Ngày Này Năm Xưa
Cách nay đúng 118 năm, Pháp đă lập tại Sài-G̣n, viện Viễn Đông Bác Cổ với nhiệm vụ nghiên cứu, khai quật khảo cổ tại Đông Dương thuộc Pháp.
Dựa theo những ǵ đă sảy ra trên quê hương th́ có thể nói họ đă giữ dùm một số cổ vật của chúng ta. Chúng ta đă đốt bao nhiêu sách của các thư viện từ Bắc chí Nam?
https://vi.wikipedia.org/wiki/Wikipe...a/Th%C3%A1ng_1
Ngày 20 tháng 01, 1900
• 1900 – Viện Viễn Đông Bác cổ được thành lập tại Sài G̣n với nhiệm vụ nghiên cứu, khai quật khảo cổ tại Đông Dương thuộc Pháp.
https://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%...A1c_c%E1%BB%95
https://en.wikipedia.org/wiki/%C3%89...C3%AAme-Orient
https://fr.wikipedia.org/wiki/%C3%89...C3%AAme-Orient
Viện Viễn Đông Bác cổ
Viện Viễn Đông Bác cổ (tiếng Pháp: École française d'Extrême-Orient, viết tắt EFEO) là một trung tâm nghiên cứu của Pháp về Đông phương học, chủ yếu trên thực địa. Tiền thân là Phái đoàn Khảo cổ tại Đông Dương từ năm 1898 và chính thức thành lập với tên gọi Viện Viễn Đông Bác cổ ngày 20 tháng 1 năm 1900, Viện có nhiệm vụ nghiên cứu, khai quật khảo cổ trên toàn bán đảo Đông Dương. Trụ sở đầu tiên của Viện Viễn Đông Bác Cổ ở Sài G̣n, Nam Kỳ trong ngày đầu thành lập năm 1900, tới năm 1902 Viện dời ra Hà Nội. Do chiến tranh, năm 1957, Viện phải rời Hà Nội tới Campuchia, sau đó lại rời Phnom Penh về Paris năm 1975. Hiện nay, Viện Viễn Đông Bác cổ thuộc Bộ Giáo dục đại học và Nghiên cứu Pháp, có 17 trung tâm nghiên cứu tại 12 quốc gia châu Á.
Lịch sử
Thời kỳ Đông Dương
Bảo tàng Louis Finot của EFEO đầu thế kỷ 20, nay là Bảo tàng Lịch sử Việt Nam
Viện Viễn Đông Bác cổ được thành lập năm 1900 nhờ sự thúc đẩy của Viện Hàn lâm Văn khắc và Văn chương (Académie des Inscriptions et Belles-Lettres) và Chính phủ Liên bang Đông Dương. Trong khi Viện Hàn lâm Văn khắc và Văn chương mong muốn gửi những nhà nghiên cứu tới châu Á th́ chính phủ toàn quyền Đông Dương muốn thành lập một cơ quan để t́m hiểu và bảo tồn các di sản văn hóa Đông Dương.[1]
Năm 1902, trụ sở của EFEO được đặt tại Hà Nội với nhiệm vụ chính là khai quật khảo cổ, thu thập các tài liệu viết tay, bảo tồn các công tŕnh, nghiên cứu về dân tộc học, ngôn ngữ và lịch sử các nước châu Á, từ Ấn Độ cho tới Nhật Bản. Năm 1907, EFEO nhận trách nhiệm bảo tồn quần thể kiến trúc Angkor và c̣n theo đuổi dự án này trong nhiều năm. Với tham vọng rộng lớn về mặt khoa học, EFEO xây dựng ở Hà Nội một thư viện và bảo tàng, về sau trở thành Bảo tàng Lịch sử Việt Nam. Tiếp theo đó, EFEO cũng thành lập nhiều bảo tàng khác ở Đà Nẵng, Sài G̣n, Huế, Phnôm Pênh, Battambang... Giai đoạn khởi đầu của EFEO ghi dấu ấn nhờ những đóng góp của các học giả, những tên tuổi lớn về Đông phương học như Paul Pelliot, Henri Maspero, Paul Demiéville về Hán học, Louis Finot, George Cœdès về khoa văn khắc Đông Dương, Henri Parmentier về khảo cổ học, Paul Mus về lịch sử tôn giáo...[1]
Sau 1945
Năm 1945 đánh dấu sự mở đầu một giai đoạn mới với EFEO. Mặc dù chiến tranh, các nhà khoa học vẫn hợp tác với chính phủ các quốc gia mới để theo đuổi những công tŕnh ở Đông Nam Á: nghiên cứu về Phật giáo, ngôn ngữ, văn học, dân tộc học... Các cuộc khai quật khảo cổ và việc trùng tu Angkor vẫn tiếp tục. Nhưng tới năm 1957, Viện Viễn Đông Bác cổ phải rời Hà Nội. Tiếp đó, năm 1975, viện lại phải rời khỏi Phnom Penh.[2]
Tuy vậy, EFEO cũng đă thành lập được nhiều chi nhánh ở châu Á.
