(tiếp theo)
7.7. Bác sĩ tốt nghiệp ở bên Tây
Lúc này Trại Nam Hà A có ba bác sĩ. Bác Sĩ Lê Thiện Điền mới từ Trại Vĩnh Quang A chuyển sang nhưng không được giao cho nhiệm vụ ǵ có liên quan tới chữa bệnh v́ Bác Sĩ Điền có “thành tích chửi Việt Cộng” ở Vĩnh Quang A. Bác sĩ Nguyễn Văn Thịnh là BS nhăn khoa, thiếu tá Không Quân/ QLVNCH. Bác sĩ Trương Như Quưnh là cựu giám đốc một bệnh viện lớn ở Sài G̣n trước ngày 30/4/1975. Bài này tôi viết riêng về BS Quưnh.
Tôi chưa có dịp tiếp xúc với BS Quưnh trong suốt thời gian ở Nam Hà A. Những ǵ tôi viết ra dưới đây là do tôi nhớ lại, không hoàn toàn, lời kể của GS Nguyễn Ngọc Diễm và của một vài người bạn tôi.
Bác sĩ Trương Như Quưnh là anh ruột của ông Trương Như Tảng, tác giả cuốn “A Viet Cong Memoir” (tạm dịch là Kư Sự Của Một Người Việt Cộng). Trước khi về Nam Hà, BS Quưnh bị giam ở Trại Hà Tây, và Việt Cộng cho ông làm ở bệnh xá của trại. Trong lúc này, Luật Sư Trần Văn Tuyên cũng đang bị giam ở Hà Tây và ông đă chết. Ông là một nhân vật làm chính trị ở Miền Nam trước đây, được nhiều người biết tiếng. LS Tuyên là một trong những người đầu tiên chết trong nhà tù Hà Tây. V́ ông là người nổi tiếng cho nên bọn cai tù tŕnh diễn xôm tụ lắm. Chúng mặc quân phục chỉnh tề và “kính cẩn” tới dự lễ mai táng LS Tuyên. Bên ngoài nh́n vào th́ nhiều người nghĩ rằng bọn Việt Cộng đối xử với LS Tuyên, “kẻ phản quốc”, như thế là quá tử tế. Tuy nhiên, đừng vội vă, ta hăy nhớ lại những vụ mà Hồ Chí Minh cùng đồng bọn đă ám hại chính đồng chí của chúng, sau đó lại tới trước linh cữu của nạn nhân để nhỏ dăm ba giọt nước mắt cá sấu, rồi cho tổ chức lễ quốc táng linh đ́nh, th́ cái chuyện bọn Việt Cộng làm ở Hà Tây đối với cái chết của LS Tuyên chỉ là giả dối hoàn toàn. Chúng tŕnh diễn để che mắt thiên hạ mà thôi.
Để đề pḥng những “dư luận xấu” về cái chết của LS Tuyên, chúng chỉ thị cho BS Quưnh làm một giấy xác nhận LS Tuyên chết v́ một nguyên do ǵ đó cho hợp lư mà không ai có thể chê trách bọn chúng được. BS Quưnh biết rơ ư đồ của bọn Việt Cộng về vụ này cho nên ông không dễ ǵ bị mắc lừa bọn chúng. BS Quưnh ghi trong giấy khám nghiệm là “Luật Sư Tuyên chết v́ tim ngừng đập” rồi đem nạp cho chúng. Rơ chán! Ai chết mà tim chả ngừng đập? Có ai tim c̣n đang đập mà đă chết? BS Quưnh đă phê một câu “huề vốn” như vậy, làm cho bọn Việt Cộng ức lắm. Chúng bèn trả thù ông ấy bằng cách bắt đi ra ngoài lao động, không cho làm tại bệnh xá nữa. Lao động th́ lao động, ông ấy đâu có ngán. Được vài tuần lễ, chúng lại phải đưa ông về bệnh xá làm việc. Đó là chuyện ở Hà Tây, sau đây là chuyện ở Nam Hà.
Nam hà có một thiếu úy Công An tên là Lực. Tên này phụ trách về điểm đầu người khi đóng và mở cửa buồng tù. Hắn cũng c̣n phụ trách khám xét những người ra gặp thân nhân thăm nuôi, ai mang lén thư từ mà bị khám phá th́ mệt với hắn. Khi tù mang đồ thăm nuôi vào th́ hắn khám xét rất kỹ rồi mới cho mang về buồng. Tù nhân trong trại đều không ai ưa v́ tính hống hách của hắn.
