60 NĂM SÀI G̉N TRONG TÔI
(Văn Quang – Viết từ Sài G̣n)
Văn Quang trước Thương xá Tax ngày 25-8-2014
Hai tuần nay người Sài g̣n xôn xao về một số công tŕnh xưa cũ sẽ bị phá bỏ lấy đất làm tàu điện ngầm. Rầm rộ nhất là khu thương xá Tax đă bị “bao vây” bởi những hàng rào chắn chạy dài và tất cả các cửa hàng trong thương xá này phải dời đi vào tháng 10 này để làm một siêu thị 40 tầng văn minh hơn. Hầu như cả thành phố xôn xao, người ta kéo đến mua hàng giảm giá đông như hội. Và cũng có nhiều người đến để nh́n lại chút kỷ niệm xưa với một công tŕnh kiến trúc được xây dựng từ xa xưa khiến bất cứ ai dù chỉ sống ở thành phố này ít năm cũng cảm thấy tiếc nuối. Lứa tuổi già đă có từng hơn nửa thế kỷ với Sài G̣n bỗng nhận ra cái khu thương xá đó không chỉ gắn liền với thành phố mà c̣n gắn liền với cả gia đ́nh ḿnh.
Hầu như gia đ́nh nào cũng đă từng đưa nhau vào đây mua sắm vài thứ đồ dùng lặt vặt hoặc chỉ dạo quanh, ăn một ly kem, uống một ly cà phê. Nỗi buồn vẩn vơ thật nhưng lại rất sâu sắc như người ta vừa lấy đi một phần đời ḿnh. Bởi cái mất đi đă từng có những kỷ niệm với người thân quen không bao giờ t́m lại được nữa. Người mất kẻ c̣n, người ra đi, kẻ ở lại đă từng cùng nhau đến đấy.
Và c̣n một số công tŕnh gắn liền với Sài G̣n chẳng phải chỉ là biểu tượng mà c̣n là da thịt của một thành phố từng được vinh danh là “ḥn ngọc viễn đông” này cũng sắp măi măi biến mất để nhường chỗ cho công tŕnh ga tàu điện ngầm đầu tiên của tuyến Metro số 1 Bến Thành – Suối Tiên. Dẫu biết vạn vật đổi dời không có ǵ là vĩnh cửu cả nhưng cái ǵ quá thân quen mất đi cũng thấy ḷng trống rỗng. Có khi chỉ một cửa hàng như quán cơm b́nh dân Bà Cả Đọi, tiệm cắt tóc Đàm, nước mía Viễn Đông… mất tích vĩnh viễn, thay vào đó là những ṭa nhà chọc trời, những cửa hàng choáng lộn cũng thấy nó lạnh lùng xa lạ.
Người c̣n ở trong nước xót xa, người Việt ở nước ngoài tiếc nuối, đó là điểm những người thân quen gặp nhau ở nỗi nhớ nhung tiếc nuối này. Tôi đă đọc khá nhiều bài viết từ nước ngoài và e mail của bạn bè chia sẻ nỗi hoài niệm đó. Như Thế Hải từ Hawai đă mượn hai câu thơ bất hủ của Bà Huyện Thanh Quan, chia sẻ cùng bè bạn khắp nơi khi nhớ về những cái sắp mất đi của Sài G̣n: “Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo. Nền cũ lâu đài bóng tịch dương”.
Với một người c̣n ở lại như tôi, đă hơn nửa thế kỷ gắn bó với ḥn ngọc viễn đông này, hai tuần nay càng thấy ḷng hoài cổ dâng trào. Nhớ, nhớ đến từng chi tiết từ cái bước chân đầu tiên đặt lên đất Sài Thành, nhớ từng ngơ ngách, từng nhân vật thuộc về quá khứ ấy cho đến ngày nay. Mặc cho Sài G̣n đă có nhiều tang thương dâu biển, từ cái tên thành phố đến những con đường đă thay họ đổi tên, từ con người đến xă hội cho đến cả cái cách sống cũng đă khác xưa nhiều lắm. Chẳng trách khi xă hội đổi thay, người ta chép miệng than: “Trời làm một trận lăng nhăng, ông hạ xuống thằng, thằng nhảy lên ông, con đĩ đánh bồng nhảy lên bà lớn” cũng chẳng sai. Nhưng với tôi, Sài G̣n vẫn là Sài G̣n từ trong tâm thức ḿnh, từ trong tận cùng tim óc ḿnh. Thế là đủ và tôi lại phải sống cũng như những người Sài G̣n khác, bất chấp gian khổ. Có chăng chỉ là nỗi ngẩn ngơ khi những dấu tích xưa dần mất đi, chẳng bao giờ t́m lại được.
Trong nỗi hoài niệm sâu sắc ấy nhiều buổi chiều đứng trong hành lang hẹp chung cư, nh́n lên khung trời cao, hướng về ánh đèn đêm mơ hồ của thành phố, tôi cố tưởng tượng lại đó vẫn là khung trời xưa, tôi nhớ lại những năm tháng dài tôi sống ở Sài G̣n.
