Bí mật những chiến dịch không kích của Mỹ vào Bắc Việt Nam.
Tác giả: Cảnh Dương, Đông A.
P31
Bốn năm sau lệnh tạm dừng ném bom, tàu Oriskany đă trở lại trạm Yankee Station với mục đích: Họ một lần nữa phá hoại chiếc cầu nhỏ vốn đă bị ném bom nhiều đến mức chu kỳ của nó đă giống như việc trồng và thu hoạch lúa ở những cánh đồng xung quanh. Người Mỹ đánh bom, người Bắc Việt sửa chữa.
Cuộc không chiến thực tế chưa bao giờ dừng lại. Các phi đội bay Hoa Kỳ đă không từ bỏ và trở về nước sau năm 1968. Họ tiếp tục thực hiện các chuyến bay thực hiện nhiệm vụ do thám trên bầu trời Bắc Việt Nam và đă chuyển hành động bị cấm sang mục tiêu khác - con đường Hồ Chí Minh ở Lào. Hệ thống viện trợ của Bắc Việt Nam được thực hiện bởi các chuyến tàu của Liên Xô qua cảng Hải Pḥng bằng đường biển và qua đường sắt Trung Quốc. Hàng viện trợ sau đó được chuyển đến phía nam thành phố Vinh và từ đó tới biên giới Lào, nơi chúng được vận chuyển trên đường ṃn Hồ Chí Minh. Mặc dù chỉ có chiều dài hơn 210 dặm nhưng đường ṃn Hồ Chí Minh thật sự là một hệ thống nhằng nhịt trong khu rừng rậm rất khó quan sát và khó đánh, ước tính có hơn 3000 dặm đường bộ. Con đường ṃn này đă bị ném bom từ năm 1965, nhưng sau khi có lệnh dừng đánh bom năm 1968, các chuyến bay của Hoa Kỳ trên lănh thổ Lào đă tăng gấp ba lần; từ 150 đến 450 lượt mỗi ngày.
Với việc khó đánh vào Lào, Richard Nixon đă quyết định mở rộng ném bom sang nước thứ ba thuộc Đông Dương: Campuchia. ông ta đổ lỗi cho cuộc tấn công của Việt Cộng ở Nam Việt Nam, được thực hiện ngay sau một tháng ông lên nhận chức. Người Mỹ, dưới sự chỉ huy của tướng Creighton Abrams, người thay thế tướng William Westmoreland, cũng đă có hành động tấn công. Liệu cộng sản phản ứng lại hành động của Mỹ trên mặt trận hay thực hiện các công việc của họ theo chiến lược thảo luận - chiến tranh vẫn chưa được biết, cho dù có thể có sự kết hợp cả hai biện pháp.
Dù sao, Nixon cũng đă coi cuộc tấn công của Việt cộng là nhằm phá hoại bản thân ông ta. Ông ta tin rằng cộng sản đă không cho ông cơ hội thể hiện ông đă có ư định tiến tới các cuộc đàm phán hoà b́nh ở Paris như thế nào. Hơn nữa, như đổ thêm dầu vào lửa, cuộc tấn công đó lại bắt đầu vào ngày mà Nixon thực hiện chuyến thăm đầu tiên tới châu Âu trên cương vị Tổng thống. Các biện pháp trả đũa Việt Cộng của Nixon rất hạn chế. Ông ta và cố vấn hiểu rằng không thể thực hiện tái đánh bom vào Bắc Việt Nam. Hiệp định dừng ném bom đă dấy lên hy vọng hoà b́nh, và Nixon đă vận động tranh cử bằng lời hứa t́m ra giải pháp cho cuộc chiến ở Việt Nam. V́ lẽ đó, Nixon quyết định đáp trả cuộc tấn công của Việt Cộng bằng cách đánh bom vào những nơi trú ẩn của người Bắc Việt ở Campuchia, thuộc giới hạn của máy bay Mỹ bởi v́ Campuchia được coi là một nước trung lập. Hành động này của Nixon được Henrry Kissinger, cố vấn an ninh quốc gia ủng hộ. Henrry Kissinger về sau đă thú nhận trong cuốn hồi tưởng rằng thất bại trong việc đánh trả cuộc tấn công của Hà Nội "có thể thiêu cháy hy vọng thương thuyết của chúng ta; chỉ có Hà Nội mới có thể tuyên bố các điều khoản và đó là dấu hiệu vô dụng của Nixon khi đối mặt với áp lực trong nước ...".
