Page 3 of 8 FirstFirst 1234567 ... LastLast
Results 21 to 30 of 72

Thread: Cuộc Triệt Thoái Lớn Nhất của Quân Lực VNCH

  1. #21
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Thiếu tướng Lê Minh Đảo
    Sư đoàn 18 bộ binh: cuộc chiến đấu cuối cùng ở Xuân Lộc
    4. Phần 4
    » Tác giả: Phạm Phong Dinh




    Thị sát chán chê những đơn vị tả tơi của Quân Đoàn 4 cộng sản, Trần Văn Trà nhanh chóng đi đến một quyết định mà Hoàng Cầm và Bùi Cát Vũ đă nghĩ đến nhưng không dám tŕnh lên, là rút quân. Nhưng để cho cuộc thối lui đó được tô vẽ bằng một thứ nước sơn giả dối khác , Trà đề nghị kế hoạch cho Quân Đoàn 4 đi ṿng tránh Sư Đoàn 18 Bộ Binh và tiến thẳng về Sài G̣n. Về sau này, Trà đă rất tự đắc huênh hoang viết hồi kư khoe “sáng kiến” bỏ chạy ấy là của ḿnh, tranh công với Văn Tiến Dũng, cũng vỗ ngực nói là “chiến lược” của ông ta. Dũng, Trà và cả bộ chính trị Hà Nội thực sự đă dự định đánh tan tành Sư Đoàn 18 Bộ Binh tại Xuân Lộc để gọi là làm nhục Quân Đoàn III vàQuân Lực Việt Nam Cộng Ḥa trên trường quốc tế, điều mà chúng may mắn có được với Quân Đoàn I và Quân Đoàn II của quân ta trong tháng 3.1975, từ đó sẽ nghênh ngang kéo quân trên Quốc Lộ 1 về Sài G̣n. Dù sau này trong tất cả cuốn sử hay hồi kư của tướng tá Việt cộng có nói khéo thế nào, th́ người đời sau cũng hiểu rơ rằng, trận đánh tại Xuân Lộc là một cuộc chiến bại nhục nhă của cộng sản. Muốn làm nhục một quân đội anh dũng là Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, nhưng Hà Nội đă nhận được một bài học cay đắng tại Xuân Lộc, mà bài học đó sẽ c̣n lưu lại trong sách sử đến ngàn đời sau.

    Chiến thắng cuối cùng

    Khi tổ chức bao vây Xuân Lộc, Quân Đoàn 4 cộng sản đă để rất nhiều thời gian nghiên cứu, th́ khi muốn rút lui ra khỏi mặt trận, cấp chỉ huy địch cũng phải vạch kế hoạch tỉ mỉ không kém để làm sao cho Bộ Tư Lệnh Hành Quân Sư Đoàn 18 Bộ Binh không giải đoán được ư định của chúng. Quân Đoàn 4 sẽ rút quân dần dần, các đơn vị c̣n ở lại vẫn tiếp tục mở những cuộc tấn công làm ra vẻ chúng c̣n quyết chiếm Xuân Lộc. Theo kế hoạch này, Văn Tiến Dũng đă đích thân ra lệnh miệng cho Hoàng Cầm, từ đó Cầm điều động Trung Đoàn 165 và Trung Đoàn 266 cứ ở yên tại vị trí. Trong khi đó th́ Trung Đoàn 209 vẫn cứ tạo áp lực lên cạnh sườn các đơn vị của Lữ Đoàn 1 Dù. Trung Đoàn 270 cộng sản rút dần về phía Núi Thị và tổ chức tấn công lên cứ điểm này. Như vậy dưới mắt cấp chỉ huy Sư Đoàn 18 Bộ Binh, lực lượng cộng quân vẫn có vẻ tiếp tục kéo dài cuộc tấn chiếm Xuân Lộc. Tin tức t́nh báo cũng báo động cho biết Trung Đoàn 95B của Sư Đoàn 325 thiện chiến Bắc Việt đang có mặt trên cao nguyên Darlac, là thành phần tham gia chiến dịch tấn chiếm tỉnh lỵ Ban Mê Thuột, đă được gọi xuống tăng cường cho mặt trận Long Khánh. Trung Đoàn 95B, mệnh danh là Trung Đoàn Sông Hương, sau một ngày bôn tập, ngày 13.4.1975 đă có mặt trên chiến trường miền Đông.

    Một cuộc họp quan trọng diễn ra tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 4 Bắc Việt, Tướng Trần Văn Trà và các cấp chỉ huy ở đó đi đến quyết định: “Xuân Lộc là một trọng điểm trên tuyến pḥng thủ của địch, chúng đă tập trung nhiều đơn vị lớn để bảo vệ. Chúng ta không c̣n giữ được yếu tố bất ngờ nữa. V́ vậy chúng ta không c̣n lợi thế để tiếp tục cuộc tấn công Xuân Lộc. Nếu chúng ta chiếm giữ Ngă Ba Dầu Giây th́ Xuân Lộc không c̣n là một trọng điểm nữa, v́ nó đă nằm ngoài chu vi pḥng thủ. Từ đó, chúng ta có thể thực hiện hai cuộc chuyển quân: Một là, tập trung sức tấn công vào Dầu Giây từ hai hướng. Hai là, chúng ta rút quân ra khỏi Xuân Lộc”. Rất ngán sợ hỏa lực của Không Quân Việt Nam, Trà lệnh cho các đơn vị pháo 130 ly âm thầm di chuyển vào sát phi trường Biên Ḥa trong tầm với tới của pháo, với ư đồ phá hủy phi trường Biên Ḥa hay ít nhất quấy rối bằng pháo kích đến tối đa để ngăn chận đoàn phi cơ của quân ta cất cánh yểm trợ cho mặt trận Long Khánh và Dầu Giây. Sau cuộc họp, các đơn vị cộng quân lục tục rút quân dần dần ra khỏi vị trí hiện tại. Dĩ nhiên những cuộc di chuyển đó không qua khỏi sự quan sát chặt chẽ của những toán Viễn Thám nằm sâu trong ḷng địch báo về. Quân Đoàn 4 rút ra khỏi Xuân Lộc th́ Chuẩn Tướng Đảo điều động các đơn vị bám sát theo sau, đồng thời nhân cơ hội đó 8 chiếc trực thăng Chinook đă đem vào Xuân Lộc 93 tấn đạn pháo, 100 tấn lương thực thuốc men và đạn súng nhỏ.

    Trong ṿng năm ngày Sư Đoàn 18 Bộ Binh đánh thắng được sáu cuộc tấn công cường kích của Quân Đoàn 4 Bắc Việt, Đại Sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, ông Graham Martin hân hoan gọi về Washington báo tin Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa đă đánh thắng hai trận đầu tiên, một tại Xuân Lộc và một tại Thủ Thừa, Long An, sau những ngày triệt thoái. Sự kiện đó đă trả lời hùng hồn câu hỏi từ chính giới Hoa Kỳ, rằng liệu Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa có chịu chiến đấu hay không. Với báo cáo này, ông Martin hy vọng Tổng Thống Gerald Ford có được yếu tố thuận lợi để yêu cầu Quốc Hội Hoa Kỳ chấp thuận khoản quân viện bổ sung 722 triệu mỹ kim cho năm 1975. Tổng Thống Ford đă xác nhận mạnh mẽ trước Lưỡng Viện Quốc Hội:”Quân Đội Nam Việt Nam rất muốn chiến đấu. Tại Xuân Lộc, mặc dù quân số ít hơn, nhưng Quân Đội Nam Việt Nam đă chiến đấu rất anh dũng, đă giữ vững vùng đất của họ và đă gây thiệt hại nặng nề lên quân địch...” Những minh chứng rơ ràng đó đă không thuyết phục được những nhà chính trị Hoa Kỳ đă quá mỏi mệt, thiếu kiên nhẫn và không áp đảo được khuynh hướng phản chiến lẫn chủ bại trong Quốc Hội, mà Thượng Nghị Sĩ Jacob Javits là đại diện cho tất cả những cái đó, với câu trả lời rất lạnh lùng, trịch thượng và tàn nhẫn ngày 14.4.1975:”Tôi sẽ thuận cho quư ngài một ngân khoản lớn để tổ chức cuộc di tản, nhưng không một xu quân viện nào cho Thiệu”. Số phận Việt Nam Cộng Ḥa coi như đă được những nhà chính trị kiêu ngạo ấy đánh dấu chấm hết từ ngày 14.4.1975. Hành động phủi tay đó rồi nhiều năm sau sẽ bị công luận thế giới phân tích và phê phán nặng nề, đến nỗi người ta đă đi đến kết luận không lấy ǵ làm vinh dự và đẹp đẽ lắm dành cho chính giới Hoa Kỳ, rằng kết đồng minh với Hoa Kỳ có nghĩa là chắc chắn sớm hay muộn sẽ bị bỏ rơi. Nhưng đó là việc của người Mỹ. Dù có nhận được quân viện hay không th́ quân dân Việt Nam Cộng Ḥa vẫn xác quyết: chiến đấu đến cùng. Mặt trận Long Khánh tiếp tục nổ lớn.

    Trong những ngày t́nh h́nh tạm lắng dịu, chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa muốn cho thế giới hiểu rơ tường tận hơn ư chí quyết chiến của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa và bối cảnh chiến thắng ở Xuân Lộc của Sư Đoàn 18 Bộ Binh, đă tổ chức một cuộc thăm viếng tỉnh lỵ này dành cho giới báo chí truyền thông trong và ngoài nước. Buổi sáng rất đẹp trời ngày 13.4.1975, nhiều chiếc Chinook đă chở những kư giả ngoại quốc vào Xuân Lộc. Phái đoàn được thả xuống tại Tân Phong, một vị trí dùng làm Bộ Chỉ Huy Hành Quân của Chuẩn Tướng Đảo. Tại đây, giới báo chí được mời ngồi nghe người dũng tướng nước Nam, cây cột trụ chống đỡ đất nước giữa cơn nghiêng ngă, thuyết tŕnh diễn tiến trận đánh. Người hùng Xuân Lộc đă quả quyết tuyên bố:”Sư Đoàn 18 Bộ Binh sẽ giữ vững Xuân Lộc, dù cộng sản có ném vào đây bao nhiêu sư đoàn đi nữa”. Lời xác quyết can cường đó đă được chứng minh bằng cuộc thối quân của toàn Quân Đoàn 4 Bắc Việt trong những ngày tiếp theo. Theo Quốc Lộ 1, đoàn kư giả tiến vào thành phố. Họ đă chứng kiến và chụp h́nh, quay phim cảnh đổ nát của phần phía Bắc Xuân Lộc. Sau khi Đại Tá Phạm Văn Phúc thuyết tŕnh diễn biến chiến sự trong năm ngày qua, Đại Tá Lê Xuân Hiếu, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 43 hướng dẫn phái đoàn đi bộ vào khu chợ Xuân Lộc và đến địa điểm triễn lăm vũ khí tịch thu được từ quân cộng sản. Cuộc thăm viếng của đoàn nhà báo quốc tế đă đem lại nhiều thuận lợi cho Việt Nam Cộng Ḥa trong sự chú ư của dư luận quốc tế. Tuy nhiên trong những ngày ảm đạm cuối cùng của tháng 4.1975 ấy, những bài báo ngợi ca chiến thắng của Sư Đoàn 18 Bộ Binh chỉ c̣n là những ánh hào quang lẻ loi trước khi toàn quân lực bị bức tử trong sự ngoảnh mặt làm ngơ của thế giới.

    Đánh Xuân Lộc không được, giờ đây Quân Đoàn 4 Bắc cộng tập trung quân đánh vào khu vực Ngă Ba Dầu Giây, là vị trí trách nhiệm trấn giữ thuộc Trung Đoàn 52 Bộ Binh của Đại Tá Ngô Kỳ Dũng. Muốn đi ṿng Xuân Lộc để tiến về Biên Ḥa và Sài G̣n, th́ Quân Đoàn 4 cộng quân phải đánh bứt các vị trí của Trung Đoàn 52, để từ đó theo Quốc Lộ 20 tuôn xuống phía Nam. Đại Tá Dũng và chiến sĩ của ông ở trong một t́nh thế thật hung hiểm, số ít đối đầu với số đông đă đành, mà địa thế khá là bằng phẳng và trống trăi ở khu vực trách nhiệm rất không thuận lợi cho một cuộc pḥng thủ lâu dài. Phía cộng sản, với giá nào chúng cũng phải đánh thủng chiến tuyến, dù có phải thí quân tàn bạo đến như thế nào đi nữa. Ngày 13.4, trận đại chiến giữa Trung Đoàn 52 và quân cộng bắt đầu tái diễn. Vẫn một trận băo pháo kinh khủng trút vô giới hạn xuống vị trí của Tiểu Đoàn 1/52 . Dứt pháo, Trung Đoàn 33 cộng quân thuộc Sư Đoàn 6 Bắc Việt ḥ hét xung phong biển người lên giao thông hào của chiến sĩ Tiểu Đoàn 1/52 đang trấn giữ ấp Phan Bội Châu. Quân ta vừa chống trả vừa lùi dần về phía Ngă Ba Dầu Giây. Đại Tá Dũng lệnh cho Tiểu Đoàn 3/52 của Thiếu Tá Mỹ cấp tốc hành quân đến giải vây cho Tiểu Đoàn 1/52, rồi cùng kéo về ấp Nguyễn Thái Học. Nóng ḷng cuộc tử sinh của chiến hữu, hai đại đội c̣n lại của Tiểu Đoàn 3/52 suốt đêm lầm lũi xuyên qua những cánh rừng lá thấp bụi rậm giăng mắc, để cuối cùng bắt tay được với 1/52. Hai tiểu đoàn quân số đă sụt xuống con số đau ḷng, chỉ c̣n 1/3 số tay súng khỏe mạnh, cùng bảo vệ nhau kéo ra khỏi Ngă Ba Dầu Giây, trong khi đó th́ Tiểu Đoàn 2/52 đă tách ra khỏi Trung Đoàn để về trấn giữ tỉnh lỵ từ mấy ngày trước theo lệnh của Chuẩn Tướng Đảo. Như vậy, Đại Tá Dũng chỉ có thể xoay sở với hai tiểu đoàn thiếu của ông để chống ngăn cơn sóng hung bạo của cả một sư đoàn lên đến 9 tiểu đoàn.

    Hoạt động của Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III

    Lực Lượng Xung Kich Quân Đoàn III của Chuẩn Tướng Khôi vẫn c̣n dậm chân tại Hưng Lộc, v́ những chiến xa M48 của Kỵ Binh không thể dàn được đội h́nh đột phá trên con lộ độc đạo. Nếu đánh thủng Hưng Lộc, th́ Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh của ông mới có thể tiếp cứu được Trung Đoàn 52 Bộ Binh. Chuẩn Tướng Khôi quyết định đánh bọc hông Sư Đoàn 6 bằng cách điều động Chiến Đoàn 315 và 322 lên phía Bắc Hưng Lộc. Chiến Đoàn 325 được tổ chức thành hai cánh quân như sau. Cánh A vẫn tiến quân trên Quốc Lộ 1 thu hút sự chú ư của quân cộng ở mặt Nam. Cánh B gồm Tiểu Đoàn 64 thuộc Liên Đoàn 33 Biệt Động Quân và Chi Đoàn 1/15 dưới quyền chỉ huy của Đại Úy Phạm Văn Bản, với nhiệm vụ húc qua chốt cộng và bắt tay với Trung Đoàn 52 tại ấp Nguyễn Thái Học. Đến giữa trưa ngày 14.4.1975, cánh quân của Đại Úy Bản đă xông lên tiến chiếm được Đồi 122 , cao điểm phía Bắc Hưng Lộc, và sẵn sàng tiến tới nữa. Thật không may, nhiều con suối đă chận ngang đường đi, Đại Úy Bản buộc phải cho con cái tạm dừng chờ Công Binh lên bắc cầu. Sự chậm trễ này đă hiến cho Sư Đoàn 6 cộng sản cơ hội phát hiện được cuộc tiến quân bí mật của Chuẩn Tướng Khôi, chúng vội điều quân tới chận đánh Cánh B từ ba hướng Bắc, Đông và Tây. Chiến sĩ Tiểu Đoàn 64 Mũ Nâu dàn quân kháng cự ác liệt để bảo vệ đoàn chiến xa của quân ta. Quân giặc trùng điệp tràn lên như những bầy kiến đỏ hung dữ. Cuộc chiến đấu của quân ta càng lúc càng khó khăn, sức nặng của hỏa lực và biển người càng lúc càng chồng chất lên vai chiến sĩ Biệt Động Quân và Kỵ Binh. Đại Úy Bản đă kể lại:”Địch quân tiến tới đông nghẹt như một bầy kiến, phóng ra nhiều đợt biển người lên đồi từ ba hướng. Trong t́nh thế nguy ngập đó, tôi đă gọi Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn yểm trợ hỏa lực phi pháo. Nhưng tất cả hỏa lực gửi đến chỉ là một vài chiếc trực thăng vơ trang bắn vài loạt hỏa tiễn rồi bay đi... Cường độ tấn công của cộng quân càng mănh liệt dần lên. Tôi tưởng rằng quân ta sẽ bị tràn ngập trên Đồi 122, hay bị bao vây và bị cô lập hoàn toàn... Bỗng nhiên Việt cộng rút lui, cuộc giao tranh chấm dứt... Phía chúng tôi có 20 chiến sĩ bị thương, Biệt Động Quân gần 40... C̣n xác Việt cộng nằm la liệt khắp cánh đồng lúa “. Mặc dù cộng quân đă thôi tấn công Đồi 122, nhưng ư định đánh vào mạn sườn Bắc quân địch của Chuẩn Tướng Khôi đă không thành công và bị khựng lại, phần lớn là do địa h́nh ngăn trở.

    Những chuyên viên Pḥng 7 Bộ Tổng Tham Mưu

    Trong cuộc chiến đấu bảo vệ Xuân Lộc, c̣n có những đóng góp rất âm thầm của nhóm công tác gồm 20 nhân viên đặc biệt từ Pḥng 7 Bộ Tổng Tham Mưu đến Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh. Các chiến sĩ này làm việc suốt ngày đêm để ḍ sóng truyền tin địch và giải mă những bức điện văn. Nhờ đó quân ta biết được ư định hành quân, nơi tập trung bộ đội và báo cáo t́nh h́nh quân số của địch trên khắp chiến trường. Nhờ những dữ kiện đó mà Bộ Tổng Tham Mưu có được chi tiết chính xác để gửi một chiếc C130 chở một trái bom 15,000 cân Anh (tương đương 7.000 kí) có tên là Daisy Cutter bỏ xuống vị trí nghi ngờ là Bộ Chỉ Huy Quân Đoàn 4 Bắc Việt cùng với một trung đoàn bảo vệ đóng quân gần đó. Cũng nhóm Pḥng 7 sau đó đă bắt được sóng địch báo cáo 75% Bộ Chỉ Huy Quân Đoàn 4 Bắc Việt đă bị hủy diệt. Vẫn chưa hết, hàng ngày từ 8 đến 12 chiếc C130 trong chiến dịch Flame Wafare (Hỏa Chiến) do sáng kiến của Không Quân Việt Nam, đă chở những cái bè gỗ trên đó chất những thùng cỡ 200 lít dầu và hơi cháy trút xuống các đơn vị địch, tạo nên những cơn sóng chấn động và lửa nóng chẳng kém ǵ bom lửa Napalm. Tiếng nổ liên hồi ầm ầm của những loạt bom đó rất giống tiếng bom B52 , đă làm cho Hà Nội phải la làng inh ỏi, rằng Không Quân Hoa Kỳ “chơi” bom sát thương hàng loạt loại mới. C̣n phía quân dân tử thủ Xuân Lộc th́ ḥ reo hân hoan cho là B52 đă nhập cuộc. Khi biết rơ những cuộc dội bom ấy xuất phát từ Không Quân Việt Nam, chiến sĩ dưới đất đă gọi đó là những “B 52 Việt Nam”.

    Trung Đoàn 52 Bộ Binh đánh địch

    Dù bị Không Quân Việt Nam dội bom Daisy Cutter và bom “B-52 Việt Nam”, nhưng quân cộng vẫn bám cứng khu vực Trung Đoàn 52 Bộ Binh, đồng thời gấp rút điều động Liên Đoàn 75 Pháo Binh pháo kích phi trường Biên Ḥa liên tục nhằm vô hiệu quá sức mạnh của Không Quân. Đồng thời đặc công địch đă ḅ vào phá hủy được kho đạn trong phi trường. Hai sự kiện đó quả thật đă gây trở ngại lớn cho Sư Đoàn 18 Bộ Binh, đặc biệt tại tuyến Dầu Giây. Rạng sáng ngày 15.4.1975, Trung Đoàn 33 và Trung Đoàn 95B Sông Hương c̣n nguyên vẹn sinh lực của Sư Đoàn 6 cộng sản mở cuộc tấn công vào ấp Nguyễn Thái Học và Đồi Móng Ngựa. Trên Đồi Móng Ngựa Đại Úy Mạch Mạnh Liêu và đại đội của ông vẫn xác định quyết tâm giữ vững vị trí, mặc dù quân số đại đội đă hao hụt quá nhiều mà không có bổ sung. Trung Đoàn 33 và 95B là hai trung đoàn thiện chiến rất kỳ cựu của địch, chúng hoạt động thường xuyên trên vùng Tây Nguyên và đă giao tranh nhiều trận rất lớn với Quân Đoàn II của ta nhiều năm trước đây. Trung Đoàn 33 Bắc Việt được dùng làm thành phần chủ yếu cấu thành Sư Đoàn 6 tân lập của cộng sản trong chiến dịch tấn công của năm 1975. Nhiều ngàn trái đạn đủ loại dội ùng oàng ác liệt xuống khắp vị trí của Trung Đoàn 52 Bộ Binh. Sau cơn pháo, Trung Đoàn 33 Bắc Việt tiến chiếm được Ngă Ba Dầu Giây và định đánh bứt ấp Nguyễn Thái Học. Nhưng với sự có mặt của Cánh B Chiến Đoàn 315 trên Đồi 122, Trung Đoàn 33 cộng quân buộc phải chuyển sang đối phó với lực lượng này. Trung Đoàn 95B tổ chức ba cuộc tấn công lên Đồi Móng Ngựa. Với một đại đội mà quân số đă dần hao ṃn, nhưng chiến sĩ Trung Đoàn 52 Bộ Binh đă dũng liệt đánh văng xuống đội trung đoàn thiện chiến nhất của địch. Dù vậy, Đại Tá Ngô Kỳ Dũng vẫn cẩn thận gửi tăng viện Đồi Móng Ngựa một đại đội nữa. Đại đội trấn giữ Đồi Móng Ngựa đă được đại đội bạn mang vác tiếp liệu đến bổ sung và tiếp tay di tản các chiến thương. Những sĩ quan cùng chung trong Trung Đoàn cảm khích siết chặt tay nhau thề cùng sống chết trên ngọn đồi thấp này.

    Chẳng lâu la ǵ, Tiểu Đoàn 2 của Trung Đoàn 95B Việt cộng xua quân biển người tràn lên đồi. Một đại đội tử thủ chúng c̣n không lên nổi, giờ đây thêm một đại đội nữa, chiến sĩ Trung Đoàn 52 dễ dàng đánh Tiểu Đoàn 2/95B địch lăn lộn xuống chân đồi. Một tiểu đoàn thứ hai âm thầm men theo Quốc Lộ 20 định đánh vào sườn quân ta trên đồi, th́ đă bị Pháo Binh dội những tràng đạn tập trung chết chóc xuống làm chúng phải thối lui.

    Khi Chiến Đoàn 315 của Lữ Đoàn 3 Xung Kích đă bị khựng lại, th́ cộng quân bắt đầu mở cuộc đột phá vào ấp Nguyễn Thái Học do các đại đội c̣n lại của Tiểu Đoàn 3/52, Chi Đoàn 3/5 Kỵ Binh và các thành phần khác của Trung Đoàn 52 Bộ Binh. Cộng quân đánh quá dữ, bằng mọi giá chúng phải bứng được quân ta ra khỏi khu vực Ngă Ba Túc Trưng nằm chặn trên Quốc Lộ 20 và Ngă Ba Dầu Giây trên Quốc Lộ để Quân Đoàn 4 Bắc Việt tiến về Sài G̣n. Quân ta cũng không chịu rút, dù càng lúc quân số càng hao hụt. Nhiều chiến sĩ bị thương hai ba lần, nhưng người nào c̣n cầm súng được vẫn cứ nghiến răng tựa lưng vào chiến hào tử chiến với giặc Cuộc giao tranh quá đỗi khốc liệt ấy kéo dài liên tục trong mười tiếng đồng hồ, tiếng đạn pháo hai bên nổ rền trời. Đến lúc mà quân số của toàn Trung Đoàn đă sụt xuống con số đau thương là chỉ c̣n 20% tay súng, Đại Tá Dũng đành phải ra lệnh cho chiến sĩ trên Đồi Móng Ngựa ngay trong đêm phải rút xuống và trở về với Tiểu Đoàn 3/52. Khoảng 6 giờ rưỡi chiều, Đại Tá Dũng chia lực lượng rách nát của ông thành hai nhóm. Đích thân Đại Tá Dũng dẫn một nhóm bộ binh và Kỵ Binh thoát ra khỏi rừng cao su. Nhóm thứ hai là Tiểu Đoàn 3/52 theo một hướng thoát thân. Với kinh nghiệm hành quân nhiều năm trong khu vực tỉnh Long Khánh, cả hai nhóm quân của Trung Đoàn 52 len lỏi giữa những vị trí đóng quân của địch và đă về đến được Trảng Bom an toàn.

    Mặt trận Long Khánh đă thiếu vắng một đơn vị thiện chiến, Sư Đoàn 18 Bộ Binh giờ đây phải tự điều chỉnh trận liệt với Trung Đoàn 43 và Trung Đoàn 48, cộng thêm Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù và Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân. Tin Phan Rang thất thủ chẳng mấy chốc đă bay đến Xuân Lộc. Sư Đoàn 341 cộng quân thôi không đánh Xuân Lộc, chúng di chuyển lên hướng Bắc tấn chiếm được Kiệm Tân và Túc Trưng, song song với những cơn pháo mănh liệt vào phi trường Biên Ḥa. Như vậy ư định cô lập Sư Đoàn 18 Bộ Binh ra khỏi chu vi pḥng thủ của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa của Quân Đoàn 4 Bắc Việt đă dần dần thành h́nh. Một tin tức không vui khác đến từ đất nước Hoa Kỳ. Ngày 17.4.1975, Quốc Hội Mỹ đă chính thức bác bỏ khoản quân viện 722 triệu đô la cho Việt Nam Cộng Ḥa. Có nghĩa là Việt Nam Cộng Ḥa phải tự lực xoay sở cứu lấy ḿnh, Hoa Kỳ đă hoàn toàn phủi tay đứng ngoài cuộc. Thật mỉa mai. Mười hai năm về trước của năm 1975 , Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm đă bị sát hại v́ không chấp thuận sự hiện diện của quân đội Mỹ. Mười hai năm về sau của năm 1963, chẳng ai xua đuổi mà quân đội Mỹ vẫn cứ ung dung rút chạy ra khỏi Việt Nam.

    Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân Đoàn III & Quân Khu III trong một nỗ lực cuối cùng ngăn chận đoàn quân giặc sắp sửa tràn xuống Sài G̣n, đă điều động Trung Đoàn 8 của Sư Đoàn 5 Bộ Binh, dưới quyền của Trung Đoàn Trưởng Trung Tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng tăng viện Lực Lượng 3 Kỵ Binh Xung Kích. Trung Tá Hùng cùng Trung Đoàn 8 Bộ Binh đang giữ thị trấn Phú Giáo ở phía Bắc căn cứ Lai Khê, bản doanh của Sư Đoàn 5 Bộ Binh. Trung Tá Hùng từng là Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 43 Bộ Binh, nên ông rất quen thuộc thông thổ Long Khánh. Nhưng khi ông được cử đi học khóa Tham Mưu Cao Cấp tại Hoa Kỳ từ năm 1972 cùng với Chuẩn Tướng Khôi, th́ Đại Tá Lê Xuân Hiếu lên thay. Trung Tá Hùng xuất thân từ binh chủng Nhảy Dù, ông từng chỉ huy hai Đại Đội Dù tấn công vào Dinh Độc Lập ngày 1.11.163 để lật đổ Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm. Khi được gọi về tŕnh diện Trung Tướng Toàn nhận nhiệm vụ đánh Dầu Giây, Trung Tướng Toàn hỏi Trung Tá Hùng chỉ huy Trung Đoàn 8 được bao lâu rồi. Chuẩn Tướng Đảo và Chuẩn Tướng Khôi cùng có mặt lúc đó đă dành nhiều lời nồng hậu cho Trung Tá Hùng, nên Trung Tướng Toàn vui vẻ thăng cấp ngay lên Đại Tá cho ông. Nhưng v́ trong văn pḥng Tư Lệnh Quân Đoàn lúc đó chỉ có ba ông Tướng, nên sĩ quan tùy viên phải chạy ra ngoài t́m lon mới cho vị Đại Tá tân thăng. Khi Trung Đoàn 8 đến Hưng Nghĩa trên những chiếc GMC, Đại Tá Hùng nhận lệnh Chuẩn Tướng Khôi chỉ huy luôn Chiến Đoàn 322, với nhiệm vụ đánh thông Quốc Lộ 1. Mặc dù Đại Tá Hùng cùng Chiến Đoàn 322 cố gắng mở cuộc đột phá rất quyết liệt xông qua ấp Hưng Nghĩa và Hưng Lộc, Chiến Đoàn của Đại Úy Bản đánh từ Đồi 122, nhưng Trung Đoàn 95B cộng sản kháng cự dữ dội, quân ta không qua được, v́ vậy mà Trung Đoàn 95B bị thiệt hại quá nặng, buộc Sư Đoàn 341 phải trở lại thay thế nó.
    Last edited by alamit; 04-02-2013 at 05:44 AM.

  2. #22
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Thiếu tướng Lê Minh Đảo
    Sư đoàn 18 bộ binh: cuộc chiến đấu cuối cùng ở Xuân Lộc
    5. Phần 5
    » Tác giả: Phạm Phong Dinh






    Triệt thoái khỏi Xuân Lộc

    Cuộc quyết chiến giữa Quân Đoàn 4 Bắc Việt và Sư Đoàn 18 Bộ Binh diễn ra thật đẫm máu từ ngày 10.4.1975 đến ngày 13.4.1975, với phần thắng nghiêng về phía chiến sĩ Cung Tên Miền Đông. Nhưng Quân Đoàn 4 giặc vẫn tiếp tục dùng pháo binh quấy rối quân ta ngày đêm. Từ ngày đó, quân dân Xuân Lộc không c̣n đương đầu với bộ binh địch nữa, mà chỉ nằm chịu pháo. Một tuần tiếp theo sau là trận đánh giữa Lữ Đoàn 1 Dù và Tiểu Đoàn 8 Bắc Việt. Quân Dù đă dần dần thắt chặt ṿng vây kẹp tiểu đoàn địch trong khu vực đồn điền Đại Tướng Tỵ để dứt điểm nó.

    Ngày 19.4.1975, Sư Đoàn 7 Bắc Việt trong cố gắng giải cứu Tiểu Đoàn 8, đă gấp rút tung vào chiến trường Trung Đoàn 141 trừ bị. Bộ phận ḍ sóng của chuyên viên Pḥng 7 Bộ Tổng Tham Mưu báo lên Chuẩn Tướng Đảo nội dung nghe được rất thú vị như sau:”Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 141 đích thân lên máy vô tuyến thúc giục bô đội xông lên đánh quân Dù, nhưng cán binh Trung Đoàn 141 nghe nói đánh Nhảy Dù, đă sợ hăi không dám lên. Trung Đoàn Trưởng 141 khuyến dụ cán binh, rằng quân Nhảy Dù bây giờ đánh không c̣n “ngon” như hồi trước nữa”. Biết được nỗi dao động của cán binh Trung Đoàn 141 cộng quân khi đối đầu với chiến sĩ Dù, Chuẩn Tướng Đảo thông báo cho Trung Tá Đỉnh, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 1 Dù biết trước cuộc tấn công này. Nên khi quân 141 xuất hiện trước chiến tuyến, chiến sĩ Mũ Đỏ chuẩn bị sẵn trận thế, đă xác minh lời của Trung Đoàn Trưởng 141 khuyến dụ cán binh, rằng lính Dù đánh không c̣n “ngon” là hoàn toàn dối trá. Cuộc giao tranh giữa Lữ Đoàn 1 Dù và Sư Đoàn 7 c̣n đang dằng dai, th́ Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa nhận được tin Quân Đoàn 2 Bắc Việt và Sư Đoàn 325 đă vào tới Rừng Lá, cách Xuân Lộc 20 cây số về hướng Tây. Như vậy Biên Ḥa rồi đến Sài G̣n sẽ nằm dưới áp lực rất nặng của quân cộng. Lúc 9 giờ sáng ngày 20.4.1975, Trung Tướng Toàn và Chuẩn Tướng Trần Đ́nh Thọ, Trưởng Pḥng 3 Bộ Tổng Tham Mưu bay vào Xuân Lộc ban lệnh rút quân về chống giữ Biên Ḥa. Con đường được chọn lựa triệt thoái sẽ là Liên Tỉnh Lộ 2 ở phía Nam Xuân Lộc. Theo kế hoạch của Trung Tướng Toàn, một khi Sư Đoàn rút ra khỏi Xuân Lộc an toàn, th́ đoàn GMC sẽ đưa toàn quân số về Căn Cứ Long B́nh để nghỉ ngơi vài ngày, bổ sung quân số và tái trang bị.

    Cuộc quyết chiến giữa Quân Đoàn 4 BV và Sư Đoàn 18 Bộ Binh đă diễn ra khốc liệt từ ngày 9 đến 21.4.975, hai bên đều bị tổn thất nặng, nhưng phần thắng cuối cùng đă nghiêng về phía Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Theo ước lượng của Thiếu Tướng Đảo về sau này, th́ phía cộng quân bị giết chết đến 10,000 người, một con số quá cay đắng chưa từng thấy trong một thời gian quá ngắn. Cơn chiến bại này coi như là một vết hằn trong cuộc đời binh nghiệp của Thiếu Tướng Hoàng Cầm. Đích thân Tướng Trần Văn Trà xuống “chi viện” cho Hoàng Cầm. Nhưng chính Trà sau khi suy tính nát nước, không thấy một chút le lói hy vọng chiến thắng nào, dù Trung Đoàn 52 của quân ta đă bị tổn thất rất nặng phải rút về Biên Ḥa trước, đă không dám đánh SĐ18BB. Trà buộc ḷng cho lệnh Quân Đoàn 4 bỏ Xuân Lộc đi ṿng về Biên Ḥa theo hướng Quốc Lộ 15, chỉ để các đơn vị của Sư Đoàn 7 ở lại bao vây và quấy rối Xuân Lộc. Sau này khi viết hồi kư, th́ Trà lại tự cho là ḿnh đă “phát huy sáng kiến” đánh bọc ṿng xuống Biên Ḥa, nhưng chúng ta nhớ lại trước khi mặt trận Xuân Lộc nổ, cũng chính Trà đă thúc giục “anh Ba” Lê Duẫn cho quân giải phóng đánh Xuân Lộc trước. Cả Trà và Cầm đều là bại tướng, nếu cách chức th́ phải cách chức cả hai tướng này, chứ không phải riêng trách nhiệm của Cầm.

    V́ các quân đoàn của địch tránh né Sư Đoàn 18 Bộ Binh đi ṿng theo hướng Quốc Lộ 20 và Quốc Lộ 15 xuống đánh Biên Ḥa, nên nhiệm vụ bảo vệ Xuân Lộc của sư đoàn cũng chấm dứt. Đồng thời Chiến Đoàn 3 Xung Kích của Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi đang đánh địch tại Ngă Ba Dầu Giây cũng được lệnh kéo quân về bảo vệ thành phố này. Với hai lực lượng rất mạnh tử thủ Biên Ḥa, một lần nữa tướng tá giặc lại kéo nhau đi ṿng, bỏ Biên Ḥa và tiến thẳng về Sài G̣n. Để đem được toàn bộ sư đoàn và các đơn vị biệt phái ra khỏi Xuân Lộc, là một công tác cực khó khăn, đ̣i hỏi một kế hoạch tỉ mỉ và kiên quyết. Một lần nữa, người ta lại thấy tài năng lănh đạo và chỉ huy của những vị tướng trẻ QLVNCH trong những trường hợp dầu sôi lửa cháy như thế này. Để đánh lạc hướng Sư Đoàn 7 BV, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù nhận nhiệm vụ đánh cầm chân chúng để cho toàn bộ SĐ18BB rút đi trước. Kể từ 8 giờ tối đêm 20.4.1975, Trung Đoàn 48 của Trung Tá Trần Minh Công và Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh của Trung Tá Nô chịu trách nhiệm mở đường theo Liên Tỉnh Lộ 2 về hướng tỉnh Phước Tuy. Rồi đến đoàn cơ giới gồm Pháo Binh, Quân Vận, Công Binh, các đơn vị Tiếp Vận khác, hai khẩu 175 ly, dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Hứa Yến Lến, Tham Mưu Trưởng sư đoàn. Khi đoàn Pháo Binh di chuyển đến Long Giao, một căn cứ cũ của Hoa Kỳ, th́ Đại Tá Hưng, Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh sư đoàn sẽ thiết trí một căn cứ hỏa lực tạm thời để yễm trợ hỏa lực cho toàn cuộc di tản, với sự bảo vệ cương quyết của Đại Đội 18 Trinh Sát dũng mănh. Ở khoảng giữa sẽ là các đơn vị Địa Phương Quân & Nghĩa Quân Long Khánh dưới quyền Đại Tá Phạm Văn Phúc, Tỉnh Trưởng, cùng với số đồng bào c̣n kẹt lại trong thị xă. Các đơn vị thuộc Trung Đoàn 43 của Đại Tá lê Xuân Hiếu và Tiểu Đoàn 82 của Thiếu Tá Vương Mộng Long chịu trách nhiệm đoạn hậu. Tất cả đơn vị đều di chuyển trong đêm 20.4.1975. Đó là chưa kể Tiểu Đoàn 2/43 của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế vẫn c̣n đang trấn giữ trên Núi Thị và phải rút sau cùng.

    Khi Lữ Đoàn 1 Dù của Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh rút lui, th́ Tiểu Đoàn 2/43 là tiểu đoàn đơn độc c̣n sót lại, Chuẩn Tướng Đảo phải bay trên trực thăng hướng dẫn hướng hành quân cho tiểu đoàn này rút theo sư đoàn trong ngày hôm sau. Trong suốt cuộc hành quân triệt thoái, Chuẩn Tướng Đảo và các sĩ quan thuộc Bộ Tư Lệnh đều cùng di chuyển bộ với binh sĩ, đặc biệt Tướng Đảo đi lên đi xuống dọc hàng quân để khích lệ và nhắc nhở chiến sĩ luôn cố gắng bảo vệ đồng bào trong đoàn. Một chiếc trực thăng chỉ huy C&C bay trên bầu trời với Đại Tá Ngô Kỳ Dũng, để giúp Tướng Đảo liên lạc và điều hợp đoàn di tản. Lữ Đoàn 1 Dù và Tiểu Đoàn 2/43 ở vào một t́nh thế cực kỳ nguy hiểm, rất giống như cuộc di tản Hạ Lào 719 năm 1971. Sư Đoàn 7 BV khám phá dù muộn màng cuộc triệt thoái, Trung Đoàn 141 đă hành quân đuổi theo chận đánh và phục kích quân Mũ Đơ dữ dội. Lữ Đoàn 1 Nhày Dù nhận nhiệm vụ chận hậu cho đoàn quân triệt thoái đă đụng độ nặng với Trung Đoàn 141 cộng sản tại Bảo Định và chịu tổn thất. Thật đau ḷng, tất cả tử sĩ và chiến sĩ bị thương nặng đều không thể cáng theo được. Con đường dài đến 40 cây số xuyên qua những cánh rừng cao su thâm u dầy đặc quân cộng, giống như một cuộc hành tŕnh đi qua cửa địa ngục. Những tấn thảm kịch đầy máu và nướ c mắt sao cứ măi đeo đẳng lên đôi vai c̣m cơi của người lính chúng ta như một định mệnh tàn nhẫn. Vẫn chưa hết, khi đoàn Mũ Đỏ ra đến Quốc Lộ 1 lúc 9 giờ đêm, th́ một cảnh tưởng xúc động đến nát ḷng đang chờ đón các anh. Hàng ngàn gia đ́nh đồng bào ở những ấp Bảo Định, Bảo Toàn, Bảo Ḥa lển mển hành trang, tay bồng tay bế tập trung hai bên đường xin được đi theo quân ta. Nhiệm vụ đánh hậu c̣n oằn nặng chưa xong, giờ đây chiến sĩ Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù phải bảo vệ sinh mạng của những đồng bào ruột thịt của các anh. Đồng bào không bao giờ chấp nhận cộng sản, dù có phải bỏ hết nhà cửa, tài sản khó nhọc chắt chiu từ nhiều chục năm, nhưng để được tự do, th́ người dân sẵn sàng cùng dấn thân với người lính Việt Nam Cộng Ḥa trên bất cứ con đường khổ ải nào.

    Đoàn quân và dân lẫn lộn xen kẻ nhau kéo đi lầm lũi trong đêm tối hăi hùng. Từ Tân Phong, đoàn người khốn khổ đến được Đức Thành. Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù được Đại Đội 1 Trinh Sát Dù bảo vệ là đơn vị duy nhất đi trên con lộ 2 hoang phế. Các Tiểu Đoàn 1, 2, 8 và 9 Dù rải quân đi sâu vào hai rừng cao su bể bảo vệ đoàn quân dân trên mặt lộ. Khoảng 4 giờ sáng rạng ngày 21.4.1975, Pháo Đội C của Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh và một Trung Đội Trinh Sát lọt vào ổ phúc kích của hai tiểu đoàn giặc tại ấp Qui Ca gần ranh giới hai tỉnh Long Khánh - Phước Tuy. Quân giặc đă ḥ hét xung phong biển người lên tràn ngập cánh quân này. Quân ta đă tận lực chống trả đến người cuối cùng. Nhưng nhờ sự hy sinh cao cả này mà đoàn quân dân lọt đến được khu vực núi Cấm Tiên, để ở đây, Tiểu Đoàn 9 Dù đánh một trận lừng lẫy cuối cùng cho trang chiến sữ đẫm máu và lệ của binh chủng Dù, chịu chết chóc để đưa được đoàn quân dân về đến được Phước Tuy b́nh yên.

    Hồi tưởng lại những ngày chiến đấu ở Xuân Lộc và cuộc triệt thoái trên Liên Tỉnh Lộ 2, Đại Úy Nhảy Dù Hoàng Văn Tuất, một Trung Đội Trưởng thuộc Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù đă kể lại trong bài viết Trận Chiến Cuối Cùng Của Tiểu Đoàn 9 Dù như sau. Đại Úy Hoàng Văn Tuất xuất thân Khóa 9/68, tốt nghiệp Khóa 5 Huấn Luyện Viên, Tổng Cục Quân Huấn. Khi lên cấp Trung Úy một thời gian, anh xin thuyên chuyển về Sư Đoàn Nhảy Dù để thỏa chí trai bốn phương ngang dọc,Trung Úy Tuất nhận một trung đội và bắt đầu cuộc đời chiến trường đỏ lửa của anh. Theo Đại Úy Tuất, một sĩ quan cấp Trung Úy trở xuống thuộc đơn vị khác không phải xuất thân từ binh chủng Dù, chỉ được nhận trung đội để quen dần với hệ thống chỉ huy và kỹ thuật tác chiến của binh chủng Mũ Đỏ.

    Nhớ về các bạn Thiếu Úy Mỹ, Sơn và Đông.

    Hồi tưởng lại mùa xuân 1975 tại Đà Nẵng. Sau những tháng năm dài đóng quân ngoài miền hỏa tuyến, Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù hậu cứ đặt tại Đà Nẵng lệnh cho Tiểu Đoàn 9 Dù hàng ngày tung những cánh quân nhỏ cấp Trung Đội hành quân lục soát thường xuyên trên các đỉnh đồi ( 400 hay 500 thước). Thật là bực bội và khó chịu cho chúng tôi, nhưng phải tuân hành. Cánh quân vũ băo hàng đầu, sau trận chiến Thường Đức 1062, Quảng Nam, không c̣n được dùng đúng chỉ số nữa. Sáng sớm đi lục soát, đến chiều tối mới ṃ về, y hệt như những chiến hữu Địa Phương Quân của Tiểu Khu Quảng Nam vậy. Đôi lúc chúng tôi gặp nhau trên đường hành quân, sau vụ Việt cộng pháo kích vào thành phố và phi trường Đà Nẵng.

    Vào một ngày nắng đẹp, sau hai tuần lễ thay phiên nhau trèo đèo lội suối, chúng tôi thay đồ đẹp tính đi dạo phố, không ngờ lịnh trên cho chuẩn bị hành trang gọn gàng và chờ đợi. Đổi vùng. Lịnh chỉ có thế. Chúng tôi thực sự mừng rỡ, ở một chỗ quá lâu không tốt và cũng là mục tiêu cho bọn cộng sản nằm vùng ḍm ngó. Tin một chiến đoàn Thủy Quân Lục Chiến ra trám chỗ cho chúng tôi. Chúng tôi khăn gói cuốc bộ đến phi trường. Nơi đây không khí nhộn nhịp hẳn lên, những vận tải cơ C130 lên xuống không ngừng, cố gắng hoàn tất nhiệm vụ là vận chuyển cả Lữ Đoàn Dù xuôi Nam. Nghe tin t́nh h́nh vô cùng xáo trộn và bi đát, rồi sẽ có đảo chánh nữa, v́ thế Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu mới ra lịnh cho đơn vị Dù về pḥng thủ ṿng đai an ninh thủ đô. V́ không đủ máy bay nên Lữ Đoàn 1 Dù phải chia làm đôi. Phân nửa về bằng tàu, nửa kia về bằng máy bay. Tiểu Đoàn 8 và 9 Nhày Dù lên máy bay thẳng một lèo về Sài G̣n, c̣n Tiểu Đoàn 1 Dù về bằng tàu Hải Quân đến Khánh Ḥa, th́ có lịnh tấp vô bờ phụ với Lữ Đoàn 2 Dù ở Khánh Dương.

    Sài G̣n thành phố thân yêu, dân chúng vẫn tấp nập buôn bán, làm ăn sinh hoạt b́nh thường hơn so với các nơi khác. Đơn vị rảnh rang gửi binh sĩ qua học bổ túc chiến thuật, cũng như những ai chưa có bằng Dù đều được về Trại Hoàng Hoa Thám thụ huấn khóa Dù ngay. Chỉ vài ngày sau th́ Đà Nẵng mất, Thủy Quân Lục Chiến gặp nguy, cố vùng vẫy và chiến đấu lẻ loi v́ không được đơn vị nào đến tiếp cứu, đành mở đường máu cố gắng về Đà Nẵng rồi t́m phương tiện xuôi Nam. Chợt nhớ đến Chiến, người bạn cùng khóa, cùng trung đội, đă t́nh nguyện về Thủy Quân Lục Chiến, mà trước khi măn khóa một tuần đă tự sắm bộ đồ bông xanh mặc vào đi khoe khắp Đại Đội. Cầu nguyện cho nó được b́nh an.

    Học bổ túc cũng chỉ được vài ngày. Lúc bấy giờ mặt trận Long Khánh đă bùng nổ rất ác liệt, Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo của Sư Đoàn 18 và các đơn vị dưới quyền của ông quyết không để một tấc đất nào rơi vào tay bọn cộng sản. Tướng cộng sản giận dữ tung thêm các sư đoàn thiện chiến vào định giải quyết chiến trường mau lẹ, để rồi tiến thẳng vào Sài G̣n càng sớm càng tốt như ư họ mong muốn. Nhưng Bộ Tổng Tham Mưu của ta không để cho chúng được toại nguyện, lịnh tung quân Dù vào trận chiến. Tiểu Đoàn 9 Dù có tên trong danh sách nhập trận. Chúng tôi đành bỏ khóa học Dù nửa chùng. Đoàn GMC chở chúng tôi qua phi trường Tân Sơn Nhứt, để rồi từ đó lại được các trực thăng Chinook đưa vào Long Khánh. Nh́n vào bản đồ mới lảnh sau khi họp với Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn, sao chấm đỏ (cộng sản) ở đâu mà nhiều thế. Thiếu Úy Khánh phụ tá cho Đại Úy Chỉ, sĩ quan Ban 3 kêu nhỏ chúng tôi lại một góc và dặn ḍ:

    - Chúng mày cẩn thận, trận chiến này ác liệt lắm đó nghe. Ráng giữ ḿnh để rồi c̣n về nhậu với tao !

    Thiếu Úy Mỹ, Sơn của Đại Đội 92, Thiếu Úy Đông và tôi của Đại Đội 93 hiện rơ nét ưu tư trên khuôn mặt. Chúng tôi lặng lẽ lui ra và căn dặn thuộc hạ thận trọng trong cuộc hành quân này. Chinook thả chúng tôi vào trận chiến, trực thăng đậu ngay trên quốc lộ. Chúng tôi ào ra và thật ngỡ ngàng. Dân chúng kẻ bồng người bế, lần lượt di tản. Cạnh quốc lộ xác chết vô số kể, dân th́ không nói chi, c̣n lính th́ được bạn bè phủ cho tấm poncho, rồi vội vàng cất bước, phần đông bị trúng đạn pháo của địch. Chúng tôi dàn quân và tiến một cách thận trọng. Đầu tiên băng qua vườn trái cây, vườn mít. Ngày đầu chúng tôi ăn mít trừ cơm, ôi, những múi mít vàng thơm ngon lạ thường. Đêm đó tôi mắc vơng ngủ dưới tàng cây và hương thơm của mít đă ru chúng tôi vào giấc ngủ đầy mộng mị. Đêm b́nh yên đă qua, sáng sớm được lịnh di chuyển, gần cả ngày vẫn không thấy động tịnh ǵ. Chúng tôi bắt đầu lo, hễ vào vùng rồi mà yên tĩnh như thế là biết bọn cộng sản ở phía trước đang chờ đón chúng tôi. Tuy nhiên, trên bầu trời Không Quân bạn đủ loại từ A1 Skyraider đến A 37, rồi trực thăng vơ trang không ngừng xuất hiện thay phiên oanh kích và bắn phá xung quanh chúng tôi đẻ yểm trợ.

    Đến ngày thứ hai, bọn cộng sản bắt đầu lộ diện và giao tranh cầm chừng cốt nhữ chúng tôi vào bẫy mà chúng đang giăng. Chúng tôi tiến chậm. lục soát kỹ vài giao thông hào c̣n mới toanh, bọn chúng nhữ chúng tôi vào sâu hơn. Qua khỏi những vườn trái cây, sâu vào phía trong, chúng tôi đụng phải vườn cao su bao la ngút ngàn rộng cả trăm mẫu. Việt cộng xuất hiện mọi nơi, giờ th́ chúng tôi thực sự chạm địch. Một vài tên cộng sản khôn ngoan núp trên cây cao su nhắm bắn chúng tôi tùng thiết sau thiết giáp M113 , cỏ mọc cao ngang bụng. Thiết Giáp khai hỏa trước, sau đó chúng tôi xung phong tấn công mục tiêu, mà hễ lên bao nhiêu là bị đốn ngă bấy nhiêu. Một chiếc thiết giáp bị trúng B40 nữa, Dù và Thiết Giáp mới vỡ lẽ, cùng đồng loạt hướng mũi súng lên các ngọn cây cao su mà khai hỏa. Từ xa chúng tôi thấy xác chúng rơi xuống như mít rụng. Tổng kết trong ngày, Tiểu Đoàn 9 Dù thiệt hại nhẹ, tuy nhiên có một sĩ quan Dù tử trận. Được biết anh ấy nhận lịnh chiếm mục tiêu, thấy binh sĩ bị thương anh nóng ruột tiến hàng đầu trong lúc binh sĩ chưa chuẩn bị kịp th́ anh đă bị đốn ngă.

    Trận chiến cứ tiếp diễn từ ngày này qua ngày khác, ban ngày tiến chiếm mục tiêu, nửa khuya lặng lẽ rời bỏ vị trí, có lúc 9, 10 giờ đêm vẫn c̣n đánh. Xác chiến hữu hồi chiều đến giờ vẫn c̣n nằm bên miệng hố địch mà không làm sao đem ra được. Đại Úy Tường, Đại Đội Trưởng Đại Đội 93 ra lịnh trung đội tôi bằng mọi cách phải đem xác về. Đợi đến khuya chúng tôi lấy dây dù cột vơng nối hai, ba sợi lại làm một im lặng ḅ lên dùng đầu dây cột vào chân xác chết kéo nhẹ về. Việt cộng nghe động liền nổ súng. Khi kéo được xác bạn ḿnh về th́ thân thể anh nhận thêm một số vết đạn nữa. Đêm đó chúng tôi chôn xác anh tại chỗ. Khoảng 2 giờ sáng, đang ngủ ngon sau một ngày vất vả, chúng tôi được lịnh bỏ vị trí và dời quân. Cứ như thế cho đến suốt cả tuần. Lương thực và đạn dược bắt đầu cạn dần, tiếp tế rời rạc khó khăn. Đôi lúc chúng tôi xin thực phẩm của dân để bù dắp.