Hồ sơ quá lớn. Phải bỏ bớt. Xin coi đường dẫn bên trên để có đầy đủ.
Hiện nay
Sau khi Đông Nam Á kết thúc các xung đột và dần ổn định về chính trị, EFEO trở lại bán đảo Đông Dương, hợp tác cùng các nhà khoa học địa phương.
Đầu tiên, năm 1990 tại Campuchia, Viện Viễn Đông Bác cổ tiếp tục các cuộc khai quật lớn ở Angkor.
Hồ sơ quá lớn. Phải bỏ bớt. Xin coi đường dẫn bên trên để có đầy đủ.
Tổ chức
Hiện nay, EFEO là một cơ quan thuộc Bộ Giáo dục đại học và Nghiên cứu (Ministère de l'Enseignement supérieur et de la Recherche) với nhiệm vụ t́m hiểu về các nền văn minh cổ châu Á chủ yếu trên thực địa. Lĩnh vực nghiên cứu của EFEO trải dài từ Ấn Độ cho tới Trung Hoa và Nhật Bản, bao trùm toàn bộ Đông Nam Á theo ba hướng chính:
các truyền thống về công tŕnh kiến trúc, truyền thống chữ viết và tôn giáo, nghiên cứu về lịch sử và nhân loại học.
17 trung tâm và chi nhánh tại 12 quốc gia, bao gồm các nhà khoa học địa phương và quốc tế, giúp EFEO tiến hành các nghiên cứu về khảo cổ, lịch sử, tôn giáo...[5]
Bên cạnh những trung tâm riêng biệt, nhiều chi nhánh của EFEO được đặt trong các trường đại học, viện hàn lâm, bảo tàng...[6]
Trụ sở tại Paris
Trụ sở chính của EFEO được đặt trong Maison de l’Asie (Nhà Á châu), số 22 đại lộ Président Wilson, Quận 16 thành phố Paris ( 48°51′52″B 2°17′32″Đ48,864429° B 2,292353°Đ). Đây là trung tâm chính có vai tṛ kết nối các chi nhánh ở nước ngoài. Maison de l’Asie đồng thời cũng là một địa điểm chuyên nghiên cứu về châu Á, nơi tổ chức các hội nghị, gặp gỡ, giới thiệu các tác phẩm mới liên quan đến châu Á. EFEO tại Paris c̣n mang chức năng một nhà xuất bản và cũng là trung tâm lưu trữ với một thư viện và một pḥng trữ ảnh.[7]
Thư viện
Lăo oa giảng độc, c̣n gọi là Thầy đồ Cóc, tranh dân gian Việt Nam lưu trữ tại thư viện EFEO
Thư viện của EFEO được thành lập ở Hà Nội vào năm 1903. Sự phát triển của thư viện chính là bằng chứng cho các thành tựu nghiên cứu của EFEO. Trong thời kỳ EFEO tại Hà Nội và Phnom Penh, từ 1900 tới 1957, thư viện đă tập hợp nhiều các tác phẩm in và viết tay liên quan tới Đông Dương. Nhờ mua lại, trao đổi, bộ sưu tập của thư viện không ngừng tăng lên. Vào năm 1944, thư viện ở Hà Nội đă tập trung được 80 ngàn cuốn sách, bao gồm cả các tác phẩm viết tay, trong đó một nửa là tài liệu với ngôn ngữ châu Âu. Vào cuối thời kỳ thuộc địa, theo các thỏa thuận giữa Viện Viễn Đông Bác cổ và ba quốc gia Đông Dương, những tài liệu với ngôn ngữ châu Âu thuộc về viện, c̣n những tài liệu ngôn ngữ địa phương thuộc về ba quốc gia bản địa. EFEO đă tiến hành sao chụp lại các tài liệu này rồi gửi về Paris.