Các cuộc tấn công vào Campuchia được thực hiện không phải bằng máy bay ném bom bổ nhào mà bằng những chiếc B52 chiến lược. Chúng đă thả hàng loạt bom trên một khu vực rộng lớn. Một chiếc B52 có thể mang 24 tấn bom, nhiều hơn tất cả các máy bay phi đội 162 gộp lại. Để tránh dư luận báo chí, quân đội Mỹ đă thực hiện kế hoạch đánh ngụy trang. 12 trong số 60 chiếc B52 đă được đưa đến thực hiện ném bom vào các mục tiêu ở Nam Việt Nam, số c̣n lại đánh vào Campuchia.
Đó là khởi đầu của các nhiệm vụ bí mật. Phi đội B52 được giao nhiệm vụ tấn công vào Nam Việt Nam, sau đó một số chiếc được đưa ra ngoài và cho biết trong khi đang thực hiện nhiệm vụ, họ thường nhận được các hướng dẫn đặc biệt từ một trạm radar dưới mặt đất. Các trạm radar này điều khiển máy tính trên B52 và hướng dẫn mục tiêu của họ ở Campuchia. Những nhiệm vụ này được thông báo công khai khi xảy ra ở Nam Việt Nam. Thủ đoạn che mắt tấn công của người Mỹ đă không bị lộ cho đến khi có các cuộc điều tra của Watergate năm 1973.
Cuộc đánh bom vào Campuchia bắt đầu vào ngày 18 tháng 3 năm 1969, là một điển h́nh về h́nh thức không chiến được thực hiện trong ba năm tới: Bí mật, tăng cường một cuộc tấn công đường bộ thông thường bằng xe tăng và các đơn vị bộ binh hùng hậu vào lễ Phục sinh năm 1972. Nixon từ bỏ chính sách bí mật, thực hiện lại các vụ đánh bom công khai vào Bắc Việt Nam. Và tàu Oriskany đă được đưa trở lại nhằm tấn công vào cầu Cổ Chai.
Chính sách ném bom của chính quyền Johnson và Nixon rất khác nhau. Trong thời kỳ Johnson, chiến lược không chiến được đưa ra bởi nhiều quan chức khác nhau, c̣n trong chính quyền Nixon, chiến lược không chiến hầu như được quyết định bởi hai người: Tổng thống và cố vấn an ninh quốc gia của ông ta. Bởi vậy vai tṛ của từng vị Tổng thống trong cuộc chiến Việt Nam cũng khác nhau, và cũng có thể dễ dàng nhận ra vai tṛ của từng người dưới thời Nixon hơn.
Bên cạnh sự sáng suốt đă được thể hiện, Henry Kissinger c̣n có óc khôi hài, dường như chứ không phải thật sự không hài ḷng về bản thân. Điều này phù hợp với tính hài hước của các tờ báo Washington. Nhiều nhân viên báo chí đó đến từ các thị trấn nhỏ ở miền Nam và Trung Tây, thường thích moi móc tin tức theo cùng một kiểu mà người Do Thái nhập cư hay thể hiện về thành công hay thất bại của họ. Một phần v́ leơ đó, Kissinger có quan hệ với báo chí tốt hơn bất kỳ quan chức chính phủ nào kể từ thời John F-Kenedy. Những người ủng hộ Kissinger trong giới truyền thông thường coi ông ta là nhà chính trị gia thật sự đúng nghĩa, và những kẻ phản đối dường như không thể t́m ra được lời chỉ trích mạnh mẽ nào hơn là kết tội ông ta quá quỷ quyệt. Phải thừa nhận rằng, điều này giống như b́nh sữa mẹ nuôi dưỡng các nhà ngoại giao thành công nhất trong lịch sử. Thậm chí Seymous Hersh, một nhà sử học nghiêm túc người đă trở nên nổi tiếng với việc vạch trần tội giết người hàng loạt ở Mỹ Lai, dường như cũng đă hết lời ca ngợi, tâng bốc Kissinger lên cao tận trời xanh.
