Những tranh luận và giá trị của Hiệp định Paris 1973 (Lê Quế Lâm)
Lê Quế Lâm
“…Tôi kỳ vọng giới lănh đạo CSVN nhận thức được đất nước hiện nay đang bị Hán hóa không thể nào tránh khỏi chỉ v́ chủ nghĩa xă hội. V́ thế những người CSVN có tinh thần dân tộc chủ nghĩa hăy sớm từ bỏ XHCN…”
Sắp đến ngày kỷ niệm 40 năm HĐ Paris 27/1/1973 (1973-2013) ông Nguyễn Quốc Khải cho phổ biến trên Đài RFA (Á Châu Tự Do) ngày 17/12/2012 bài viết “Khoảng Cách Chạy Tội: Sự Thực Phũ Phàng Về Hiệp Định Paris 1973”. Ông cho rằng Mỹ đă hy sinh VNCH, đi đêm với TC để đánh Nga. Dựa vào những tài liệu được bạch hóa, ghi âm những trao đổi giữa Nixon-Kissinger với Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai trong năm 1971-1972, cho thấy HK đă có dụng tâm bỏ VNCH ngay từ đó. Với lập luận trên, tác giả tấn công chủ trương Phục hồi HĐ Paris 1973 của ông Nguyễn Ngọc Bích, Chủ tịch Ủy ban Lănh đạo Lâm thời VNCH, một h́nh thức của chính phủ lưu vong. Ông Khải cho đó “là một ư tưởng “hoang tưởng” nếu không nói là “bệnh hoạn”, trong khi nước Mỹ muốn quên HĐ Paris 1973 khốn nạn do chính họ dựng lên”.
Ông Nguyễn Quốc Khải cho biết Ủy ban Lănh đạo Lâm thời VNCH của ông Nguyễn Ngọc Bích được thành lập vào tháng 10/2012 đă gửi thỉnh nguyện thư gồm trên 30,000 chữ kư, kêu gọi LHQ tái nhóm một Hội nghị Quốc tế khẩn cấp về VN để “phục hồi HĐ Paris 1973 nhằm trả lại danh dự và công bằng cho 40 triệu quân, dân, cán, chính VNCH”. Thỉnh nguyện thư này gián tiếp xác nhận UBLĐLTVNCH là một chính phủ lưu vong và có “một quốc gia VNCH ngoài lănh thổ”. Ông Nguyễn Ngọc Bích là cựu Tổng Giám đốc Việt Nam Thông tấn xă trước 1975. Nay là Chủ tịch Nghị-hội Toàn quốc Người Việt tại HK.
Nhân dịp này, ông Khải có viết bài “Mạn đàm về chính phủ lưu vong”, và trích dẫn ư kiến của Linh mục Phan Văn Lợi khi thấy có tên trong danh sách thành phần của một chính phủ lưu vong: “Không thể có chuyện đùng một cái thành lập “chính phủ lâm thời” như ảo thuật được. Trong 36 năm qua h́nh như đă có một số “chính phủ lâm thời” mờ mờ ảo ảo đă làm người Việt chúng ta tốn công sức và tiền của khá nhiều rồi”. Ông Khải đề nghị các tổ chức ở hải ngoại dù lớn hay nhỏ nên thành lập các quỷ Dân chủ để có nguồn tài trợ giúp các tổ chức Dân chủ trong nước có phương tiện hoạt động.
Ông Nguyễn Ngọc Bích đă phản hồi bài viết “Sự thật phũ phàng về HĐ Paris 1973” trong bài “40 năm sau một cuộc phản bội”. Ông vạch ra “một số điểm sai sót, bịa đặt” trong bài viết và phản bác các luận cứ của ông Khải về việc “HK hy sinh VNCH”. Theo ông, cần phải phân biệt giữa Nixon và Kissinger. Kissinger gốc Do Thái có khá nhiều định kiến với VNCH (đặc biệt là TT Thiệu và Hoàng Đức Nhă) nên sẵn sàng hy sinh Miền Nam Việt Nam để phục vụ cho quyền lợi Do Thái, đồng minh cốt lơi của Mỹ. Trái lại, Nixon không có quan niệm miệt thị VNCH.