Một hôm, vợ hắn sanh đứa con thứ nh́ và bị băng huyết. Các y sĩ, bác sĩ Việt Cộng trên tỉnh đều bó tay. Vợ hắn chỉ chờ chết. Có người mách bảo hắn tới xin BS Quưnh chữa cho, biết đâu gặp đúng thày th́ sao.
Hắn nghe lời và đưa vợ tới gặp BS Quưnh, xin ông khám và chữa bệnh cho. BS Quưnh xem xét một lúc rồi nói với tên Lực rằng bệnh này dễ chữa thôi nhưng cần phải có thuốc, ở bệnh xá này chẳng có thuốc ǵ ngoài mấy viên xuyên tâm liên và mấy vị thuốc dân tộc (*); không có thuốc th́ chịu. Hắn tỏ vẻ lo lắng, không biết nói sao. BS Quưnh cho hắn biết tiếp rằng hiện ở trại này có một người sẵn thuốc, người đó là Đại Tá Phạm Kim Quy. Nếu hắn được ông ấy cho thuốc, th́ vợ hắn sẽ thoát chết.
(*) Việt Cộng gọi dược thảo (herbs) là thuốc dân tộc.
Đại Tá Phạm Kim Quy mới được gia đ́nh ở bên Pháp gửi về cho rất nhiều thuốc tây, ông phải tới nhờ Bác Sĩ Quưnh chỉ dẫn cho ông cách dùng một số thuốc mà ông chưa biết. V́ thế mà Bác Sĩ Quưnh biết Đại Tá Quy có thuốc.
Lực đem toa thuốc của BS Quưnh tới gặp Đại Tá Quy. Rất may cho Lực là Đại Tá Quy cho hắn ta thuốc, đem về cho BS Quưnh chỉ cách sử dụng. Chỉ vài ngày sau là bệnh của vợ Lực thuyên giảm, và tiếp mấy ngày nữa th́ bệnh khỏi hẳn. (Xin đừng nhầm lẫn với Hoàng Kim Quy, một người nổi tiếng ở Sài G̣n trước 30/4/75, h́nh như ông có biệt danh là Vua Kẽm Gai?)
Kể từ sau khi vợ Lực được cứu sống, Lực thay đổi hẳn thái độ đối với tù Việt Nam Cộng Hoà. Hắn không c̣n hống hách như trước đây nữa. Nhiều người, trong đó có GS Diễm, khi ra gặp thân nhân thăm nuôi, Lực khám thấy có thư giấu trong người, hỏi của ai, người nào cũng trả lời là của Đại Tá Quy, Lực cho phép mang ra ngoài mặc dù biết rằng họ nói xạo, Đại Tá Quy nếu có th́ cũng chỉ một hai lá thư thôi, chứ làm ǵ mà cả một xấp. Khi khám đồ tiếp tế cũng vậy, cái ǵ thuộc loại “quốc cấm”, cứ nói là của Đại Tá Quy th́ xong ngay. Riết rồi, việc khám xét ra vô cổng coi như là có cũng như không.
Trước tháng 4/1975, Đại Tá Quy thế nào th́ không biết, nhưng từ ngày vào tù, Đại Tá Quy là người rất tốt đối với bạn tù, không phân biệt già trẻ lớn bé, ai cũng được đối xử như nhau.
BS Quưnh là một người rất dí dỏm. Khi ai bị bệnh mà ông chữa không khỏi, ông thường nói đùa rằng bệnh không khỏi là do không có thuốc, chứ không phải là do bác sĩ đâu nhé, bác sĩ này tốt nghiệp ở bên Tây đấy. Người nào tới khám bệnh mà có thuốc riêng th́ chắc là khỏi. Người không có thuốc, chỉ nhờ mấy thứ thuốc lá cây, khó mà hết bệnh.
BS Quưnh dần dần bị đui hai mắt, mắt có cườm, chẳng nh́n thấy ǵ. Tuy vậy, Việt Cộng vẫn để ông làm BS chính của bệnh xá, trong khi BS Thịnh chỉ làm phụ tá thôi. Mọi công việc khám bệnh, trị bệnh đều do BS Thịnh. C̣n BS Quưnh quay ra dịch truyện Kiều sang Pháp Văn để giải khuây. Ông nhờ một anh trung sĩ (Trước đây là thông ngôn, bị tù v́ đi theo tầu VNTT về nước) viết giùm. Anh trung sĩ này cũng là người làm ở bệnh xá cho nên có cơ hội giúp BS Quưnh viết ra câu Pháp Văn khi nghe ông đọc.