Điều có thể nói về vai tṛ của Kissinger trong việc xây dựng chính sách đánh bom chính là việc ông ta đă tiếp tục chơi tṛ hai mặt. Kissinger đă tự thể hiện có một ảnh hưởng trung hoà đối với Nixon trên giới truyền thông, trong khi lại cố vấn riêng cho Tổng thống rằng đánh bom có thể sẽ thể hiện những đặc điểm hiếu chiến của giới diều hâu. Người ta nhận ra chân dung Kissinger trong suốt đợt đánh bom vào thời gian Giáng sinh năm 1972, khi báo chí bắt đầu phỏng đoán rằng Kissinger đă từng phản đối quyết định gây nhiều tranh căi của Nixon trong việc sử dụng B52 đánh vào Hà Nội. Ông ta phủ nhận trong cuốn hồi tưởng rằng ông ta đă cho các nhà báo biết ông phản đối cuộc ném bom, nhưng lại thêm vào: "Tôi chắc đă làm ǵ đó mới gây ra sự suy đoán như vậy, một phần là phản ứng của tôi trước vụ lộn xộn tuần trước, một phần là do bản thân cá nhân cũng mong muốn cuộc chiến đi theo hướng khác".
Thái độ của Nixon về việc đánh bom rơ ràng hơn và khác hơn so với Lyndon Johnson. Johnson nhận thấy những viên chỉ huy quân sự quá hiếu chiến. Ngược lại, Nixon cho rằng họ quá cẩn trọng. Năm 1972, trong một cuốn băng thu âm cuộc họp tại Nhà Trắng, Nixon nói: "Các mục tiêu chưa bao giờ bị đánh bom như lần này, nhưng các ông phải tuỳ thuộc vào điều kiện thời tiết”.
“Thời tiết ở đó vẫn c̣n xấu lắm sao?" John Mitchell hỏi.
"Hừ” Nixon nói, "không phải vậy, không lực không xứng, tôi muốn nói là họ sẽ không bay”. V́ vậy cần xem xét kỹ lưỡng thái độ trái ngược của Nixon đối với Johnson, người chống đối mạnh mẽ các hành động quân sự đánh vào các mục tiêu như Phúc Yên (theo cách gọi của ông ta).
Tất nhiên, trong suy nghĩ manh động của ḿnh, nhân tố hạn chế đối với Nixon chính là việc Lyndon Johnson đă cho ngừng đánh bom vào Bắc Việt Nam, và đến tận 1972, Nixon mới cảm nhận được áp lực chính trị do việc công khai thực hiện tái đánh bom. Dù vậy, đầu năm 1971, chính sách của ông ta đă trở thành hành động hiếu chiến hơn. Các phi công đang bay do thám trên Bắc Việt lần đầu tiên được phép chạy trốn nếu như họ bị pháo binh hoặc tên lửa đe doạ. Giờ đây, họ c̣n được phép đánh bom vào các vị trí pḥng không khi có tín hiệu cho biết máy bay của họ đang trong tầm ngắm của ra đa. Tất cả các vụ đánh bom này, theo Nhà Trắng, là chuyện "phản ứng tự vệ". Mười sáu nhân viên đánh bom thường được gửi đến hỗ trợ cho một máy bay do thám. Và họ cũng thường t́m ra chuyện ǵ đó để có "phản ứng”.
Tờ New York Times trích dẫn lời giải thích của một quan chức Nhà Trắng: "Trông ḱa, những cuộc đánh bom được gọi là tự vệ đó đă chạm đến mức giới hạn của việc đánh bom. Nhưng chúng bị hạn chế về thời gian và địa lư. Tuy nhiên, như Tổng thống và ông Laird đă nói đi nói lại nhiều lần, chúng ta không có ư định cho phép Hà Nội tận dụng việc chúng ta thu quân để đe doạ tấn công vào số quân c̣n lại. Trong bất kỳ giây phút nào chúng ta cũng phải nhắc nhở Hà Nội về điều này”.