Chính sách của Nixon rất bài bản, ông biết quan tâm đến vận mạng chính trị của ông và tin tưởng một cách khá thành thật chính sách Việt Nam hóa chiến tranh sẽ thành công, mang lại ḥa b́nh, đem tù binh Mỹ về và VNCH có một cơ hội sống c̣n. Ông Bích trách ông Khải khi viết sử phải dựa vào những dữ kiện có thật, không thể chỉ dựa vào chủ quan. Bài viết của ông Khải th́ đầy cảm quan, ông không tôn trọng những nguyên tắc căn bản nhất của việc viết sử. Ông c̣n lợi dụng một đề tài quan trọng của lịch sử để đả kích cá nhân.
Ông Bích cho rằng ư nghĩ của ông không hoang tưởng v́ HĐ Paris 1973 và Định ước quốc tế 1/3/1973 là những văn kiện ngoại giao có giá trị cam kết bởi các quốc gia có đại diện kư tên vào đó. Chủ trương của ông là muốn “Gây một phong trào toàn cầu đặt lại vấn đề trở lại HĐ Paris 1973 và nêu Định ước quốc 1/3/1973 là để đ̣i lại một tiếng nói chính đáng của nhân dân miền Nam VN và lôi Hà Nội cũng như Bắc Kinh ra trước sự phán xét quốc tế trong vấn đề VN cũng như biển Đông”. Như vậy, nêu vấn đề trở lại HĐ Paris 1973 không phải là một việc làm vô ích.
Ngay sau đó ông Khải nhận xét: “ông Nguyễn Ngọc Bích đă viết ba bài liên quan đến HĐ Paris 1973, cả ba bài đều thiếu mạch lạc “cà kê, dê ngỗng” không có chủ điểm, lạc đề rất khó theo dơi”. “Ông vẫn nghiêm chỉnh cho rằng ư kiến phục hồi HĐ Paris 1973 là một việc khả thi”. Ngày 25/12/2012, ông Nguyễn Quốc Khải viết thêm bài “Phục hồi Hiệp Định Paris 1973: Ảo Vọng hay Hiện Thực?” gởi một số thân hữu để tham khảo ư kiến, trước khi phổ biến. Ông Nguyễn Văn Trần ở Paris đă chuyển đến tôi bài viết trên và yêu cầu tôi “cứ tự nhiên góp ư”. V́ ông Trần thấy trong bài viết, ông Khải có tham khảo hai bài viết của tôi: -Lê Quế Lâm, “Những Đóng Góp Cho Đất Nước Sau 1975 Của Một Chứng Nhân Lịch Sử: Giáo Sư Vũ Quốc Thúc”, Thụ Nhân Âu Châu, 16-7-2011 và -Lê Quế Lâm, “Đọc Hồi Kư của GS Vũ Quốc Thúc”, Việt Thức, 28-12-2010.
Và tôi đă bày tỏ nhận xét của cá nhân tôi: Năm 1975 Hà Nội đă xé bỏ HĐ Paris 1973, dùng bạo lực thôn tính VNCH. Đúng lư ra, sau khi đến hải ngoại, những cựu lănh đạo VNCH như TT Nguyễn Văn Thiệu, Phó TT Nguyễn Cao Kỳ, Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, Chủ tịch Thượng Viện Trần Văn Lắm, Chủ tịch Hạ Viện Nguyễn Bá Cẩn... có thể lên tiếng đ̣i các cường quốc đồng minh cũ của VNCH trở lại HĐ Paris 1973. Điều này có nghĩa là các nhân vật trên lập ngay một Chính phủ Quốc gia lưu vong để tiếp tục đấu tranh với chính quyền Hà Nội.
Sở dĩ họ không làm là v́ trước 1975 TT Nguyễn Văn Thiệu đă cương quyết chống đối HĐ Paris. Đến khi chạy ra nước ngoài, họ không bao giờ lên tiếng về vấn đề này dù chỉ nhằm binh vực tư cách tị nạn chính trị của những thuyền nhân. Đến năm 1987 khi Giáo-sư Vũ Quốc Thúc và Ủy ban Luật gia VN đặt vấn đề HĐ Paris vẫn c̣n hiệu lực và do đó chính quyền VNCH trên pháp lư vẫn c̣n, th́ nhiều nhân vật lại hăng hái dấn thân đấu tranh cho quốc gia dân tộc, kể cả cựu TT Thiệu năm 1993 đă gởi thư cho ông TTK/LHQ yêu cầu thi hành HĐ Paris 1973. Không hiểu những người đặt vấn đề phục hồi HĐ Paris 1973 là v́ đất nước? Hay họ chỉ dựa vào tính cách pháp lư của hiệp định để làm sống lại VNCH, muốn đại diện người Việt hải ngoại đứng ra ḥa giải với CS?