Nhân chuyện này, tôi có một suy nghĩ như sau: Một thanh niên Việt Nam du học từ lúc 19 – 20 tuổi, khả năng Việt Ngữ của anh ta khi đó đâu có là bao. Sang tới Pháp, mọi sự từ học hành đến giao tiếp hằng ngày đều dùng tiếng Pháp. Vậy th́ BS Quưnh có đủ khả năng để dịch Truyện Kiều sang Pháp Văn không? Trong Truyện Kiều có rất nhiền điển tích, nếu không hiểu điển tích th́ làm sao dịch cho đúng ư của cụ Nguyễn Du. Hay là dịch theo trường phái “Biển Dâu” th́ hỏng bét.
Báo chí ở Hoa Kỳ, cách đây hơn mười năm, đă dùng nhóm chữ “Trường phái Biển Dâu” để chế nhạo một vị “giáo sư” đă dùng chữ “mulberry sea” để dịch nhóm chữ “biển dâu” trong câu “Trải qua một cuộc biển dâu…” của cụ Nguyễn Du. Hoặc một vị cựu nghị sĩ Việt Nam Cộng Ḥa nào đó đă dùng nhóm chữ “Thọ Xương chicken soup” để dịch nhóm chữ “canh gà Thọ Xương” trong câu “Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương.”
Vài tuần trước đây, khi nói chuyện với GS Diễm, tôi nêu ra thắc mắc trên đây về khả năng Việt Ngữ của BS Quưnh, GS Diễm không đồng ư với tôi, ông cho biết đại ư như sau:
Khi ở Nam Hà, lúc đó BS Quưnh đă mù rồi, mỗi cuối tuần GS Diễm đều tới chuyện tṛ với BS Quưnh một vài tiếng đồng hồ. Ông thấy BS Quưnh nói tiếng Việt rất chuẩn, tiếng Việt ông dùng thường là tiếng Việt bác học, không phải b́nh dân đâu. Vả lại, BS Quưnh có một trí nhớ thật là đặc biệt. Điển h́nh là, ông có một cuốn album dầy hơn một trăm trang, trong đó có đủ h́nh ảnh của gia đ́nh ông. Ông đưa cho GS Diễm coi cuốn album, và bảo ông Diễm cứ mở ra coi, trang nào có thắc mắc về h́nh chụp người nào th́ cho ông biết số trang và vị trí dán tấm h́nh (phải, trái, trên, dưới), ông sẽ giải thích cho. Giáo Sư Diễm lật mấy trang và hỏi thử xem sao, th́ thấy ông nhớ như là ông đang nh́n vào album vậy. Thử hỏi, với trí nhớ đó th́ khi trở về Việt Nam, ông trau giồi thêm tiếng Việt đâu có khó khăn ǵ. Thêm một điều nữa là, ông ra khỏi tù năm 1988, GS Diễm thường tới nhà ông chơi và được nói chuyện với bà cụ thân mẫu của ông, th́ được biết thêm rằng ông thuộc ḍng dơi nho gia. Với cái gốc nho gia th́ ông phải giỏi tiếng Việt. Do đó, GS Diễm kết luận, rằng điều mà tôi nghi ngờ, có thể đúng cho ai khác, chứ không đúng cho BS Quưnh đâu.
Sau khi ra tù, BS Quưnh mổ màng mắt và lại nh́n được rồi. Ở trong tù, mặc dù có BS Thịnh chuyên về nhăn khoa nhưng không mổ được v́ thiếu dụng cụ mổ xẻ. Tới đây là hết chuyện về BS Quưnh.
7.8. Bắt phanh trần, phải phanh trần…
Bác Sĩ Quưnh có một phụ tá là Bác Sĩ Nguyễn Văn Thịnh. BS Thịnh chuyên về nhăn khoa, là thiếu tá Không Quân ở Vùng 4 Chiến Thuật. Từ ngày BS Quưnh bị mù, BS Thịnh trở thành bác sĩ toàn khoa, trị bệnh từ ngón chân lên tới đỉnh đầu. Thỉnh thoảng BS Thịnh c̣n làm bác sĩ giải phẫu (lậu) nữa.
