Cách nay đúng 150 năm, Thiên Hoàng của Nhật, cải niên hiệu sang Minh Trị
https://vi.wikipedia.org/wiki/Wikipe.../Th%C3%A1ng_10
Ngày 23 tháng 10, 1868
• 1868 – Thiên hoàng Nhật Bản cải niên hiệu sang Minh Trị, Nhật Bản phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ này.
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%...nh_Tr%E1%BB%8B
https://en.wikipedia.org/wiki/Meiji_period
https://fr.wikipedia.org/wiki/%C3%88re_Meiji
https://nuocnha.blogspot.com/2018/10...-hieusang.html
Thời kỳ Minh Trị
Lịch sử Nhật Bản

Meiji Constitution promulgation (1889)
Periods
Paleolithic: Thời kỳ đồ đá cũ before 14,000 BC
Jōmon: Thời kỳ Jōmon 14,000 – 300 BC
Yayoi: Thời kỳ Yayoi 300 BC – 300 AD
Kofun: Thời kỳ Kofun 300–538
Asuka: Thời kỳ Asuka 538–710
Nara: Thời kỳ Nara 710–794
Heian: Thời kỳ Heian 794–1185
Kamakura: Thời kỳ Kamakura 1185–1333
Kenmu Restoration: Tân chính 1333–1336
Muromachi (Ashikaga)
Nanboku-chō: Thời kỳ Nam-Bắc triều
Sengoku: Thời kỳ Chiến Quốc 1336–1573
Azuchi–Momoyama
• Nanban trade 1573–1603
Edo (Tokugawa)
• Sakoku
• Convention of Kanagawa
• Bakumatsu 1603–1868
Meiji: Thời kỳ Minh Trị
• Boshin War
• Restoration
• First Sino-Japanese War
• Boxer Rebellion
• Russo-Japanese War 1868–1912
Taishō: Thời kỳ Đại Chính
• World War I 1912–1926
Shōwa: Thời kỳ Chiêu Ḥa
• Financial crisis
• Militarism
• World War II
• Occupation
• Economic miracle
• Post-occupation
• Bubble Economy 1926–1989
Heisei: Thời kỳ B́nh Thành
1989–present
Thời kỳ Meiji (明治時代 Minh Trị thời đại?), hay Thời đại Minh Trị, là thời kỳ 45 năm dưới triều Thiên hoàng Minh Trị, theo lịch Gregory, từ 23 tháng 10 năm 1868 (tức 8 tháng 9 âm lịch[1] năm Mậu Th́n) đến 30 tháng 7 năm 1912[2]. Trong thời kỳ này, Nhật Bản bắt đầu công cuộc hiện đại hóa và vươn đến vị thế cường quốc trên thế giới.
Sau khi Thiên hoàng Minh Trị qua đời năm 1912, Thiên hoàng Đại Chính kế vị ngai vàng, do đó bắt đầu thời kỳ Đại Chính.

Thiên hoàng Taishō (大正天皇 (Đại Chính Thiên hoàng) Taishō-tennō?, 31 tháng 8 năm 1879 – 25 tháng 12 năm 1926) là vị Thiên hoàng thứ 123 của Nhật Bản theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống, trị v́ từ ngày 30 tháng 7 năm 1912, tới khi qua đời năm 1926.
Nhật hoàng và cuộc Minh Trị Duy tân
Bài chi tiết: Minh Trị Duy tân
Ngày 3 tháng 2 năm 1867, Thiên hoàng Hiếu Minh qua đời, hoàng tử Mutsuhito 16 tuổi lên thay, một thời kỳ mới bắt đầu - thời kỳ Minh Trị. Nhật hoàng khôi phục uy quyền năm 1868 chấm dứt 265 năm phong kiến dưới triều Mạc phủTokugawa.