Cả hai nghi vấn của tôi, nếu đúng sự thật, th́ đó là những ư nghĩ viễn vông, nếu không muốn nói là chưa thức thời khi t́nh thế đất nước sắp bước vào một khúc quanh quan trọng. Họ quên rằng HĐ Paris 1973 ra đời đến nay vừa tṛn 40 năm, đất nước đă thay đổi quá nhiều, làm sao có thể tái tạo bối cảnh cũ để tŕnh diễn. Chỉ c̣n cách đóng tuồng để hối tiếc và hoài vọng quá khứ vàng son, nhưng chỉ có một điểm khác biệt: trước 1975 th́ chống, nay th́ muốn phục hồi HĐ Paris 1973. Việc này diễn ra khi HK trở lại Châu Á và TT Obama đang phát động một chiến dịch sâu rộng làm sống lại cuộc chiến Việt Nam từ năm 2012 đến 2025. Mục tiêu của nhóm ông Nguyễn Ngọc Bích phải chăng là v́ chủ đề này?
Nhân đây, xin nói đến một việc ngoài lề, nhưng liên quan đến HĐ Paris 1973. Cuối năm 2012, sách Bên Thắng Cuộc cũng đề cập đến HĐ Paris 1973. Tác giả Huy Đức cho biết Lê Duẩn đă lên án TC phản bội, toa rập với Mỹ kư HĐ Paris 1973 để duy tŕ một MNVN ḥa b́nh, độc lập và trung lập lâu dài. Ông Lê Duẩn quyết tâm thống nhất Việt Nam nên xé bỏ HĐ Paris 1973. Hậu quả là đất nước Việt Nam gánh chịu thêm cuộc chiến ở Cam Bốt. Qua cuộc chiến này, thế giới mới thấy rơ chiến tranh ở Đông Đương trong nửa thế kỷ qua xuất phát từ mưu đồ xâm lược của CSVN để đưa ba nước Đông Dương vào quỹ đạo Xă hội Chủ nghĩa, thống thuộc Liên Xô nên đă bị TQ trừng phạt.
TT Nguyễn Văn Thiệu lên án Mỹ toa rập với TC kư HĐ Paris 1973 phản bội VNCH, bán đứng MNVN cho CS. C̣n Tổng bí thư Lê Duẩn th́ lên án TC thỏa thuận với Mỹ phản bội CSVN. TT Thiệu chống đối hiệp định nên để mất miền Nam, c̣n Lê Duẩn xé bỏ hiệp định, nên bị TC khống chế nặng nề cho đến ngày nay. Sự sai lầm của lănh đạo hai miền Nam Bắc đă làm khổ cả dân tộc. Trong khi TC hợp tác với HK kết thúc chiến tranh VN chỉ v́ cả hai không muốn ba nước Đông Dương nằm dưới quỹ đạo của Liên Xô. Điều này đă được các cường quốc Đồng minh thỏa thuận trước khi Thế chiến II chấm dứt tại hội nghị Yalta và Postdam 1945. Liên Xô chỉ có ảnh hưởng một nơi duy nhất ở Châu Á là miền Bắc Triều Tiên. C̣n các nước ĐD ở phía Bắc vĩ tuyến 16 chịu ảnh hưởng Trung Hoa Quốc Dân Đảng, phía Nam vĩ tuyến 16 chịu ảnh hưởng Anh Pháp.
Góp ư với hai ông NQ Khải và NN Bích về đề tài tranh luận
Tôi tán đồng ư kiến của ông Khải về việc thành lập quỹ Dân Chủ để tài trợ các tổ chức Dân chủ trong nước, nhưng không đồng t́nh với lập luận HK có ư định bỏ rơi VNCH từ các cuộc hội đàm Mỹ-Trung hồi năm 1971-72. Từ khi chiến tranh Việt Nam xảy ra, Mao Trạch Đông đă chuyển hướng chiến lược, h́nh thành Thế giới thứ ba, ủng hộ các nước dân tộc chủ nghĩa giành độc lập, chống cả hai siêu cường Nga Mỹ. C̣n Nixon từ 1969 đă quyết định rút quân về nước, thực hiện Việt Nam hóa chiến tranh, mở đường cho kế hoạch phi Mỹ Hóa: HK không c̣n can dự nhiều vào công việc thế giới. Điều đó cho thấy, HK đă đáp ứng phần nào chủ trương chiến lược của TC.