Hơn 12 ngàn cuốn sách, chủ yếu về Đông Nam Á, trở thành hạt nhân xây dựng nên thư viện tại Paris, được mở cửa vào năm 1968.[8]
Thư viện EFEO ngày nay tập hợp khoảng 83 ngàn bản chuyên khảo vào hơn 1000 tựa ấn phẩm định kỳ cùng nhiều tranh in tay, các bức h́nh. Các tài liệu lưu trữ thuộc nhiều lĩnh vực hơn, bao gồm cả Nhật Bản, Trung Quốc và Nam Á. EFEO c̣n hợp tác với những cơ sở có lưu trữ tương tự (Collège de France, Thư viện ngôn ngữ phương Đông) và trao đổi ấn phẩm cùng một số trung tâm nghiên cứu châu Á khác ở châu Âu và Mỹ.[8]
Trung tâm lưu trữ ảnh
Bộ lưu trữ ảnh của EFEO rất phong phú về mặt tư liệu (khảo cổ, kiến trúc, nghệ thuật, lịch sử...) và trải rộng qua nhiều quốc gia (Việt Nam, Lào, Ấn Độ, Trung Quốc...). Những bức ảnh đầu tiên chụp lại các cuộc khai quật do EFEO tiến hành từ đầu thế kỷ 20. Tiếp đó, một phần quan trọng khác là các di tặng, của Dalet, Bacot, Boulbet, Bénisti... Nhiều bức ảnh là minh chứng cho t́nh trạng các công tŕnh trong quá khứ mà hiện nay - do chiến tranh, thời gian - đă bị thay đổi, hủy hoại. Một số khác ghi nhận quá tŕnh khai quật và trùng tu do EFEO thực hiện trong hơn một thế kỷ.[9]
Hiện nay bộ sưu tập của EFEO gồm khoảng 30 ngàn bức ảnh về Campuchia, 7 ngàn về Việt Nam, 3 ngàn về Trung Hoa, 3 ngàn về Lào và một số lượng lớn nữa về Ấn Độ. Một phần trong số tư liệu này đă được số hóa.[9]
Hồ sơ quá lớn. Phải bỏ bớt. Xin coi đường dẫn bên trên để có đầy đủ.
Trung tâm EFEO Hà Nội
Năm 1983, EFEO kư kết hợp tác với Viện Khoa học xă hội Việt Nam và sau đó là Đại học Hà Nội.
Mười năm sau, EFEO mở lại trung tâm tại Hà Nội.
Việc quay lại Việt Nam, nơi từng đặt trụ sở đầu tiên của viện, đă đánh dấu một bước phát triển mới của EFEO. Trung tâm tại Hà Nội tạo điều kiện thuận lợi cho EFEO tiếp tục nghiên cứu về Việt Nam với sự tham gia của các nhà khoa học châu Âu cũng như bản địa.[10] Cùng với Viện Hán Nôm, EFEO tiến hành dự án kiểm kê và công bố những tài liệu văn khắc trên các bia đá ở Việt Nam.