Thiên hoàng Minh Trị (1868-1912).
Cải cách đầu tiên là việc tuyên cáo lời thề Ngũ cá điều ngự thệ văn năm 1868, một lời tuyên bố chung về mục đích của triều đ́nh Minh Trị để củng cố sĩ khí và giành được sự ủng hộ tài chính cho chính phủ mới. Những điều khoản của nó bao gồm:
1. Thành lập các hội đồng thảo luận.
2. Mọi tầng lớp đều tham gia vào việc tiến hành các sự vụ quốc gia.
3. Băi bỏ luật điều chỉnh chi tiêu và hạn chế tầng lớp trong việc thuê mướn.
4. Thay thế các phong tục xấu xa bằng các điều luật công bằng của tự nhiên và
5. Một cuộc t́m kiếm quốc tế tri thức để củng cố nền tảng thống trị của Đế quốc.
Ẩn ư trong 5 lời tuyên thệ này là chấm dứt quyền thống trị chính trị độc quyền của Shogun và hướng đến sự tham dự dân chủ trong chính phủ. Để thực hiện 5 lời thề, bản Hiến pháp 11 điều được ban hành. Bên cạnh việc thành lập Hội đồng Quốc gia, các thực thế pháp lư, và hệ thống đẳng cấp quư tộc và viên chức, nó giới hạn nhiệm kỳ 4 năm, cho phép nhân dân bầu cử, ban hành hệ thống thuế mới, và quy định hệ thống hành chính địa phương mới.
Chính phủ Minh Trị đảm bảo với các cường quốc rằng họ sẽ thực hiện các điều ước cũ đă được Mạc phủ đàm phán và thông báo họ sẽ hành động phù hợp với luật pháp quốc tế. Mutsuhito, người mà Triều đại của ông sẽ kéo dài cho đến năm 1912, chọn một niên hiệu mới— Minh Trị (Meiji) — để đánh dấu sự khởi đầu của một kỷ nguyên mới trong lịch sử. Để nhấn mạnh hơn nữa trật tự mới, thủ đô được dời khỏi Kyoto, nơi đă đóng đo từ năm 794, đến Tokyo (Đông Kinh), tên mới của Edo.
https://s20.postimg.cc/mzu4053nx/Meiji_Joukyou.jpg
The fifteen-year-old Meiji Emperor, moving from Kyoto to Tokyo at the end of 1868, after the fall of Edo
Trong một bước đi quan trọng cho việc củng cố Triều đại mới, phần lớn các daimyo tự nguyện dân nộp đất đai và số liệu về dân số cho Nhật hoàng trong cuộc giải thể hệ thống phiên, biểu tượng cho việc đất đai và dân số nay đă đặt dưới phạm vi quyền lực của Nhật hoàng. Được xác nhận ví trí cha truyền con nối của ḿnh, các daimyo trở thành Thống đốc, và chính quyền trung ương thừa nhận các chi tiêu hành chính của họ và việc trả lương cho samurai.
https://s20.postimg.cc/7r46mdx4t/Samurai.jpg
Samurai (tiếng Nhật: 侍; rōmaji: Samurai; phiên âm Hán-Việt: thị ) có hai nghĩa. Theo nghĩa thứ nhất, samurai là một bộ phận của tầng lớp vơ sĩ Nhật Bản, là thuộc hạ của các shogun, daimyo, và đứng trên một số bộ phận vơ sĩ khác. Samurai theo nghĩa này là cách hiểu ở Nhật Bản.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Chính trị
Bài chi tiết: Chính thể đầu sỏ Minh Trị và Chính quyền Minh Trị Nhật Bản

Cuộc tranh luận Seikanron. Saigo Takamori ngồi ở giữa, tranh vẽ năm 1877.

Interior of National Diet, showing Minister speaking at the tribune from which members address the House.
Người đề xướng quan trọng của chính phủ đại nghị là Itagaki Taisuke (1837–1919), một lănh đạo đầy quyền lực của tỉnh Tosa, người đă từ bỏ vị trí trong Hội đồng Quốc gia sau cuộc tranh luận Seikanronnăm 1873. Itagaki t́m kiếm các giải pháp ḥa b́nh thay v́ bạo loạn để giành được tiếng nói trong triều. Ông mở trường và khởi đầu phong trào với mục đích thiết lập một chính thể quân chủ lập hiến và cơ quan lập pháp. Itagaki và những người khác viết Đài kỷ niệm Tosa năm 1874 để phê phán quyền lực không giới hạn của các đầu sỏ chính trị và kêu gọi thiết lập ngay lập tức chính phủ đại nghị.