Để thuận lợi trong việc tiếp cận với TC, HK không sử dụng quyền phủ quyết, chấp nhận Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa gia nhập LHQ, trở thành Uỷ viên thường trực Hội đồng Bảo An, ngang hàng với LIÊN XÔ và HK. Từ đó dẫn đến các cuộc hội đàm của Nixon và Kissinger với Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai ở Bắc Kinh. Nixon và Kissinger bày tỏ ư định của Mỹ sẽ chấm dứt chiến tranh VN, tương lai miền Nam VN sẽ do nhân dân ở đây tự quyết định, không có sự can thiệp từ bên ngoài. Kế hoạch này đă có từ 1969 khi ông Trần Bửu Kiếm Trưởng đoàn MTGPMN tuyên bố tại hội nghị bốn bên ở Paris ngày 14/5/1969: Công việc MNVN sẽ do nhân dân MNVN quyết định, chớ không c̣n theo Cương lĩnh 1960 của Mặt trận GPMN do BV soạn thảo.
Nhiều người thường nhắc lại cuộc hội đàm Kissinger và Chu Ân Lai ngày 20/6/1972 tại Bắc Kinh, cho rằng HK đă thỏa thuận với TC bỏ rơi MIềN NAM tự do. Kissinger đă nói: “Phải tách rời vấn đề quân sự với vấn đề chính trị. Bàn đến chính trị có nghĩa là duy tŕ chính quyền Sàig̣n - một điều Hànội không chịu, hay lật đổ chính quyền Sàig̣n - điều chúng tôi không chịu, và thực tế không có một giải pháp chính trị ở giữa. Vậy chúng tôi phải t́m con đường khác để chấm dứt chiến tranh. Chúng ta có thể biến cuộc tranh chấp quốc tế thành một cuộc tranh chấp địa phương -và ông thủ tướng nghĩ là có thể- th́ đó là chính sách của chúng tôi. Trước hết để nó không biến thành một vấn đề quốc tế, và để cho người Đông Dương tự quyết định số phận của ḿnh. Tôi cam đoan rằng quyền tự quyết là mục tiêu của HK ở ĐD và tôi tin TQ cũng muốn thế. Chúng tôi không muốn tranh giành ǵ tại đó. Và mặc dù chúng tôi không thể đưa một chính quyền CS lên nắm quyền lực, nhưng nếu nó xảy ra sau một thời gian nào đó, như là kết quả của một diễn biến lịch sử, và nếu như chúng tôi có thể chấp nhận một chính quyền CS ở Trung Hoa th́ chúng tôi phải chấp nhận nó ở ĐD”.
“...While we cannot bring a communist government to power, if, as a result of historical evolution it should happen over a period of time, if we can live with a communist government in China, we ought to be able to accept it in Indochina”. (Memorandum of Conversation With Zou Enlai, 20 June 1972, Page 37)
Sau khi tài liệu này được giải mật, Kissinger tái xác nhận: “Nếu họ thỏa thuận được một kết quả, một dàn xếp dân chủ, chúng tôi sẽ để nó phát triển theo tiến tŕnh riêng của nó”. Ông nói thêm “Chấp nhận cộng sản nắm quyền không có nghĩa là mong cho việc đó xảy ra”. Như vậy, không phải TC đă thỏa thuận bán đứng MNVN cho CS. “Kết quả của một diễn tiến lịch sử” có nghĩa là nếu Hà Nội chấp nhận một cuộc tuyển cử dân chủ tự do để người dân MIềN NAM thực hiện quyền tự quyết của họ. Nếu CS thắng cử, đương nhiên HK phải chấp nhận. Điều này phải cần một thời gian vài ba năm để tiến hành, chớ không phải thời gian “đủ” để bỏ rơi MIềN NAM tự do.
Với ông Nguyễn Ngọc Bích, tôi hoan nghênh ư kiến của ông: Đặt lại vấn đề trở lại HĐ Paris 1973 và nêu Định Ước Quốc tế 1/3/1973 để lôi Hà Nội và Bắc Kinh ra trước sự phán xét quốc tế trong vấn đề VN cũng như biển Đông. Nhưng không đồng ư với ông Bích cho rằng “Kissinger gốc Do Thái nên sẳn sàng hy sinh VNCH để phục vụ cho quyền lợi Do Thái”. Lập luận này đă được Ts Nguyễn Tiến Hưng nói đến trong ba tác phẩm của ông cũng như cố TT Nguyễn Bá Cẩn đă viết trong hồi kư Đất Nước Tôi. Những lập luận đó chỉ nhằm đổ lỗi cho HK phản bội. HK là một Hợp chủng quốc, công dân Mỹ có nhiều nguồn gốc khác nhau, nhưng đều phục vụ cho quyền lợi tối thượng của HK. Kissinger gốc Do Tháí, ông Brezezinski, Cố vấn An ninh Quốc gia thời TT Carter, gốc Ba Lan. Bà Albright, Ngoại trưởng HK thời TT Bill Clinton, gốc Tiệp Khắc... Đối với HK, mỗi khu vực trọng yếu đều có một chính sách riêng và một chiến lược riêng.