    Trở ngại đến với chúng tôi mỗi lúc một nhiều hơn. Như hôm nay đang di chuyển bỗng gặp một nhánh sông trước mặt mà nh́n vào bản đồ lại không có tên. Chúng tôi cố gắng vượt qua. Nhảy Dù mà, cố gắng hết ḿnh. Nhưng Nhảy Dù dở ở chỗ là nhân tài biết lội lại không nhiều, hành trang cồng kềnh, chưa kể súng đạn, nên khi qua kiểm điểm lại có vài binh sĩ bất khiển dụng v́ uống nước sông quá nhiều, cũng như có hai binh sĩ bị nước cuốn trôi v́ ḍng sông nước chảy siết. Thật vô lư, sau đó chúng tôi tự nguyện mỗi lần về hậu cứ, sau giờ học Thái Cực Đạo là xin cấp trên cho đi học bơi. Ra khỏi vùng bàn giao cho đơn vị bạn, chúng tôi được nghỉ xả hơi một ngày cạnh quốc lộ và cũng nhận được tin vui từ Bộ Tư Lệnh Dù là đă được Bộ Tổng Tham Mưu tưởng thưởng bằng cách thăng cấp tại mặt trận cho các quân nhân từ cấp Trung Đội Trưởng trở xuống hàng khinh binh lên một cấp. Thêm vào đó, chúng tôi được bổ sung vài sĩ quan hiện dịch về Tiểu Đoàn. Họ đă ra trường sớm hơn ngày măn khóa, và đồng thời lúc đó cũng là ngày buồn cho cộng sản đă được lănh hai quả CBU do Không Quân ta gởi tặng.

    Sau một ngày ngơi nghĩ, lại tiếp tục di chuyển, tiến men theo quốc lộ Sài G̣n - Vũng Tàu về hướng Bà Rịa. Vừa đến gần Tiểu Khu Phước Tuy, chúng tôi bị pháo kích, đoàn quân hỗn loạn. Trung Tá Nguyễn Văn Nhỏ, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 9 Dù của chúng tôi bị thương đầu tiên. Thiếu Tá Đường Tiểu Đoàn Phó lên thay. Tại Tiểu Khu Phước Tuy, chúng tôi được Tiểu Khu Trưởng (một cựu sĩ quan Dù) tiếp đón ân cần và tiếp tế lương thực. Dân chúng Bà Rịa hay tin có mặt đơn vị Dù ở đây, họ vui mừng khôn xiết đem đồ ăn và tặng phẩm tới tấp. Chúng tôi có được hai ngày ở Phước Tuy thật thoải mái, hàng quán chỉ c̣n thưa thớt nhưng được chúng tôi chiếu cố thật kỹ. Đến ngày thứ ba, binh sĩ gác cầu Long Hương phát giác tăng địch xuất hiện nhưng họ tưởng là chiến xa bạn nên không báo cáo. Lúc ấy Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn Dù đóng trong dinh Tỉnh Trưởng được thiết vận xa nằm ngoài làm an ninh. Những trung đội chúng tôi nằm rải rác dọc theo hai bên phố ngoài thị xă.

    Chiến xa địch sau khi điều chỉnh tác xạ, chúng bắt đầu nă đại liên cùng đại bác về phía Dù. Thấy việc lạ, chúng tôi báo cáo về Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn và xin lịnh. Khi được tin đúng là tăng địch, Dù và Thiết Giáp thêm một lần vất vả, v́ không ngờ đó là T54, trong khi Thiết Giáp tăng phái chỉ toàn M113 và 2 chiếc M 48. Binh sĩ Dù nằm dọc theo hai bên phố lấy lại b́nh tĩnh và bắt đầu sử dụng M72 bắn cầm chân chiến xa địch để Thiết Giáp hộ tống Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 9 Dù rút về hướng Vũng Tàu. Chiến xa địch cũng không dám tiến lên, chúng đang đợi bộ binh tùng thiết đến tấn công, chúng tôi lợi dụng khoảnh khắc ngắn ngủi ấy đưa toàn Bộ Chỉ Huy thoát khỏi tầm đạn tăng địch. Tuy nhiên địch vẫn bám theo sát. Đến cầu Cỏ May, địch lại càng gần ta hơn v́ quân ta gặp một trung đội Thủy Quân Lục Chiến đang giữ cầu không cho chúng tôi qua. Sau một hồi thảo luận họ mới kéo hàng rào cản, và không hiểu sao họ lại theo chúng tôi luôn. Thực sự lúc đó địch đă gần kề. Lịnh trên cho toán Công Binh Dù nổ ḿn giựt sập cầu. Nhưng ḿn mang theo lúc đó không c̣n nhiều, nên sức công phá chỉ đủ sập một nhịp mà thôi. Như thế cũng khá lắm rồi. Tăng địch bắt buộc dừng lại, nhưng chúng cũng không để yên, luôn bắn đạn tầm xa với theo chúng tôi làm một số binh sĩ theo những chiếc M113 sau cùng bị thương.

  3. #23
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Thiếu tướng Lê Minh Đảo
    Sư đoàn 18 bộ binh: cuộc chiến đấu cuối cùng ở Xuân Lộc
    6. Phần 6
    » Tác giả: Phạm Phong Dinh





    Thiếu tướng Lê Minh Đảo (Tư Lịnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh) Chiến trường Xuân Lộc 1975

    Gần đến thị xă Vũng Tàu, qua khỏi một khúc quanh không xa Trường Thiếu Sinh Quân cho lắm, cả một đại đội địch ở đâu không biết ào ra bao vây chiếc M113 do tôi dẫn đầu và mở đường cho Tiểu Đoàn Dù phía sau. Tuổi chúng c̣n thật trẻ, vài đứa mặc quần áo của ta trông thật không giống ai. Tôi lấy khẩu T38 nhét dưới đùi, trường hợp bất trắc có thể sử dụng ngay. Nhanh trí tôi liền đứng dậy đưa hai tay tỏ dấu thân thiện và la lớn:

    - Bạn đây, bạn đây, đừng bắn !

    - Một tên tiến đến gần có vẻ là cấp chỉ huy đă hỏi tôi:

    - Bạn hả ? Mới lấy được tăng ngụy phải không ? C̣n chúng nó đâu ?

    Tôi vẫn tiếp tục cứng với nó, mặc dù trong bụng hơi run, không biết có qua mặt nỗi bọn ác ôn này không. Tôi chỉ đại ra phía sau, bỗng dưng hắn tưởng thiệt, ra lịnh cho đám lính lui và dạt ra hai bên nhường đường cho xe tôi qua Như đă nói trên là đang ở khúc quanh, xe tôi và chiếc thứ hai khá xa nên không thấy ǵ hết. Tôi cầm khúc cây nhỏ khỏ vào đầu nón sắt của anh lính Thiết Giáp ra lịnh tống hết ga chạy về phía trước, rồi nói với anh hiệu thính viên liên lạc với chiếc thứ hai rằng bọn chúng đang phục kích trước mặt, hăy đề pḥng. Như chuẩn bị trước, những chiếc kế tiếp tiến lên và khai hỏa vào hai bên đường. Bọn Việt cộng chết vô số kể và lẩn trốn để đoàn xe tiếp tục triệt thoái về hướng Vũng Tàu.

    Tới Bến Đá, giờ đây đủ các quân binh chủng của ta thuộc Quân Khu III, chưa kể một số đơn vị thuộc Quân Khu II và c̣n dân chúng nữa. Không thể tưởng tượng được, Thiết Giáp không c̣n đất sử dụng và cũng cùng đường rồi. Những tài xế lái thiết xa cho máy nổ, sang số cho xe chạy sát bờ biển, ra lịnh mọi người nhảy ra ngoài, xe tiếp tục lăn xích đi xuống ḷng đại dương. Trung Sĩ Hai đứng chết lặng, hai hàng nước mắt tuôn rơi nh́n lần cuối chiếc M113 từ từ mất dạng trong biển nước mênh mông. Giờ th́ Thiết Giáp theo lính Dù luôn, chúng tôi đi đâu họ theo đó. Hậu cứ Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù ở Vũng Tàu đem thuyền nhỏ đến rước chúng tôi, v́ không c̣n phương tiện hiện hữu nào có thể sử dụng vào lúc này. Lênh đênh ngoài khơi cả buổi, liên lạc nghe ngóng, t́nh thế hoàn toàn tuyệt vọng. Rồi bản tin nghe được từ máy radio bỏ túi, lịnh Tướng Minh tuyên bố buông súng đầu hàng. Thôi hết rồi. Tiểu Đoàn 9 thuộc Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù quăng tất cả vũ khí đạn dược, quân trang, quân dụng xuống biển và tự ư tan hàng sau lời nhắn nhủ đầy xúc động của Thiếu Tá Đường Tiểu Đoàn Trưởng. Chúng tôi giă từ vũ khí một cách bất đắc dĩ ngoài khơi Vũng Tàu, không đầy hai hải lư cách đất liền. Ngoại trừ một số chết và bị thương, quân số Tiểu Đoàn c̣n 80%.

    Viết để hồi tưởng lại, người sống cũng như người chết, bạn hữu, thân bằng quyến thuộc đă hy sinh cho Chính Nghĩa Quốc Gia và Dân Tộc. Tin vào ngày mai, tất cả sẽ đổi thay như luật trời đă định. Đoàn quân ta sẽ trở về trong danh dự và bọn cộng sản không c̣n hiện hiện trên đất nước thân yêu của chúng ta nữa.

    Ngày 25.4.1975, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù được xuất phái ra khỏi Sư Đoàn 18 Bộ Binh, di chuyển về bảo vệ Vũng Tàu. Trước đó, trưa ngày 22.4.1975, một chiếc C 130 chở một trái bom CBU 55 bay lên vùng trời Long Khánh và đă thả nó lên chỗ t́nh nghi là Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 341, mà đang đóng ngay ngoại ô tỉnh lỵ Xuân Lộc. Tấm thảm lửa phosphor từ trái bom vỡ bùng lên và ngay lập tức, một khoảng không gian bị hút lấy dưỡng khí từ đám lửa, đă làm cho binh đội Việt cộng bên dưới ngă lăn ra chết v́ ngạt thở. Tổn thất của Sư Đoàn 341 thật khủng khiếp, 250 cán binh cộng quân chết trong những tư thế đau đớn. Sau GBU 7 tấn, th́ CBU 55 là loại bom sát thương chống người, trong nỗ lực ngăn chống làn sóng cộng sản quốc tế. Nhưng một vài trái bom đó không đủ làm thay đổi t́nh thế, mà chỉ kéo dài thêm thời gian hấp hối của Việt Nam Cộng Ḥa. Cũng trong ngày 22.4.1975, Trung Đoàn 8 Bộ Binh và Chiến Đoàn 322 của Đại Tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng đă chiếm được Hưng Nghĩa, nhưng được lệnh rút quân ngay về bảo vệ Biên Ḥa.

    Tiểu Đoàn 2/43 của Thiếu Tá Chế nhận lệnh Chuẩn Tướng Đảo đang bay chỉ huy trên C&C rời bỏ con đương Liên Tỉnh Lộ 2 chia thành nhiều nhóm nhỏ cắt đường rừng mà đi. Cộng quân cứ ra rả gọi loa kêu đích danh Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế bó tay qui hàng. Các chiến sĩ Tiểu Đoàn 2/43 cực nhọc chiến đấu liên tục đến ngày 23.4 mới về đến được Phước Tuy, quân số hao hụt đến hơn 50%. Một con số hết sức đau xót cho số thân nhân của các tử sĩ đang ngóng trông các anh ở hậu cứ Long B́nh. Cuộc hành quân hoàn tất buổi chiều ngày 21.4.1975. Sư Đoàn 18 Bộ Binh đă phải bỏ ra ba ngày để tái trang bị, bổ sung quân số tại Long B́nh. Ngày 24.4.1974, chiến sĩ Sư Đoàn nhận được tin vui. Tổng Thống Trần Văn Hương đến Long B́nh vinh thăng đặc cách Thiếu Tướng cho Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo và thăng thưởng nhiều chiến sĩ hữu công khác.

    Nhớ lại mười hai ngày đêm chiến đấu tại Long Khánh, các chiến sĩ bộ binh dưới sự hỗ trợ của trên 600 phi xuất Không Quân, Pháo Binh và Kỵ Binh, đă bắn cháy hơn 30 xe tăng địch quân, tiêu diệt 10,000 quân giặc. Sư đoàn di chuyển về khu vực Sài G̣n để chuẩn bị đánh những trận đẫm máu cuối cùng bảo vệ thủ đô. Sáng ngày 30.4.1975, các đơn vị sư đoàn đang trấn giữ khu vực Nghĩa Trang Quân Đội trên xa lộ Biên Ḥa, th́ Thiếu Tướng Đảo nhận được điện gọi của Đại Tá Lê Xuân Hiếu báo tin Tướng Dương Văn Minh đă đầu hàng giặc và lệnh cho toàn Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa phải buông súng “ai ở đâu th́ ở đó chờ quân giải phóng đến bàn giao”. Trong một nỗ lực cuối cùng, Thiếu Tướng Đảo cố gắng liên lạc với các Trung Đoàn Trưởng, nhưng các đơn vị đều đă tan ră. Vẫn không chịu khuất phục và bỏ cuộc, trong bộ quần áo dân sự, Thiếu Tướng Đảo t́m cách về đến được Cần Thơ, với hy vọng Quân Đoàn IV của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam và Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng tiếp tục chiến đấu. Nhưng người anh hùng thất cơ lỡ vận của chúng ta chỉ có thể t́m thấy một thành phố ngơ ngác, hoảng loạn và tin tức về cái chết anh dũng của hai vị Tướng. Chuẩn Tướng Mạch Văn Trường , Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh bảo vệ Cần Thơ cố gắng liên lạc với Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh, với một hy vọng mỏng manh nào đó. Nhưng Chuẩn Tướng Hai cũng đă uống thuốc độc tử tiết chiều cùng ngày. Sư Đoàn 9 Bộ Binh của Chuẩn Tướng Huỳnh Văn Lạc hăy c̣n đang đánh nhau với cộng quân tại chiến trường biên giới Mộc Hóa, rồi cũng tan hàng trong cay đắng. Cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc đánh dấu chấm hết một cách oan khuất và tức uất kể từ giây phút đó. Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, người anh hùng cuối cùng của cuộc chiến tranh Việt Nam trở về Sài G̣n. Ngày 9.5.1975 Thiếu Tướng Đảo bị gửi vào trại tù cộng sản. Người anh hùng của đất nước phải trả một cái giá quá đắt cho chiến thắng Xuân Lộc với mười bảy năm tù dài đăng đẵng. Tháng 4.1993, Thiếu Tướng Lê Minh Đảo đặt chân lên mảnh đất tự do Hoa Kỳ. Một trong những công việc trước nhất mà ông nghĩ tới, là đi t́m thăm lại tất cả những chiến sĩ thuộc cấp từng sát cánh chiến đấu với ông từ ngày ông về làm Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh. Câu hỏi đầu tiên của ông lúc nào cũng là:”Các anh em có phiền trách ǵ tôi không ?”. Đă một phần tư thế kỷ trôi qua rồi mà Thiếu Tướng Đảo vẫn hăy c̣n rất băn khoăn, rằng ông đă có lỗi để cho chiến hữu của ông phải rơi vào cơn băo xoáy tang tương của đất nước đến như vậy. Nhưng câu trả lời bao giờ cũng là:”Anh em vẫn luôn kính yêu Hằng Minh (danh xưng chiến trường của Thiếu tướng) như ngày nào. Hằng Minh không có lỗi ǵ hết”. Thiếu Tướng Đảo đă dùng danh xưng chiến trường Hằng Minh để tưởng nhớ đến sự hy sinh dũng liệt của cố Trung Tá Lê Hằng Minh, là bào đệ của ông, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2 Trâu Điên Thủy Quân Lục Chiến, tại vùng Phong Điền, Thừa Thiên, trong một cuộc phản phục kích đẫm máu với quân giặc.

    Trong trại tù, Thiếu Tướng Đảo đă khảng khái nói với các cai ngục cộng sản:”Nếu các ông c̣n đang giam giữ nhiều chiến hữu sư đoàn của tôi, th́ tôi mong là tôi sẽ là người sau chót bước ra khỏi đây. Nếu khác đi th́ tôi không c̣n mặt mũi nào nh́n họ nữa”. Khi được hỏi về những kư ức ở Xuân Lộc, Thiếu Tướng Đảo đă trầm ngâm đôi giây phút:”Chiến đấu là một nghệ thuật.Chúng ta không phải dùng tay và chân thôi, mà c̣n trí óc nữa. Cho dù biết đang thua cuộc chiến tranh, tôi vẫn chiến đấu”. Với bản tính khiêm tốn , lời nhắn nhủ với tác giả sử gia Jay Veith, người đă bỏ công phục hiện lại diễn tiến Xuân Lộc, của Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh, được dùng làm lời kết cho thiên anh hùng ca này:'Xin đừng gọi tôi là anh hùng. Những chiến hữu của tôi đă hy sinh tại Xuân Lộc và những chiến trường khác mới chính là những anh hùng”. Không cần thiết phải ngợi ca Thiếu Tướng Lê Minh Đảo là một anh hùng. Những dữ kiện của sự thật đă nói lên được điều đó.

    Phạm Phong Dinh
    (Trích trong Thiên Hùng Ca Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa)

    Tài liệu tham khảo:
    George J.Veith, Fighting is an Art: “The ARVN Defense of Xuan Loc, April 9 - 21, 1975”.
    Đại Tá Hứa Yến Lến, Tuyến Thép Xuân Lộc, 12 Ngày Đêm Ác Chiến Với Cộng Sản Bắc Việt.

  4. #24
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Quân Đoàn I Rời Đà Nẵng
    NGÀY 29-3-1975
    Viet Bao - Vương Hồng Anh




    Lời ṭa soạn: Trong tinh thần tưởng niệm "Ngày 30-4-1975", nh́n lại cuộc diện Việt Nam 38 năm về trước, VB trân trọng giới thiệu loạt bài tổng hợp về một số sự kiện quan trọng xảy ra từ ngày 10/3/1975 đến cuối tháng 4/1975. Loạt bài này được biên soạn dựa theo các tài liệu sau đây: hồi kư của cựu Đại tướng Cao Văn Viên do Trung tâm Quân sử Lục quân Hoa Kỳ phổ biến; hồi kư của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn, Tổng trưởng Quốc pḥng cuối cùng của Việt Nam Cộng Ḥa; hồi kư của Trung tướng Ngô Quang Trưởng, một số bài viết của các nhân chứng, từng giữ các chức vụ trọng yếu trong Chính phủ và Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, và tài liệu riêng của Việt Báo.

    * Diễn tiến về cuộc triệt thoái lực lượng Quân đoàn 1/Quân khu 1 khỏi Đà Nẵng

    Sau 10 ngày trải qua nhiều diễn biến đột ngột về chiến sự , với những cuộc triệt thoái lực lượng tại 5 tỉnh để tập trung về Đà Nẵng, đêm 28 rạng ngày 29 tháng 3/1975, toàn bộ lực lượng Quân đoàn 1/Quân khu 1 được lệnh rút khỏi Đà Nẵng , sau khi Trung tướng Ngô Quang Trưởng báo cáo t́nh h́nh Đà Nẵng cho Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu và Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng Quân lực VNCH. Cuộc triệt thoái bằng đường biển đă diễn ra hỗn loạn do Cộng quân đă pháo kích vào băi biển Đà Nẵng và các vị trí tập trung các đơn vị triệt thoái. Sau đây là diễn tiến cuộc triệt thoái của lực lượng Quân đoàn 1/Quân khu 1 khỏi Đà Nẵng trong ngày 29/3/1975 theo ghi nhận của Đại tướng Cao Văn Viên.

    Hồi kư của Đại tướng Cao Văn Viên ghi rằng vào tối 28/3/1975, Cộng quân pháo kích vào phi trường Đà Nẵng, căn cứ Hải quân và nhiều vị trí quân sự khác. Tất cả các trái đạn pháo đều từ hướng thung lũng Phước Tường. Đại bác 175 mm của Quân đoàn 1 phản pháo và được phi cơ quan sát điều chỉnh tọa độ nhưng không có hiệu quả cao. Trung tướng Trưởng báo cáo t́nh h́nh cho Đại tướng Viên, và cũng gọi điện thoại tường tŕnh cho Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu và xin lệnh.

    Đại tướng Cao Văn Viên cho biết: trong cuộc nói chuyện này, Tổng thống không có lệnh nào dứt khoát. Tổng thống không cho Trung tướng Trưởng biết nên rút hay nên cố thủ. Tổng thống chỉ hỏi nếu di tản ngay th́ có bao nhiêu người có thể đi an toàn. Đại tướng Viên nhận định rằng "rơ ràng Tổng thống không hài ḷng với những diễn biến đang xảy ra. Cuộc di tản lần này không biết chừng lại trở thành một thảm kịch như đă xảy ra cho Quân đoàn 2 từ Cao nguyên xuống Nha Trang. Tổng thống không muốn ra lệnh thêm nưă để phải chịu thêm một nỗi đau thứ hai."

    Vừa khi cuộc nói chuyện chấm dứt, tất cả mọi liên lạc từ Quân khu 1 với Sài G̣n bị gián đoạn, v́ đạn pháo kích của Cộng quân. T́nh h́nh lúc bấy giờ trở nên tuyệt vọng, Trung tướng Trưởng cho lệnh rút quân khỏi Đà Nẵng. Vị Tư lệnh Quân đoàn 1/Quân khu 1 bàn với Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, Tư lệnh Vùng 1 duyên hải, và các vị Tư lệnh các đại đơn vị về kế hoạch di tản bằng cách cho quân nhân các đơn vị tập trung tại ba địa điểm: một tại cuối đèo Hải Vân, một tại chân núi Non Nước, và một tại cửa biển Hội An.

    Vào rạng sáng ngày 29 /3/1975, sương mù trải dài suốt bờ biển. Tất cả tàu của Hải quân đă tập trung tại điểm hẹn nhưng thủy triều c̣n quá thấp nên tàu không thể cập sát được. Các quân nhân phải lội nước một khoảng xa mới lên tàu được. Việc việc đang diễn tiến thuận lợi đến nửa buổi th́ Cộng quân bắt đầu pháo kích ra băi biển, cuộc di tản trở nên mất trật tự khiến nhiều quân nhân chết đuối. Đại tướng Cao Văn Viên cho biết khi tàu rời điểm đón quân th́ chỉ có 6,000 quân nhân Thủy quân Lục chiến và 4,000 quân nhân của Sư đoàn 3 và một vài đơn vị khác được lên tàu.

    *Đêm cuối cùng của Tư lệnh Quân đoàn 1/Quân khu 1 Ngô Quang Trưởng tại Đà Nẵng.

    Theo nhật kư hành quân của Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh, Tư lệnh Sư đoàn 3 Bộ binh kiêm Tư lệnh chiến trường Quảng Nam- Đà Nẵng, và lời kể của một sĩ quan Trưởng pḥng Bộ Tư lệnh Sư đoàn 3 Bộ binh (không muốn nêu tên) vào 7 giờ 30 tối ngày 28/3/1998, Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn 1 Ngô Quang Trưởng và vài sĩ quan tham mưu Quân đoàn 1 đến Bộ Tư lệnh Sư đoàn 3 Bộ Binh tại căn cứ Ḥa Khánh. Ông bắt tay thật chặt từng sĩ quan tham mưu Sư đoàn 3BB dàn chào ông ở sân chờ bộ Tư lệnh. Một vị trưởng pḥng kể lại là Trung tướng Trưởng đă nh́n thẳng vào mặt từng người như muốn nói với họ một điều ǵ đó. Không ai nghĩ rằng đó là cái bắt tay vĩnh biệt của vị Tư lệnh Quân đoàn.

    Cũng theo nhật kư hành quân của Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh, th́ trong nửa giờ họp riêng tại văn pḥng tư lệnh Sư đoàn,Trung tướng Trưởng đă bàn với Tướng Hinh kế hoạch rút lui nếu áp lực Cộng quân quá mạnh. 8 giờ tối cùngngày, Trung tướng Trưởng rời căn cứ Ḥa Khánh và bay một ṿng quan sát thành phố Đà Nẵng trong khi Cộng quân tiếp tục pháo kích vào thành phố.

    9 giờ 30 tối, Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn 1 Ngô Quang Trưởng bay đến Bộ Tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên Hải và triệu tập một cuộc họp với các vị tư lệnh các đại đơn vị ngay tại văn pḥng của Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại(phó đề đốc: tương đương cấp chuẩn tướng). Tham dự cuộc họp cóTrung tướng Lâm Quang Thi, Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 1; Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh, Tư lệnh Sư đoàn 3 Bộ binh; Thiếu tướng Bùi Thế Lân, Tư lệnh Sư đoàn Thủy quân Lục chiến, và Phó đề đốc Hồ Văn KỳThoại. Trước khi bắt đầu cuộc họp, Tướng Trưởng gọi điện thoại xin quyết định của Đại tướng Viên và Tổng thống Thiệu. Các vị tướng ngồi chờ kết quả.

    Theo lời kể của Thiếu tướng Bùi Thế Lân th́ chỉ sau vài phút nói chuyện với Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu, đôi mắt Trung tướng Trưởng đỏ ngầu, khuôn mặt buồn bă. Rời điện thoại, Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn 1/Quân khu 1 Ngô Quang Trưởng tiến về các vi tướng đang chờ lệnh của ông và giọng nghẹn ngào: "Lệnh bỏ Đà Nẵng".

    * T́nh h́nh pḥng tuyến Quảng Nam-Đà Nẵng trước ngày 29-3-1975

    Trong 2 ngày 26/3 và 27/3, Cộng quân mở các đợt pháo kích vào các vị trí của một số đơn vị thuộc Sư đoàn 3 Bộ binh. Sáng ngày 28 tháng 3/1975, Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân đoàn 1 và Quân khu 1, mở cuộc họp khẩn với các đơn vị trưởng tại bộ Tư lệnh Quân đoàn. Nhiều biện pháp được đưa ra để văn hồi trật tự và gấp rút tái tổ chức các đơn vị các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Tín rút về. Tất cả các quân nhân từ những nơi khác về Đà Nẵng trong những ngày trước cũng được tập trung để bổ sung cho các đơn vị trú pḥng.

    Tại khu vực trách nhiệm của Sư đoàn 3 Bộ Binh, Trung đoàn 56BB được lệnh rút về tuyến vàng

    (Câu Lâu-Thu Bồn). Cộng quân tung chiến xa đuổi theo, 1 chiếc M 113 của Thiết đoàn 11 bị bắn cháy. Tại pḥng tuyến Đại Lộc, Cộng quân đă chiếm bộ chỉ huy Chi khu quận và lập hệ thống công sự pḥng thủ ở đây. Trung đoàn 57BB được lệnh phải triệt phá các chốt chận của Cộng quân quanh quận lỵ. 1 giờ trưa, Bộ Chỉ huy Tiểu khu Quảng Nam mất liên lạc với Bộ Tư lệnh Sư đoàn 3. Theo lời Đại tá Phạm Văn Chung, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Quảng Nam, th́ trưa ngày 28/3/1975, ông đă đến Duyên đoàn 15 Hải quân dùng tàu nhỏ đi quan sát việc bố pḥng quanh thị xă Hội An. Sau đó ông liên lạc về Bộ chỉ huy Tiểu khu th́ không có ai trả lời.

    Cũng vào trưa ngày 28-3-1975, Cộng quân tung một tiểu đoàn thuộc B44 lập các chốt chận tại Thanh Quít, ngay sau đó, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 3 BB điều động 1 tiểu đoàn của Trung đoàn 2 BB giải tỏa khu vực này, 2 tiểu đoàn c̣n lại và Bộ chỉ huy Trung đoàn 2BB phụ trách pḥng ngự pḥng tuyến Điện Bàn-Hội An.