Chính sách phản ứng tự vệ của Nixon, dù đă viện cớ việc Bắc Việt tiếp tục xây dựng lực lượng quân sự, là hết sức ṿng vèo, và đă nhanh chóng dẫn đến tṛ lửa đảo công khai của lực lượng không quân. Tướng Johll D. Lavelle, chỉ huy trưởng lực lượng không quân, đă bí mật chỉ thị ít nhất 28 nhiệm vụ đánh bom vào các mục tiêu hạn chế ở Bắc Việt Nam trong cuối năm 1971 và đầu năm 1972. Sau một số nhiệm vụ, ông này đă ra lệnh cho các phi công báo cáo sai sự thật, rằng những cuộc đột kích vừa qua chỉ là đáp trả lại các cuộc tấn công của kẻ thù. Lavelle đă bị vạch trần bởi một viên trung sĩ, anh này đă viết thư cho một thượng nghị sĩ về các vụ gian dối này. Lavelle tin rằng Lầu Năm Góc và Nhà Trắng biết rơ và ủng hộ những việc ông ta đang làm. Tuy nhiên, ông ta đă bị cách chức, hạ cấp bậc xuống thiếu tướng và buộc phải về hưu.
Tṛ chơi phản ứng tự vệ lố bịch đă phải dừng lại khi Bắc Việt tiến hành cuộc tấn công trên bộ với quy mô lớn vào ngày 30 tháng 3 năm 1972. Các nhà lănh đạo Hà Nội về sau giải thích rằng họ đang cố gắng nắm giữ càng nhiều làng mạc càng tốt để chuẩn bị cho một bản hiệp ước đàm phán. Nixon và Kissinger đă thấy trước cuộc tấn công và cảnh cáo với Liên Xô và Trung Hoa rằng Hoa Kỳ sẽ phản ứng một cách mạnh mẽ. Hà Nội hoàn toàn tin rằng chân tay của Nixon đă bị phong trào phản đối chiến tranh trói buộc. Quân đội Bắc Việt đă sớm thu được thành công ban đầu, buộc Nam Việt Nam phai rút ra khỏi 14 căn cứ phía sau vùng Phi quân sự hoá. Một tháng sau thủ phủ Quảng Trị sụp đổ, quân đội cộng sản gần Sài G̣n tiến hành vây hăm An Lộc. Dường như chính quyền Sài G̣n đă đi đến chỗ huỷ diệt.
Phản ứng của Nixon, dù cho những người chỉ trích suy nghĩ ǵ đi nữa, đă có sự tách biệt giữa tính trực tiếp và không do dự, một diều khá hiếm hoi trong các quyết định đối với chiến tranh Việt Nam. Ông ta ra lệnh thêm máy bay B52 tới Đông Nam Á, chuyển thêm nhiều chuyến hàng tới Yankee Station và gửi các máy bay khác đến Thái Lan và Nam Việt Nam. Tướng John Vogt, chỉ huy trưởng mới lực lượng không quân ở Sài G̣n, đă có cuộc gặp với Tổng thống ngay sau cuộc tấn công bắt đầu. Vogt cho biết Nixon "muốn có ai đó sử dụng trí tưởng tượng nhiều hơn - giống như Patton" và "Tôi muốn anh (Vogt) trở lại chiến dịch xâm lược và chúng ta sẽ rạng danh với một chiến thắng. Chúng ta sẽ không từ bỏ Việt Nam".
"Khi nhận được những đệ tŕnh đầu tiên về việc đánh bom Bắc Việt từ Lầu Năm Góc trong tuần đầu tháng 5", Nixon sau này nhớ lại. “Tôi đă hết sức tức giận. Những đề xuất của họ là sự tái diễn chiến dịch ném bom nhút nhát của Johnson từ năm 1965 đến 1968. Trong một bức thư gửi đến Kissinger, tôi đă viết: "Tôi không thể chắc chắn là tôi đă quyết định được việc chúng ta nên tiến hành không kích. Tôi tiếp tục cho rằng chúng tôi nằm trong nguy cơ hành động quá ít, quá chậm và rằng chúng ta tốt hơn là sai lầm về mặt hành động quá nhiều, đồng thời chúng ta đă có sự ủng hộ tối đa của công chúng. “Tôi cho rằng chúng ta đă có quá nhiều thứ để nói và hành động th́ quá ít”. Tôi viết. "Đây chắc chắn là điểm yếu của chính quyền Johnson. Ở một mức độ nào đó nó có thể là điểm yếu của chúng ta, khi mà chúng ta liên tục cảnh báo kẻ thù và rồi hành động theo cách quá ôn hoà lúc kẻ thù đă khiêu khích chúng ta. Họ giờ đă bước qua nguy hiểm và chúng ta cũng vậy. Chúng ta có đủ sức mạnh để huỷ diệt khả năng tiến hành chiến tranh của họ. Vấn đề duy nhất là liệu ta có sẵn sàng sử dụng sức mạnh đó hay không”. Tôi đă giải thích rằng tôi sẵn sàng thực hiện các hành động mạnh mẽ và sẵn sàng đón nhận các hậu quả có thể xảy ra".