Tháng 3/1965 sau khi đưa hai tiểu đoàn TQLC đổ bộ lên Đà Nẵng, TT Johnson kêu gọi Hà Nội ngồi vào đàm phán để chấm dứt chiến tranh. Hà Nội khước từ, HK phải sử dụng hai gọng kèm: từng bước tăng quân vào MNVN và mở rộng diện oanh tạc miền Bắc. Đến khi Hà Nội chấp nhận đàm phán ở Paris, Johnson không tái ứng cử nhiệm kỳ hai, để người kế nhiệm chấm dứt chiến tranh VN. TT Nixon đă thực hiện đúng cam kết của ḿnh: chấm dứt chiến tranh VN trong nhiệm kỳ đầu (1969-1973). Việc Quốc hội Mỹ cắt dần quân viện cho VNCH là v́ VN đă có ḥa b́nh, chớ không phải Kissinger dành 2 tỉ đô la viện trợ VNCH để giúp Do Thái.
Tôi đồng ư với ông NN Bích là TT Nixon có thiện chí với VNCH. Theo tôi suy nghĩ, cơ may sống c̣n của VNCH là TT Thiệu phải “mạo hiểm” trong ḥa b́nh, hợp tác với thành phần thứ ba và những người CS dân tộc chủ nghĩa để tạo dựng một MIềN NAM hoà b́nh, độc lập và trung lập. VNCH thất bại v́ “lập trường bốn không” của TT Thiệu. Trong khi Hà Nội, bất kể sự khuyến cáo của TC, quyết tâm thôn tính MIềN NAM. Kế hoạch ḥa b́nh của Nixon kể như thất bại, cả Hà Nội và Sàig̣n đều chống hiệp định ḥa b́nh. V́ thế, Quốc hội Mỹ chấm dứt dần quân viện cho VHCN, vừa t́m cách hạ bệ Nixon qua vụ Watergate. Đầu tháng 8/1974 Nixon từ chức, việc mất MNVN không do TT Nixon mà do Quốc hội quyết định. V́ TT Ford dù sao cũng chỉ là một dân biểu do thời thế đưa lên làm tổng thống, chớ ông Ford không do nhân dân Mỹ trực tiếp bầu làm tổng thống.
Chiến tranh VN kết thúc, HK bước vào thời kỳ chiến lược “Sau VN”. Từ 1975 đến 1980, cả chục nước trên thế giới lọt vào tay CS như Mozambique, Angola, Ethiopia, Nam Yemen, Nicaragua... CSVN kư hiệp ước hữu nghị hợp tác với LIÊN XÔ và đưa quân xâm lược Campuchia. TC thiết lập bang giao với HK. Từ chỗ chống đế quốc Mỹ xâm lược, nay TC chuyển sang hợp tác với Mỹ để chống LIÊN XÔ. Sau chuyến công du HK tháng Giêng 1979, trở về nước Đặng Tiểu B́nh ra lịnh tấn công VN. Hậu quả là LIÊN XÔ bị sa lầy v́ những chiến phi nghĩa do LIÊN XÔ đỡ đầu hoặc do đàn em gây ra: CSVN ở Cam Bốt, Cuba ở Nicaragua. Từ 1981, TT Reagan đưa nước Mỹ vào thời kỳ “sau của sau VN”, đưa LIÊN XÔ và khối XHCN Đông Âu đến chỗ cáo chung.