    Đến chiều ngày 28/3/1975: ba tiểu đoàn của Liên đoàn 915 Địa phương quân do Trung tá Vơ Vàng chỉ huy được điều động pḥng thủ thị xă Hội An. Sau lưng của 3 trung đoàn thuộc Sư đoàn 3 BB, là các đồn Địa phương quân và Nghĩa quân th́ đă bỏ ngỏ.

    Khoảng 2 giờ chiều, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 1 nhận được mật điện của Pḥng 2 bộ Tổng Tham Mưu báo tin là Cộng quân sẽ tấn công vào Đà Nẵng vào khuya ngày 28 rạng ngày 29/3/1975.

    Cùng với thông tin t́nh báo của Pḥng 2, Bộ Tổng Tham Mưu cũng đưa ra thêm một lệnh nữa là Sư đoàn 1 Không quân phải đưa hết số trực thăng và phản lực của Sư đoàn vào căn cứ Không quân tại Phú Cát hoặc Phan Rang. Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn 1/Quân khu 1 Ngô Quang Trưởng cho lệnh báo động đỏ, tất cả các đơn vị đều được đưa ngay đến vị trí pḥng thủ. Để ổn định t́nh h́nh trật tự trong thành phố, Trung tướng Ngô Quang Trưởng cử Chuẩn tướng Nguyễn Văn Điềm, Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh, làm quân trấn trưởng quân trấn Đà Nẵng. Các đại đội Quân Cảnh được điều động tuần tra quanh thị xă và kiểm soát quân nhân đi lẻ tẻ trên đường phố.

    Đến tối 28/3/1975, theo nhật kư của Thiếu tướng Hinh, từ 7 giờ tối trở đi, Cộng quân đă kéo pháo 130 ly từ đèo Mũi Trâu để bắn vào phi trường, giờ G của trận chiến tại Đà Nẵng bắt đầu.

  5. #25
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Những sự kiện trong tháng 03/1975 -
    Phần 1



    *10-3-1975: Cộng quân tấn công Ban Mê Thuột

    2 giờ sáng ngày 10 tháng Ba năm 1975, Cộng quân mở cuộc tấn công cường tập vào thị xă Ban Mê Thuột, tỉnh lỵ tỉnh Darlac. Khi trận chiến xảy ra, Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh là Chuẩn tướng Lê Trung Tường đang chỉ huy mặt trận Pleiku, do đó Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2, đă chỉ định Đại tá Vũ Thế Quang, Tư lệnh phó Sư đoàn 23 Bộ binh, chỉ huy mặt trận Ban Mê Thuột với sự hợp lực của Tiểu khu trưởng Darlac là Đại tá Nguyễn Trọng Luật.
    Cộng quân mở đầu cuộc tấn công bằng những đợt pháo kích vào thị xă, các vị trí quân sự trọng yếu như Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh, Bộ Chỉ huy Tiểu khu Darlac, doanh trại của các đơn vị thống thuộc Sư đoàn 23 Bộ binh. Đến 4 giờ sáng, Cộng quân đă sử dụng mở cuộc tấn công chiếm kho đạn Mai Hắc Đế ở phía Tây thị xă. Đơn vị trú pḥng đă bảo vệ được kho đạn. Đến 7 giờsáng Cộng quân ngưng pháo kích, chuyển sang tấn công bằng bộ binh và thiết giáp vào thị xă.Các đoàn chiến xa của Cộng quân đăơ bị các đơn vị của Tiểu khu Darlac đánh chận lại.
    Trưa ngày 10/3/1975, Cộng quân mở đợt pháo kích dồn dập vào Bộ Chỉ huy Tiểu khu, bản doanh bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh. 13 giờ 30, Cộng quân tập trung hỏa lực pháo binh bắn vào doanh trại Bộ Chỉ huy Tiểu khu. 2 giờ chiều , Cộng quân tràn ngập vào doanh trại. Vào lúc 18 giờ, Liên đoàn 21 Biệt Động Quân được thả xuống trong khu vực Bộ Chỉ huy Chi khu Buôn Hô rồi từ địa điểm này, khai triển lực lượng tiến vào thị xă Ban Mê Thuột.

    Tại phi trường Phụng Dực, Cộng quân điều động 2 trungđoàn thuộc sư đoàn 320 và 1 tiểu đoàn chiến xa tấn công vào tuyến pḥng thủ của Trung đoàn 53 Bộ binh/Sư đoàn 23 Bộ binh. Lực lượng pḥng thủ đă ngăn chận được cuộc tấn công của địch quân. Tính đến 6 giờ chiều ngày 10/1975, các đơn vị Quân lực VNCH tại mặt trận Ban Mê Thuột đă loại ra ngoài ṿng chiến khoảng 300 Cộng quân, bắn cháy 12 chiến xa T-54.

    11.3.1975, Ban Mê Thuột Thất Thủ

    * Diễn biến chiến sự tại Ban Mê Thuột trong ngày 11-3-1975
    -Vào 7 giờ sáng ngày 11/3/1975,Cộng quân bắt đầu nả pháo binh vào Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 BB, một số quân xa đậu ở gần Trungtâm hành quân bị trúng pháo nổ tung ra. Đại tá Nguyễn Trọng Luật, Tỉnh trưởng/Tiểu khu trưởng Darlac, đi thẳng ra cửa bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh và lên 1 chiếc M 113 để quan sát, ông thấy cách đó 300 mét, hàng chục chiếc T 54 của CQ đang bao vây bộ Tư lệnh. Cùng lúc đó, CQ đang tấn công và bắn trực xạ vào lầu tư dinh Tỉnh trưởng. Trung đội pḥng thủ đă bắn cháy 2 chiến xa địch ngay trước cổng bằng súng M 72. Ngay sau đó, Trung đội này ra khỏi tư dinh.

    -Khoảng 10 giờ sáng, pháo binh CQ ngưng tác xạ. Đại tá Luật nhảy lên pháo tháp của chiến xa M113 quan sát và thấy chiến xa CQ đang chuyển bánh. Ông nhảy vào xe và la lớn: "Sẵn sàng ứng chiến". Chiến xa đầu của CQ chầm chậm tiến thẳng vào chiếc thiết vận xa M 113.Khi chiến xa địch c̣n cách 100 mét, Đại tá Luật ra lệnh cho xạ thủ đại bác 106 ly không giựt đặt trên xe khai hỏa. Ông hét lớn"bắn". Thay v́ nghe một tiếng nổ lớn của viên đạn ra khỏi ṇng nhưng chỉ có một tiếng "cóc" phát ra. Binh sĩ xạ thủ báo cho ông biết súng bị trở ngại tác xạ. Sau một phút bàng hoàng,Đại tá Luật đă nghĩ ngay đến các phản lực cơ A 37. Ông liên lạc với phi tuần L 19 quan sát và yêu cầu A 37 dội bom ngay vào cácchiến xa của CQ đang tiến vào bộ Tư lệnh, ông nói với quan sátviên L 19 là chấp nhận nguy hiểm v́ chỉ có cách đó th́ mới chậnđứng được cuộc tấn công của CQ.

    -Hơn 10 giờ sáng ngày 11/3/1975, th́nh ĺnh mọi người nghe một tiếng nổ ầm thật kinh hoàng. Trung tâm Hành quân Sư đoàn 23 Bộ binh đă bị Không quân ném nhầm. Trung tâm hành quân bịsập và các hệ thống liên lạc đều bị hư hại toàn bộ. Một số lớn sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ chết vàbị thương. Trước t́nh thế đó, Đại tá Luật bàn với Đại tá Vũ Thế Quang, Tư lệnh phó Sư đoàn 23 BB, kiêm Tư lệnh mặt trận Ban Mê Thuột,nên rút khỏi bộ Tư lệnh Sư đoàn ngayđể bảo toàn lực lượng. Đại tá Vũ Thế Quang đồng ư và ra lệnh rút quân.Lực lượng trú pḥng lúc bấy giờ khoảng 100 người mở đường máu rakhỏi hàng rào và hướng về phía Tây tức là suối Bà Hoàng, cách BộTư lệnh Sư đoàn 250 mét.

    - 11 giờ 50: Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 mất liên lạc với Đại tá Quang và Đại tá Luật.

    12.3.1975: Quân Đoàn 2 Tiếp Cứu
    * Ngày 12/3/1975: Quân đoàn 2 tiếp cứu Ban Mê Thuột.
    -Ngày 12 tháng 3/1975, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2, quyết định tổ chức cuộc đổ quân tăng viện để tái chiếm Ban Mê Thuột. Theo kế hoạch của bộ Tư lệnh Quân đoàn 2, lực lượng chính của cuộc phản công là Trung đoàn 45 Bộ binh (BB) và 1 tiểu đoàn của Trung đoàn 44 thuộc Sư đoàn 23 BB đang pḥng ngự tại Pleiku. Về phía Không quân VNCH tham gia cuộc đổ quân, ngoài các phi đoàn của Sư đoàn 6 Không quân mà bộ tư lệnh đặt tại Pleiku, c̣n có các phi đoàn trực thăng của Sư đoàn 1 Không quân (Đà Nẵng) và Sư đoàn 4 Không quân (Cần Thơ), với hơn 100 trực thăng đủ loại kể cả các loại Chinook.

    -Theo lịch tŕnh đổ quân, hai tiểu đoàn của Trung đoàn 45 BB và đại đội Trinh sát Sư đoàn 23 BB được trực thăng vận trước tiên. Tiếp đến, các Chinook móc theo các khẩu đại bác 105 thả xuống khu vực đổ quân của lực lượng đặc nhiệm tại quận lỵ Phước An.
    -1 giờ 10 trưa ngày 12 tháng 3/1975, Thiếu tướng Phú rời bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 đến Ban Mê Thuột trên một chiếc phi cơ nhỏ để trực tiếp điều quân. Tới Ban Mê Thuột vào khoảng 2 giờ chiều, Tướng Phú đă liên lạc với đơn vị trưởng của các đơn vị đang chiến đấu ở quanh Ban Mê Thuột như trung đoàn 53 BB ở phi trường Phụng Dực, Liên đoàn 21 Biệt Động Quân, các tiểu đoàn Địa phương quân Darlac. Cùng nhảy theo cánh quân cứu viện c̣n có Đại tá Trịnh Tiếu, trưởng pḥng 2 Quân đoàn 2, được Tướng Phú chỉ định giữ chức vụ Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Darlac thay thế Đại tá Nguyễn Trọng Luật được ghi nhận là mất tích. Cùng đi theo Đại tá Tiếu, c̣n có bộ chỉ huy lưu động của Tiểu khu Darlac vừa thành lập.

    -Chiều 12/3, sau khi hoàn tất việc điều động đợt đổ quân đầu tiên, Thiếu tướng Phú giao trách nhiệm chỉ huy trực tiếp các cánh quân tái chiếm Ban Mê Thuột cho Chuẩn tướng Lê Trung Tường, Tư lệnh Sư đoàn 23 BB, rồi ông trở lại Pleiku.
    Cũng trong chiều ngày 12 tháng 3/1975, cùng lúc gia tăng áp lực tại chiến trường Ban Mê Thuột, th́ tại -Pleiku, từ những đỉnh cao phía Tây Bắc của thị xă này, Cộng quân đă pháo kích bằng hỏa tiễn vào phi trường quân sự Cù Hanh và bộ Tư lệnh Quân đoàn 2. Một binh sĩ tài xế đang ở gần cột cờ Bộ Tư lệnh đă trúng đạn pháo kích và bị tử thương.

    13-3-75: Di Tản Miền Trung

    Những sự kiện chiến sự xảy ra từ ngày 10-3-1975, ngày Cộng quân mở cuộc tấn công cường tập vào Ban Mê Thuột, đến ngày 30 tháng 4/1975, ngày Việt Nam Cộng Ḥa bị bức tử.
    * Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu họp Hội đồng An ninh Quốc gia duyệt xét kế hoạch bỏ 6 tỉnh miền Trung, từ Quảng Trị đến B́nh Định.
    -Ngày 13 tháng Ba năm 1975, Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân đoàn 1/Quân khu 1 được gọi về Sài G̣n để tham dự cuộc họp mật tại Dinh Độc Lập do Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu chủ tọa. Cuộc họp hôm ấy có sự hiện diện các nhân vật cao cấp nhất trong chính phủ gồm có Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc pḥng: Đại tướng Trần Thiện Khiêm; Tổng tham mưu trưởng QL.VNCH: Đại tướng Cao Văn Viên; Phụ tá An ninh và Quân sự của Tổng thống: Trung tướng Đặng Văn Quang.
    -Tại cuộc họp, Trung tướng Trưởng tŕnh bày trước Hội đồng An Ninh Quốc gia về t́nh h́nh tại chiến trường Quân khu 1, sau đó Tổng thống nói chuyện với mọi người bằng một vẻ nghiêm trọng. Tổng thống phân tích t́nh h́nh chung và nêu ra những khó khăn mà chính phủ đang gặp phải khi thiếu quân viện. Tổng thống nh́n nhận rằng không hy vọng Không quân Hoa Kỳ sẽ can thiệp trong trường hợp Việt Nam Cộng Ḥa bị tổng tấn công. Tổng thống thông cảm với những khó khăn thiếu thốn của các tư lệnh Quân khu. Cho đến giờ phút đó, Tổng thống nh́n nhận rằng dù ông có ra lệnh đi nữa th́ lệnh đó khó có thể thi hành được.
    -Theo lời kể của Đại tướng Cao Văn Viên, th́ trong buổi họp, Tổng thống nói rằng trước t́nh h́nh như vậy th́ chỉ c̣n một cách duy nhất là thay đổi chiến lược để giữ vững những nơi hiểm yếu có nhiều tài nguyên quốc gia. Tại Quân khu 1 (có 5 tỉnh: Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngăi, 2ø thành phố Huế, Đà Nẵng), khu vực trù phú cần phải giữ là Đà Nẵng.
    -Chi tiết mà Đại tướng Viên kể lại ở trên khác với nội dung lời kể của Trung tướng Trưởng, theo đó, trong buổi họp ngày 13/3/1955, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh cho Tướng Trưởng lập kế hoạch rút toàn bộ lực lượng VNCH khỏi Vùng 1 (Quân khu 1) và rút về tỉnh Phú Yên, VNCH thu gọn từ tỉnh Phú Yên đến Hà Tiên. Như thế lănh thổ VNCH bị mất 6 tỉnh miền Trung, từ Quảng Trị đến B́nh Định.
    14-3-1975: Họp Ở Cam Ranh
    *Hội đồng An ninh Quốc gia họp tại Cam Ranh
    -Trưa ngày 14 tháng 3/ 1975, trong khi Sư đoàn 23 BB đang khai triển các cánh quân để tiến về Ban Mê Thuột, tại Cam Ranh, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, Đại tướng Cao Văn Viên, Trung tướng Đặng Văn Quang-phụ tá An ninh Quân sự của Tổng thống, đă họp mật với Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2-Quân khu 2.
    Tại cuộc họp, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh cho Thiếu tướng Phạm Văn Phú triệt thoái toàn bộ lực lượng của Quân đoàn 2/Quân khu 2 khỏi Cao nguyên, di chuyển về các tỉnh duyên hải miền Trung thuộc lănh thổ Quân khu 2. Về lộ tŕnh rút quân, vị Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2 đă tŕnh bày với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu về t́nh h́nh các quốc lộ chính tại Cao nguyên Cao nguyên đă bị Cộng quân kiểm soát, chỉ c̣n liên tỉnh lộ 7B, con đường đá từ Quốc lộ 14 rẽ ra phía nam cách thị xă Pleiku chừng 32 km, chạy theo hướng Đông Nam, xuyên qua tỉnh Phú Bổn về Phú Yên). Đại tướng Cao Văn Viên không đồng ư kế hoạch chọn liên tỉnh lộ 7B, nhưng cuối cùng Đại tướng Viên cũng không t́m ra một lộ tŕnh nào khác, nên kế hoạch của Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2 được chấp thuận.
    *Trung tướng Ngô Quang Trưởng tái phối trí lực lượng bảo vệ Huế
    Cũng trong ngày 14/3/1975, sau khi nhận chỉ thị của Tổng thống về kế hoạch tái phối trí quân, dù t́nh h́nh quân sự tại Quân khu 1 trở nên rất đáng ngại, thế nhưng Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân đoàn 1/Quân khu 1 vẫn muốn giữ Huế và một số vị trí trọng yếu tại Quân khu 1. Sau khi suy nghĩ và phân tích t́nh h́nh, tướng Trưởng đă gọi điện thoại theo đường dây đặc biệt tŕnh bày ư kiến với đại tướng Cao Văn Viên nhờ xin với Tổng thống cho ông được tận dụng mọi cách để giữ Huế và Vùng 1. Cuối cùng Tổng Thống chấp thuận.
    Được sự đồng ư của Tổng thống, Trung tướng Trưởng bay ra Huế họp với Trung tướng Lâm Quang Thi, tư lệnh phó Quân đoàn 1, chỉ huy bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn, về kế hoạch pḥng thủ Huế. Tướng Trưởng ra lệnh phải giữ Huế thật vững vàng.
    14.3.1975 Di Tản Cao Nguyên

    *14-3-1975: Tổng Thống Thiệu Quyết Định Bỏ Cao Nguyên
    Loạt bài này được biên soạn dựa theo các tài liệu sau đây: hồi kư của cựu Đại tướng Cao Văn Viên do Trung tâm Quân sử Lục quân Hoa Kỳ phổ biến; hồi kư của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn, Tổng trưởng Quốc pḥng cuối cùng của Việt Nam Cộng Ḥa; hồi kư của Trung tướng Ngô Quang Trưởng, một số bài viết của các nhân chứng, từng giữ các chức vụ trọng yếu trong Chính phủ và Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, và tài liệu riêng của Việt Báo.
    *Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra quân lệnh triệt thoái lực lượng VNCH khỏi Cao nguyên
    Sau cuộc họp với Hội đồng AnNinh Quốc gia tại Dinh Độc Lập ngày 13/3/1975 có sự tham dự củaTrung tướng Ngô Quang Trưởng-Tư lệnh Quân đoàn 1- để bàn về kếhoạch tái phối trí lực lượng trong t́nh h́nh mới, sáng ngày 14tháng 3/1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cùng Thủ tướng TrầnThiện Khiêm, Đại tướng Cao Văn Viên, Trung tướng Đặng Văn Quang,Phụ tá an ninh của Tổng thống đến Cam Ranh để họp với Thiếutướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2& Quân khu 2. Tại cuộc họp kéo dài gần 2 giờ, Tổnthống Thiệu ra lệnh cho Tướng Phú phảirút toàn bộ lực lượng Quân đoàn 2 tại hai tỉnh Pleiku và Kontumvề khu vực duyên hải miền Trung (Phú Yên và Khánh Ḥa) để táiphối trí lực lượng phản công chiếm lại Ban Mê Thuột.
    Khi được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu hỏi nên rút quân theo trụclộ nào, Tướng Phú đă tŕnh bày với Tổng thống Thiệu rằng các quốclộ chính nối trong khu vực Cao nguyên đă bị Cộng quân cắt đứt,chỉ c̣n liên tỉnh lộ 7B. Đây là con đường đá từ Quốc lộ 14 rẽ raphía nam cách thị xă Pleiku chừng 32 km, chạy theo hướng đông nam, xuyên qua Hậu Bổn về Tuy Ḥa (tỉnh lỵ Phú Yên). Kế hoạchchọn liên tỉnh lộ 7B đă không được sự đồng ư của Đại tướng Viên v́ ông cho rằng đưa một quân đoàn di chuyển trên một đoạn đườngdài hơn 250 cây số mà không rơ t́nh h́nh an ninh là một việc "quásức liều lĩnh", tuy nhiên cuối cùng Tướng Viên cũng không t́m ra được một con đường nào khác nên kế hoạch của tướng Phú đă đượcchấp thuận.
    * Một chi tiết đặc biệt về lệnh triệt thoái Cao nguyên: Chủ lưc quân rút, Địa phương quân ở lại...
    Trên đường trở lại Pleiku, Tướng Phú đă tâm sự với thiếu tá Phạm Huấn-sĩ quan Báo chí của tư lệnh Quân đoàn 2, là trong buổi họpông đă khẩn khoản xin Tổng thống Thiệu cho ông được tử thủ giữPleiku, nhưng đề nghị của ông đă không được chấp thuận. Một chitiết đặc biệt đă được Tướng Phú kể lại cho Thiếu tá Phạm Huấn vớinội dung như sau: Trong cuộc họp, Tổng thống Thiệu căn dặn tướngPhú rằng lệnh triệt thoái là tối mật, từ cấp tỉnh trưởng/tiểu khutrưởng trở xuống không được biết, có nghĩa là các lực lượng Địaphương quân vẫn ở lại chiến đấu, vẫn tiếp tục làm việc với tỉnhtrưởng, quận trưởng. Chỉ có toàn bộ chủ lực quân gồm Bộ binh,Pháo binh, Thiết giáp, Công binh, Không quân là phải triệt thoái.
    Trước quyết định của Tổng thống Thiệu, Tướng Phú đă lo lắng vàhỏi lại: Thưa Tổng thống, nếu Chủ lực quân, Thiết giáp, Pháo binhrút đi, làm sao Địa phương quân chống đỡ nỗi khi Cộng quân đánh?Hơn 100 ngàn dân hai tỉnh Pleiku, Kontum, và gia đ́nh anh em binhsĩ? Tổng thống Thiệu trả lời: Th́ cho thằng Cộng sản số dân dó.Với t́nh h́nh nặng nề hiện tại, ḿnh phải lo pḥng thủ, giữ được những vùng dân cư đông đúc...mầu mỡ hơn là bị kẹt quá nhiều quâtrên vùng Cao nguyên! (Cuộc triệt thoái Cao nguyên, tác giả PhạmHuấn, xuất bản 1987, ḍng thứ 1 đến ḍng thứ 6, trang 86).
    Về phần Đại tướng Cao Văn Viên, khi về đến Sài G̣n, ông đă chomời Chuẩn tướng Trần Đ́nh Thọ, Trưởng pḥng 3 bộ Tổng Tham Mưu(TTM) và báo cho vị trưởng pḥng này về các chi tiết đă được bàntrong buổi họp tại Cam Ranh. Tham mưu trưởng Bộ TTM là trungtướng Đồng Văn Khuyên lúc ấy đang công tác ở ngoại quốc. Cuộchành quân cũng được giữ bí mật tối đa do chính Tổng thống ra lệnh trực tiếp cho viên tư lệnh chiến trường nên Bộ TTM không đượcquyền ra lệnh làm ǵ hết, kể cả việc tái phối trí các đơn vịKhông quân và lực lượng tăng phái cho Quân đoàn 2 tại Pleku và Kontum.
    Vào thời gian này, tại vùng Kontum và Pleiku chỉ c̣n 1 tiểu đoàncủa Trung đoàn 44 thuộc Sư đoàn 23 BB, 5 Liên đoàn Biệt Động QuânQK 2, thiết đoàn 21 M 48, hai tiểu đoàn pháo binh 175 mm và cácđơn vị yểm trợ như Liên đoàn 20 Công Binh Chiến Đấu, Liên đoàn231 Yểm trợ Tiếp Vận, kho đạn của Không quân và Lục quân vớikhoảng 20 ngàn tấn đạn, kho tồn trữ nhiên liệu với trữ lượng dùngtrong 45 ngày và nhu yếu phẩm và thực phẩm đủ dùng trong haitháng. Nhiệm vụ của Tướng Phú là làm sao đưa hết được các đơn vịvà tiếp phẩm này về Nha Trang và để từ đó mở cuộc phản công táichiếm lại Ban Mê Thuột.

    * Cuộc họp của Thiếu tướng Phú về kế hoạch rút quân:
    Theo lời ban tham mưu của Tướng Phú kể lại, vào lúc 5 giờ 10chiều ngày 14 tháng 3/1975, khi vừa từ Cam Ranh trở về, Tướng Phú triệu tập một cuộc họp khẩn cấp tại chiếc bunker của ông, vớithành phần tham dự gồm có: Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm, Phụ tá Hànhquân; Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, Tư lệnh Sư đoàn 6 Không quân,Đại tá Phạm Duy Tất, Chỉ huy trưởng Biệt động quân Quân khu 1(gồm 5 liên đoàn Biệt động quân), Đại tá Lê Khắc Lư, Tham mưu trưởng Quân đoàn 2 & Quân khu 2. Mở đầu cuộc họp đặc biệt này,tướng Phú đă thừa lệnh Tổng thống VNCH gắn cấp Chuẩn tướng choDại tá Phạm Duy Tất. Ngay sau đó, ông tŕnh bày tóm tắt nội dungcuộc họp tại Cam Ranh và chỉ định chuẩn tướng Trần Văn Cẩm và tânChuẩn tướng Phạm Duy Tất chỉ huy tổng quát cuộc rút quân khỏi Cao nguyên.
    Kế hoạch cuộc chuyển quân được phổ biến vắn tắt: Tướng Phú và Bộ tư lệnh nhẹ sẽ đi Nha Trang trước bằng trực thăng. Chuẩn tướngTất chỉ huy toàn bộ các đơn vị tham gia cuộc triệt thoái từKontum và Pleiku về Tuy Ḥa theo tỉnh lộ 7 B. Đại tá Lê Khắc Lưđược giao trách nhiệm điều động bộ tham mưu quân đoàn và các đơnvị yểm trợ. Toàn bộ cuộc hành quân đặt dưới sự giám sát của chuẩntướng Trần Văn Cẩm.
    Theo kế hoạch do Tướng Phú đề ra, Liên đoàn 20 Công binh chiến đấu sẽ cho một đơn vị đi đầu để làm thành phần tiên phong cónhiệm vụ sửa chữa cầu cống, đường sá khi cần thiết. Các đơn vị thiết giáp được giao nhiệm vụ yểm trợ đoàn xe vận tải. Các đơn vị Địa phương quân và Nghĩa quân trong khu vực đoàn quân đi qua chịu trách nhiệm an ninh trục lộ. Đi cuối cùng là hai Liên đoàn Biệtđộng quân và 1 đơn vị thiết giáp. Các đơn vị cuối cùng này sẽ rờiPleiku vào ngày 19/3/1975.
    Do cuộc chuyển quân rầm rộ với nhiều đơn vị và hàng trăm xe vậntải cùng nhiều quân cụ nặng nên thời gian chuẩn bị phải mất hết 4ngày liên tiếp, bắt đầu từ ngày 16 tháng 3/1975.
    Sau khi họp với các đơn vị trưởng, sáng ngày 15 tháng 3, Thiếutướng Phú cùng với một số sĩ quan được chọn lựa trong ban thanmưu bay về Nha Trang để tái tổ chức lại bộ tư lệnh Quân đoàn ở đây. Cũng trong ngày này, Chuẩn tướng Cẩm và vài sĩ quan thân cận bayđi Tuy Ḥa để chuẩn bị đón đoàn quân di chuyển từ Pleiku về. Cũngtrong ngày này, đă có một số quân xa bắt đầu rời Pleiku theo cáctoán nhỏ. Như đă tŕnh bày ở trên, từ khi có cuộc tái phối tríđược nêu ra trong cuộc họp cho đến khi bắt đầu thực hiện, tất cảđều tiến hành một cách bí mật, không một lời nào được tiết lộ, kểcả không cho các tỉnh trưởng của hai tỉnh Kontum và Pleiku biết.
    Tỉnh trưởng Pleiku nhờ ở gần bộ Tư lệnh nên được biết trước, c̣ntỉnh trưởng Kontum th́ đến phút chót mới biết được và ông đă tháptùng theo đoàn quân, nhưng giữa đường th́ bị CQ bắn chết.
    Ngày 16 tháng 3, đoàn xe đầu tiên của Quân đoàn 2 khởi hành rakhỏi thị xă Pleiku như đă trù liệu. Nhưng khi chiếc xe cuối cùngvừa rời khỏi bến th́ tin này được dân chúng biết. Vậy là mọi người vội vàng bỏ thành phố bằng bất cứ phương tiện nào sẵn có,ngay cả chạy bộ, và mang theo bất cứ thứ ǵ có thể mang theođược. Sau đó đoàn người từ Kontum cũng nhập vào thành một đoànngười cả quân lẫn dân kéo dài dọc theo liên tỉnh lộ 7B đầy nguy hiểm. Cuộc chuyển quân của Quân đoàn 2 khỏi Pleiku bắt đầu...