Ở đây không chỉ có cảnh quan mà c̣n có cả những nhân vật là bạn hoặc là người tôi đă từng gặp, từng quen, từng biết đến. Người ở đâu bây giờ? Có biết Sài G̣n của chúng ta đang có rất nhiều người đang nhớ đang mong các “bạn ta” không?
Bước chân đầu tiên trên đất Sài G̣n
Thế mà 60 năm rồi đấy, kể từ ngày tôi mới đặt chân lên thành phố Sài G̣n. Tôi nhớ như in, ngày đầu tiên ấy. Cuối tháng 1 năm 1954, sau 2 tháng học ở Trường sĩ quan Thủ Đức, ngày thứ bảy chúng tôi được đi phép ở Sài G̣n. Niềm mơ ước của tôi từ những ngày c̣n nhỏ ở trường trung học, ước ǵ có ngày ḿnh được vào Sài G̣n. Niềm mơ ước ấy c̣n rộn ràng hơn khi khóa học sĩ quan khai giảng. Thủ Đức – Sài G̣n chỉ có hơn 10 cây số, tuy chỉ cách thành phố rất gần nhưng theo đúng chương tŕnh khóa học, hai tháng sau chúng tôi mới được đi phép. Mấy anh “Bắc kỳ” nôn nao hỏi thăm mấy ông bạn “Nam Kỳ” về Sài G̣n. Từ cái xe taxi nó ra sao, đi thế nào, bởi hồi đó miền Bắc chưa hề có taxi, cho đến Chợ Lớn có những ǵ… Mấy ông bạn Nam Kỳ tha hồ tán dóc. Đấu óc tôi cứ lơ mơ về cái chuyến đi phép này.
Rối ngày đi phép cũng đến, một nửa số sinh viên sĩ quan (SVSQ) đi phép mặc bộ tenue sortie là ủi thẳng tắp, áo bốn túi, chemise trắng tính, thắt cravate đen đàng hoàng, giầy đánh bóng lộn có thể soi gương được. Vô phúc quên cái ǵ là bị phạt ở lại ngay. Nhưng hầu như chưa có anh nào bị phạt. Đoàn xe GMC của trường chở chúng tôi chạy vèo vèo vào thành phố. Ôi cái cửa ngơ vào thành phố hồi đó chưa có ǵ lộng lẫy mà chúng tôi cũng mở to mắt ra nh́n. Đoàn xe “diễu” qua vài con phố rồi dừng lại trên đường Hai Bà Trưng (hồi đó c̣n gọi là đường Paul Blanchy), ngay phía sau Nhà hát lớn Thành phố mà sau này là Trụ sở Hạ Nghị Viện VNCH.
Cú nhảy từ sàn xe GMC xuống con đường Hai Bà Trưng là bước chân đầu tiên của tôi đến đất Sài Thành hoa lệ. Ông Hồ Trung Hậu là dân miền Nam chính hiệu, ông đă hứa hướng dẫn tôi đi chơi… cho khỏi “ngố”. Chúng tôi đi bộ vào con đường nhỏ bên hông nhà hát Thành phố và khách sạn Continental, ṿng ra trước bùng binh Catinat – Lê Lợi (hồi đó c̣n gọi là Boulevard Bonard) và Nhà hát TP. Nh́n mặt trước nhà hát TP có mấy bức tượng bà đầm cứ tưởng… ḿnh ở bên Tây. Lúc đó đă có nhà hàng Givral rồi, nhưng tôi vẫn c̣n “kính nhi viễn chi” cái nhà hàng văn minh lịch sự giữa thành phố lớn rộng đó, chưa dám mơ bước chân vào. Ông Hậu vẫy một cái taxi chở chúng tôi về nhà ông. Taxi hồi đó toàn là loại deux cheveaux, nhỏ hẹp sơn 2 màu xanh vàng. Khi bước lên xe, đồng hồ con số chỉ là 0, đi quăng nào số tiền nhảy quăng đó.
Trong ngày đầu tiên, tôi ngu ngơ làm quen với không khí Sài G̣n qua gia đ́nh anh em ông Hậu. Hôm sau ông bạn tôi đi với bồ nên tôi bắt đầu cuộc solo giữa thành phố xa lạ này. Tất cả Sinh viên SQ đều không được đi xe buưt hay xích lô, phải đi taxi. Nhưng lệnh là lệnh, chúng tôi học các đàn anh khóa trước, cởi áo bốn túi, bỏ cravate, cất cái nón đi là lại tha hồ vung vẩy.