BS Thịnh là một người rất vui tính và có máu tếu trong người. Năm ba người ngồi nói chuyện với ông th́ thế nào cũng có những tràng cười xen kẽ. Ông cũng giống BS Điền là, không bao giờ ông dùng hai chữ “cách mạng” nhưng khác BS Điền ở chỗ ông không nói thẳng trước mặt tụi nó. Khi nói chuyện với bạn tù, ông luôn luôn dùng những chữ “Việt Cộng, thằng Việt Cộng, con Việt Cộng” để chỉ tụi nó. V́ tính t́nh ông vui vẻ cho nên ai cũng quư mến ông.
Ngày xưa, Đỗ Mười làm nghề hoạn lợn, ngày nay Bác Sĩ Thịnh làm nghề thiến người (cắt ống dẫn tinh). Chả là, có một vị tướng trẻ (miễn nói tên) đoán rằng chẳng bao lâu nữa bọn Việt Cộng sẽ phải thả tù ra, dĩ nhiên có ông trong đó. Đúng là tướng có khác! Ông vẫn không quên được tác phong của một cấp chỉ huy, ông luôn luôn nhớ câu châm ngôn “Chỉ huy là tiên liệu.” Ông đă tiên liệu đến những chuyện phải làm khi được thả ra. Thế nào kỳ này về “ta sẽ phải lănh ráp-pen cho thằng nhỏ đă đời” mới được (ráp pen là chữ Pháp được Việt hoá, thường dùng trong quân đội; rappel = truy lănh lương bổng, lănh một lúc mấy tháng lương v́ trước đây chưa được lănh). “Thằng nhỏ” của ông tướng đă lâu lắm rồi không được “lănh lương”, có thể của vợ mà cũng có thể của bồ, ai mà biết được. Để đề pḥng trường hợp vợ/bồ lỡ phải mang ba bô trước bụng, cách hay nhất là ông đi thiến. Tiên liệu như vậy là hết sẩy!
Ông tướng năn nỉ Bác Sĩ Thịnh cắt ống dẫn tinh cho ông. Bác Sĩ Thịnh biết rằng ông không được phép làm như vậy. Tuy nhiên, v́ nể lời ông tướng, Bác Sĩ Thịnh làm liều.
Kể ra th́ BS Thịnh cũng mát tay, đang hành nghề mổ mắt mà chuyển sang mổ “chim” cũng thành công mỹ măn. Nhưng đâu có ngờ…
Sau khi mổ, bệnh nhân được căn dặn là tránh đi lại nhiều để khỏi bị bung đường chỉ may. Ông tướng v́ ham vui mà “quên lời mẹ dặn”, thích tham gia vào mấy bàn mạt chược và x́ phé. Ông tướng lại nằm ở tầng trên, muốn chơi bài th́ phải leo xuống tầng dưới, xong th́ lại leo lên tầng trên. Cứ thế ông làm liên tiếp mấy ngày th́ chỉ may con chim làm sao chịu thấu. Chỉ may bị đứt, máu chảy ra, làm độc cả vùng hạ bộ. Thuốc trụ sinh cũng không khỏi trừ khi phải mổ ra khâu lại. Việc này th́ BS Thịnh bó tay v́ bệnh xá không đủ dụng cụ. Ông tướng được chở đi bệnh viện tỉnh cấp cứu. Thế là việc mổ lậu của BS Thịnh bị đổ bể, ông bị BS Quưnh khiển trách nặng lời. Tiếp theo là trại kư lệnh giam BS Thịnh vào nhà kỷ luật 15 ngày (?). Rất may là BS Thịnh được ḷng mọi người, từ bạn tù tới bọn Việt Cộng. Trại kư lệnh giam là để đề pḥng cấp trên hỏi đến th́ có chứng cớ rằng trại đă áp dụng kỷ luật với đương sự. Thực tế, th́ BS Thịnh không phải đi nằm nhà kỷ luật.
Trong những lúc vui bạn bè, ông thường nói đùa: “Từ ngày con cu theo ḿnh đi ở tù, nó chỉ làm mỗi một nhiệm vụ là đi đái, c̣n nhiệm vụ khác th́ bỏ luôn.” (Có sẵn đâu mà không bỏ luôn?). Ngoài ra, ông thường hay nhái thơ của cụ Nguyễn Du.
Thơ Nguyễn Du:
Bắt phong trần, phải phong trần,
Cho thanh cao, mới được phần thanh cao.
