hút sự chú ư của dư luận, Công ty Securency từng khẳng định là chỉ thuê công ty Công ty Phát triển Công nghệ CFTD ở Hà Nội làm “một số công việc biên dịch và phiên dịch, cũng như giúp liên lạc với Ngân Hàng Nhà nước Việt Nam'”.
Câu hỏi đặt ra là nếu danh chính ngôn thuận như thế th́ tại sao số tiền thù lao cho ông Lương Ngọc Anh và Công Ty CFTD ở Hà Nội lại cao đến thế, và nhất là lại được chuyển vào các tài khoản ở ngoài Việt Nam. Theo báo The Age, cả Công ty Securency lẫn Ngân Hàng Trung ương Úc đều từ chối giải thích.
Ngoài Lương Ngọc Anh, một số quan chức Úc có liên quan đến vụ in tiền polymer gồm bà E. Masamune (viên chức cao cấp Austrade), David Twine (Giám đốc Đông Nam Á của Austrade), Vipin Khanma (tay lái súng ở Ấn Độ), và Cliff Gerathy (Giám đốc Điều hành Securency).
H́nh minh họa vụ Securency trên báo The Age
Gần đây nhất, nhân vật đă khiến báo chí trong và ngoài nước tốn không ít giấy mực là Dương Chí Dũng, nguyên Cục trưởng Cục hàng hải Việt Nam, nguyên Chủ tịch Hội đồng Thành viên Tổng công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines), Ủy viên Thường vụ Đảng ủy khối doanh nghiệp Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, đại biểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam XI toàn quốc.
Trong phiên xử sơ thẩm ngày 16/12/2013 Dương Chí Dũng bị tuyên án tử h́nh về tội tham ô, 28 năm tù về tội “cố ư làm trái quy định của Nhà nước về quản lư kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”. Vụ xử này được báo chí quốc tế nhiều hăng thông tấn, báo chí lớn của nước ngoài đều đưa tin và nhận định bản án tử h́nh dành cho ông này là một nỗ lực của Việt Nam trong cuộc chiến chống tham nhũng.
Dương Chí Dũng là con trai của ông Dương Khắc Thụ, nguyên Đại tá Giám đốc Công an Thành phố Hải Pḥng trong thập niên 1970-1980. Các anh em của Dương Chí Dũng đều công tác tại Công an Thành phố Hải pḥng. Em trai là Đại tá Dương Tự Trọng từng giữ chức vụ Phó Giám đốc CA Hải Pḥng, sau đó được thăng cấp lên Cục phó Cục Cảnh sát Quản lí Hành chính về trật tự xă hội và em rể, Nguyễn Bỉnh Kiên, nguyên Phó Giám đốc Công an TP Hải Pḥng, em gái là Băng Tâm cũng thuộc Công an PC 25 Hải Pḥng.
Trước khi làm lănh đạo Vinalines, Dương Chí Dũng đă từng quản lư Tổng Công ty Xây dựng Đường thủy (Vinawaco), một đơn vị bị thua lỗ nặng. Ông Dũng được bổ nhiệm chức Tổng giám đốc Vinalines từ tháng 8/2005 đến tháng 7/2011, ông c̣n được bổ nhiệm giữ chức Chủ tịch Hội đồng quản trị tổng công ty này.
Cục Cảnh sát pḥng chống tham nhũng đă phát hiện những sai phạm trong việc thực hiện lắp đặt ụ nổi thuộc dự án nhà máy sửa chữa tàu biển Vinalines phía nam. Tháng 2/2012, Cơ quan cảnh sát điều tra quyết định khởi tố bắt tạm giam 4 bị can có liên quan đến hành vi tham ô tài sản. Trong số này có Trần Hải Sơn - Tổng giám đốc Công ty TNHH sửa chữa tàu biển Vinalines.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Dương Chí Dũng (giữa) và 9 đồng phạm trong vụ đại án tham nhũng ở Vinalines
(Ảnh TTXVN)
Các h́nh thức đưa và nhận hối lộ truyền thống ngày nay c̣n có những biến tướng khó lường. Người ta muốn nói đến h́nh thức hối lộ “phi vật chất”, chẳng hạn như “hối lộ t́nh dục”, người đưa hối lộ bằng cách phục vụ t́nh dục để mong đạt được lợi ích. Một cô gái trẻ thích hào quang của thế giới showbiz chọn con đường sẵn sàng hiến dâng thân xác cho một ông bầu show tên tuổi để đạt được “tham vọng”.