Count Itagaki Taisuke (板垣 退助, 21 May 1837 – 16 July 1919) was a Japanese politician and leader of the Freedom and People's Rights Movement(自由民権運動 Jiyū Minken Undō), which evolved into Japan's first political party.
Từ năm 1871 đến năm 1873, hàng loạt các luật đất đai và thuế được ban hành làm nền tảng cho chính sách tài khóa hiện đại. Sở hữu tư nhân được hợp pháp hóa, chứng thư được phát hành, và đất đai được định giá theo giá trị thị trường với thuế trả bằng tiền mặt thay v́ hàng hóa trong thời kỳ tiền Minh Trị, và với tỉ lệ thấp hơn.
Không có cái gọi là thuôc về nhân dân, nhưng do cái gọi là nhà nước quản NÍ
Không hài ḷng với nhịp độ cải cách sau khi tái tham gia Hội đồng Quốc gia năm 1875, Itagaki tổ chức những người đi theo ḿnh và những người chủ trương dân chủ trong tổ chức rộng răi Aikokusha ("Ái Quốc xă") để đẩy mạnh việc thực hiện chính phủ đại nghị năm 1878. Năm 1881, trong một hành động nổi tiếng nhất của ḿnh, Itakaki giúp thành lập Jiyuto (Tự do Đảng), đi theo học thuyết chính trị của Pháp.
Năm 1882 Okuma Shigenobu thành lập Rikken Kaishinto (Lập hiến Cải cách Đảng), ủng hộ cho nền dân chủ nghị viện kiểu Anh. Đáp lại, quan chức chính phủ, các viên chức chính quyền địa phương, và những người bảo thủ khác thành lập Rikken Teiseito (Lập hiến Đế chính Đảng), một đảng ủng hộ chính quyền, vào năm 1882. Rất nhiều cuộc tuần hành chính trị diễn ra sau đó, một số chuyển thành bạo động, kết quả là sự giới hạn nghiêm ngặt hơn của chính phủ. Sự giới hạn cản trở các đảng chính trị và dẫn đến sự chia rẽ trong nội bộ chúng. Đảng Jiyuto, chống lại Kaishinto, bị giải tán năm 1884, và Okuma từ chức Chủ tịch Đảng Kaishinto.
Lănh đạo chính phủ, vốn từ lâu bận tâm với mối đe dọa bạo lực với sự ổn định và các lănh đạo chủ chốt chia rẽ về vấn đề Triều Tiên, nh́n chung đều đồng t́nh với một chính thể lập hiến sẽ được thiết lập vào một ngày nào đó. Lănh đạo phiên Nagato Kido Takayoshi đồng t́nh với một dạng chính thể lập hiến từ trước năm 1874, và vài lời đề xướng bảo đảm hiến pháp đă được phác thảo. Tuy vậy, những đầu sỏ chính trị, trong khi nhận thức được áp lực chính trị hiện tại, quyết tâm giữ quyền kiểm soát. Do đó, mọi việc vẫn tiến triển một cách ít ỏi.