EFEO cũng tham gia giám định hoàng thành Thăng Long, nghiên cứu về các nhóm dân tộc phía Bắc, lịch sử các triều đại Đại Việt và tiếp tục chương tŕnh khảo cổ Óc Eo ở Đồng bằng sông Cửu Long.[10]
Trung tâm ở Hà Nội cũng bao gồm một thư viện với 6 ngàn cuốn sánh tiếng Việt, Pháp, Anh chủ yếu về lịch sử và nhân loại học Việt Nam cùng các quốc gia kế bên. Bộ sưu tập của thư viện được mở rộng rất nhiều nhờ sự trao đổi tài liệu với các trung tâm nghiên cứu, trường đại học Việt Nam và nước ngoài. Vào năm 2005, giáo sư David Marr cũng tặng lại cho thư viện một bộ sưu tập cá nhân quan trọng.[11]
Trung tâm EFEO Thành phố Sài G̣n
Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp đầu tiên tại Sài G̣n (Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay) vào năm 1900, sau đó hai năm cơ quan EFEO mới chuyển văn pḥng đặt tại Hà Nội.[12]
Để tăng cường mở rộng sự hợp tác nghiên cứu giữa EFEO và các nhà nghiên cứu ở phía Nam, Ṭa trụ sở Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp (EFEO) chính thức khánh thành vào ngày 25 tháng 2 năm 2013 tại 113 Hai Bà Trưng, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh để đi vào hoạt động nghiên cứu tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long.[13]
Trung tâm EFEO Puducherry
Trung tâm của EFEO tại Puducherry
Hồ sơ quá lớn. Phải bỏ bớt. Xin coi đường dẫn bên trên để có đầy đủ.
Trung tâm EFEO Bắc Kinh
Hồ sơ quá lớn. Phải bỏ bớt. Xin coi đường dẫn bên trên để có đầy đủ.
Trung tâm EFEO Kyōto
Hồ sơ quá lớn. Phải bỏ bớt. Xin coi đường dẫn bên trên để có đầy đủ.
Các trung tâm khác
Tính tới 2013, ngoài trụ sở chính tại Paris, EFEO có tất cả 18 trung tâm tại 12 quốc gia[18].
Hồ sơ quá lớn. Phải bỏ bớt. Xin coi đường dẫn bên trên để có đầy đủ.
Nghiên cứu khoa học và các hoạt động
Angkor Thom, công tŕnh EFEO tham gia trùng tu
Cuối thế kỷ 19, việc nghiên cứu về châu Á có nhiều thay đổi lớn. Sự phát triển của khoa học kéo theo những phương tiện nghiên cứu mới. Cách tiếp cận mang tính phương pháp luận làm thay đổi việc xử lư các tư liệu về phương Đông. Mặt khác, để khảo cứu các công tŕnh kiến trúc, những văn bia, để điều tra về dân tộc học, ngôn ngữ... đ̣i hỏi các học giả phải có mặt tại chính châu Á.[19] Việc tập hợp, bảo tồn các hiện vật, tư liệu cũng đ̣i hỏi các điều kiện phức tạp, bắt buộc phải thành lập những viện nghiên cứu tại bản địa.
Năm 1898, các học giả hàng đầu của Pháp về Ấn Độ học đă đệ tŕnh dự án xây dựng một Trường Chandannagar thuộc Pháp nhưng không nhận được sự quan tâm của giới cầm quyền.[20] Paul Doumer sau đó đă quay lại với dự án này, nhưng đề nghị đặt viện nghiên cứu tại Đông Dương. Viện Viễn Đông Bác cổ trở thành trung tâm nghiên cứu đầu tiên hoạt động theo phương pháp mới đó.[20] Nhiệm vụ của EFEO giai đoạn đầu bao gồm hai điểm chính: hoạt động nghiên cứu về khảo cổ học và ngữ văn học của bán đảo Đông Dương; góp phần vào việc nghiên cứu bác học những vùng và những nền văn minh lân cận như Ấn Độ, Trung Quốc, Malaysia...