Trở thành người Sài G̣n từ bao giờ
Nơi tôi đến đầu tiên là Chợ Lớn. Một cuốc taxi từ giữa trung tâm TP đến cuối Chợ Lớn mất 12 đồng. Tôi t́m đến khách sạn rẻ tiền của mấy thằng bạn Bắc Kỳ ở đường Tản Đà, một con phố nhỏ, ba bốn thằng thuê chung 1 pḥng cũng chẳng có “ông mă tà” nào hỏi đến. Chợ Lớn hồi đó tấp nập hơn ở Sài G̣n, con phố Đồng Khánh chi chít những khách sạn, hàng ăn, cửa tiệm tạp hóa lu bù tưởng như mua ǵ cũng có. Chúng tôi cũng biết cách chui vào Kim Chung Đại Thế Giới xem thiên hạ đánh bạc. Hôm đó có anh Nguyễn Trọng Bảo cùng Đại Đội tôi nhưng lớn hơn chúng tôi vài tuổi và là 1 cặp với Nguyễn Năng Tế (lúc đó mới là người yêu của nữ diễn viên điện ảnh Kiều Chinh). Anh thử đánh “tài xỉu”, may mắn làm sao, một lúc sau đó anh được khoảng vài trăm ngàn. Thế là chúng tôi xúi anh “ăn non”, không chơi nữa, rủ nhau đi ăn.
Bắt đầu từ hôm đó chúng tôi đi “khám phá” Sài G̣n và rồi theo cùng năm tháng trở thành người Sài G̣n lúc nào không biết. Càng có nhiều thăng trầm chúng tôi càng gắn bó với Sài G̣n hơn.
Lần thứ hai trở lại Sài G̣n
Tôi lại nhớ ngày trở về Sài G̣n sau hơn 12 năm đi tù cải tạo từ Sơn La đến Vĩnh Phú rồi Hàm Tân. Đó là vào buổi chiều tháng 9 năm 1987. Khi đoàn xe thả tù cải tạo bị giữ lại nhà giam Chí Ḥa nghe các ông quan chức trấn an về số phận chúng tôi khi được trở về, khoảng hơn 5 giờ chiều chúng tôi mới được thoát ra khỏi cánh cửa sắt nhà tù Chí Ḥa. Ngay từ cổng trại tù đă có đoàn quay phim đợi sẵn để quay cảnh “vui mừng đoàn tụ” của tù nhân, chắc là để chứng tỏ cái sự “khoan hồng bác ái” của nhà nước cho những thằng may mắn không chết trong ngục tù. Lại là lần thứ hai tôi đặt chân lên đất Sài G̣n nhưng với tư cách khác giữa một thành phố đă đổi chủ.
Thấy cái cảnh sẽ bị quay phim, Trần Dạ Từ kéo tôi lên vỉa hè đi lẫn trong đám thân nhân được vận động ra đón tù cùng những người dân ṭ ṃ nh́nh “cảnh lạ”. Tránh được cái máy quay phim, chúng tôi đi gần như chạy ra khỏi con phố nhỏ này. Ra đến đường Lê Văn Duyệt, chúng tôi đi chậm lại, nh́n đường phố mà cứ thấy đường phố đang nh́n chúng tôi với một vẻ xa lạ và xót thương? Trần Dạ Từ c̣n lại ít tiền, anh rủ tôi ghé vào đường Hiền Vương ăn phở. Chẳng biết là bao nhiêu năm mới lại được ăn tô phở Hiền Vương đây. Tôi chọn quán phở ngay sát cạnh tiệm cắt tóc Đàm mà mấy chục năm tôi cùng nhiều bạn bè vẫn thường đến cắt tóc
. Có lẽ Trần Dạ Từ hiểu rằng anh về đoàn tụ cùng gia đ́nh chứ c̣n tôi, vợ con đi hết, nhà cửa chẳng c̣n, sẽ rất cô đơn, nên anh níu tôi lại. Ngồi ăn tô phở tưởng ngon mà thấy đắng v́ thật ra cho đến lúc đó tôi chưa biết sống ra sao giữa thành phố này. Ỏ tiệm phở bước ra, chúng tôi đi bên nhau dưới ánh đèn chập choạng của con đường Duy Tân mà Phạm Duy gọi là con đường Đại học “uống ly chanh đường, uống môi em ngọt”. Đến ngă tư Phan Đ́nh Phùng, tôi chia tay người bạn tù Trần Dạ Từ, đi lang thang trong cô đơn, trong bóng tối của chính đời ḿnh. Bây giờ tôi mới hiểu hết nghĩa của sự cô đơn là thế nào. Tôi bắt đầu cuộc sống lưu lạc trên chính quê hương ḿnh.
Tôi t́m về nhà ông anh rể đă từng nuôi nấng tôi suốt những năm tháng trong tù. Bắt đầu từ đó tôi trở thành người Sài G̣n khác trước. Và rồi với những cùng khổ, những khó khăn, tôi đă tự ḿnh đứng lên. Bởi tôi thấm thía rằng thằng bạn đồng minh xỏ lá đă phản phé ḿnh, lúc này không ai cứu ḿnh cả, anh không vượt qua nó, nó sẽ đè chết anh. V́ thế cho đến bây giờ sống giữa Sài G̣n, tôi phải là người Sài G̣n và măi măi sẽ là người Sài G̣n. Làm được cái ǵ hay chết bẹp dí là do ḿnh thôi.
C̣n tiếp...
Bookmarks