Kido Takayoshi (木戸孝允 Kido Takayoshi?, Mộc Hộ Hiếu Doăn) (11 tháng 8 năm 1833 – 26 tháng 5 năm 1877), c̣n được gọi là Kido Kōin là một chính khách Nhật Bản dưới thời Mạc Mạt và Minh Trị Duy Tân. Ông sử dụng bí danh Niibori Matsusuke (新堀松輔) (Tân Quật Tùng Phụ) khi ông hoạt động chống lại shogun.
Hội nghị Osaka năm 1875 đi đến kết luận tái tổ chức lại chính quyền với bộ máy tư pháp độc lập và bổ nhiệm một Hội đồng Nguyên lăo (Genronin) với nhiệm vụ xem xét các ư kiến cho việc thành lập cơ quan lập pháp. Nhật hoàng tuyên bố rằng "chính thể lập hiến sẽ được thiết lập từng bước" và ngài ra lệnh cho Hội đồng Nguyên lăo sơ thảo Hiến pháp.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Xă hội
Đáp lại, một trong những việc làm đầu tiên của chính phủ là thiết lập hệ thống cấp bậc quư tộc. 500 người từ các quư tộc cũ trong triều, cựu daimyo, và samurai, những người đă có đóng góp giá trị cho Nhật hoàng được chia làm 5 cấp: công tước, hầu tước, bá tước, tử tước, và nam tước.
Đây là lúc phong trào Ee ja nai ka, sự bùng nổ tự phát cách ứng xử thể hiện trạng thái mê ly, ngây ngất đă diễn ra.
Năm 1885, nhà trí thức Yukichi Fukuzawa viết bài tiểu luận gây ấn tượng Thoát Á luận, cho rằng Nhật Bản nên hướng ḿnh đến các nước văn minh phương Tây, bỏ lại đằng sau những người láng giềng Á Đông tụt hậu vô vọng, Triều Tiên và Trung Hoa.
https://s20.postimg.cc/ryhmerun1/Fukuzawa_Yukichi.jpg
Fukuzawa Yukichi Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Quốc gia Pháp ở Paris, 1862.
Fukuzawa Yukichi (福澤 諭吉 (Phúc Trạch Dụ Cát)/ ふくざわ ゆきち? 10 tháng 1 năm 1835 - 3 tháng 2 năm 1901) là một trong những bậc khai quốc công thần và là nhà tư tưởng vĩ đại nhất của Nhật Bản cận đại. Ông được xem là người có công khai sáng phong trào canh tân nước Nhật, cổ động dân chúng trút bỏ tư duy lạc hậu thời cổ đại mà tiếp thu học thuật Tây phương hầu sánh bước với các nước Âu Mỹ.
Bài tiểu luận này chắc chắn có đóng góp cho sự phát triển kinh tế và khoa học kỹ thuật của Nhật Bản thời kỳ Minh Trị nhưng nó cũng đặt nền móng cho chủ nghĩa thực dân Nhật Bản trong vùng sau này. Từ năm 1890, Nhật Bản đă lại bước theo con đường chủ nghĩa đế quốc và đem quân đi xâm chiếm lại những nước yếu hơn ḿnh (Đài Loan, Triều Tiên, Trung Quốc).
Việc công nghiệp hóa đă kéo theo nhiều thay đổi xă hội. Với sự thi hành chính sách giảm phát để thúc đẩy các xí nghiệp công nghiệp, giá nông phẩm hạ xuống làm cho đời sống của nông dân trở nên khó khăn, họ không đủ sức trả địa tô và phải đi vay nặng lăi. Nhiều nông dân phá sản và phải bán tháo đất đai cho những kẻ cho vay nặng lăi. Đây được gọi là đám "địa chủ ăn bám" (kư sinh địa chủ = kisei jinushi). Nông dân mất hết đất đai và rơi xuống hàng tá điền, phải canh tác thuê cho địa chủ hoặc phải bắt đầu đi lao động thuê ở các hăng xưởng, điều kiện làm việc rất cực khổ
Yokoyama Gennosuke (Hoành Sơn Nguyên Chi Trợ) đă viết cuốn sách "Nhật Bản hạ tầng xă hội, 1899" mô tả: lương công nhân chỉ đủ tiền cơm gạo, trong khi thời gian làm việc rất dài, như công nhân dệt phải làm 12 giờ/ngày (lúc gấp rút th́ phải đến 18 giờ). Nơi ở của họ là một buồng ngủ chật chôi, vệ sinh kém v́ phải chứa tới 10 người, mỗi người chỉ có diện tích đủ để trải một chiếc chiếu ngủ. Những công nhân mắc phải bệnh truyền nhiễm th́ bị đuổi việc ngay chứ không hề được chạy chữa hay hưởng bảo hiểm.
Nh́n chung, sự phát triển của kinh tế Nhật Bản đă h́nh thành nên một giai cấp mới, giai cấp công nhân Nhật Bản. Việc bị bóc lột nặng nề và điều kiện làm việc ngày càng tồi tệ dẫn đến sự đấu tranh của giai cấp công nhân. Theo Edwin O.Reischauer, năm 1901, đảng Xă hội dân chủ Nhật Bản được thành lập với mục tiêu đ̣i công bằng cho người lao động. Nhưng năm 1900, Chính phủ Nhật (nội các Yamagata Aritomo) đă ra tay đàn áp bằng cách ban bố Đạo luật trị an và cảnh sát, hạn chế việc người lao động kết hợp thành công đoàn (quyền kết xă) và đ́nh công (quyền băi công).