    15-3-1975: Tử Chiến Ở Quảng Nam

    *Cộng quân tấn công nhiều khu vực tại phiá Tây tỉnh Quảng Nam
    -Ngày 15-3-1975, Cộng quân mở các cuộc tấn công vào một số vị trí đóng quân của lực lượng Địa phương quân, Nghiă quân trên địa bàn các quận Duy Xuyên, Quế Sơn, Đức Dục, Đại Lộc của tỉnh Quảng Nam. Kịch chiến đă diễn ra tại khu vực G̣ Nổi, cầu Bà Rén và Nam Phước. Tại G̣ Nổi, lực lượng Địa phương quân đă đẩy lùi cuộc tấn công của Cộng quân, loại ngoài ṿng chiến hơn 20 Việt Cộng, bắt 2 tù binh, thu gần 20 cây súng.
    -Cũng trong ngày 15/3/1975, Liên đoàn 915 Địa phương quân Quảng Nam với sự yểm trợ của 1 chi đoàn thiết giáp thuộc Thiết đoàn 11 Kỵ binh/Sư đoàn 3 Bộ binh, đă giải tỏa áp lực của Cộng quân tại Bà Rén, và một đoạn của Quốc lộ 1 ở phía Nam tỉnh Quảng Nam.

    * Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 dời về Nha Trang

    -Sáng ngày 15- 3-1975, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2 cùng với một số sĩ quan trưởng pḥng và sĩ quan tham mưu của đă bay về Nha Trang để tái tổ chức Bộ Tư lệnh Quân đoàn2/Quân khu 2 tại đây.
    -Cũng trong ngày 15-3-1975, Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm, Phụ tá hành quân Tư lệnh Quân đoàn 2 và vài sĩ quan tham mưu bay đi Tuy Ḥa(tỉnh lỵ tỉnh Phú Yên) để chuẩn bị đón đoàn quân của Quân đoàn 2 di chuyển từ Pleiku về. Cũng trong ngày này, một số quân xa bắt đầu rời Pleiku theo các toán nhỏ. Do kế hoạch triệt thoái tiến hành một cách bí mật theo lệnh của Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu, nên không một thông tin nào được tiết lộ, ke åcả không cho các tỉnh trưởng của hai tỉnh Kontum và Pleiku biết.Tỉnh trưởng/Tiểu khu trưởng tỉnh Pleiku nhờ ở gần bộ Tư lệnh nên được biết trước, c̣n vị Tỉnh trưởng/Tiểu khu trưởng Kontum, theo tài liệu của Đại tướng Cao Văn Viên, viết cho Trung tâm Quân sử Lục quân Hoa Kỳ, th́ đến phút chót mới biết được và ông đă tháp tùng theo đoàn quân, nhưng giữa đường th́ bị CQ bắn chết.

    *16.3.1975: Mặt Trận Quảng Tín

    Cộng quân mở nhiều cuộc tấn công tại Tân Nam và Tây Bắc tỉnh Quảng Tín
    -Trong ngày 16/3/1975, tại miền Trung, lực lượng Cộng quân tại tỉnh Quảng Tín đă tung quân tấn công cường tập khu vực B́nh Tú, thuộc quận Thăng B́nh và nhiều vị trí đóng quân của Địa phương quân tại khu vực Tây Nam và Tây Bắc của tỉnh Quảng Tín. Bộ Tư lệnh Sư đoàn 3 Bộ binh(trách nhiệm chiến trường Quảng Nam- Đà Nẵng; tùy theo t́nh h́nh, đảm trách thêm khu vực phía Nam tỉnh Quảng Tín), đă điều động Tiểu đoàn 1 của Trung đoàn 2 Bộ binh tăng cường 1 chi đoàn của Thiết đoàn 11 Kỵ Binh giải tỏa áp lực Cộng quân. (Trước đó, Cộng quân đă tràn chiếm các quận Tiên Phước, Hậu Đức, liên đoàn 916 Địa phương quân của tỉnh Quảng Tín bị tổn thất nặng sau những trận kịch chiến với Cộng quân).

    * Đoàn quân đầu tiên của Quân đoàn 2 rút khỏi Pleiku

    Cũng trong ngày 16 tháng 3, đoàn xe đầu tiên của Quân đoàn 2 khởi hành rakhỏi thị xă Pleiku như đă trù liệu. Nhưng khi chiếc xe cuối cùngvừa rời khỏi bến th́ tin này được dân chúng biết. Mọi người vội vàng bỏ thành phố bằng bất cứ phương tiện nào sẵn có,ngay cả chạy bộ, và mang theo bất cứ thứ ǵ có thể mang theođược. Sau đó đoàn người từ Kontum cũng nhập vào thành một đoànngười cả quân lẫn dân kéo dài dọc theo liên tỉnh lộ 7B đầy nguyhiểm. Cuộc chuyển quân của Quân đoàn 2 khỏi Pleiku bắt đầu...
    -Theo lịch tŕnh, ngày 16 tháng 3/1975, một số đơn vị tiếp vận, Pháo binh, Công binh của Quân đoàn 2 di chuyển trên 200 quân xa, với sự yểm trợ của một đơn vị Thiết Giáp, đă khởi hành ra khỏi thị xăPleiku, đây là lực lượng đi đầu của của đoàn quân triệt thoái.


    @nguồn thời chinh chiến

  6. #26
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Những sự kiện trong tháng 03/1975 -
    Phần 2




    16.3.1975: Quân Đoàn 2 Triệt Thoái
    * Ngày 16/3/1975: Chuẩn tướng Phạm Duy Tất tổng chỉ huy cuộc triệt thoái của Quân đoàn 2 khỏi Cao nguyên.
    Ngày 16/3/1975, thi hành quân lệnh của Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu đă ban ra tại cuộc họp lịch sử ở Cam Ranh ngày 14-3-1975, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2, đă cho lệnh triệt thoái toàn bộ lực lượng Quân đoàn 2 khỏi 2 tỉnh Pleiku và Kontum của Cao nguyên Trung phần.
    Theo phân nhiệm của Thiếu tướng Phạm Văn Phú, tân Chuẩn tướng Phạm Duy Tất, chỉ huy trưởng Biệt động quân Quân khu 2, được ủy nhiệm tổng chỉ huy toàn bộ các đơn vị triệt thoái.
    (Trước đó, vào sáng ngày 15 tháng 3, Thiếu tướng Phú cùng với một số sĩ quan trong Bộ Tư lệnh bay về Nha Trang để tái tổ chức lại Bộ tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2 ở đây. Cũng trong ngày này, Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm, Phụ tá Hành quân Tư lệnh Quân đoàn 2 và vài sĩ quan thân cận bay đi Tuy Ḥa để chuẩn bị đón đoàn quân triệt thoái từ Pleiku và Kontum về) .
    Theo lịch tŕnh triệt thoái khỏi Cao nguyên, ngày 16 tháng 3/1975, một số đơn vị tiếp vận, Pháo binh,Công binh của Quân đoàn 2 di chuyển trên 200 quân xa, với sự yểmtrợ của một đơn vị Thiết Giáp, đă khởi hành ra khỏi thị xăPleiku, đây là lực lượng đi đầu của của đoàn quân triệt thoái.
    Sau thành phần đi đầu, lịch triệt thoái của các ngày kế tiếp như sau: vào ngày 17-3. các đơn vị Công binh, Pháo binh c̣n lại cùng Quân y với trên 250 xe sẽ di chuyển vào ngày 17/3/1975 và cũng do Thiết giáp tháp tùng bảo vệ. Ngày 18/3/1975: Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2, đơn vị Quân cảnh, một phần của Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh, cùng khoảng 200 quân nhân của Trung đoàn 44 Bộ binh triệt thoái, và cũng được Thiết giáp đi theo bảo vệ. Ngày 19/3/1975: lực lượng đoạn hậu gồm có Biệt động quân và đơn vị thiết giáp cuối cùng.
    Theo lộ tŕnh, đoàn quân sẽ từ Pleiku di chuyển về phía Nam củaQuốc lộ 14 để đến giao điểm QL 14 và Liên tỉnh lộ 7 cách thị xăPleiku khoảng 33 km đường chim bay về phía Nam, từ giao lộ này đoàn quân sẽ tiếp tục di chuyển dọc theo liên tỉnh lộ 7 B vềhướng Đông Nam, xuyên qua tỉnh lỵ Phú Bổn để về Tuy Ḥa.
    * Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên phân tích về liên tỉnh lộ 7B và cuộc rút quân của Quân đoàn 2.
    Trong phần tŕnh bày về cuộc họp tại Cam Ranh, VB đă lược tŕnh về quyết định của Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu ra quân lệnh cho Thiếu tướng Phạm Văn Phú triệt thoái Quân đoàn 2 khỏi Cao nguyên. Sau đây là những ghi nhận chi tiết về quân lệnh này.
    Tại cuộc họp Cam Ranh, khi nghe Thiếu tướng Phú chọn Liên tỉnh lộ 7B làm trục lộ rút quân, Đại tướng Cao Văn Viên không đồng ư, vị Tổng tham mưu trưởng Quân lực VNCH cho rằng đưa một quân đoàn di chuyển trên một đoạn đường dài hơn 250 cây số mà không nắm rơ t́nh h́nh an ninh lộ tŕnh là "quá sức liều lĩnh", tuy nhiên cuối cùng Đại Tướng Viên cũng không t́m ra được một trục lộ nên kế hoạch của Thiếu tướng Phú đă được Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu và Hội đồng Quốc gia chấp thuận.
    Nhận định về địa h́nh liên tỉnh lộ 7 B, Đại tướng Cao Văn Viên phân tích rằng ngoài trừ khúc từ Quốc lộ 14 đi Hậu Bổn c̣n dùngđược, đoạn c̣n lại không biết t́nh h́nh giao thông như thế nào.Tuy nhiên, có một điều mà Quân đoàn 2 biết trước là cầu bắc quasông Ba về phía nam Củng Sơn đă bị phá hủy hoàn toàn, không thểsửa chữa được, và đoạn đường chót đến phía tây Tuy Ḥa th́ nhữngvào năm trước 1973, lực lượng Đại Hàn hoạt động tại đây đă gài ḿn dày dặc.
    Trong khi Đại tướng Viên lo ngại về lộ tŕnh rút quân, th́ Thiếu tướng Phú lại tin tưởng về kế hoạch chuyển quân theo Liên tỉnh lộ 7B. Đây là con đường đá từ quốc lộ 14 đi Hậu Bổn (có đèo Cheo Reo) về Tuy Ḥa sát biển. Đường này rất ghồ ghề, đá lởm chởm và bị bỏ lâu không dùng đến. Giải thích về sự chọn lựa này, Thiếu tướng Phú tŕnh bày rằng yếu tố bất ngờ đă khiến ông có dự tính như thế.
    Thiếu tướng Phú chỉ yêu cầu Bộ Tổng tham mưu cung cấp phương tiện cầu nổi để qua sông mà thôi. Với quyền hạn của một Tổng tham mưu trưởng, Đại tướngViên chấp thuận ngay lời yêu cầu của Thiếu tướng Phú.
    Nhận định về quyết định của Tổng thống Thiệu và kế hoạch chuyển quân của Thiếu tướng Phú, Đại tướng Viên cho rằng "đưa một lực lượng cỡ quân đoàn với đầy đủ quân cụ, quân xa và nhiều thứ khác trên một đoạn đường dài hơn 250 cây số qua núi cao và rừng già trên vùng Cao nguyên mà không biết t́nh h́nh an ninh con đường đó ra sao quả là một việc quá sức liều lĩnh. Có tạo được yếu tố bất ngờ haykhông là do khả năng di chuyển nhanh gọn. Nhưng là một người chỉhuy sáng suốt th́ lúc nào cũng phải có sự cẩn trọng trước t́nh trạng là địch đang có mặt hầu như cùng khắp tại khu vực đó".
    Cũng trong buổi họp tại Cam Ranh, Đại tướng Viên đă nhắc nhở Thiếu tướng Phú về những khó khăn và nguy hiểm sắp đến, cũng như biện pháp an ninh cần chuẩn bị. Đại tướng Viên cũng đă đề cập đến sự thất bại của quân Pháp khi muốn rút quân từ Lạng Sơn về đồng bằng trong năm 1947. Ông cũng nhắc đến hai cuộc chuyển quân của hai binh đoàn Pháp trước năm 1954, theo đó một binh đoàn từ Thất Khê lên hướng Bắc và một binh đoàn từ Cao Bằng di chuyển về hướng Nam, tất cả đều bị đánh tan nát tại chân núi xung quanh Đông Khê, dọc theoQuốc lộ Thuộc Địa số 4. Về địa thế và con đường mà Thiếu tướngPhú chọn để di chuyển quân đoàn 2 th́ vào tháng 6/ 1954, Lựclượng Cơ động 100 nổi tiếng của quân đội Liên Hiệp Pháp tại ĐôngDương đă bị thảm sát trên Quốc lộ 19 gần An Khê và số sống sót c̣n lại cũng bị tiêu diệt tại Đeo Chu-Drek trên Quốc lộ 14. Theo Đại tướng Viên, đó là "những bài học máu xương và thảm khốc nhất mà bất cứ vị chỉ huy nào cũng phải biết rơ v́ địa thế hiểm trở củavùng Cao nguyên là vậy".
    Về t́nh h́nh Ban Mê Thuột sau khi thất thủ vào ngày 11/3/1975, Đại tướng Viên cho biết thêm: tại cuộc họp ở Cam Ranh, Tổng thống Thiệu chỉ hỏi một câu quan trọng nhất liên quan đến số phận của Ban Mê Thuột, đó là Thiếu tướng Phú có thể chiếm lại Ban Mê Thuột không. Những người tham dự đều biết trước là Thiếu tướng Phú không khẳng định được điều này nên không có câu trả lời dứt khoát. Thiếu tướng Phú chỉ yêu cầu tăng thêm viện binh. Quay sang Đại tướng Viên, Tổng thống Thiệu hỏi xem c̣n lực lượng nào có thể tập trung đưa lên giải vây không. Hỏi vậy nhưng chắc chắn ông biết rơ câu trả lời. Đại tướng Viên cho biết đơn vị cuối cùng là Liên đoàn 7 Biệt Động Quân đă được phái lên Vùng 2 theo yêu cầu của Thiếu tướng Phú. Lực lượng chủ chốt là Sư đoàn Nhảy Dù và Sư đoàn Thủy quân lục chiến th́ đều ở Quân khu 1 từ năm 1972.
    Theo lời Đại tướng Viên th́ vào giờ phút nghiêm trọng như vậy mà Bộ Tổng Tham Mưu không thể nào tăng viện cho Quân khu 2 được. Tổng thống Thiệu hỏi như vậy là để cho mọi người cùng hiểu thực trạng của quân đội như thế nào, và biết được bước kế tiếp ông phải làm ǵ.Khi cuộc họp chấm dứt, th́ Tướng Phú xin riêng với Tổng thống Thiệu bằng một giọng khẩn khoản rằng ông xin Tổng thống thăng cấp chuẩn tướng cho Đại tá Phạm Duy Tất, Chỉ huy trưởng Biệt động quân Quân khu 2. Kể lại sự việc này, Tướng Cao Viên ghi lại như sau: "Tôi không quen thân với Đại tá Tất nhưng được nghe ông là người có khả năng, nhưng làm tư lệnh chiến trường th́ không có bằng chứng nào chứng minh ông ta có khả năng. Tôi liền phản đối ngay và nói rằng khi nào tái phối trí xong rồi mới nói đến. Tổng thống Thiệu tỏ ra do dự nhưng thấy tôi nói có lư nên không đồng ư việc thăng cấp. Thế nhưng, Thiếu tướng Phú khẩn khoản xin cho bằng được. Cuối cùng Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cũng đồng ư thăng cấp Chuẩn tướng cho Đại tá Phạm Duy Tất.

    25.3.1975: Quân Khu 1 Rút Khỏi Huế
    Lực Lượng Quân Khu 1 Rút Khỏi Huế
    * Diễn tiến về kế hoạch rút quân khỏi Huế ngày 25 tháng 3/1975.
    Theo hồi kư của Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH, vào ngày 25 tháng 3/1975, tất cả các lực lượng của Quân đoàn 1/Quân khu 1 đều tập trung tại ba địa điểm: Đà Nẵng (gồm cả Hội An), phiá Bắc thành phố Huế và phiá Nam Chu Lai. Nhận định về cuộc rút quân của Quân đoàn 1/Quân khu 1, Đại tướng Viên ghi nhận rằng "hành tŕnh cuộc rút về ba địa điểm này vô cùng gian khổ và đắt giá. Phần lớn binh sĩ đều ră rời. Đă bao lâu nay, họ chiến đấu hết trận này đến trận khác, hết năm này đến năm khác, nhưng chưa bao giờ họ cảm thấy nản ḷng bằng giờ phút ấy. Hy vọng có bàn tay nào đó giúp đỡ để họ đánh chiếm lại những vùng đất bị lọt vào tay địch, để đủ sức đương cự với kẻ thù nay đă tan biến như chuyện đời xưa."
    Cũng theo ghi nhận của Đại tướng Cao Văn Viên, trong giờ phút nản ḷng đó, th́ một bức điện khác cũng của Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu gửi đi cho Bộ Tư lệnh Quân đoàn 1/Quân khu 1 , trong đó, Tổng thống chỉ thị lực lượng tại 3 nơi tập trung này phải rút về Đà Nẵng để tổ chức pḥng thủ bảo vệ thành phố trọng yếu này. Nhận được chỉ thị của Tổng thống, Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân đoàn 1/Quân khu 1 ra lệnh cho Sư đoàn 1 Bộ binh và các đơn vị khác tại Huế phải rút về Đà Nẵng. Cùng lúc, Trung tướng Trưởng cho Sư đoàn 22 Bộ binh cùng với lực lượng Tiểu khu Quảng Ngăi, rút về đảo Ré, nằm ngoài khơi cách Chu Lai chừng 20 dặm.
    Tại Huế, các đơn vị của Sư đoàn 1 Bộ binh pḥng ngự ở phía Bắc và khu vực cận sơn ở phía Đông thành phố Huế đă được lệnh rời bỏ pḥng tuyến và chuyển quân về gần Huế để cùng với Bộ Tư lệnh và các đơn vị yểm trợ rút quânkhỏi chiến trường Trị Thiên. Trong khi đó, các tiểu đoàn Bộ binhvà Biệt động quân đang án ngữ pḥng tuyến dọc trên Quốc lộ 1 được lệnh di chuyển về bờ biển và tập trung tại các điểm hẹn để tàu Hải quân vào đón.
    Theo kế hoạch tổng quát, Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 1 doTrung tướng Lâm Quang Thi chỉ huy sẽ chịu trách nhiệm điều động và kiểm soát cuộc rút quân này. Về phương tiện vận chuyển, Bộ Tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải do Phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại làm tư lệnh có nhiệm vụ cung cấp tối đa tàu để chở tất cả các đơn vị thuộc Sư đoàn 1 Bộ binh, Thủy quân Lục chiến, Biệt động quân và lực lượng quân sự của hai tiểu khuThừa Thiên và Quảng Trị vào Đà Nẵng. Bộ chỉ huy Quân vận Quân khu1 sẽ sử dụng LCU để đưa các đơn vị từ bờ ra tàu, Công binh sẽ lập những cầu phao tại các cửa sông để đoàn quân đi qua.
    * Những biến cố xảy ra trong hành tŕnh rút quân.
    Theo ghi nhận của Thiếu tướng Bùi Thế Lân, Tư lệnh Sư đoàn Thủy Quân Lục chiến, do lệnh rút quân quá nhanh, các đơn vị không có thời gian chuẩnbị nên kế hoạch rút quân đă không thể thực hiện đúng theo thờibiểu. Cũng theo lời Thiếu tướng Lân, khi Trung tướng Trưởng quyết định cho rút quân khỏi Thừa Thiên và thành phố Huế th́ Thủy quân Lục chiến có Lữ đoàn 369 đang hoạt động tại chiến trường này. Bộ chỉ huy Lữ đoàn 369 đóng tại căn cứ Tân Mỹ ở cửa Thuận An, 2 tiểu đoàn đang pḥng thủ tại pḥng tuyến An Lỗ, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 17 km, tiểu đoàn thứ ba đang pḥng thủ ở phía Bắc quận Hương Điền và ở phía Nam của sông Mỹ Chánh.
    Trước t́nh h́nh đó, nhiều đơn vị đă tự t́m ra cách rút quân bằng phương tiện tự túc. Một đơn vị Thủy quân Lục chiến rút theo Quốc lộ 1 để vượt qua đèo Hải Vân vào Đà Nẵng đă bị Cộng quân phục kích chận đánh và bị tổn thất nặng. Một số đại đội Thủy quân Lục chiến và bộ chỉ huy Lữ đoàn 369 do Đại tá Lương, Lữ đoàn trưởng chỉ huy, từ Thuận An đi bộ dọc theo bờ biển để về hướng Đà Nẵng.Trên đường đi, đoàn quân đă được LCU và tàu Hải quân vào đón.Trong khi đang đứng trên bờ để điều động quân sĩ lội ra tàu ơ ûngoài biển, Đại tá Lương đă bị thương ở chân.
    Một tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến và một số đơn vị Bộ binh cũng rút theo đường biển nhưng khi đến phá Tam Giang ở cửa Tư Hiền th́ gặp phải con sông chắn ngang quá rộng, trong khi phía bên kiasông đă bị Cộng quân chiếm giữ. Một số chiến binh quyết vượt qua sông nhưng đă bị tử thương do đạn Cộng quân bắn sang. Theo ước tính của Thiếu tướng Bùi Thế Lân, Tư lệnh Thủy quân Lục chiến, th́ chỉ có một số nhỏ chiến binh Thủy Quân vào đến Đà Nẵng, số đông c̣n lại bị tử thương v́ trúng đạn pháo kích hoặc bị kẹt lại ở Huế. Những người bị kẹt lại đă lập thành từng phân đội quyết tử với Cộng quân cho đến khi hết đạn.
    Về cuộc chuyển quân bằng hải vận, Đại tướng Cao Văn Viên cho biết: trong ngày rút quân, biển động mạnh nên tàu Hăi quân đến trễ. Cầu phao tại cửa sông cũng chưa hoàn tất kịp để sử dụng. Đến trưa th́ thủy triều lên cao, không làm sao qua được. Cũng vào thời gian đó, Cộng quân biết có cuộc chuyển quân nên bắt đầu tập trung hỏalực pháo binh bắn dồn dập vào các vị trí ẩn quân tại cửa Tư Hiền cùng tại nhiều điểm hẹn để tàu đến đón. Bộ Tư lệnh Tiền phươngQuân đoàn 1 từ Mang Cá chuyển về đặt tại căn cứ Tân Mỹ cũng bị pháo kích nặng. Nhận định tổng quát về cuộc rút quân khỏi Huế, Đại tướng Cao Văn Viên ghi nhận rằng trong cuộc hành tŕnh triệt thoái này, th́ "kỷ luật không c̣n duy tŕ nổi. Do đó, chỉ có 1/3 số quân nhân về đến Đà Nẵng được. Nhưng khi về đến Đà Nẵng, th́ họ tự động bỏ hàng ngũ đi t́m gia đ́nh và thân nhân. Chỉ c̣n Thủy quân Lục chiến là giữ được trọn vẹn t́nh h́nh."
    Về đoàn quân của Sư đoàn 1 bộ binh, các tiểu đoàn của các Trung đoàn1,3, 51 và 54 Bộ binh và các đơn vị thống thuộc như Thiết giáp, Pháobinh, cũng lâm vào t́nh cảnh như Lữ đoàn 369 TQLC. Một số được tàu Hải quân chở, một số khác mở đường máu ven theo quốc lộ 1 và hoặc ven theo biển phần lớn đă hy sinh ngay trên đường rút quân
    * Sư đoàn 1 Bộ Binh vĩnh biệt chiến trường Quảng Trị-Thưà Thiên.
    Trở lại với t́nh h́nh Sư đoàn 1 Bộ binh, một trung tá trưởng pḥng của Bộ Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh (không muốn nêu tên) đă kể lại diễn tiến những giờ phút cuối tại Bộ Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh ở trong căn cứ Giạ Lê.Vị trung tá này nói ông không thể nào quên được buổi họp cuối cùng để nghe Chuẩn tướng Nguyễn Văn Điềm, Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh, phổ biến lệnh rút quân. Từ vị tư lệnh phó, tham mưu trưởng cho các sĩ quan trưởng pḥng, trưởng ban tham mưu như chết lặng khi nghe Thiếu tướng Điềm nói: Sư đoàn 1 Bộ binh có lệnh phải rút khỏi Huế. Và chỉ gần một giờ sau, cảnh tượng đó cũng đă diễn ra tại các bộ chỉ huy trung đoàn, tiểu đoàn bộ binh, Thiếtđoàn Kỵ binh và các tiểu đoàn yểm trợ.
    Là một đại đơn vị đầu ḷng của Quân lực VNCH, thành lập ngày 1 tháng 1/1955 trên sự qui hợp 3 Liên đoàn chiến thuật lưu động, Sư đoàn 1 Bộ Binh với danh hiệu đầu tiên là Sư đoàn 1 Dă chiến rồi đổithành Sư đoàn 1 Bộ binh từ 1959, trong hơn 20 năm từ ngày thành lập cho đến ngày được lệnh rút quân khỏi chiến trường Trị Thiên,Sư đoàn 1 Bộ binh là Sư đoàn Bộ binh đầu tiên mà tất cả quân nhân thuộc Sư đoàn được mang giây biểu chương Bảo Quốc Huân Chương màu tam hợp. Suốt 20 năm trấn giữ tuyến đầu của Việt Nam Cộng Ḥa, Sư đoàn 1 Bộ Binh là h́nh ảnh của sự bảo bọc, ǵn giữ Huế trong suốt những năm dài lửa đạn.