Trước thảm trạng của dân tộc, những người lănh đạo đất nước phải nhận trách nhiệm. Trái lại giới lănh đạo VNCH luôn đổ lỗi cho Mỹ phản bội đồng minh. Người xưa có câu: “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân”. Người quốc gia phải can đảm nhận lỗi lầm mới có thể nói đến sai lầm tày trời của CS khi đeo đuổi Xă hội chủ nghĩa. Năm nay, kỷ niệm 40 năm HĐ Paris 1973, Luật sư Trần Thanh Hiệp trong phần trả lời phỏng vấn đài RFI đă nói: “Tổng thống VNCH sai lầm, không tôn trọng hiệp định, không chia quyền với thành phần thứ ba và thành phần CS dân tộc chủ nghĩa để giữ miền Nam mà chỉ dựa vào sức mạnh quân sự nên cuối cùng phải thua trận”. Báo mạng VietnamNet mượn lời phân tích trên tờ Bán nguyệt san Mỹ Counter Punch chỉ trích tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu “sai lầm không nổ lực làm cho Hiệp định có hiệu lực, chia quyền với những người cộng sản dân tộc chủ nghĩa” nên phải lưu vong vào mùa xuân 1975”. (Tú Anh, 40 năm Hiệp định ḥa b́nh Paris 1973: dịp may bị bỏ qua).
Việc phục hồi hiệp định Paris 1973
Sở dĩ tôi dám lạm bàn những việc đại sự của đất nước, v́ tôi có cái may mắn được Quân đội phân công làm công tác nghiên cứu cuộc chiến VN. Sau hơn 4 năm đàm phán tại Paris, cuộc chiến VN bắt đầu đi vào giai đoạn kết thúc. Ngày 8/10/1972, Lê Đức Thọ đưa ra bản dự thảo hiệp định, gần như đồng ư các đề nghị của HK. Bản dự thảo được Kissinger thông qua và một lịch tŕnh được tiến hành: Ngày 18/10, HK ngưng oanh tạc và tháo gở ḿn ở các cửa biển BV. Ngày 24/10 Kissinger và Thọ phê chuẩn bản dự thảo sau khi được chính phủ VNCH đồng ư. Ngày 26/10 bản văn hiệp định được kư kết tại Paris. Ngày 27/10 bắt đầu ngưng bắn.
Ngày 18/10/1972 Kissinger rời Paris đi Sàig̣n tŕnh bản dự thảo HĐ với chính phủ VNCH. TT Thiệu đ̣i sửa đổi 69 điểm trong dự thảo. Sau 5 ngày không thuyết phục được VNCH, ngày 23/10, Kissinger rời Sàig̣n, gởi điện báo cho Hà Nội, ông chưa thể đến Hà Nội phê chuẩn hiệp định như dự liệu. Một ngày trước đó, Kissinger gởi điện cho Nixon cho biết là vẫn hy vọng “có thể” giữ nguyên chương tŕnh đă định, tức chuyến đi Hà Nội. Nixon liền báo cho Phạm Văn Đồng. Do đó, Hà Nội tức tốc chỉ thị CS ở Miền Nam ra lịnh các địa phương chuẩn bị hành động khi có lịnh ngưng bắn.
Xế chiều ngày 25/10/1972, từ bản doanh Bộ Tư Lệnh Tiền phương Quân Đoàn I ở Phú Bài (Huế), tướng Ngô Quang Trưởng khẩn tŕnh TT Thiệu một tin tức quan trọng: Lực lượng Cảnh sát Quốc gia QK 1 vừa tịch thu một mật điện của Bộ Tư lịnh QK 5 CS gởi Bộ Chỉ huy Thị đội Tam Kỳ (Quảng Tín) cho biết một hiệp định ngưng bắn sẽ được kư kết ngày 26/10. Kèm theo mật điện là bản “Chỉ dẫn tổng quát về ngưng bắn”, hướng dẫn việc cắm cờ lấn đất giành dân và sách động đồng bào xuống đường mừng ḥa b́nh. Lợi dụng khí thế quần chúng, cán bộ CS hô hào đốt phá các cơ sở quân sự tiến tới cướp chính quyền.
TT Thiệu chỉ thị Bộ Tổng Tham Mưu chuyển cấp tốc tài liệu đó về Sàig̣n. Ngay trong đêm đó, chúng tôi đă thảo bản tin phổ biến cấp thời cho các địa phương và viết phiếu tŕnh Tổng TMT. V́ tính chất khẩn cấp, tờ tŕnh được chuyển thẳng lên Phủ Tổng thống. Sáng sớm hôm sau, 26/10 tôi được Tr/tá Ngọc -CHT Trung tâm Khai thác tài liệu, hướng dẫn đến Dinh Độc lập tŕnh bày chi tiết với Trung tướng Đặng văn Quang, Phụ tá An ninh Quân sự tổng thống. Tướng Quang cho biết, Kissinger vừa rời Sàig̣n ba ngày trước. Trong năm ngày ở đây để tham khảo với chính phủ về bản dự thảo hiệp định, ông ta không đề cập ǵ đến việc kư kết, mà chỉ đưa ra một phó bản hiệp định để hai bên thảo luận.