Bên cạnh việc ra lệnh ném Bắc Việt, ông ta cũng đă cho phép rải ḿn, thủy lôi vào cảng Hải Pḥng.
Henry Kissinger cho rằng "đó là một trong những giờ khắc tuyệt vời nhất trong nhiệm kỳ Tổng thống của Nixon".
Vào ngày 19 tháng 7 năm 1972, khi tàu Oriskany một lần nữa sẵn sàng đánh vào cầu Cổ Chai, cuộc tấn công của Hà Nội đă phải dừng lại. Sức mạnh không quân rơ ràng đă đóng vai tṛ quyết định ngăn chặn cuộc tấn công đó. Nhưng đó là không lực sử dụng chống lại lực lượng cộng sản ở Nam Việt Nam. Những ảnh hưởng của cuộc đánh bom có được đối với miền Bắc Việt Nam vẫn chưa rơ ràng.
John Hellman đă cầu nguyện xong. Anh có thể cảm nhận con tàu đang đi vào từng cơn gió. Anh vẫn c̣n cảm thấy rùng ḿnh, nhưng cầu nguyện đă đem lại cho anh ḷng can đảm để đối mặt với trận đánh vào Cổ Chai. Điều quan trọng là thuộc cấp của anh không được thấy anh lo sợ. Anh băn khoăn tự hỏi kể từ năm 1965, đă có bao nhiêu lần con tàu Oriskany đánh bom vào Cổ Chai. Tàu Oriskany đă thực hiện chuyến trận thứ bảy và đă có dấu hiệu mệt mỏi v́ chiến tranh. Trong một đêm sửa chữa, con tàu này đă đâm vào tàu chở đạn USS Nitro và mất một bánh lái độ cao. Nhưng con tàu vẫn tiếp tục được sửa chữa, như thể đă được xác định phải trải qua cuộc chiến này.
Cầu Cổ Chai từng giữ một tầm quan trọng bậc nhất do quyết định của Nixon đánh ḿn vào các hải cảng Bắc Việt. Vào ngày 08 tháng 5 năm 1972, các liên đội từ ba con tàu đă tiến hành thả ḿn vào Hải Pḥng, Ḥn Gai và Cẩm Phả ở miền Bắc; Thanh Hoá, Vinh, Quảng Khê, Đồng Hới ở miền Trung. Hai tuần sau, cuộc tấn công này được đánh giá là thành công. Hai mươi bảy tàu nước ngoài đă bị mắc kẹt ở Hải Pḥng. Sau tất cả những lời cảnh báo của chính quyền Johnson về phản ứng mạnh mẽ của Liên Xô, chẳng có điều ǵ có thể xảy ra cả.
"Chuyện đáng nói là tất cả các phương tiện vào Việt Nam, ngoại trừ băng qua biên giới Trung Quốc, đă dừng lại.". Đô đốc Wiliam P. Mark, đă tự hào nói vậy. "Trong ṿng 10 ngày, chúng tôi đă không bắn đi một tên lửa hay quả đạn pháo nào từ bờ biển. Bắc Việt đă cạn kiệt vũ khí, đúng như chúng tôi luôn nói vậy”.
Đó chỉ là tạm thời. Nguồn viện trợ đă bị giảm thiểu. Hệ thống hậu phương chặt chẽ của Bắc Việt chịu sức ép nặng nề. Nhưng như cơ quan t́nh báo Trung ương Mỹ đă nhận định, vụ bắn phá bằng ḿn đă không làm cạn kiệt các nguồn viện trợ mà đơn giản là buộc người rniền Bắc phải sắp xếp lại các đường vận chuyển. Các con tàu được chuyển hướng sang các hải cảng Trung Quốc và từ đó hàng viện trợ sẽ được đưa qua biên giới bằng tàu hoả hoặc xe tải. Một đường ống dẫn dầu cũng đă được xây dựng nối liền từ Trung Quốc về Hà Nội. Với sức ép nặng nề do chiến lược của Nixon, Bắc Việt buộc phải giữ các địa điểm chuyển giao quan trọng như cầu Cổ Chai luôn được thông suốt. Họ tăng cường thêm nhiều vị trí phóng tên lửa ở đây, đưa địa điểm pḥng thủ tên lửa đất đối không trong nước lên con số 300. Nhiều khẩu súng pḥng không giờ cũng được lắp đặt các thiết bị ra đa phức tạp. Nhận được các máy bay Mig 21 thế hệ mới, phi công Bắc Việt đă bắt đầu thực hiện những cuộc tấn công bất ngờ vào các nhóm không lực Mỹ. Trong tháng 6 và tháng 7 năm 1972, cứ mỗi lần tấn công, người Mỹ lại thiệt hại một chiếc máy bay.