    25.3.1975: Trận Chiến Ở Phú Yên
    * Trận chiến bên bờ sông Ba.
    -Ngày 25 tháng 3 là ngày thứ 10 của tiến tŕnh triệt thoái toàn bộ lực lượng Quân đoàn 2 khỏi Cao nguyên. Quảng đường từ Củng Sơn về Tuy Hoà, tỉnh lỵ tỉnh Phú Yên, dài hơn 70m, đoàn xe phải vượt qua sông Ba để tiếp tục cuộc hành tŕnh trên đoạn đường hương lộ 436 bên bờ của sông này, v́ từ đoạn đường này trở đi, liên tỉnh lộ 7 bị các đơn vị Đại Hàn (trước 1973) gài ḿn dày dặc. Từ Tuy Ḥa một cầu phao được đưa lên để đoàn quân vượt sông, nhưng không thể nào đưa lên Củng Sơn v́ giữa đoạn đường từ Tuy Ḥa lên Củng Sơn, Cộng quân chốt chận nhiều đoạn. Cuối cùng th́ nhờ có trực thăng Chinook mang từng phần rời ráp lại. 17 giờ 30, đoàn quân xa đầu tiên về đến Phú Yên sau 10 ngày hành tŕnh.
    *Cộng quân lập chốt chận trên lộ tŕnh triệt thoái của Quân đoàn 2.
    -Vượt sông Ba, quảng đường c̣n lại về tỉnh lỵ tỉnh Phú Yên tuy tương đối gần nhưng v́ Cộng quân lập chốt chận nhiều đoạn . Vào 10 giờ sáng ngày 25/3/1975, lực lượng chiến xa với sự yểm trợ của trực thăng vơ trang đă triệt hạ các chốt chận của Cộng quân trên lộ tŕnh, để mở đường cho các quân xa và các đơn vị bộ chiến di chuyển.
    -10 giờ 30, các phi tuần phản lực của Không quân tiếp tục đánh bom triệt hạ các cụm công sự chiến đấu của Cộng quân trên liên tỉnh lộ 7.
    * Lực lượng VNCH rút khỏi Quảng Ngăi.
    Ngày 25 tháng 3/1975, tất cả các lực lượng của Quân đoàn 1/ Quân khu 1 tại phía Bắc đèo Hải Vân đă tập trung về phía Bắc thành phố Huế. Lực lượng của Sư đoàn 2 Bộ binh và các đơn vị tăng phái, lực lượng Địa phương quân, Nghiă quân Tiểu khu Quảng Ngăi tập trung về phiá Nam Chu Lai để di chuyển ra đảo Ré.

    26.3.1975: Kịch Chiến Ở Phú Thứ
    * Lữ đoàn 2 Kỵ binh, Biệt động quân Quân khu 2 kịch chiến với Cộng quân chốt chận tại Phú Thứ, phía Tây thị xă Tuy Ḥa, trên đoạn đường từ Cung Sơn-Tuy Ḥa.
    Ngày 26 tháng 3/1975 là ngày thứ 11 của tiến tŕnh cuộc triệt thoái lực lượng Quân đoàn 2/Quân khu 2 khỏi Cao nguyên. Tính đến ngày này, báo cáo của Bộ Tư lệnh Lữ đoàn 2 Kỵ binh cho biết: toàn bộ chiến xa M48 và M41 đă bịkẹt lại trên lộ tŕnh v́ trúng đạn pháo của địch, riêng tại chặng dừng đầu tiên ở Hậu Bổn (tỉnh lỵ tỉnh Phú Bổn), có 40 chiến xa M48 và M41, 8 chiến xa gắn đại bác 175 ly . Lực lượng chiến xa của Lữ đoàn chỉ c̣n lại 13 thiết vận xa M 113 của 1 chi đoàn . Chi đoàn này đă tách rời đoàn xe bọc qua một con sông nhỏ về đến Tuy Ḥa ngày 25/3/1975, trong khi đó cả đoàn quân và đoàn xe vẫn c̣n bị kẹt lại gần Phú Thứ ( nằm trên đoạn đường từ Cung Sơn về Tuy Ḥa, tỉnh lỵ tỉnh Phú Yên) v́ Cộng quân tổ chức chốt chận.
    Để giải tỏa áp lực của địch quân, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2, ra lệnh cho Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm, phụ tá Hành quân, bay chỉ huy lực lượng Xung kích và các phi đội trực thăng vơ trang nỗ lực tấn công, xạ kích để triệt hạcác chốt chận nhỏ c̣n lại của địch. Tướng Phú cũng ra lệnh cho Chuẩn tướng Phạm Duy Tất-Chỉ huy trưởng Biệt động quân/QK 2 kiêm tổng chỉ huy cuộc triệt thoái điều động 13 Thiết quân vận M 113 trở lại để phối hợp với Biệt động quân "dọn sạch"cụm chốt chận của CQ ở Phú Thứ.
    Các đơn vị của Liên đoàn 7 Biệt động quân đă chiến đấu quyết tử phá vỡ các chốt chận của địch. Với sự yểm trợ của các chiến xa M 113, lực lượng Biệt động quân đă mở nhiều đợt xung phong có hệ thống và dần dà triệt hết chốt chận này đến chốt chận khác của Cộng quân.

    27.3.1975: Trận Chiến Ở B́nh Định
    * Cộng quân tràn ngập Tam Quan, tỉnh B́nh Định
    Vào 0 giờ sáng ngày 27/3/1975, Cộng quân tấn công cường tập ngập pḥng tuyến Tam Quan do 1 đơn vị của Sư đoàn 22 Bộ binh pḥng ngự. Lực lượng Cộng quân với các đơn vị từ Quảng Ngăi tiến vào, phối hợp với trung đoàn 95 và sư đoàn 3 CSBV đă gây áp lực nặng tại vùng phía Bắc của B́nh Định. Trận chiến tại Tam Quan khai diễn từ ngày 25/3/1975 với những đợt xung phong của CQ, nhưng đều bị lực lượng trú pḥng đánh bật. Sau 2 ngày kịch chiến, Cộng quân tăng cường lực lượng, mở cuộc tấn công với hỏa lực mạnh để tràn ngập pḥng tuyến này.
    * Pḥng tuyến Duy Xuyên, Quảng Nam bị tấn công
    -Ngày 27/3/1975, Cộng quân gia tăng áp lực tại khu vực Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Trung đoàn 56 Bộ binh của Sư đoàn 3 Bộ Binh tái phối trí tổ chức pḥng thủ tuyến Duy Xuyên.
    -Trong ngày 27/3/1975, Cộng quân đă pháo kích và khai triển lực lượng chiếm giữ một số xă ở Tây Nam tỉnh Quảng Nam.
    -Cũng trong ngày 27/3/1975,Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân đoàn 1/Quân khu 1 đă thị sát t́nh h́nh chiến sự tại vùng trách nhiệm của Sư đoàn 3 Bộ binh, đồng ư đề nghị của Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh, Tư lệnh Sư đoàn 3 Bộ binh về kế hoạch lập pḥng tuyến vàng Thu Bồn, ngăn chận CQ tấn công Đà Nẵng.
    *Sư đoàn 10 CSBV tấn công Khánh Dương
    Cũng trong ngày 27/3/1975, sư đoàn F-10 CSBV tấn công vào pḥng tuyến của Lữ đoàn 3 Nhảy Dù tại Khánh Dương, Khánh Ḥa, nhưng đă bị lực lượng Nhảy Dù đánh bật sau những trận kịch chiến.

    29.3.1975: Lâm Đồng Thất Thủ
    *Bộ chỉ huy Tiểu khu Lâm Đồng triệt thoái
    Ngày 29/3/1975, sau các cuộc tấn công cường của Cộng quân diễn ra trong ngày 28/3/1975, Bộ chỉ huy Tiểu khu Lâm Đồng và 1 đơn vị Địa phương quân, do vị Trung tá Tham mưu trưởng chỉ huy đă triệt thoái về đến Phan Rang vào 20 giờ tối ngày 29/3/1975. (Theo nhật kư hành quân của Thiếu tá Phạm Huấn, sĩ quan Báo chí của Tư Quân đoàn 2, th́ vào 3 giờ sáng ngày 28-3-1975, Cộng quân đă tấn công quận Bờ Sa, tỉnh Lâm Đồng. Đến 7 giờ 15 sáng cùng ngày, Cộng quân bắy đầu pháo kích vào thị xă tỉnh lỵ Lâm Đồng. Đến 10 giờ 45, pḥng tuyến thị xă tỉnh lỵ bị tràn ngập).
    Cũng trong ngày 29 tháng 3/1975, Cộng quân tràn chiếm các vị trí c̣n lại của lực lượng Tiểu khu Lâm Đồng. (Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 đặt tại Nha Trang đă điều động Liên đoàn 24 Biệt động quân tăng cường cho Tiểu khu Lâm Đồng nhưng liên đoàn này chưa đến kịp th́ Cộng quân đă tràn ngập tỉnh lỵ).
    * Sư đoàn 23 Bộ Binh tái thành lập
    Theo tài liệu của Đại tướng Cao Văn Viên, sau khi pḥng tuyến của Sư đoàn 23 Bộ binh tại quận Phước An (tỉnh Darlac) bị thất thủ ngày 18/3/1975, Bộ Tổng Tham mưu đă cho tái tập trung lực lượng c̣n lại của Sư đoàn 23 Bộ binh tại Động Ba Th́n, cách Cam Ranh khoảng 10 km về hướng Bắc. Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh ( Đại tá Đức, phụ tá Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2, làm quyền Tư lệnh thay chuẩn tướng Trường bị thương tại Phước An ngày 16/3/1975), có nhiệm vụ tái tổ chức lại các đơn vị trực thuộc. Theo tài liệu của Thiếu tá Phạm Huấn, sĩ quan báo chí Tư lệnh Quân đoàn 2, vào ngày 29/3/1975, Sư đoàn 23 Bộ binh được Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 cấp cho 1,200 khẩu súng M-16 để bổ sung cho số vũ khí tái chỉnh trang.

    30.3.1975: Trận Chiến Qui Nhơn
    * Qui Nhơn hỗn loạn, Sư đoàn 22 Bộ binh rút 2 Trung đoàn 41, 42 khỏi pḥng tuyến B́nh Khê về Qui Nhơn
    -Theo tài liệu của Đại tướng Cao Văn Viên, ngày 30 tháng 3/1975, Cộng quân đă xâm nhập vào thành phố Qui Nhơn, tỉnh lỵ tỉnh B́nh Định. Trong khi đó, tại phía Tây Qui Nhơn, lực lượng Cộng quân gồm sư đoàn 3 và trung đoàn 95 CSBV đă tấn công cườp tập vào pḥng tuyến B́nh Khê . Để bảo toàn lực lượng, 2 trung đoàn 41 và 42 của Sư đoàn 22 Bộ binh được lệnh rút khỏi B́nh Khê. Trung đoàn trưởng Trung đoàn 42 là Đại tá Nguyễn Hữu Thông đă bất măn về quân lệnh này, ông khẩn khoản tŕnh với Bộ Tư lệnh Sư đoàn 22 Bộ binh cho Trung đoàn 42 Bộ binh được cố thủ, nhưng thỉnh cầu này đă không được chấp thuận..
    -Cũng theo ghi nhận của Đại tướng Cao Văn Viên, khi 2 trung đoàn này về đến Qui Nhơn th́ Cộng quân đă đào giao thông hào tại một số khu vực trong thành phố. Nhiều cao ốc bị Cộng quân chiếm. Kịch chiến đă diễn ra ở phía Nam hải cảng Qui Nhơn.
    * Đại tướng Wayand, Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ đến Nha Trang.
    Sau khi đến Sài G̣n vào ngày 26/3/1975, vào 10 giờ ngày 30/3/1975, Đại tướng Weyand, Tham mưu trưởng Lục quân Mỹ, đặc sứ của Tổng thống Hoa Kỳ, đă đến Nha Trang bằng 1 phản lực cơ quân sự loại nhỏ. Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2 đă đón Đại tướng Weyand ngay tại phi trường và tự lái xe Jeep chở về Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2. Tướng Phú đă trao đổi vớiTướng Weyand t́nh h́nh chiến sự tại các tỉnh phía Nam miền Trung. Cuộc họp kết thúc vào 10 giờ 55 cùng ngày.
    *Cộng quân tấn công pḥng tuyến Khánh Dương
    2 giờ 15 chiều ngày 30/3/1975, Cộng quân tấn công cường tập pḥng tuyến của Lữ đoàn 3 Nhảy Dù tại Khánh Dương. Lữ đoàn trưởng báo cáo khẩn về t́nh h́nh cho Thiếu tướng Phú. Vị Tư lệnh Quân đoàn 2 mong "Lữ đoàn Dù cố gắng giữ pḥng tuyến", và hứa sẽ có lực lượng tăng viện.

    31.3.1975: B́nh Định Thất Thủ
    * Trận chiến cuối cùng tại Qui Nhơn
    -Ngày 31 tháng 3/1975, Cộng quân đă tràn chiếm các quận lỵ của tỉnh B́nh Định. Tại Qui Nhơn, sư đoàn 3 CS Bắc Việt đă chiếm nhiều vị trí trọng yếu trong thành phố, trong đó có hải cảng. Theo tài liệu của Đại tướng Cao Văn Viên, lực lượng Sư đoàn 22 Bộ binh với Trung đoàn
    41 và Trung đoàn 42 đă nổ lực mở cuộc phản kích với sự yểm trợ hỏa lực hải pháo từ tàu Hải quân ở ngoài biển, nên địch quân bị đánh bật ra khỏi ra khỏi khu ven bờ biển, vùng kiểm soát của lực lượng VNCH được mở một khoảng rộng dài chừng 4 dặm về phía Nam, để tạo an ninh cho tàu Hải quân cập bến đón các đơn vị c̣n lại của Sư đoàn 22 Bộ binh triệt thoái khỏi tỉnh B́nh Định.
    * Trung đoàn trưởng Trung đoàn 42 Bộ binh tự sát tại bờ biển Qui Nhơn
    -Trong cuộc triệt thoái tại Qui Nhơn, vị Trung đoàn trưởng Trung đoàn 42 Bộ binh là Đại tá Nguyễn Hữu Thông đă không chịu đi, từ chối cuộc di tản và sau đó ông đă tự sát bằng súng Colt 45.
    * Một Tiểu đoàn trưởng Địa phương quân tỉnh B́nh Sát tự sát ngay trước quận đường Phù Cát
    -Cũng lúc diễn ra trận chiến tại Qui Nhơn, tại Căn cứ Không quân Phù Cát, sau 2 ngày đến cố thủ và tổ chức, Trung đoàn 47/Sư đoàn 22 Bộ binh đă bị CQ tấn công cường tập. Trong đêm, Trung đoàn này rút về Qui Nhơn th́ bị phục kích tại quận lỵ Phù Cát, bị thiệt hại gần 50% lực lượng. Cộng quân đă chiếm quận lỵ này vào buổi chiều. Thi hài của vị Tiểu đoàn trưởng Địa phương quân ( các tài liệu không ghi rơ tên) vẫn c̣n nằm nguyên trước Văn pḥng Quận Phù Cát. Thay v́ đầu hàng địch quân, vị tiểu đoàn trưởng này quyết định tự sát.

    @nguồn thời chinh chiến

  7. #27
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Những trận chiến cuối cùng QLVNCH
    P1




    10.3.1975 Cộng Quân (CQ) Tấn Công Ban Mê Thuộc

    2 giờ sáng ngày 10 tháng Ba năm 1975, Cộng quân mở cuộc tấn công cường tập vào thị xă Ban Mê Thuột, tỉnh lỵ tỉnh Darlac. Khi trận chiến xảy ra, Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh là Chuẩn tướng Lê Trung Tường đang chỉ huy mặt trận Pleiku, do đó Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2, đă chỉ định Đại tá Vũ Thế Quang, Tư lệnh phó Sư đoàn 23 Bộ binh, chỉ huy mặt trận Ban Mê Thuột với sự hợp lực của Tiểu khu trưởng Darlac là Đại tá Nguyễn Trọng Luật.
    Cộng quân mở đầu cuộc tấn công bằng những đợt pháo kích vào thị xă, các vị trí quân sự trọng yếu như Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh, Bộ Chỉ huy Tiểu khu Darlac, doanh trại của các đơn vị thống thuộc Sư đoàn 23 Bộ binh. Đến 4 giờ sáng, Cộng quân đă sử dụng mở cuộc tấn công chiếm kho đạn Mai Hắc Đế ở phía Tây thị xă. Đơn vị trú pḥng đă bảo vệ được kho đạn. Đến 7 giờsáng Cộng quân ngưng pháo kích, chuyển sang tấn công bằng bộ binh và thiết giáp vào thị xă.Các đoàn chiến xa của Cộng quân đăơ bị các đơn vị của Tiểu khu Darlac đánh chận lại.
    Trưa ngày 10/3/1975, Cộng quân mở đợt pháo kích dồn dập vào Bộ Chỉ huy Tiểu khu, bản doanh bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh. 13 giờ 30, Cộng quân tập trung hỏa lực pháo binh bắn vào doanh trại Bộ Chỉ huy Tiểu khu. 2 giờ chiều , Cộng quân tràn ngập vào doanh trại. Vào lúc 18 giờ, Liên đoàn 21 Biệt Động Quân được thả xuống trong khu vực Bộ Chỉ huy Chi khu Buôn Hô rồi từ địa điểm này, khai triển lực lượng tiến vào thị xă Ban Mê Thuột.
    Tại phi trường Phụng Dực, Cộng quân điều động 2 trungđoàn thuộc sư đoàn 320 và 1 tiểu đoàn chiến xa tấn công vào tuyến pḥng thủ của Trung đoàn 53 Bộ binh/Sư đoàn 23 Bộ binh. Lực lượng pḥng thủ đă ngăn chận được cuộc tấn công của địch quân. Tính đến 6 giờ chiều ngày 10/1975, các đơn vị Quân lực VNCH tại mặt trận Ban Mê Thuột đă loại ra ngoài ṿng chiến khoảng 300 Cộng quân, bắn cháy 12 chiến xa T-54.



    11.3.1975, Ban Mê Thuột Thất Thủ

    * Diễn biến chiến sự tại Ban Mê Thuột trong ngày 11-3-1975
    -Vào 7 giờ sáng ngày 11/3/1975,Cộng quân bắt đầu nả pháo binh vào Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 BB, một số quân xa đậu ở gần Trungtâm hành quân bị trúng pháo nổ tung ra. Đại tá Nguyễn Trọng Luật, Tỉnh trưởng/Tiểu khu trưởng Darlac, đi thẳng ra cửa bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh và lên 1 chiếc M 113 để quan sát, ông thấy cách đó 300 mét, hàng chục chiếc T 54 của CQ đang bao vây bộ Tư lệnh. Cùng lúc đó, CQ đang tấn công và bắn trực xạ vào lầu tư dinh Tỉnh trưởng. Trung đội pḥng thủ đă bắn cháy 2 chiến xa địch ngay trước cổng bằng súng M 72. Ngay sau đó, Trung đội này ra khỏi tư dinh.
    -Khoảng 10 giờ sáng, pháo binh CQ ngưng tác xạ. Đại tá Luật nhảy lên pháo tháp của chiến xa M113 quan sát và thấy chiến xa CQ đang chuyển bánh. Ông nhảy vào xe và la lớn: “Sẵn sàng ứng chiến”. Chiến xa đầu của CQ chầm chậm tiến thẳng vào chiếc thiết vận xa M 113.Khi chiến xa địch c̣n cách 100 mét, Đại tá Luật ra lệnh cho xạ thủ đại bác 106 ly không giựt đặt trên xe khai hỏa. Ông hét lớn”bắn”. Thay v́ nghe một tiếng nổ lớn của viên đạn ra khỏi ṇng nhưng chỉ có một tiếng “cóc” phát ra. Binh sĩ xạ thủ báo cho ông biết súng bị trở ngại tác xạ. Sau một phút bàng hoàng,Đại tá Luật đă nghĩ ngay đến các phản lực cơ A 37. Ông liên lạc với phi tuần L 19 quan sát và yêu cầu A 37 dội bom ngay vào cácchiến xa của CQ đang tiến vào bộ Tư lệnh, ông nói với quan sátviên L 19 là chấp nhận nguy hiểm v́ chỉ có cách đó th́ mới chậnđứng được cuộc tấn công của CQ.
    -Hơn 10 giờ sáng ngày 11/3/1975, th́nh ĺnh mọi người nghe một tiếng nổ ầm thật kinh hoàng. Trung tâm Hành quân Sư đoàn 23 Bộ binh đă bị Không quân ném nhầm. Trung tâm hành quân bịsập và các hệ thống liên lạc đều bị hư hại toàn bộ. Một số lớn sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ chết vàbị thương. Trước t́nh thế đó, Đại tá Luật bàn với Đại tá Vũ Thế Quang, Tư lệnh phó Sư đoàn 23 BB, kiêm Tư lệnh mặt trận Ban Mê Thuột,nên rút khỏi bộ Tư lệnh Sư đoàn ngayđể bảo toàn lực lượng. Đại tá Vũ Thế Quang đồng ư và ra lệnh rút quân.Lực lượng trú pḥng lúc bấy giờ khoảng 100 người mở đường máu rakhỏi hàng rào và hướng về phía Tây tức là suối Bà Hoàng, cách BộTư lệnh Sư đoàn 250 mét.
    - 11 giờ 50: Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 mất liên lạc với Đại tá Quang và Đại tá Luật.



    12.3.1975: Quân Đoàn 2 Tiếp Cứu


    * Ngày 12/3/1975: Quân đoàn 2 tiếp cứu Ban Mê Thuột.
    -Ngày 12 tháng 3/1975, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2, quyết định tổ chức cuộc đổ quân tăng viện để tái chiếm Ban Mê Thuột. Theo kế hoạch của bộ Tư lệnh Quân đoàn 2, lực lượng chính của cuộc phản công là Trung đoàn 45 Bộ binh (BB) và 1 tiểu đoàn của Trung đoàn 44 thuộc Sư đoàn 23 BB đang pḥng ngự tại Pleiku. Về phía Không quân VNCH tham gia cuộc đổ quân, ngoài các phi đoàn của Sư đoàn 6 Không quân mà bộ tư lệnh đặt tại Pleiku, c̣n có các phi đoàn trực thăng của Sư đoàn 1 Không quân (Đà Nẵng) và Sư đoàn 4 Không quân (Cần Thơ), với hơn 100 trực thăng đủ loại kể cả các loại Chinook.
    -Theo lịch tŕnh đổ quân, hai tiểu đoàn của Trung đoàn 45 BB và đại đội Trinh sát Sư đoàn 23 BB được trực thăng vận trước tiên. Tiếp đến, các Chinook móc theo các khẩu đại bác 105 thả xuống khu vực đổ quân của lực lượng đặc nhiệm tại quận lỵ Phước An.
    -1 giờ 10 trưa ngày 12 tháng 3/1975, Thiếu tướng Phú rời bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 đến Ban Mê Thuột trên một chiếc phi cơ nhỏ để trực tiếp điều quân. Tới Ban Mê Thuột vào khoảng 2 giờ chiều, Tướng Phú đă liên lạc với đơn vị trưởng của các đơn vị đang chiến đấu ở quanh Ban Mê Thuột như trung đoàn 53 BB ở phi trường Phụng Dực, Liên đoàn 21 Biệt Động Quân, các tiểu đoàn Địa phương quân Darlac. Cùng nhảy theo cánh quân cứu viện c̣n có Đại tá Trịnh Tiếu, trưởng pḥng 2 Quân đoàn 2, được Tướng Phú chỉ định giữ chức vụ Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Darlac thay thế Đại tá Nguyễn Trọng Luật được ghi nhận là mất tích. Cùng đi theo Đại tá Tiếu, c̣n có bộ chỉ huy lưu động của Tiểu khu Darlac vừa thành lập.
    -Chiều 12/3, sau khi hoàn tất việc điều động đợt đổ quân đầu tiên, Thiếu tướng Phú giao trách nhiệm chỉ huy trực tiếp các cánh quân tái chiếm Ban Mê Thuột cho Chuẩn tướng Lê Trung Tường, Tư lệnh Sư đoàn 23 BB, rồi ông trở lại Pleiku.
    Cũng trong chiều ngày 12 tháng 3/1975, cùng lúc gia tăng áp lực tại chiến trường Ban Mê Thuột, th́ tại -Pleiku, từ những đỉnh cao phía Tây Bắc của thị xă này, Cộng quân đă pháo kích bằng hỏa tiễn vào phi trường quân sự Cù Hanh và bộ Tư lệnh Quân đoàn 2. Một binh sĩ tài xế đang ở gần cột cờ Bộ Tư lệnh đă trúng đạn pháo kích và bị tử thương.



    13-3-75: Di Tản Miền Trung

    Những sự kiện chiến sự xảy ra từ ngày 10-3-1975, ngày Cộng quân mở cuộc tấn công cường tập vào Ban Mê Thuột, đến ngày 30 tháng 4/1975, ngày Việt Nam Cộng Ḥa bị bức tử.
    * Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu họp Hội đồng An ninh Quốc gia duyệt xét kế hoạch bỏ 6 tỉnh miền Trung, từ Quảng Trị đến B́nh Định.
    -Ngày 13 tháng Ba năm 1975, Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân đoàn 1/Quân khu 1 được gọi về Sài G̣n để tham dự cuộc họp mật tại Dinh Độc Lập do Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu chủ tọa. Cuộc họp hôm ấy có sự hiện diện các nhân vật cao cấp nhất trong chính phủ gồm có Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc pḥng: Đại tướng Trần Thiện Khiêm; Tổng tham mưu trưởng QL.VNCH: Đại tướng Cao Văn Viên; Phụ tá An ninh và Quân sự của Tổng thống: Trung tướng Đặng Văn Quang.
    -Tại cuộc họp, Trung tướng Trưởng tŕnh bày trước Hội đồng An Ninh Quốc gia về t́nh h́nh tại chiến trường Quân khu 1, sau đó Tổng thống nói chuyện với mọi người bằng một vẻ nghiêm trọng. Tổng thống phân tích t́nh h́nh chung và nêu ra những khó khăn mà chính phủ đang gặp phải khi thiếu quân viện. Tổng thống nh́n nhận rằng không hy vọng Không quân Hoa Kỳ sẽ can thiệp trong trường hợp Việt Nam Cộng Ḥa bị tổng tấn công. Tổng thống thông cảm với những khó khăn thiếu thốn của các tư lệnh Quân khu. Cho đến giờ phút đó, Tổng thống nh́n nhận rằng dù ông có ra lệnh đi nữa th́ lệnh đó khó có thể thi hành được.
    -Theo lời kể của Đại tướng Cao Văn Viên, th́ trong buổi họp, Tổng thống nói rằng trước t́nh h́nh như vậy th́ chỉ c̣n một cách duy nhất là thay đổi chiến lược để giữ vững những nơi hiểm yếu có nhiều tài nguyên quốc gia. Tại Quân khu 1 (có 5 tỉnh: Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngăi, 2ø thành phố Huế, Đà Nẵng), khu vực trù phú cần phải giữ là Đà Nẵng.
    -Chi tiết mà Đại tướng Viên kể lại ở trên khác với nội dung lời kể của Trung tướng Trưởng, theo đó, trong buổi họp ngày 13/3/1955, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh cho Tướng Trưởng lập kế hoạch rút toàn bộ lực lượng VNCH khỏi Vùng 1 (Quân khu 1) và rút về tỉnh Phú Yên, VNCH thu gọn từ tỉnh Phú Yên đến Hà Tiên. Như thế lănh thổ VNCH bị mất 6 tỉnh miền Trung, từ Quảng Trị đến B́nh Định.