Công tước Yamagata Aritomo (山縣 有朋 Sơn Huyện Hữu Bằng?, 14 tháng 6 năm 1838 – 1 tháng 2 năm 1922), Nguyên soái Lục quân Đế quốc Nhật Bản và hai lần làm Thủ tướng Nhật. Ông được coi là kiến trúc sư của nền tảng chính trị quân sự của Nhật Bản hiện đại. Yamagata Aritomo có thể được xem là cha đẻ của chủ nghĩa quân phiệt Nhật
Theo mệnh lệnh của triều đ́nh, những tài liệu và các bài báo có nội dung xă hội chủ nghĩa sẽ bị trừng trị, các chủ bút bị giam trong khoảng từ năm đến mười năm, và tịch biên luôn những nhà in. Năm 1908, đă xảy ra Vụ án cờ đỏ (Akahata jiken, "Xích kỳ sự kiện") với việc bắt giữ 3 đảng viên Xă hội dân chủ chỉ v́ họ đă phất cờ đỏ ngoài đường (cờ đỏ tượng trưng cho xă hội chủ nghĩa), những người này đă lănh án cao nhất là khổ sai 2 năm rưỡi. Năm 1911, công nhân thành phố Tōkyō thành công trong cuộc băi công đ̣i tăng lương, nhưng người lănh đạo của họ là Katayama Sen bị bắt giữ.[3]
Kinh tế
Có ít nhất hai lư do cho tốc độ hiện đại hóa của Nhật Bản: việc thuê mướn hơn 3.000 chuyên gia nước ngoài (gọi là o-yatoi gaikokujin hay 'người làm thuê ngoại quốc') trong rất nhiều lĩnh vực chuyên ngành ví dụ như dạy tiếng Anh, khoa học, kỹ sư, lục quân và hải quân…; và gửi nhiều sinh viên Nhật Bản sang học ở châu Âu và Mỹ, dựa trên điều thứ năm và cuối cùng của Ngũ điều cá nguyên lệnh năm 1868: "Tri thức sẽ được t́m kiếm trên toàn thế giới để tăng cường nền tảng sức mạnh của Đế quốc.". Quá tŕnh hiện đại hóa được điều hành sâu sát và bao cấp mạnh mẽ từ chính phủ Minh Trị, nâng cao quyền lực của các tập đoàn zaibatsu khổng lồ như Mitsuivà Mitsubishi.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Quân sự
Bài chi tiết: Hiện đại hóa quân đội Nhật Bản 1868-1931, Lục quân Đế quốc Nhật Bản, và Hải quân Đế quốc Nhật Bản

Buổi tiếp kiến Phái đoàn quân sự Pháp thứ hai đến Nhật Bản của Thiên hoàng Minh Trị, 1872.
Bị những người phản đối ngăn chặn, những nhà lănh đạo thời Minh Trị tiếp tục hiện đại hóa quốc gia qua đường cáp điện tín được chính phủ tài trợ và xây dựng đường sắt, bến cảng, nhà máy vũ khí, hầm mỏ, xưởng dệt, nhà máy, và các cơ sở thí nghiệm nông nghiệp. Nhiều người lo ngại về an ninh quốc gia, các lănh đạo có nhiều cố gắng quan trọng để hiện đai hóa quân đội, bao gồm thành lập một quân đội thường trực nhỏ, một hệ thống dự trữ lớn, và hệ thống nghĩa vụ quân sự bắt buộc cho nam giới. Hệ thống quân sự nước ngoài cũng được nghiên cứu, đặc biệt là của Pháp, được du nhập, và các học viên quân sự Nhật Bản được gửi đến châu Âu và Hoa Kỳ vào các trường Hải quân và Lục quân.
Ngoại giao
Khi Hải quân Hoa Kỳ chấm dứt chính sách Tỏa quốc của Nhật Bản, vào sau đó là sự cô lập của nó, người Nhật thấy ḿnh không thể kháng cự lại sức ép quân sự và sự bóc lột kinh tế của các cường quốc phương Tây. V́ Nhật Bản đă nổi lên từ thời phong kiến, nó đă tránh được số phận thực dân của các quốc gia châu Á khác nhờ thiết lập sự công bằng và độc lập quốc gia thực sự.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Các nhà thám hiểm và sử học
Một nhà thám hiểm nước ngoài chính về sự thay đổi nhanh chóng và đáng ghi nhớ của xă hội Nhật Bản trong thời kỳ này là Ernest Mason Satow, Công sử Nhật Bản từ trong các năm 1862–83 và 1895–1900.
https://s20.postimg.cc/tqal9qqvh/Young_Satow.jpg
The young Ernest Mason Satow. Photograph taken in Paris, December 1869.
Sir Ernest Mason Satow, GCMG, PC (30 June 1843 – 26 August 1929), was a British scholar, diplomat and Japanologist.[1]
Xem thêm
• Chủ nghĩa dân tộc Nhật Bản
• Danh sách nhân vật chính trị thời kỳ Minh Trị Nhật Bản
• Rurouni Kenshin, manga lịch sử lấy bối cảnh thời kỳ Minh Trị
• Samurai X, anime lịch sử lấy bối cảnh gần với cuộc Minh Trị Duy Tân
Bookmarks