John Hellman và phi đội của anh được lệnh phải tiêu diệt các vị trí hoả lực pḥng không xung quanh cầu Cổ Chai. Họ buộc phải mang các loại vũ khí sát thương đă từng sử dụng cách đây 5 năm, được gọi là CBU hoặc bom bi, loại bom tiêu chuẩn năm trăm pound đă không phát huy đủ hiệu quả để chống lại các bệ súng. Nó tạo ra những hố bom có đường kính đến 30 feet, sâu 15 feet và bắn các mảnh kim loại nhỏ trong tầm 200 feet. Nhưng những hầm trú ẩn bằng túi cát hoặc thậm trí bằng tre cũng có thể che chắn tất cả cho các xạ thủ, loại trừ những quả rơi chính diện.
Bom bi là chuyện khác. Một quả bom chứa khoảng 600 quả bom nhỏ, cỡ bằng quả bóng tennis, mỗi quả bom nhỏ có 2 ao xơ chất nổ và 300 viên đạn nhỏ. Nguồn khí nén làm bung lớp vỏ bảo vệ bom bi khi cách mặt đất 500 feet, và 600 quả bom nhỏ, chứa tổng cộng 180.000 viên đạn sẽ phát nổ, bao phủ một khu vực rộng lớn. Nhưng bom bi đă không gây chết người như ư muốn, cũng không phải là thứ vũ khí khủng khiếp mà các nhà chỉ trích đă gọi. Điều này xảy ra khi nó được sử dụng để tiêu diệt các xạ thủ Bắc Việt. Họ chống lại các quả bom nhỏ bằng cách xây dựng những tuyến pḥng thủ kiểu tổ ong, tạo lập các vành chắn bằng kim loại xung quanh từng khẩu cao xạ, chỉ để ṇng súng tḥ ra ngoài. Các xạ thủ đă không hề buồn chui xuống cho đến khi họ nhận thấy luồng khí làm bung lớp vỏ quả bom "mẹ" và phóng ra các quả bom "con".
Chỉ có bom laze là thứ mới nhất ở Yankee Station. Một bộ phận cảm biến laze được lắp trên đầu quả bom, cho phép tự hướng vào mục tiêu phá huỷ được chiếu sáng bằng năng lượng laze thấp. Việc chiếu sáng được thực hiện bằng cách gắn một chiếp hộp nhỏ, dài phía dưới phi cơ. Chiếc hộp này chứa một bộ phận quan sát quang học và một máy phát laze. Hệ thống laze được sử dụng đối với các máy bay hai người lái. Người ngồi sau xác định vị trí ném bom và chiếu sáng nó bằng thiết bị laze của anh ta. Bom laze đă tạo ra một bước nhảy vọt về tính chính xác trong ném bom và bắt đầu đánh dấu sự chấm dứt của loại bom trọng lực, vốn được sử dụng từ thế chiến thứ nhất và đă gây ra vô số nạn nhân vô tội. Loại bom laze cũng đă đặt dấu chấm hết sự tức giận của người Mỹ về việc không thể đánh găy cầu Hàm Rồng ở Thanh Hoá. Bẩy năm sau khi cuộc không chiến bắt đầu, 14 chiếc máy bay không lực mang 24 quả bom laze và các loại bom quy ước khác đă được chuyển đến để đánh vào cây cầu này. Cuộc tấn công đă thắng lợi. Rốt cuộc th́ ít nhất cầu Hàm Rồng cũng đă tạm thời bị phá vỡ.