Louis Finot, giám đốc đầu tiên của EFEO tŕnh bày trong số chuyên san nhân dịp kỷ niệm lần thứ 20 ngày thành lập viện: "...việc nghiên cứu thực tế cụ thể đ̣i hỏi một điều khác hẳn những sự tự biện liều lĩnh của tư duy: nó đ̣i hỏi sự quan sát kiên tŕ của nhà ngôn ngữ học và nhà dân tộc học đ̣i hỏi sự phân tích tỉ mỷ, những sự kiện tôn giáo và xă hội, đ̣i hỏi sự xem xét kỹ lưỡng những công tŕnh kiến trúc có chạm h́nh; nó xem nhẹ việc coi lư thuyết như một công cụ để nghiên cứu mà nắm chắc trong tay cái cuốc của nhà khảo cổ học, cái compa của nhà nhân chủng học, chiếc ống kính của nhà nhiếp ảnh và chiếc bàn chải của nhà in rập. Tất cả những công việc đó không phải là những công việc của một du khách thoảng qua. Những kết quả đó chỉ thu được trải qua quá tŕnh lao động liên tục, có tổ chức, giống như một học viện nghiên cứu thường trực th́ mới có thể có được".[20]
“ ... không một viện nào phát triển được trên toàn địa bàn châu Á cả về mặt nghiên cứu phối hợp, cả về mặt xử lư tư liệu bằng những kỹ thuật cực kỳ hiện đại như Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp đă làm và đă được nơi khác học tập.[20]
”
— Christiane Pasquel Rageau
Năm 1898, EFEO mới chỉ có bản điều lệ của phái đoàn khảo cổ học thường trực tại Đông Dương, Louis Finot được chỉ định làm giám đốc của viện. Năm 1899, khi đến Sài G̣n, tuy có gặp sự phản ứng từ phía Việt Nam, đoàn bắt tay ngay vào công việc. Việc nghiên cứu lịch sử châu Á có những khó khăn, đ̣i hỏi các học giả của EFEO phải t́m phương pháp tiếp cận khác với nghiên cứu lịch sử châu Âu. "Người phương Tây hiểu và yêu cầu được hiểu, một lịch sử được đánh dấu bằng các sự kiện và năm tháng, bằng các triều đại, bằng các cuộc chinh phạt được ghi nhận theo tŕnh tự thời gian. Một lịch sử như vậy th́ người Campuchia không biết đến bởi hai nguyên nhân rất rơ nét là: một mặt các văn bản viết tay không có khả năng cưỡng lại với thời gian, với các cuộc chiến tranh, với khí hậu và mặt khác những văn khắc trên đá đă khó có thể đọc được v́ bị bào ṃn, bị nấm rêu bao phủ, bị tan vỡ, sụp đổ...".[21] V́ vậy, các thành viên EFEO đă phải nghiên cứu trên các công tŕnh kiến trúc song song với việc nghiên cứu các văn tự.[22]
Kết quả đầu tiên của EFEO tại Đông Dương, 100 tác phẩm và 300 tập sách nhỏ bằng tiếng Khmer được tập hợp lại. Năm 1900, Viện Viễn Đông Bác cổ phát hành ấn phẩm đầu tiên: Tiền cổ học An Nam. Sau năm đầu, bốn tập san (ba tháng một kỳ) của EFEO được in thành một tập 431 trang kèm theo 75 bức ảnh minh họa và ba tấm bản đồ.[23] Những nghiên cứu đầu tiên này bao gồm các lĩnh vực: tôn giáo, kiến trúc Chăm, văn học dân gian Việt Nam, khảo cổ học ở Lào, phong tục Campuchica... Cũng trong tập này c̣n có hai bài nghiên cứu về Trung Hoa và Nhật Bản. Năm 1902, Séraphin Couvreur đă đưa ra phương pháp Latinh hóa chữ Hán. Hệ thống này gần tương tự Bính âm Hán ngữ và được sử dụng rộng răi cho tới giữa thế kỷ 20.[24]
Hồ sơ quá lớn. Phải bỏ bớt. Xin coi đường dẫn bên trên để có đầy đủ.