    14-3-1975: Họp Ở Cam Ranh

    *Hội đồng An ninh Quốc gia họp tại Cam Ranh
    -Trưa ngày 14 tháng 3/ 1975, trong khi Sư đoàn 23 BB đang khai triển các cánh quân để tiến về Ban Mê Thuột, tại Cam Ranh, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, Đại tướng Cao Văn Viên, Trung tướng Đặng Văn Quang-phụ tá An ninh Quân sự của Tổng thống, đă họp mật với Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2-Quân khu 2.
    Tại cuộc họp, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh cho Thiếu tướng Phạm Văn Phú triệt thoái toàn bộ lực lượng của Quân đoàn 2/Quân khu 2 khỏi Cao nguyên, di chuyển về các tỉnh duyên hải miền Trung thuộc lănh thổ Quân khu 2. Về lộ tŕnh rút quân, vị Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2 đă tŕnh bày với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu về t́nh h́nh các quốc lộ chính tại Cao nguyên Cao nguyên đă bị Cộng quân kiểm soát, chỉ c̣n liên tỉnh lộ 7B, con đường đá từ Quốc lộ 14 rẽ ra phía nam cách thị xă Pleiku chừng 32 km, chạy theo hướng Đông Nam, xuyên qua tỉnh Phú Bổn về Phú Yên). Đại tướng Cao Văn Viên không đồng ư kế hoạch chọn liên tỉnh lộ 7B, nhưng cuối cùng Đại tướng Viên cũng không t́m ra một lộ tŕnh nào khác, nên kế hoạch của Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2 được chấp thuận.
    *Trung tướng Ngô Quang Trưởng tái phối trí lực lượng bảo vệ Huế
    Cũng trong ngày 14/3/1975, sau khi nhận chỉ thị của Tổng thống về kế hoạch tái phối trí quân, dù t́nh h́nh quân sự tại Quân khu 1 trở nên rất đáng ngại, thế nhưng Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân đoàn 1/Quân khu 1 vẫn muốn giữ Huế và một số vị trí trọng yếu tại Quân khu 1. Sau khi suy nghĩ và phân tích t́nh h́nh, tướng Trưởng đă gọi điện thoại theo đường dây đặc biệt tŕnh bày ư kiến với đại tướng Cao Văn Viên nhờ xin với Tổng thống cho ông được tận dụng mọi cách để giữ Huế và Vùng 1. Cuối cùng Tổng Thống chấp thuận.
    Được sự đồng ư của Tổng thống, Trung tướng Trưởng bay ra Huế họp với Trung tướng Lâm Quang Thi, tư lệnh phó Quân đoàn 1, chỉ huy bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn, về kế hoạch pḥng thủ Huế. Tướng Trưởng ra lệnh phải giữ Huế thật vững vàng.



    14.3.1975 Di Tản Cao Nguyên

    14-3-1975: Tổng Thống Thiệu Quyết Định Bỏ Cao Nguyên

    Loạt bài này được biên soạn dựa theo các tài liệu sau đây: hồi kư của cựu Đại tướng Cao Văn Viên do Trung tâm Quân sử Lục quân Hoa Kỳ phổ biến; hồi kư của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn, Tổng trưởng Quốc pḥng cuối cùng của Việt Nam Cộng Ḥa; hồi kư của Trung tướng Ngô Quang Trưởng, một số bài viết của các nhân chứng, từng giữ các chức vụ trọng yếu trong Chính phủ và Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, và tài liệu riêng của Việt Báo.
    *Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra quân lệnh triệt thoái lực lượng VNCH khỏi Cao nguyên
    Sau cuộc họp với Hội đồng AnNinh Quốc gia tại Dinh Độc Lập ngày 13/3/1975 có sự tham dự củaTrung tướng Ngô Quang Trưởng-Tư lệnh Quân đoàn 1- để bàn về kếhoạch tái phối trí lực lượng trong t́nh h́nh mới, sáng ngày 14tháng 3/1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cùng Thủ tướng TrầnThiện Khiêm, Đại tướng Cao Văn Viên, Trung tướng Đặng Văn Quang,Phụ tá an ninh của Tổng thống đến Cam Ranh để họp với Thiếutướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2& Quân khu 2. Tại cuộc họp kéo dài gần 2 giờ, Tổnthống Thiệu ra lệnh cho Tướng Phú phảirút toàn bộ lực lượng Quân đoàn 2 tại hai tỉnh Pleiku và Kontumvề khu vực duyên hải miền Trung (Phú Yên và Khánh Ḥa) để táiphối trí lực lượng phản công chiếm lại Ban Mê Thuột.
    Khi được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu hỏi nên rút quân theo trụclộ nào, Tướng Phú đă tŕnh bày với Tổng thống Thiệu rằng các quốclộ chính nối trong khu vực Cao nguyên đă bị Cộng quân cắt đứt,chỉ c̣n liên tỉnh lộ 7B. Đây là con đường đá từ Quốc lộ 14 rẽ raphía nam cách thị xă Pleiku chừng 32 km, chạy theo hướng đông nam, xuyên qua Hậu Bổn về Tuy Ḥa (tỉnh lỵ Phú Yên). Kế hoạchchọn liên tỉnh lộ 7B đă không được sự đồng ư của Đại tướng Viên v́ ông cho rằng đưa một quân đoàn di chuyển trên một đoạn đườngdài hơn 250 cây số mà không rơ t́nh h́nh an ninh là một việc “quásức liều lĩnh”, tuy nhiên cuối cùng Tướng Viên cũng không t́m ra được một con đường nào khác nên kế hoạch của tướng Phú đă đượcchấp thuận.
    * Một chi tiết đặc biệt về lệnh triệt thoái Cao nguyên: Chủ lưc quân rút, Địa phương quân ở lại…
    Trên đường trở lại Pleiku, Tướng Phú đă tâm sự với thiếu tá Phạm Huấn-sĩ quan Báo chí của tư lệnh Quân đoàn 2, là trong buổi họpông đă khẩn khoản xin Tổng thống Thiệu cho ông được tử thủ giữPleiku, nhưng đề nghị của ông đă không được chấp thuận. Một chitiết đặc biệt đă được Tướng Phú kể lại cho Thiếu tá Phạm Huấn vớinội dung như sau: Trong cuộc họp, Tổng thống Thiệu căn dặn tướngPhú rằng lệnh triệt thoái là tối mật, từ cấp tỉnh trưởng/tiểu khutrưởng trở xuống không được biết, có nghĩa là các lực lượng Địaphương quân vẫn ở lại chiến đấu, vẫn tiếp tục làm việc với tỉnhtrưởng, quận trưởng. Chỉ có toàn bộ chủ lực quân gồm Bộ binh,Pháo binh, Thiết giáp, Công binh, Không quân là phải triệt thoái.
    Trước quyết định của Tổng thống Thiệu, Tướng Phú đă lo lắng vàhỏi lại: Thưa Tổng thống, nếu Chủ lực quân, Thiết giáp, Pháo binhrút đi, làm sao Địa phương quân chống đỡ nỗi khi Cộng quân đánh?Hơn 100 ngàn dân hai tỉnh Pleiku, Kontum, và gia đ́nh anh em binhsĩ? Tổng thống Thiệu trả lời: Th́ cho thằng Cộng sản số dân dó.Với t́nh h́nh nặng nề hiện tại, ḿnh phải lo pḥng thủ, giữ được những vùng dân cư đông đúc…mầu mỡ hơn là bị kẹt quá nhiều quâtrên vùng Cao nguyên! (Cuộc triệt thoái Cao nguyên, tác giả PhạmHuấn, xuất bản 1987, ḍng thứ 1 đến ḍng thứ 6, trang 86).
    Về phần Đại tướng Cao Văn Viên, khi về đến Sài G̣n, ông đă chomời Chuẩn tướng Trần Đ́nh Thọ, Trưởng pḥng 3 bộ Tổng Tham Mưu(TTM) và báo cho vị trưởng pḥng này về các chi tiết đă được bàntrong buổi họp tại Cam Ranh. Tham mưu trưởng Bộ TTM là trungtướng Đồng Văn Khuyên lúc ấy đang công tác ở ngoại quốc. Cuộchành quân cũng được giữ bí mật tối đa do chính Tổng thống ra lệnh trực tiếp cho viên tư lệnh chiến trường nên Bộ TTM không đượcquyền ra lệnh làm ǵ hết, kể cả việc tái phối trí các đơn vịKhông quân và lực lượng tăng phái cho Quân đoàn 2 tại Pleku và Kontum.
    Vào thời gian này, tại vùng Kontum và Pleiku chỉ c̣n 1 tiểu đoàncủa Trung đoàn 44 thuộc Sư đoàn 23 BB, 5 Liên đoàn Biệt Động QuânQK 2, thiết đoàn 21 M 48, hai tiểu đoàn pháo binh 175 mm và cácđơn vị yểm trợ như Liên đoàn 20 Công Binh Chiến Đấu, Liên đoàn231 Yểm trợ Tiếp Vận, kho đạn của Không quân và Lục quân vớikhoảng 20 ngàn tấn đạn, kho tồn trữ nhiên liệu với trữ lượng dùngtrong 45 ngày và nhu yếu phẩm và thực phẩm đủ dùng trong haitháng. Nhiệm vụ của Tướng Phú là làm sao đưa hết được các đơn vịvà tiếp phẩm này về Nha Trang và để từ đó mở cuộc phản công táichiếm lại Ban Mê Thuột.
    * Cuộc họp của Thiếu tướng Phú về kế hoạch rút quân:
    Theo lời ban tham mưu của Tướng Phú kể lại, vào lúc 5 giờ 10chiều ngày 14 tháng 3/1975, khi vừa từ Cam Ranh trở về, Tướng Phú triệu tập một cuộc họp khẩn cấp tại chiếc bunker của ông, vớithành phần tham dự gồm có: Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm, Phụ tá Hànhquân; Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, Tư lệnh Sư đoàn 6 Không quân,Đại tá Phạm Duy Tất, Chỉ huy trưởng Biệt động quân Quân khu 1(gồm 5 liên đoàn Biệt động quân), Đại tá Lê Khắc Lư, Tham mưu trưởng Quân đoàn 2 & Quân khu 2. Mở đầu cuộc họp đặc biệt này,tướng Phú đă thừa lệnh Tổng thống VNCH gắn cấp Chuẩn tướng choDại tá Phạm Duy Tất. Ngay sau đó, ông tŕnh bày tóm tắt nội dungcuộc họp tại Cam Ranh và chỉ định chuẩn tướng Trần Văn Cẩm và tânChuẩn tướng Phạm Duy Tất chỉ huy tổng quát cuộc rút quân khỏi Cao nguyên.
    Kế hoạch cuộc chuyển quân được phổ biến vắn tắt: Tướng Phú và Bộ tư lệnh nhẹ sẽ đi Nha Trang trước bằng trực thăng. Chuẩn tướngTất chỉ huy toàn bộ các đơn vị tham gia cuộc triệt thoái từKontum và Pleiku về Tuy Ḥa theo tỉnh lộ 7 B. Đại tá Lê Khắc Lưđược giao trách nhiệm điều động bộ tham mưu quân đoàn và các đơnvị yểm trợ. Toàn bộ cuộc hành quân đặt dưới sự giám sát của chuẩntướng Trần Văn Cẩm.
    Theo kế hoạch do Tướng Phú đề ra, Liên đoàn 20 Công binh chiến đấu sẽ cho một đơn vị đi đầu để làm thành phần tiên phong cónhiệm vụ sửa chữa cầu cống, đường sá khi cần thiết. Các đơn vị thiết giáp được giao nhiệm vụ yểm trợ đoàn xe vận tải. Các đơn vị Địa phương quân và Nghĩa quân trong khu vực đoàn quân đi qua chịu trách nhiệm an ninh trục lộ. Đi cuối cùng là hai Liên đoàn Biệtđộng quân và 1 đơn vị thiết giáp. Các đơn vị cuối cùng này sẽ rờiPleiku vào ngày 19/3/1975.
    Do cuộc chuyển quân rầm rộ với nhiều đơn vị và hàng trăm xe vậntải cùng nhiều quân cụ nặng nên thời gian chuẩn bị phải mất hết 4ngày liên tiếp, bắt đầu từ ngày 16 tháng 3/1975.
    Sau khi họp với các đơn vị trưởng, sáng ngày 15 tháng 3, Thiếutướng Phú cùng với một số sĩ quan được chọn lựa trong ban thanmưu bay về Nha Trang để tái tổ chức lại bộ tư lệnh Quân đoàn ở đây. Cũng trong ngày này, Chuẩn tướng Cẩm và vài sĩ quan thân cận bayđi Tuy Ḥa để chuẩn bị đón đoàn quân di chuyển từ Pleiku về. Cũngtrong ngày này, đă có một số quân xa bắt đầu rời Pleiku theo cáctoán nhỏ. Như đă tŕnh bày ở trên, từ khi có cuộc tái phối tríđược nêu ra trong cuộc họp cho đến khi bắt đầu thực hiện, tất cảđều tiến hành một cách bí mật, không một lời nào được tiết lộ, kểcả không cho các tỉnh trưởng của hai tỉnh Kontum và Pleiku biết.
    Tỉnh trưởng Pleiku nhờ ở gần bộ Tư lệnh nên được biết trước, c̣ntỉnh trưởng Kontum th́ đến phút chót mới biết được và ông đă tháptùng theo đoàn quân, nhưng giữa đường th́ bị CQ bắn chết.
    Ngày 16 tháng 3, đoàn xe đầu tiên của Quân đoàn 2 khởi hành rakhỏi thị xă Pleiku như đă trù liệu. Nhưng khi chiếc xe cuối cùngvừa rời khỏi bến th́ tin này được dân chúng biết. Vậy là mọi người vội vàng bỏ thành phố bằng bất cứ phương tiện nào sẵn có,ngay cả chạy bộ, và mang theo bất cứ thứ ǵ có thể mang theođược. Sau đó đoàn người từ Kontum cũng nhập vào thành một đoànngười cả quân lẫn dân kéo dài dọc theo liên tỉnh lộ 7B đầy nguy hiểm. Cuộc chuyển quân của Quân đoàn 2 khỏi Pleiku bắt đầu…



    15-3-1975: Tử Chiến Ở Quảng Nam

    *Cộng quân tấn công nhiều khu vực tại phiá Tây tỉnh Quảng Nam
    -Ngày 15-3-1975, Cộng quân mở các cuộc tấn công vào một số vị trí đóng quân của lực lượng Địa phương quân, Nghiă quân trên địa bàn các quận Duy Xuyên, Quế Sơn, Đức Dục, Đại Lộc của tỉnh Quảng Nam. Kịch chiến đă diễn ra tại khu vực G̣ Nổi, cầu Bà Rén và Nam Phước. Tại G̣ Nổi, lực lượng Địa phương quân đă đẩy lùi cuộc tấn công của Cộng quân, loại ngoài ṿng chiến hơn 20 Việt Cộng, bắt 2 tù binh, thu gần 20 cây súng.
    -Cũng trong ngày 15/3/1975, Liên đoàn 915 Địa phương quân Quảng Nam với sự yểm trợ của 1 chi đoàn thiết giáp thuộc Thiết đoàn 11 Kỵ binh/Sư đoàn 3 Bộ binh, đă giải tỏa áp lực của Cộng quân tại Bà Rén, và một đoạn của Quốc lộ 1 ở phía Nam tỉnh Quảng Nam.
    * Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 dời về Nha Trang
    -Sáng ngày 15- 3-1975, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2 cùng với một số sĩ quan trưởng pḥng và sĩ quan tham mưu của đă bay về Nha Trang để tái tổ chức Bộ Tư lệnh Quân đoàn2/Quân khu 2 tại đây.
    -Cũng trong ngày 15-3-1975, Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm, Phụ tá hành quân Tư lệnh Quân đoàn 2 và vài sĩ quan tham mưu bay đi Tuy Ḥa(tỉnh lỵ tỉnh Phú Yên) để chuẩn bị đón đoàn quân của Quân đoàn 2 di chuyển từ Pleiku về. Cũng trong ngày này, một số quân xa bắt đầu rời Pleiku theo các toán nhỏ. Do kế hoạch triệt thoái tiến hành một cách bí mật theo lệnh của Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu, nên không một thông tin nào được tiết lộ, kể cả không cho các tỉnh trưởng của hai tỉnh Kontum và Pleiku biết.Tỉnh trưởng/Tiểu khu trưởng tỉnh Pleiku nhờ ở gần bộ Tư lệnh nên được biết trước, c̣n vị Tỉnh trưởng/Tiểu khu trưởng Kontum, theo tài liệu của Đại tướng Cao Văn Viên, viết cho Trung tâm Quân sử Lục quân Hoa Kỳ, th́ đến phút chót mới biết được và ông đă tháp tùng theo đoàn quân, nhưng giữa đường th́ bị CQ bắn chết.
    Last edited by alamit; 04-02-2013 at 08:54 PM.

  8. #28
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Những trận chiến cuối cùng QLVNCH
    P2


    16.3.1975: Mặt Trận Quảng Tín

    Cộng quân mở nhiều cuộc tấn công tại Tân Nam và Tây Bắc tỉnh Quảng Tín
    -Trong ngày 16/3/1975, tại miền Trung, lực lượng Cộng quân tại tỉnh Quảng Tín đă tung quân tấn công cường tập khu vực B́nh Tú, thuộc quận Thăng B́nh và nhiều vị trí đóng quân của Địa phương quân tại khu vực Tây Nam và Tây Bắc của tỉnh Quảng Tín. Bộ Tư lệnh Sư đoàn 3 Bộ binh(trách nhiệm chiến trường Quảng Nam- Đà Nẵng; tùy theo t́nh h́nh, đảm trách thêm khu vực phía Nam tỉnh Quảng Tín), đă điều động Tiểu đoàn 1 của Trung đoàn 2 Bộ binh tăng cường 1 chi đoàn của Thiết đoàn 11 Kỵ Binh giải tỏa áp lực Cộng quân. (Trước đó, Cộng quân đă tràn chiếm các quận Tiên Phước, Hậu Đức, liên đoàn 916 Địa phương quân của tỉnh Quảng Tín bị tổn thất nặng sau những trận kịch chiến với Cộng quân).

    * Đoàn quân đầu tiên của Quân đoàn 2 rút khỏi Pleiku

    Cũng trong ngày 16 tháng 3, đoàn xe đầu tiên của Quân đoàn 2 khởi hành rakhỏi thị xă Pleiku như đă trù liệu. Nhưng khi chiếc xe cuối cùngvừa rời khỏi bến th́ tin này được dân chúng biết. Mọi người vội vàng bỏ thành phố bằng bất cứ phương tiện nào sẵn có,ngay cả chạy bộ, và mang theo bất cứ thứ ǵ có thể mang theođược. Sau đó đoàn người từ Kontum cũng nhập vào thành một đoànngười cả quân lẫn dân kéo dài dọc theo liên tỉnh lộ 7B đầy nguyhiểm. Cuộc chuyển quân của Quân đoàn 2 khỏi Pleiku bắt đầu…
    -Theo lịch tŕnh, ngày 16 tháng 3/1975, một số đơn vị tiếp vận, Pháo binh, Công binh của Quân đoàn 2 di chuyển trên 200 quân xa, với sự yểm trợ của một đơn vị Thiết Giáp, đă khởi hành ra khỏi thị xăPleiku, đây là lực lượng đi đầu của của đoàn quân triệt thoái.



    16.3.1975: Quân Đoàn 2 Triệt Thoái

    * Ngày 16/3/1975: Chuẩn tướng Phạm Duy Tất tổng chỉ huy cuộc triệt thoái của Quân đoàn 2 khỏi Cao nguyên.
    Ngày 16/3/1975, thi hành quân lệnh của Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu đă ban ra tại cuộc họp lịch sử ở Cam Ranh ngày 14-3-1975, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2, đă cho lệnh triệt thoái toàn bộ lực lượng Quân đoàn 2 khỏi 2 tỉnh Pleiku và Kontum của Cao nguyên Trung phần.
    Theo phân nhiệm của Thiếu tướng Phạm Văn Phú, tân Chuẩn tướng Phạm Duy Tất, chỉ huy trưởng Biệt động quân Quân khu 2, được ủy nhiệm tổng chỉ huy toàn bộ các đơn vị triệt thoái.
    (Trước đó, vào sáng ngày 15 tháng 3, Thiếu tướng Phú cùng với một số sĩ quan trong Bộ Tư lệnh bay về Nha Trang để tái tổ chức lại Bộ tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2 ở đây. Cũng trong ngày này, Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm, Phụ tá Hành quân Tư lệnh Quân đoàn 2 và vài sĩ quan thân cận bay đi Tuy Ḥa để chuẩn bị đón đoàn quân triệt thoái từ Pleiku và Kontum về) .
    Theo lịch tŕnh triệt thoái khỏi Cao nguyên, ngày 16 tháng 3/1975, một số đơn vị tiếp vận, Pháo binh,Công binh của Quân đoàn 2 di chuyển trên 200 quân xa, với sự yểmtrợ của một đơn vị Thiết Giáp, đă khởi hành ra khỏi thị xăPleiku, đây là lực lượng đi đầu của của đoàn quân triệt thoái.
    Sau thành phần đi đầu, lịch triệt thoái của các ngày kế tiếp như sau: vào ngày 17-3. các đơn vị Công binh, Pháo binh c̣n lại cùng Quân y với trên 250 xe sẽ di chuyển vào ngày 17/3/1975 và cũng do Thiết giáp tháp tùng bảo vệ. Ngày 18/3/1975: Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2, đơn vị Quân cảnh, một phần của Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh, cùng khoảng 200 quân nhân của Trung đoàn 44 Bộ binh triệt thoái, và cũng được Thiết giáp đi theo bảo vệ. Ngày 19/3/1975: lực lượng đoạn hậu gồm có Biệt động quân và đơn vị thiết giáp cuối cùng.
    Theo lộ tŕnh, đoàn quân sẽ từ Pleiku di chuyển về phía Nam củaQuốc lộ 14 để đến giao điểm QL 14 và Liên tỉnh lộ 7 cách thị xăPleiku khoảng 33 km đường chim bay về phía Nam, từ giao lộ này đoàn quân sẽ tiếp tục di chuyển dọc theo liên tỉnh lộ 7 B vềhướng Đông Nam, xuyên qua tỉnh lỵ Phú Bổn để về Tuy Ḥa.
    * Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên phân tích về liên tỉnh lộ 7B và cuộc rút quân của Quân đoàn 2.
    Trong phần tŕnh bày về cuộc họp tại Cam Ranh, VB đă lược tŕnh về quyết định của Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu ra quân lệnh cho Thiếu tướng Phạm Văn Phú triệt thoái Quân đoàn 2 khỏi Cao nguyên. Sau đây là những ghi nhận chi tiết về quân lệnh này.
    Tại cuộc họp Cam Ranh, khi nghe Thiếu tướng Phú chọn Liên tỉnh lộ 7B làm trục lộ rút quân, Đại tướng Cao Văn Viên không đồng ư, vị Tổng tham mưu trưởng Quân lực VNCH cho rằng đưa một quân đoàn di chuyển trên một đoạn đường dài hơn 250 cây số mà không nắm rơ t́nh h́nh an ninh lộ tŕnh là “quá sức liều lĩnh”, tuy nhiên cuối cùng Đại Tướng Viên cũng không t́m ra được một trục lộ nên kế hoạch của Thiếu tướng Phú đă được Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu và Hội đồng Quốc gia chấp thuận.
    Nhận định về địa h́nh liên tỉnh lộ 7 B, Đại tướng Cao Văn Viên phân tích rằng ngoài trừ khúc từ Quốc lộ 14 đi Hậu Bổn c̣n dùngđược, đoạn c̣n lại không biết t́nh h́nh giao thông như thế nào.Tuy nhiên, có một điều mà Quân đoàn 2 biết trước là cầu bắc quasông Ba về phía nam Củng Sơn đă bị phá hủy hoàn toàn, không thểsửa chữa được, và đoạn đường chót đến phía tây Tuy Ḥa th́ nhữngvào năm trước 1973, lực lượng Đại Hàn hoạt động tại đây đă gài ḿn dày dặc.
    Trong khi Đại tướng Viên lo ngại về lộ tŕnh rút quân, th́ Thiếu tướng Phú lại tin tưởng về kế hoạch chuyển quân theo Liên tỉnh lộ 7B. Đây là con đường đá từ quốc lộ 14 đi Hậu Bổn (có đèo Cheo Reo) về Tuy Ḥa sát biển. Đường này rất ghồ ghề, đá lởm chởm và bị bỏ lâu không dùng đến. Giải thích về sự chọn lựa này, Thiếu tướng Phú tŕnh bày rằng yếu tố bất ngờ đă khiến ông có dự tính như thế.
    Thiếu tướng Phú chỉ yêu cầu Bộ Tổng tham mưu cung cấp phương tiện cầu nổi để qua sông mà thôi. Với quyền hạn của một Tổng tham mưu trưởng, Đại tướngViên chấp thuận ngay lời yêu cầu của Thiếu tướng Phú.
    Nhận định về quyết định của Tổng thống Thiệu và kế hoạch chuyển quân của Thiếu tướng Phú, Đại tướng Viên cho rằng “đưa một lực lượng cỡ quân đoàn với đầy đủ quân cụ, quân xa và nhiều thứ khác trên một đoạn đường dài hơn 250 cây số qua núi cao và rừng già trên vùng Cao nguyên mà không biết t́nh h́nh an ninh con đường đó ra sao quả là một việc quá sức liều lĩnh. Có tạo được yếu tố bất ngờ haykhông là do khả năng di chuyển nhanh gọn. Nhưng là một người chỉhuy sáng suốt th́ lúc nào cũng phải có sự cẩn trọng trước t́nh trạng là địch đang có mặt hầu như cùng khắp tại khu vực đó”.
    Cũng trong buổi họp tại Cam Ranh, Đại tướng Viên đă nhắc nhở Thiếu tướng Phú về những khó khăn và nguy hiểm sắp đến, cũng như biện pháp an ninh cần chuẩn bị. Đại tướng Viên cũng đă đề cập đến sự thất bại của quân Pháp khi muốn rút quân từ Lạng Sơn về đồng bằng trong năm 1947. Ông cũng nhắc đến hai cuộc chuyển quân của hai binh đoàn Pháp trước năm 1954, theo đó một binh đoàn từ Thất Khê lên hướng Bắc và một binh đoàn từ Cao Bằng di chuyển về hướng Nam, tất cả đều bị đánh tan nát tại chân núi xung quanh Đông Khê, dọc theoQuốc lộ Thuộc Địa số 4. Về địa thế và con đường mà Thiếu tướngPhú chọn để di chuyển quân đoàn 2 th́ vào tháng 6/ 1954, Lựclượng Cơ động 100 nổi tiếng của quân đội Liên Hiệp Pháp tại ĐôngDương đă bị thảm sát trên Quốc lộ 19 gần An Khê và số sống sót c̣n lại cũng bị tiêu diệt tại Đeo Chu-Drek trên Quốc lộ 14. Theo Đại tướng Viên, đó là “những bài học máu xương và thảm khốc nhất mà bất cứ vị chỉ huy nào cũng phải biết rơ v́ địa thế hiểm trở củavùng Cao nguyên là vậy”.
    Về t́nh h́nh Ban Mê Thuột sau khi thất thủ vào ngày 11/3/1975, Đại tướng Viên cho biết thêm: tại cuộc họp ở Cam Ranh, Tổng thống Thiệu chỉ hỏi một câu quan trọng nhất liên quan đến số phận của Ban Mê Thuột, đó là Thiếu tướng Phú có thể chiếm lại Ban Mê Thuột không. Những người tham dự đều biết trước là Thiếu tướng Phú không khẳng định được điều này nên không có câu trả lời dứt khoát. Thiếu tướng Phú chỉ yêu cầu tăng thêm viện binh. Quay sang Đại tướng Viên, Tổng thống Thiệu hỏi xem c̣n lực lượng nào có thể tập trung đưa lên giải vây không. Hỏi vậy nhưng chắc chắn ông biết rơ câu trả lời. Đại tướng Viên cho biết đơn vị cuối cùng là Liên đoàn 7 Biệt Động Quân đă được phái lên Vùng 2 theo yêu cầu của Thiếu tướng Phú. Lực lượng chủ chốt là Sư đoàn Nhảy Dù và Sư đoàn Thủy quân lục chiến th́ đều ở Quân khu 1 từ năm 1972.
    Theo lời Đại tướng Viên th́ vào giờ phút nghiêm trọng như vậy mà Bộ Tổng Tham Mưu không thể nào tăng viện cho Quân khu 2 được. Tổng thống Thiệu hỏi như vậy là để cho mọi người cùng hiểu thực trạng của quân đội như thế nào, và biết được bước kế tiếp ông phải làm ǵ.Khi cuộc họp chấm dứt, th́ Tướng Phú xin riêng với Tổng thống Thiệu bằng một giọng khẩn khoản rằng ông xin Tổng thống thăng cấp chuẩn tướng cho Đại tá Phạm Duy Tất, Chỉ huy trưởng Biệt động quân Quân khu 2. Kể lại sự việc này, Tướng Cao Viên ghi lại như sau: “Tôi không quen thân với Đại tá Tất nhưng được nghe ông là người có khả năng, nhưng làm tư lệnh chiến trường th́ không có bằng chứng nào chứng minh ông ta có khả năng. Tôi liền phản đối ngay và nói rằng khi nào tái phối trí xong rồi mới nói đến. Tổng thống Thiệu tỏ ra do dự nhưng thấy tôi nói có lư nên không đồng ư việc thăng cấp. Thế nhưng, Thiếu tướng Phú khẩn khoản xin cho bằng được. Cuối cùng Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cũng đồng ư thăng cấp Chuẩn tướng cho Đại tá Phạm Duy Tất.