Thơ nhái của BS Thịnh:
Bắt phanh trần, phải phanh trần,
Cho mai-ô, mới được phần mai-ô.
(mai-ô là tiếng Pháp được Việt hoá mà dân Bắc Kỳ 54 hay dùng; maillot = áo lót/áo thun).
7.9. Cụ Trần Trung Dung
Cụ Trần Trung Dung là một nhân vật mà ở miền Nam Việt Nam trước 1975 được nhiều người biết. Ở trong trại tù Cộng Sản, Cụ là một trong vài người lớn tuổi nhất nên được nhiều người nể trọng. Tôi chưa nghe ai chê trách Cụ điều ǵ trong thời gian tôi ở Trại Nam Hà A cùng với Cụ. Ngoại trừ một chuyện, theo như lời truyền miệng của mấy tướng lănh cùng ở chung với Cụ, là Cụ đă “chê bai các vị sĩ quan cao cấp của Việt Nam Cộng Ḥa.”
Vào mùa hè 1983, gần tới tháng năm, Việt Cộng cho chiếu lại cuốn phim “Chiến Thắng Điện Biên Phủ ngày 7 tháng 5 năm 1954” của quân đội Việt Minh đối với quân Pháp. Lần chiếu này chỉ dành cho một số khán giả chọn lọc, từ hàng đại tá và giám đốc sở trở lên. Sau khi xem xong cuốn phim, chúng bắt người xem phải viết bài “thu hoạch”. Bài thu hoạnh của Việt Cộng cũng giống như là một bài kiểm tra sự tiếp thụ bài học của mỗi học viên.
Mục đích của chúng là muốn cho học viên phải ca ngợi “Chiến thắng thần thánh của Quân Đội Nhân Dân anh hùng.” Thần thánh cái con khỉ khô ǵ! Sau khi rảnh tay ở chiến trường Đại Hàn, Trung Cộng đă dồn nỗ lực giúp cho Việt Minh đánh Pháp. Ngoài việc yểm trợ vũ khí và đạn dược dồi dào, Trung Cộng c̣n cử Đại Tướng Trần Canh và một Ban Tham Mưu sang Việt Nam, bề ngoài gọi là làm cố vấn, nhưng thực chất là chỉ huy cuộc chiến chống quân Pháp. Việt Nam chỉ được “vinh dự” đóng góp xương máu của mấy chục ngàn người vừa quân sĩ vừa dân công. Vơ Nguyên Giáp chỉ là một thứ “Thiên lôi chỉ đâu đánh đó,” Trần Canh bảo sao th́ làm vậy. Ấy thế mà khi thắng trận Điện Biên Phủ, Vơ Nguyên Giáp đă nghiễm nhiên trở thành người hùng Điện Biên Phủ mới là hay (v́ Trung Cộng đâu có dám ra mặt nhận công trạng đó là của ḿnh).
Hầu hết các vị tướng lănh đều nghĩ rằng tụi nó (Việt Cộng) muốn ḿnh “thổi ống đu đủ” th́ ḿnh cứ thổi, thổi cho nó ph́nh bụng ra rồi nổ tung, cho chết mẹ tụi nó. Các tướng viết mỗi người dăm bảy trang giấy rồi đem nộp cho xong chuyện.