Trong khi chính phủ VNCH chưa biết ǵ về việc kư kết và ngưng bắn th́ tại Trung ương Cục Miền Nam và Quân khu 5 CS, cán bộ CS đă biết rơ ngày kư kết và giờ ngưng bắn có hiệu lực, để lợi dụng thời cơ đó chiếm ưu thế bằng cách lấn đất giành dân và cướp chánh quyền. Tại Củ Chi (Hậu Nghĩa), Hồng Ngự (Kiến Phong) và nhiều nơi khác, các đơn vị vũ trang CS tưởng có ngưng bắn thực sự, đă nhào ra đồng bằng cấm cờ lấn đất giành dân bị tổn thất nặng nề.
Để biện minh cho hành động thất tín, chiều 26/10/1972, Đài phát thanh Hà Nội công bố toàn văn bản dự thảo hiệp định bằng ba thứ tiếng Việt, Anh và Pháp với hai bức điện xác nhận sự thỏa thuận của TT Nixon. Hà Nội tố cáo HK lật lọng tráo trở v́ Kissinger đă hứa đi Hànội phê chuẩn rồi lại sai hẹn. Hai giờ sau khi Hà Nội công bố bản văn hiệp định, Kissinger mở cuộc họp báo tại Bạch Cung. Đây là lần đầu tiên, ông họp báo công khai thừa nhận: “Hoà b́nh hiện đang ở trong tầm tay, hiệp định đang ở trong tầm mắt thấy, đặt trên cơ sở đề nghị ngày 8/5 vừa qua của tổng thống…Đó là một đề nghị công bằng cho tất cả mọi phe”.
Một tuần sau khi đă mượn tay Hà Nội công bố toàn văn bản dự thảo HĐ Paris, ngày 3/11/1972, trong cuộc vận động cử tranh cử ở Rhode Island, Nixon tiết lộ thỏa ước ḥa b́nh đạt được với Bắc Việt phải đáp ứng ba điểm: Một là ngừng bắn toàn cơi Đông Dương. Hai là hồi hương tù binh Mỹ và giải quyết vấn đề người Mỹ c̣n mất tích trong cuộc chiến. Ba là nhân dân MNVN có toàn quyết định tương lai của họ. Ngày 7/11/1972 Nixon tái đắc cử vẽ vang.
Năm 1987, Ts Nguyễn Tiến Hưng đă thay đổi lịch sử khi viết quyển Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập. Tài liệu CS do Cảnh sát Quốc gia Vùng 1 tịch thu ngày 25/10 trở thành 17/10 (1972). Mục đích của ông Hưng: chứng minh Kissinger gian dối. Ngày 17/10/1972, CSBV đă chỉ thị thuộc cấp ở miền Nam biết ngày ngưng bắn để hành động. Hôm sau, ngày 18/10/1972 Kissinger đến Saig̣n lại giấu diếm VNCH. Sự kiện này được cựu TT Nguyễn Bá Cẩn ghi trong tác phẩm Đất Nước Tôi và Ts Larry Berman ghi trong quyển “No Peace, No Honor” (Không Ḥa B́nh, Chẳng Danh Dự: Nixon, Kissinger, Và Sự Phản Bội ở Việt Nam, dịch giả: Nguyễn Mạnh Hùng, đề tựa: Hoàng Đức Nhă).
Ngày 27/1/1973, HĐ Paris chính thức ra đời, nhưng Khmer Đỏ khước từ một giải pháp ḥa b́nh ở Cam Bốt tương tự như MNVN. Trong khi đó, CSBV tiếp tục vận chuyển người và vũ khí vào miền Nam, trên đường ṃn HCM, mà không c̣n sợ phi cơ Mỹ oanh tạc. Để giải quyết chung cuộc chiến tranh Đông Dương, Hoa Kỳ bắt đầu oanh tạc nặng nề các cơ quan đơn vị của Khmer Đỏ để buộc Pol Pot phải chấp nhận đàm phán ḥa b́nh. Ngày 15/8/1973 Quốc hội Mỹ buộc chính quyền Nixon phải chấm dứt mọi hành động quân sự ở Đông Dương. Giữa năm 1974, Đại tá Nguyễn Văn Tài -Tùy viên Quân lực VNCH ở Cam Bốt báo cáo Quân đội Lon Nol tịch thu được một số tài liệu CS quan trọng. Tôi và Trung tá CHT Trung tâm khai thác tài liệu, được cử sang Nam Vang công tác. Tài liệu tiết lộ CSVN gặp rất nhiều khó khăn v́ Khmer Đỏ.