Người ta cũng có thể hối lộ bằng cách cung cấp thông tin cho “sếp” để mưu cầu lợi ích cá nhân, người nhận hối lộ cũng nhận được lợi ích từ thông tin được cung cấp, chẳng hạn như tiết lộ bí mật thương mại trong cạnh tranh, thông tin “mật” về các vụ án hoặc các tin tức về thăng quan tiến chức, thuyên chuyển hoặc “giảm biên chế”…
C̣n có một h́nh thức khác, tạm gọi là “hối lộ thành tích” giữa cấp trên và cấp dưới trong cùng hệ thống, cùng ngành. Người đưa hối lộ cố ư chuyển thành tích công việc của ḿnh cho cấp trên hưởng lợi hoặc có trường hợp cấp trên muốn được thăng chức cao hơn nên cố ư chiếm thành tích của nhân viên. Thường th́ khi được thăng chức cao hơn, cấp trên sẽ điều động cấp dưới lên vị trí cao hơn, có lợi hơn, và như vậy việc tham nhũng-hối lộ được dựa trên nguyên tắc… hai bên cùng có lợi.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Phong b́ hối lộ
Bài quá dài, phải cắt bớt
Hành vi tặng quà tết nhằm mục đích hối lộ vẫn xảy ra ngày càng mạnh mẽ hơn đang gây tổn hại lớn hơn. Có khi nó c̣n là hành động “ăn cắp” một cách trắng trợn qua việc mua chuộc và tham ô tiền bạc và tài sản của người khác.
Một nghiên cứu cho thấy số người sử dụng phong b́ trong dịch vụ y tế tăng gấp đôi trong ṿng ba năm, từ 13% (năm 2007) lên đến 29% (năm 2010). Năm 2012, kết quả cuộc khảo sát được công bố bởi Ngân hàng Thế giới và Thanh tra Chính phủ của Việt Nam (được thực hiện bởi Cục Chống tham nhũng) cho thấy 76% những người đút phong b́ là tự nguyện và 21% là do được gợi ư.
Phong b́ & Bệnh viện
Tại Việt Nam, việc cấm tặng quà cấp trên không phải là điều mới lạ nhưng việc kiểm soát không nghiêm nên vẫn tiếp diễn, thậm chí có khả năng tăng dần trong mấy năm qua, nhất là vào các dịp đặc biệt như lễ tết...
Nhiều người thắc mắc, từ trước đến nay chỉ cấm có một “vế”, tức là cấm người biếu, c̣n vế thứ hai không cấm, đó là người nhận. Có người lại thắc mắc, “Cấm tặng quà cho sếp chứ đâu có cấm tặng vợ và người thân của sếp?”.
Nh́n chung, tham nhũng và hối lộ là một hoạt động được thực hiện như một “giao dịch ngầm” giữa người cho và kẻ nhận. Mà đă là “kín đáo” th́ làm sao con mắt của pháp luật có thể soi mói được, trừ khi bị phanh phui, điều tra…
Một cái bắt tay… bằng đống Euro
Trên tờ Tiền Phong, Đại bểu Quốc hội tỉnh Quảng Trị, Lê Như Tiến, cũng cho rằng, bây giờ quà trở thành giá trị vật chất lớn. Có người ngày Tết tặng quà nhau mấy chục ngàn đô la Mỹ, tặng chai rượu ba bốn mươi năm, trị giá hàng chục triệu đồng hoặc quà vật chất trị giá hàng trăm triệu đồng.
Ông lư giải: “Quà chỉ c̣n mang ư nghĩa vật chất, sự trả ơn cho những thứ anh đă cho tôi như đă thăng chức, đă tạo điều kiện cho tôi làm ăn. Đấy là sự trả ơn mang tính chất vụ lợi, là một loại lợi ích nhóm”.
Một quan chức cấp cao trong chính phủ nói, “Riêng vấn đề nhận quà trong dịp lễ Tết, tôi nghĩ không c̣n cách nào khác là bản thân lănh đạo phải tự cảnh giác, nghiêm túc thực hiện quy định cấm từ cấp cao xuống các địa phương. Bên cạnh đó cần phát huy hơn nữa sự giám sát của nhân dân, cơ quan cũng cần tăng cường kiểm soát cán bộ”.
Nói th́ rất dễ nhưng làm thế nào để biến những lời nói thành hành động cụ thể quả là một vấn đề nhức nhối từ ngàn xưa để lại.
Không đi chúc Tết người ta
Người ta tự ái khó mà an thân!
***
Chú thích:
[*] Đọc thêm về tác giả Vương Hồng Sển qua bài viết “Cà phê Sài G̣n Xưa & Nay” tại
http://chinhhoiuc.blogspot.com/2013/...n-xua-nay.html
9 nhận xét:
Bài quá dài, phải cắt bớt
Bookmarks