John Hellman không biết liệu trận đánh lần này có sử dụng bom laze hay không. Có thể là không. Các loại bom mới vẫn c̣n ít và được sử dụng có chọn lựa. Tất cả những ǵ mà Hellman biết là anh đang đối mặt với những khẩu cao xạ 85mm đáng sợ xung quanh cầu Cổ Chai. Sáu đến tám khẩu này bắn liên thanh bằng điều khiển điện tử. Một khẩu phát hoả trong một giây rưỡi đồng hồ - r. . r. . ă. . ặp ặ . . p - dừng một lúc - rồi một khẩu khác lại phát tiếng. . r. . r. . ặp. . p. . p. Người miền Bắc biết rất rơ góc độ mà người Mỹ sẽ phải sử dụng để đánh cầu. Tất cả hỏa lực của họ sẽ tập trung vào tâm của những mảnh kim loại đă phát nổ. Sau bảy năm, họ có thể nhắm mắt mà vẫn bắn trúng mục tiêu.
Cuộc họp bắt đầu. John Hellman đang lắng nghe nhưng không thực sự để tâm. Bất ngờ anh nhận ra các phí công khác đang đứng dậy ra ngoài. Anh băn khoăn tại sao? Và rồi lời của người chủ tŕ cuộc họp vang lên: "Các ông, trận đánh Cổ Chai bị huỷ bỏ v́ thời tiết xấu”.
Bob Punches đă lái chiếc Ranger vào ngày 18 tháng 12 năm 1972. Công việc của anh là bảo vệ phía sau các phi công ném bom B-52 tấn công vào Hà Nội và Hải Pḥng trong trận đánh bom mùa Giáng sinh. Punches, người từng là bạn cùng pḥng với John Hellman trong tàu Oriskany năm 1967, giờ đang lái chiếc USS Ranger. Anh đă từng rất mến Hellman, người anh coi là một con chiên nghiêm túc và một chàng trai tốt. Bạn cùng pḥng bên cạnh của anh ta trên tàu Oriskany cũng rất ngoan đạo và họ đặt một giá sách bên ngoài đựng các cuốn Kinh thánh. Nhân sự trong phi đội bay đă thay đổi và trở nên kín đáo hơn sau khi Black Mac và Dick Wyman đến chỗ khác.
Sau khi hoàn thành nhiệm vụ trên tàu Oriskany, Punches theo học khoa học chính trị ở một trường học. Môn học chính của anh là Lịch sử Đông Nam Á. Thật ra, anh thừa nhận không hề quan tâm lắm vào chủ đề này. Anh muốn thấy chiến tranh kết thúc - đó mới là điều quan trọng. Giờ đây dường như anh có thể đạt được ước mơ. Anh có thể nhận ra sức phá huỷ của B52 đối với Hà Nội và Hải Pḥng. Nh́n những chiếc B-52 anh ta nói: "Đây rồi. Không có cách nào để họ gượng dậy từ vụ đánh bom đó. Họ sẽ phải đầu hàng ngay bây giờ”.
Đó chính là điều mà Richard Nixon và Henry Kissinger đă tính đến. Nixon đă ra lệnh mở cuộc không kích cuối cùng này, đ̣n nặng nhất trong cả cuộc chiến, nhằm cố gắng kết thúc chiến tranh và đưa các tù nhân chiến tranh trở về trước khi một Quốc hội đang giận dữ trở về Washington vào tháng 1 và ép buộc ông ta phải chấm dứt chiến tranh qua việc cắt bỏ tài chính cho cuộc chiến. Cuộc chiến mùa Giáng sinh, vốn kích động sự phản đối trong và ngoài nước, đă xảy ra sau khi một hiệp ước hoà b́nh được kư vào tháng 11 và rồi bị xé bỏ.
Việc tái ném bom trong tháng 3 năm 1972, như Nixon đă làm giữ một vai tṛ quan trọng trong việc ép buộc Hà Nội đàm phán bản hiệp ước hoà b́nh tháng 10. Việc sử dụng không lực, đặc biệt là ở miền Nam đă chấm dứt sự đ̣i hỏi về chủ quyền lănh thổ của Bắc Việt. Chính quyền Sài G̣n lại làm chủ Quảng Trị, và trận đánh An Lộc đă kết thúc. Những sự kiện này, kết hợp với áp lực phản chiến trong nước đối với Nixon trong năm bầu cử, đă buộc Henry Kissinger và Lê Đức Thọ phải đi sâu hơn vào các cuộc đàm phán hoà b́nh bí mật trong mùa hè năm 1972.
Bookmarks