Một số học giả nổi tiếng
Louis Finot
Louis Finot, giám đốc đầu tiên của EFEO
Hồ sơ quá lớn. Phải bỏ bớt. Xin coi đường dẫn bên trên để có đầy đủ.
George Cœdès
Hồ sơ quá lớn. Phải bỏ bớt. Xin coi đường dẫn bên trên để có đầy đủ.
Henri Parmentier
Hồ sơ quá lớn. Phải bỏ bớt. Xin coi đường dẫn bên trên để có đầy đủ.
Louis Malleret
Hồ sơ quá lớn. Phải bỏ bớt. Xin coi đường dẫn bên trên để có đầy đủ.
Nguyễn Văn Huyên
Nguyễn Văn Huyên sinh năm 1908 tại Hà Nội trong một gia đ́nh trí thức. Năm 1926, ông tới Pháp học về văn và luật.
Năm 1934, Nguyễn Văn Huyên trở thành người Việt Nam đầu tiên bảo vệ luận án tiến sĩ tại Sorbonne với đề tài Les chants alternés des garçons et des filles en Annam (Hát đối đáp nam nữ thanh niên ở An Nam).
Năm 1935, Nguyễn Văn Huyên về Việt Nam và giảng dạy tại École du protectorat (Trường bảo hộ). Đến 1938, ông gia nhập EFEO.
Đồng thời, từ năm 1941, Nguyễn Văn Huyên cũng tham gia Comité de recherches scientifiques de l'Indochine (Ban nghiên cứu khoa học Đông Dương).
Sau tháng 8 năm 1945, Nguyễn Văn Huyên làm việc cho chính phủ Hồ Chí Minh, giữ chức giám đốc Đại học học vụ, tham gia xây dựng chương tŕnh giáo dục.
Từ 1946, Nguyễn Văn Huyên trở thành bộ trưởng Bộ Giáo dục quốc gia và giữ chức vụ này tới khi mất vào năm 1975.
Kể từ nghiên cứu đầu tiên vào năm 1934, Nguyễn Văn Huyên đă công bố nhiều công tŕnh giá trị về văn hóa, tín ngưỡng Việt Nam.[30]
Giám đốc của viện
• 1898: Louis Finot
• 1905: Alfred Foucher
• 1908: Claude Eugène Maitre
• 1920: Louis Finot
• 1926: Léonard Aurousseau
• 1929: George Cœdès
• 1947: Paul Lévy
• 1950: Louis Malleret
Viện Viễn Đông Bác cổ và Việt Nam
•
• Bảo tàng Chàm tại Đà Nẵng của EFEO, đầu thế kỷ 20
• Được thành lập tại Việt Nam và đặt trụ sở chính ở đây trong suốt hơn nửa thế kỷ, Việt Nam học luôn là một trong những lĩnh vực nghiên cứu chính của EFEO. Qua các tập san cũng như các tổng kết, có thể thấy những đóng góp quan trọng về Việt Nam học của các học giả Viện Viễn Đông Bác cổ, cả người Pháp và người Việt.[31]
• [img] https://s20.postimg.org/s5740rnal/Da_co_Sa_Pa.jpg [/img]
Hồ sơ quá lớn. Phải bỏ bớt. Xin coi đường dẫn bên trên để có đầy đủ.
• Tham khảo
Hồ sơ quá lớn. Phải bỏ bớt. Xin coi đường dẫn bên trên để có đầy đủ.
Bookmarks