Các lănh tụ Khmer Đỏ lên án Hà Nội kư Hiệp Định Paris để một ḿnh Campuchia gánh chịu bom đạn của Mỹ, trong khi hơn 40 ngàn quân Bắc Việt không chịu rút khỏi Campuchia. Khieu Samphan c̣n tố cáo CSVN có mưu đồ tiêu diệt những lực lượng ưu tú của Khmer Đỏ nhằm chuẩn bị biến chính quyền Campuchia sau ngày giải phóng thành một thứ đầy tớ thực sự cho Việt Nam. V́ thù hận đó, Khmer Đỏ bắt đầu thanh lọc nội bộ, tiêu diệt những thành phần Khmer Đỏ có khuynh hướng thân Việt Nam, và c̣n xóa sạch người Việt trong các vùng do chúng kiểm soát. Đồng thời Khmer Đỏ yêu cầu lực lượng vũ trang CSBV và Việt Cộng phải rời đất Miên tức khắc.
Việc phục hồi HĐ Paris 1973: Sau gần 8 năm trong tù cải tạo, tôi được phóng thích và vượt biên đến Úc đầu tháng 10/1984. Lúc bấy giờ CSVN đang sa lầy v́ cuộc chiến xâm lược Campuchia, bị cả thế giới lên án, Đại hội đồng LHQ luôn đ̣i Hà Nội phải rút quân khỏi Cam Bốt. Rơ ràng Hà Nội đă vi phạm điều 20 của HĐ Paris 1973: không tôn trọng nền trung lập của Campuchia, đă không rút quân khỏi Campuchia mà c̣n xâm lược. Hà Nội phải tuân thủ điều 20c: “Công việc nội bộ của Campuchia và Lào phải do nhân dân của mỗi nước này giải quyết, không có sự can thiệp của nước ngoài”.
Trong đàm phán Paris, chủ trương của TT Nixon là “ngừng bắn toàn cỏi Đông Dương”, HĐ ḥa b́nh về Việt Nam đă được kư kết ngày 27/1/1973, Hiệp định ḥa b́nh về Lào đă kư ngày 21/2/1973. Chỉ có Campuchia chưa có ngưng bắn để tái lập ḥa b́nh. V́ thế, tôi suy diễn HĐ Paris 1973 chưa thể thi hành. Nay CSVN xâm lược Campuchia bị LHQ lên án là cơ hội để HĐ Paris 1973 được thi hành trọn vẹn.
Tôi có cái cơ may được quốc gia giao phó nghiên cứu cuộc chiến Việt Nam. Nói đến chiến tranh Việt Nam phải nói đến Hiệp Định Paris 1973. Lê Đức Thọ và Kissinger được giải Nobel Ḥa b́nh. Hiệp định được một Hội nghị quốc tế bao gồm đầy đủ 5 Ủy viên thường trực HĐBA/LHQ với sự chứng kiến của ông TTK/LHQ long trọng tán thành và ủng hộ Hiệp Định Paris về chấm dứt chiến tranh và tái lập ḥa b́nh ở Việt Nam. Đồng thời ghi nhận những cam kết của các bên kư hiệp định sẽ tôn trọng triệt để và thi hành nghiêm chỉnh hiệp định.
Tôi và một vài anh em ở Trung tâm khai tài liệu CS (CDEC) được biết tin tức sơ khởi về bản hiệp định này. Sau đó đích thân tôi tường tŕnh Trung tướng Đặng Văn Quang - Cố vấn An ninh Quốc gia của TT Thiệu. Buổi chiều cùng ngày, khắp thế giới biết được bản dự thảo Hiệp định chấm dứt chiến tranh Việt Nam đă ra đời. Từ đó tôi cảm thấy có sứ mạng phải làm sáng tỏ cuộc chiến đau thương của dân tộc. Sau khi đến bến bờ tự do, năm 1987 tôi đă hoàn thành quyển nghiên cứu chiến tranh Việt Nam tựa đề “Việt Nam Thắng và Bại, Mất và C̣n”. Tôi có ư nghĩ đơn giản: (CS) Thắng đi liền với Mất (đất nước, tự do). Bại gắn liền với C̣n. Ngày CS bại, đất nước c̣n với tự do dân chủ.
Bookmarks