Trái lại, Cụ Trần Trung Dung th́ nghĩ khác. Cụ đă viết gần hết một quyển vở 100 trang và nộp cho quản giáo. Đến ngày phê b́nh - kiểm điểm tại buồng, tên quản giáo chơi xỏ, khi đến bài viết của Cụ Trần Trung Dung, hắn chỉ đọc lên vài trang trong đó ghi phần nhận xét của Cụ về sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Trong phần này, Cụ chê các sĩ quan cao cấp của Việt Nam Cộng Ḥa đa số là bất tài, chỉ toàn là loại sống lâu lên lăo làng. Khi đă có quyền bính trong tay th́ lại tham nhũng hối lộ (nhưng vẫn c̣n thua xa Việt Cộng bây giờ, ghi chú của người viết). Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm Miền Nam mất sớm. Khi nghe đọc phần này của Cụ, các vị tướng rất tức giận. Chỉ ngày hôm sau là tin này đă được loan truyền đi các buồng, rằng Cụ Dung đă đứng về phe địch để nói xấu sĩ quan Miền Nam. Nghe tin này, tôi cũng hoang mang, sao lại có chuyện lạ như thế được? Tôi đem chuyện này nói lại với một số bạn thân của tôi để xem họ nghĩ sao. Một người bạn trong số này, mà tôi không nhớ tên, có sự quen biết với Cụ Dung, đă cho tôi biết sự việc như sau:
Đó chẳng qua chỉ là một sự hiểu lầm do ác ư của tên quản giáo gây ra. Nó muốn làm giảm uy tín của Cụ Dung, và gây chia rẽ giữa hàng ngũ chúng ta thôi. Nó chỉ đọc có mấy trang Cụ chê hàng tướng lănh Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa nhưng nó không đọc lên cái phần mà Cụ nhận định về những sĩ quan trung cấp. Cụ nói những sĩ quan trung cấp của QL/VNCH là những người đă được đào tạo chu đáo cả về quân sự lẫn văn hóa; họ có thực tài và đầy nhiệt huyết, đầy ḷng yêu nước. Vả lại họ cũng chưa có t́ vết ǵ về tham nhũng cả. Tiếc thay! Cờ chưa đến tay họ th́ đă mất Miền Nam. Tên quản giáo lại càng không dám đọc những lời Cụ chê bọn Việt Cộng từ trên xuống dưới. Cụ viết dài lắm, gần một trăm trang giấy học tṛ bởi v́ Cụ muốn nhân dịp này, Cụ viết một tác phẩm để đời, coi như là một bài viết cuối đời của Cụ để lại cho lịch sử. Trong đó, Cụ nhận định về thời thế, về quân đội của hai miền Nam-Bắc, về đường lối cai trị của đảng Cộng Sản Việt Nam, v.v… Và điểm cuối cùng, Cụ kết luận rằng nước Việt Nam muốn thoát ra khỏi cảnh nghèo đói lạc hậu, muốn thoát ra khỏi nanh vuốt của bọn Tầu phương Bắc th́ bắt buộc phải đi với Mỹ, phải bỏ nền kinh tế chỉ huy mà đi theo kinh tế thị trường tự do. Đó là con đường bắt buộc v́ không c̣n con đường nào khác để chọn lựa.
Nghe được lời giải thích của người bạn, tôi yên tâm và đồng thời cũng tiếp tay để hóa giải những lời đồn thất thiệt về Cụ Dung. Câu chuyện dần dần trở nên lắng đọng.
Bây giờ, sau 25 năm (2008 – 1983) nh́n lại, th́ rơ ràng lời nói của Cụ Dung không sai. Cụ đă nh́n trước được cái thế mà Việt Cộng đang cố gắng theo đuổi lúc này. Cụ Dung cũng sang Mỹ sau khi ra tù, nhưng nghe nói cụ đă qui tiên rồi!
7.10. Sợ lây bệnh cùi
Tôi làm vệ sinh ở buồng, không có dịp đi ra ngoài lao động. Những chuyện xẩy ra bên ngoài, tôi đều nghe anh em bạn tù kể lại. Câu chuyện dưới đây, tôi viết lại theo lời kể của anh Nguyễn Quang Ngọ và Vơ Tấn Tài.
Khu vực lao động của đội tôi có tên là thung Gianh v́ nó có rất nhiều cỏ tranh (một thứ cỏ mà người ta dùng để lợp mái nhà). Người Bắc, nhất là vùng Nam Định và Hà Nội thường đọc vần TR và GI như nhau. Nghe dân vùng này đọc là Gianh th́ tôi viết là Gianh, có lẽ viết là Tranh th́ đúng hơn. Thung là tiếng tắt chỉ cái thung lũng.
Thung Gianh ở cách trại hơn ba cây số (2 miles); trong vùng này có rất nhiều hang động v́ đây là khu vực núi đá vôi. Đội của Ngọ thường vào thung Gianh trồng sắn. Ở đây có một làng cùi, phỏng độ vài ba trăm người, nặng nhẹ đều có cả. Một lần đi trồng sắn, lúc nghỉ giải lao, anh Giang (tr/tá, đă chết sau ngày ra tù) gặp một ông đứng tuổi, mặc vét đàng hoàng, hai tay bỏ trong túi quần, có lẽ ông này là trưởng ấp ở đây. Sau này được biết thêm, xóm này gọi là trại phong (cùi) Ba Sao. Anh Giang gật đầu chào th́ ông này đưa tay ra bắt tay. Anh Giang cũng đưa tay ra, nhưng mới được nửa chừng th́ Giang phát giác ra ông này bị cùi v́ mấy ngón tay đă rụng gần hết. Anh Giang sợ quá nhưng lỡ trớn rồi th́ phải liều thôi.
Nói được dăm ba câu, ông cùi mời anh Giang ghé nhà ông (gần bên) uống nước. Anh Giang, trước khi vào nhà ông th́ quay lại ra hiệu cho các bạn đừng vào theo anh. C̣n anh th́ cũng phải lịch sự vào nhà nhưng anh không dám đụng đến thứ ǵ trong đó. Nói tiếp dăm ba câu nữa, rồi anh lấy cớ hết giờ nghỉ, cáo lui. Ra tới ngoài, anh kể lại cho bạn bè nghe, ai cũng ớn xương sống. Nhân vụ này, mọi người mới sực nhớ và thốt lên: “Chết mẹ rồi! thằng Huỳnh Chí Tài nó nói rằng nó mua đồ ở thung Gianh về cho anh em ḿnh ăn, như vậy đúng là nó mua đồ ở làng cùi này, chứ c̣n đâu nữa. Coi chừng cả đội bị lây bệnh cùi mất thôi.”
Huỳnh Chí Tài có máu Tầu (buôn bán) trong người, cho nên đi tới đâu hắn cũng làm công việc mua bán đổi chác để kiếm ăn thêm. Tài thường vào trại phong, mua đồ ăn v́ giá rất rẻ, như bánh chưng, bánh dày, chuối… Từ ngày biết đây là trại cùi, công việc làm ăn của Tài tự động dẹp bỏ.
Tôi xin kể thêm một chút về Huỳnh Chí Tài.
Tài thuộc loại nhà giàu, ở Chợ Lớn, đi đâu cũng mặc vét và có xe hơi riêng. Kẹt tuổi quân dịch, Tài xin vào làm lính kiểng của ngành Dân Sự Chiến Đấu (DSCĐ). Loại lính này do Mỹ trả lương nhưng không có số quân. Tuy nhiên, người mang thẻ DSCĐ vẫn được coi là hợp lệ t́nh trạng quân dịch khi bị cảnh sát hỏi giấy tờ.
Từ khi Chí Tài trở thành lính DSCĐ, Tài phét lác với cḥm xóm rằng Tài làm cho CIA. Cḥm xóm cũng tin như vậy v́ Tài luôn luôn mặc vét và ngồi xe hơi. Thỉnh thoảng, Tài lại đi một đường ngoạn mục là, mời mấy quan lớn (Trại Trưởng LLBB và tùy tùng) về ăn nhậu um xùm gần nhà Tài để cho bà con lé mắt chơi. Cḥm xóm nh́n thấy toàn là đồ rằn ri, súng M-18, xe Jeep có cần câu (ăng ten) chạy tới chạy lui th́ làm ǵ mà chẳng nghĩ rằng Tài “làm lớn”. V́ vậy mà sau ngày 30/4/75, bọn Việt Cộng nằm vùng chỉ điểm cho “Cách Mạng” tới mời Tài đi tù.
Vào trong tù, Tài chẳng biết ǵ mà khai báo. Ngay cả cái tên ngành lính của ḿnh mà Tài cũng c̣n ấm ớ. Đúng ra phải nói là Dân Sự Chiến Đấu, th́ Tài khai là Biệt Kích Dân Sự. Việt Cộng chẳng thấy có ngành nào trong QL/VNCH gọi là Biệt Kích Dân Sự cả, thôi th́ cứ nhốt cái đă, “giết lầm c̣n hơn bỏ sót” là đường lối của Việt Cộng mà. Đó là lư do mà Tài bị đưa ra Bắc và ở tù lâu. Khi tôi được tha (8/1984), Tài vẫn c̣n bị tù.
Trở lại chuyện trại cùi, Ngọ nói: “Cho đến bây giờ, bọn ḿnh chưa thấy ai dính bệnh cùi là phúc lắm rồi. Khi khám phá ra vụ ăn uống đồ ăn do người cùi làm, tụi này có hỏi Bác Sĩ Lê Thiện Điền th́ được ông giải thích rằng vi trùng cùi khi gặp ánh sáng mặt trời là nó sẽ chết. Tuy nhiên, lúc đó bọn này vẫn c̣n nửa tin, nửa không. Bây giờ th́ yên tâm rồi.”
(c̣n tiếp)
Bookmarks