    25.3.1975: Quân Khu 1 Rút Khỏi Huế

    Lực Lượng Quân Khu 1 Rút Khỏi Huế
    * Diễn tiến về kế hoạch rút quân khỏi Huế ngày 25 tháng 3/1975.
    Theo hồi kư của Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH, vào ngày 25 tháng 3/1975, tất cả các lực lượng của Quân đoàn 1/Quân khu 1 đều tập trung tại ba địa điểm: Đà Nẵng (gồm cả Hội An), phiá Bắc thành phố Huế và phiá Nam Chu Lai. Nhận định về cuộc rút quân của Quân đoàn 1/Quân khu 1, Đại tướng Viên ghi nhận rằng “hành tŕnh cuộc rút về ba địa điểm này vô cùng gian khổ và đắt giá. Phần lớn binh sĩ đều ră rời. Đă bao lâu nay, họ chiến đấu hết trận này đến trận khác, hết năm này đến năm khác, nhưng chưa bao giờ họ cảm thấy nản ḷng bằng giờ phút ấy. Hy vọng có bàn tay nào đó giúp đỡ để họ đánh chiếm lại những vùng đất bị lọt vào tay địch, để đủ sức đương cự với kẻ thù nay đă tan biến như chuyện đời xưa.”
    Cũng theo ghi nhận của Đại tướng Cao Văn Viên, trong giờ phút nản ḷng đó, th́ một bức điện khác cũng của Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu gửi đi cho Bộ Tư lệnh Quân đoàn 1/Quân khu 1 , trong đó, Tổng thống chỉ thị lực lượng tại 3 nơi tập trung này phải rút về Đà Nẵng để tổ chức pḥng thủ bảo vệ thành phố trọng yếu này. Nhận được chỉ thị của Tổng thống, Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân đoàn 1/Quân khu 1 ra lệnh cho Sư đoàn 1 Bộ binh và các đơn vị khác tại Huế phải rút về Đà Nẵng. Cùng lúc, Trung tướng Trưởng cho Sư đoàn 22 Bộ binh cùng với lực lượng Tiểu khu Quảng Ngăi, rút về đảo Ré, nằm ngoài khơi cách Chu Lai chừng 20 dặm.
    Tại Huế, các đơn vị của Sư đoàn 1 Bộ binh pḥng ngự ở phía Bắc và khu vực cận sơn ở phía Đông thành phố Huế đă được lệnh rời bỏ pḥng tuyến và chuyển quân về gần Huế để cùng với Bộ Tư lệnh và các đơn vị yểm trợ rút quânkhỏi chiến trường Trị Thiên. Trong khi đó, các tiểu đoàn Bộ binhvà Biệt động quân đang án ngữ pḥng tuyến dọc trên Quốc lộ 1 được lệnh di chuyển về bờ biển và tập trung tại các điểm hẹn để tàu Hải quân vào đón.
    Theo kế hoạch tổng quát, Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 1 doTrung tướng Lâm Quang Thi chỉ huy sẽ chịu trách nhiệm điều động và kiểm soát cuộc rút quân này. Về phương tiện vận chuyển, Bộ Tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải do Phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại làm tư lệnh có nhiệm vụ cung cấp tối đa tàu để chở tất cả các đơn vị thuộc Sư đoàn 1 Bộ binh, Thủy quân Lục chiến, Biệt động quân và lực lượng quân sự của hai tiểu khuThừa Thiên và Quảng Trị vào Đà Nẵng. Bộ chỉ huy Quân vận Quân khu1 sẽ sử dụng LCU để đưa các đơn vị từ bờ ra tàu, Công binh sẽ lập những cầu phao tại các cửa sông để đoàn quân đi qua.

    * Những biến cố xảy ra trong hành tŕnh rút quân.

    Theo ghi nhận của Thiếu tướng Bùi Thế Lân, Tư lệnh Sư đoàn Thủy Quân Lục chiến, do lệnh rút quân quá nhanh, các đơn vị không có thời gian chuẩnbị nên kế hoạch rút quân đă không thể thực hiện đúng theo thờibiểu. Cũng theo lời Thiếu tướng Lân, khi Trung tướng Trưởng quyết định cho rút quân khỏi Thừa Thiên và thành phố Huế th́ Thủy quân Lục chiến có Lữ đoàn 369 đang hoạt động tại chiến trường này. Bộ chỉ huy Lữ đoàn 369 đóng tại căn cứ Tân Mỹ ở cửa Thuận An, 2 tiểu đoàn đang pḥng thủ tại pḥng tuyến An Lỗ, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 17 km, tiểu đoàn thứ ba đang pḥng thủ ở phía Bắc quận Hương Điền và ở phía Nam của sông Mỹ Chánh.
    Trước t́nh h́nh đó, nhiều đơn vị đă tự t́m ra cách rút quân bằng phương tiện tự túc. Một đơn vị Thủy quân Lục chiến rút theo Quốc lộ 1 để vượt qua đèo Hải Vân vào Đà Nẵng đă bị Cộng quân phục kích chận đánh và bị tổn thất nặng. Một số đại đội Thủy quân Lục chiến và bộ chỉ huy Lữ đoàn 369 do Đại tá Lương, Lữ đoàn trưởng chỉ huy, từ Thuận An đi bộ dọc theo bờ biển để về hướng Đà Nẵng.Trên đường đi, đoàn quân đă được LCU và tàu Hải quân vào đón.Trong khi đang đứng trên bờ để điều động quân sĩ lội ra tàu ơ ûngoài biển, Đại tá Lương đă bị thương ở chân.
    Một tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến và một số đơn vị Bộ binh cũng rút theo đường biển nhưng khi đến phá Tam Giang ở cửa Tư Hiền th́ gặp phải con sông chắn ngang quá rộng, trong khi phía bên kiasông đă bị Cộng quân chiếm giữ. Một số chiến binh quyết vượt qua sông nhưng đă bị tử thương do đạn Cộng quân bắn sang. Theo ước tính của Thiếu tướng Bùi Thế Lân, Tư lệnh Thủy quân Lục chiến, th́ chỉ có một số nhỏ chiến binh Thủy Quân vào đến Đà Nẵng, số đông c̣n lại bị tử thương v́ trúng đạn pháo kích hoặc bị kẹt lại ở Huế. Những người bị kẹt lại đă lập thành từng phân đội quyết tử với Cộng quân cho đến khi hết đạn.
    Về cuộc chuyển quân bằng hải vận, Đại tướng Cao Văn Viên cho biết: trong ngày rút quân, biển động mạnh nên tàu Hăi quân đến trễ. Cầu phao tại cửa sông cũng chưa hoàn tất kịp để sử dụng. Đến trưa th́ thủy triều lên cao, không làm sao qua được. Cũng vào thời gian đó, Cộng quân biết có cuộc chuyển quân nên bắt đầu tập trung hỏalực pháo binh bắn dồn dập vào các vị trí ẩn quân tại cửa Tư Hiền cùng tại nhiều điểm hẹn để tàu đến đón. Bộ Tư lệnh Tiền phươngQuân đoàn 1 từ Mang Cá chuyển về đặt tại căn cứ Tân Mỹ cũng bị pháo kích nặng. Nhận định tổng quát về cuộc rút quân khỏi Huế, Đại tướng Cao Văn Viên ghi nhận rằng trong cuộc hành tŕnh triệt thoái này, th́ “kỷ luật không c̣n duy tŕ nổi. Do đó, chỉ có 1/3 số quân nhân về đến Đà Nẵng được. Nhưng khi về đến Đà Nẵng, th́ họ tự động bỏ hàng ngũ đi t́m gia đ́nh và thân nhân. Chỉ c̣n Thủy quân Lục chiến là giữ được trọn vẹn t́nh h́nh.”
    Về đoàn quân của Sư đoàn 1 bộ binh, các tiểu đoàn của các Trung đoàn1,3, 51 và 54 Bộ binh và các đơn vị thống thuộc như Thiết giáp, Pháobinh, cũng lâm vào t́nh cảnh như Lữ đoàn 369 TQLC. Một số được tàu Hải quân chở, một số khác mở đường máu ven theo quốc lộ 1 và hoặc ven theo biển phần lớn đă hy sinh ngay trên đường rút quân

    * Sư đoàn 1 Bộ Binh vĩnh biệt chiến trường Quảng Trị-Thưà Thiên.

    Trở lại với t́nh h́nh Sư đoàn 1 Bộ binh, một trung tá trưởng pḥng của Bộ Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh (không muốn nêu tên) đă kể lại diễn tiến những giờ phút cuối tại Bộ Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh ở trong căn cứ Giạ Lê.Vị trung tá này nói ông không thể nào quên được buổi họp cuối cùng để nghe Chuẩn tướng Nguyễn Văn Điềm, Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh, phổ biến lệnh rút quân. Từ vị tư lệnh phó, tham mưu trưởng cho các sĩ quan trưởng pḥng, trưởng ban tham mưu như chết lặng khi nghe Thiếu tướng Điềm nói: Sư đoàn 1 Bộ binh có lệnh phải rút khỏi Huế. Và chỉ gần một giờ sau, cảnh tượng đó cũng đă diễn ra tại các bộ chỉ huy trung đoàn, tiểu đoàn bộ binh, Thiếtđoàn Kỵ binh và các tiểu đoàn yểm trợ.
    Là một đại đơn vị đầu ḷng của Quân lực VNCH, thành lập ngày 1 tháng 1/1955 trên sự qui hợp 3 Liên đoàn chiến thuật lưu động, Sư đoàn 1 Bộ Binh với danh hiệu đầu tiên là Sư đoàn 1 Dă chiến rồi đổithành Sư đoàn 1 Bộ binh từ 1959, trong hơn 20 năm từ ngày thành lập cho đến ngày được lệnh rút quân khỏi chiến trường Trị Thiên,Sư đoàn 1 Bộ binh là Sư đoàn Bộ binh đầu tiên mà tất cả quân nhân thuộc Sư đoàn được mang giây biểu chương Bảo Quốc Huân Chương màu tam hợp. Suốt 20 năm trấn giữ tuyến đầu của Việt Nam Cộng Ḥa, Sư đoàn 1 Bộ Binh là h́nh ảnh của sự bảo bọc, ǵn giữ Huế trong suốt những năm dài lửa đạn.



    25.3.1975: Trận Chiến Ở Phú Yên

    * Trận chiến bên bờ sông Ba.
    -Ngày 25 tháng 3 là ngày thứ 10 của tiến tŕnh triệt thoái toàn bộ lực lượng Quân đoàn 2 khỏi Cao nguyên. Quảng đường từ Củng Sơn về Tuy Hoà, tỉnh lỵ tỉnh Phú Yên, dài hơn 70m, đoàn xe phải vượt qua sông Ba để tiếp tục cuộc hành tŕnh trên đoạn đường hương lộ 436 bên bờ của sông này, v́ từ đoạn đường này trở đi, liên tỉnh lộ 7 bị các đơn vị Đại Hàn (trước 1973) gài ḿn dày dặc. Từ Tuy Ḥa một cầu phao được đưa lên để đoàn quân vượt sông, nhưng không thể nào đưa lên Củng Sơn v́ giữa đoạn đường từ Tuy Ḥa lên Củng Sơn, Cộng quân chốt chận nhiều đoạn. Cuối cùng th́ nhờ có trực thăng Chinook mang từng phần rời ráp lại. 17 giờ 30, đoàn quân xa đầu tiên về đến Phú Yên sau 10 ngày hành tŕnh.

    *Cộng quân lập chốt chận trên lộ tŕnh triệt thoái của Quân đoàn 2.

    -Vượt sông Ba, quảng đường c̣n lại về tỉnh lỵ tỉnh Phú Yên tuy tương đối gần nhưng v́ Cộng quân lập chốt chận nhiều đoạn . Vào 10 giờ sáng ngày 25/3/1975, lực lượng chiến xa với sự yểm trợ của trực thăng vơ trang đă triệt hạ các chốt chận của Cộng quân trên lộ tŕnh, để mở đường cho các quân xa và các đơn vị bộ chiến di chuyển.
    -10 giờ 30, các phi tuần phản lực của Không quân tiếp tục đánh bom triệt hạ các cụm công sự chiến đấu của Cộng quân trên liên tỉnh lộ 7.

    * Lực lượng VNCH rút khỏi Quảng Ngăi.

    Ngày 25 tháng 3/1975, tất cả các lực lượng của Quân đoàn 1/ Quân khu 1 tại phía Bắc đèo Hải Vân đă tập trung về phía Bắc thành phố Huế. Lực lượng của Sư đoàn 2 Bộ binh và các đơn vị tăng phái, lực lượng Địa phương quân, Nghiă quân Tiểu khu Quảng Ngăi tập trung về phiá Nam Chu Lai để di chuyển ra đảo Ré.

    Last edited by alamit; 04-02-2013 at 08:56 PM.

  9. #29
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Những trận chiến cuối cùng QLVNCH
    P3




    26.3.1975: Kịch Chiến Ở Phú Thứ

    * Lữ đoàn 2 Kỵ binh, Biệt động quân Quân khu 2 kịch chiến với Cộng quân chốt chận tại Phú Thứ, phía Tây thị xă Tuy Ḥa, trên đoạn đường từ Cung Sơn-Tuy Ḥa.
    Ngày 26 tháng 3/1975 là ngày thứ 11 của tiến tŕnh cuộc triệt thoái lực lượng Quân đoàn 2/Quân khu 2 khỏi Cao nguyên. Tính đến ngày này, báo cáo của Bộ Tư lệnh Lữ đoàn 2 Kỵ binh cho biết: toàn bộ chiến xa M48 và M41 đă bịkẹt lại trên lộ tŕnh v́ trúng đạn pháo của địch, riêng tại chặng dừng đầu tiên ở Hậu Bổn (tỉnh lỵ tỉnh Phú Bổn), có 40 chiến xa M48 và M41, 8 chiến xa gắn đại bác 175 ly . Lực lượng chiến xa của Lữ đoàn chỉ c̣n lại 13 thiết vận xa M 113 của 1 chi đoàn . Chi đoàn này đă tách rời đoàn xe bọc qua một con sông nhỏ về đến Tuy Ḥa ngày 25/3/1975, trong khi đó cả đoàn quân và đoàn xe vẫn c̣n bị kẹt lại gần Phú Thứ ( nằm trên đoạn đường từ Cung Sơn về Tuy Ḥa, tỉnh lỵ tỉnh Phú Yên) v́ Cộng quân tổ chức chốt chận.
    Để giải tỏa áp lực của địch quân, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2, ra lệnh cho Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm, phụ tá Hành quân, bay chỉ huy lực lượng Xung kích và các phi đội trực thăng vơ trang nỗ lực tấn công, xạ kích để triệt hạcác chốt chận nhỏ c̣n lại của địch. Tướng Phú cũng ra lệnh cho Chuẩn tướng Phạm Duy Tất-Chỉ huy trưởng Biệt động quân/QK 2 kiêm tổng chỉ huy cuộc triệt thoái điều động 13 Thiết quân vận M 113 trở lại để phối hợp với Biệt động quân “dọn sạch”cụm chốt chận của CQ ở Phú Thứ.
    Các đơn vị của Liên đoàn 7 Biệt động quân đă chiến đấu quyết tử phá vỡ các chốt chận của địch. Với sự yểm trợ của các chiến xa M 113, lực lượng Biệt động quân đă mở nhiều đợt xung phong có hệ thống và dần dà triệt hết chốt chận này đến chốt chận khác của Cộng quân.



    27.3.1975: Trận Chiến Ở B́nh Định

    * Cộng quân tràn ngập Tam Quan, tỉnh B́nh Định
    Vào 0 giờ sáng ngày 27/3/1975, Cộng quân tấn công cường tập ngập pḥng tuyến Tam Quan do 1 đơn vị của Sư đoàn 22 Bộ binh pḥng ngự. Lực lượng Cộng quân với các đơn vị từ Quảng Ngăi tiến vào, phối hợp với trung đoàn 95 và sư đoàn 3 CSBV đă gây áp lực nặng tại vùng phía Bắc của B́nh Định. Trận chiến tại Tam Quan khai diễn từ ngày 25/3/1975 với những đợt xung phong của CQ, nhưng đều bị lực lượng trú pḥng đánh bật. Sau 2 ngày kịch chiến, Cộng quân tăng cường lực lượng, mở cuộc tấn công với hỏa lực mạnh để tràn ngập pḥng tuyến này.
    * Pḥng tuyến Duy Xuyên, Quảng Nam bị tấn công
    -Ngày 27/3/1975, Cộng quân gia tăng áp lực tại khu vực Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Trung đoàn 56 Bộ binh của Sư đoàn 3 Bộ Binh tái phối trí tổ chức pḥng thủ tuyến Duy Xuyên.
    -Trong ngày 27/3/1975, Cộng quân đă pháo kích và khai triển lực lượng chiếm giữ một số xă ở Tây Nam tỉnh Quảng Nam.
    -Cũng trong ngày 27/3/1975,Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân đoàn 1/Quân khu 1 đă thị sát t́nh h́nh chiến sự tại vùng trách nhiệm của Sư đoàn 3 Bộ binh, đồng ư đề nghị của Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh, Tư lệnh Sư đoàn 3 Bộ binh về kế hoạch lập pḥng tuyến vàng Thu Bồn, ngăn chận CQ tấn công Đà Nẵng.
    *Sư đoàn 10 CSBV tấn công Khánh Dương
    Cũng trong ngày 27/3/1975, sư đoàn F-10 CSBV tấn công vào pḥng tuyến của Lữ đoàn 3 Nhảy Dù tại Khánh Dương, Khánh Ḥa, nhưng đă bị lực lượng Nhảy Dù đánh bật sau những trận kịch chiến.



    29.3.1975: Lâm Đồng Thất Thủ

    *Bộ chỉ huy Tiểu khu Lâm Đồng triệt thoái
    Ngày 29/3/1975, sau các cuộc tấn công cường của Cộng quân diễn ra trong ngày 28/3/1975, Bộ chỉ huy Tiểu khu Lâm Đồng và 1 đơn vị Địa phương quân, do vị Trung tá Tham mưu trưởng chỉ huy đă triệt thoái về đến Phan Rang vào 20 giờ tối ngày 29/3/1975. (Theo nhật kư hành quân của Thiếu tá Phạm Huấn, sĩ quan Báo chí của Tư Quân đoàn 2, th́ vào 3 giờ sáng ngày 28-3-1975, Cộng quân đă tấn công quận Bờ Sa, tỉnh Lâm Đồng. Đến 7 giờ 15 sáng cùng ngày, Cộng quân bắy đầu pháo kích vào thị xă tỉnh lỵ Lâm Đồng. Đến 10 giờ 45, pḥng tuyến thị xă tỉnh lỵ bị tràn ngập).
    Cũng trong ngày 29 tháng 3/1975, Cộng quân tràn chiếm các vị trí c̣n lại của lực lượng Tiểu khu Lâm Đồng. (Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 đặt tại Nha Trang đă điều động Liên đoàn 24 Biệt động quân tăng cường cho Tiểu khu Lâm Đồng nhưng liên đoàn này chưa đến kịp th́ Cộng quân đă tràn ngập tỉnh lỵ).

    * Sư đoàn 23 Bộ Binh tái thành lập

    Theo tài liệu của Đại tướng Cao Văn Viên, sau khi pḥng tuyến của Sư đoàn 23 Bộ binh tại quận Phước An (tỉnh Darlac) bị thất thủ ngày 18/3/1975, Bộ Tổng Tham mưu đă cho tái tập trung lực lượng c̣n lại của Sư đoàn 23 Bộ binh tại Động Ba Th́n, cách Cam Ranh khoảng 10 km về hướng Bắc. Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh ( Đại tá Đức, phụ tá Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2, làm quyền Tư lệnh thay chuẩn tướng Trường bị thương tại Phước An ngày 16/3/1975), có nhiệm vụ tái tổ chức lại các đơn vị trực thuộc. Theo tài liệu của Thiếu tá Phạm Huấn, sĩ quan báo chí Tư lệnh Quân đoàn 2, vào ngày 29/3/1975, Sư đoàn 23 Bộ binh được Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 cấp cho 1,200 khẩu súng M-16 để bổ sung cho số vũ khí tái chỉnh trang.



    30.3.1975: Trận Chiến Qui Nhơn

    * Qui Nhơn hỗn loạn, Sư đoàn 22 Bộ binh rút 2 Trung đoàn 41, 42 khỏi pḥng tuyến B́nh Khê về Qui Nhơn
    -Theo tài liệu của Đại tướng Cao Văn Viên, ngày 30 tháng 3/1975, Cộng quân đă xâm nhập vào thành phố Qui Nhơn, tỉnh lỵ tỉnh B́nh Định. Trong khi đó, tại phía Tây Qui Nhơn, lực lượng Cộng quân gồm sư đoàn 3 và trung đoàn 95 CSBV đă tấn công cườp tập vào pḥng tuyến B́nh Khê . Để bảo toàn lực lượng, 2 trung đoàn 41 và 42 của Sư đoàn 22 Bộ binh được lệnh rút khỏi B́nh Khê. Trung đoàn trưởng Trung đoàn 42 là Đại tá Nguyễn Hữu Thông đă bất măn về quân lệnh này, ông khẩn khoản tŕnh với Bộ Tư lệnh Sư đoàn 22 Bộ binh cho Trung đoàn 42 Bộ binh được cố thủ, nhưng thỉnh cầu này đă không được chấp thuận..
    -Cũng theo ghi nhận của Đại tướng Cao Văn Viên, khi 2 trung đoàn này về đến Qui Nhơn th́ Cộng quân đă đào giao thông hào tại một số khu vực trong thành phố. Nhiều cao ốc bị Cộng quân chiếm. Kịch chiến đă diễn ra ở phía Nam hải cảng Qui Nhơn.
    *Đại tướng Wayand, Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ đến Nha Trang.
    Sau khi đến Sài G̣n vào ngày 26/3/1975, vào 10 giờ ngày 30/3/1975, Đại tướng Weyand, Tham mưu trưởng Lục quân Mỹ, đặc sứ của Tổng thống Hoa Kỳ, đă đến Nha Trang bằng 1 phản lực cơ quân sự loại nhỏ. Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2 đă đón Đại tướng Weyand ngay tại phi trường và tự lái xe Jeep chở về Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2. Tướng Phú đă trao đổi vớiTướng Weyand t́nh h́nh chiến sự tại các tỉnh phía Nam miền Trung. Cuộc họp kết thúc vào 10 giờ 55 cùng ngày.

    *Cộng quân tấn công pḥng tuyến Khánh Dương

    2 giờ 15 chiều ngày 30/3/1975, Cộng quân tấn công cường tập pḥng tuyến của Lữ đoàn 3 Nhảy Dù tại Khánh Dương. Lữ đoàn trưởng báo cáo khẩn về t́nh h́nh cho Thiếu tướng Phú. Vị Tư lệnh Quân đoàn 2 mong “Lữ đoàn Dù cố gắng giữ pḥng tuyến”, và hứa sẽ có lực lượng tăng viện.



    31.3.1975: B́nh Định Thất Thủ

    * Trận chiến cuối cùng tại Qui Nhơn
    -Ngày 31 tháng 3/1975, Cộng quân đă tràn chiếm các quận lỵ của tỉnh B́nh Định. Tại Qui Nhơn, sư đoàn 3 CS Bắc Việt đă chiếm nhiều vị trí trọng yếu trong thành phố, trong đó có hải cảng. Theo tài liệu của Đại tướng Cao Văn Viên, lực lượng Sư đoàn 22 Bộ binh với Trung đoàn
    41 và Trung đoàn 42 đă nổ lực mở cuộc phản kích với sự yểm trợ hỏa lực hải pháo từ tàu Hải quân ở ngoài biển, nên địch quân bị đánh bật ra khỏi ra khỏi khu ven bờ biển, vùng kiểm soát của lực lượng VNCH được mở một khoảng rộng dài chừng 4 dặm về phía Nam, để tạo an ninh cho tàu Hải quân cập bến đón các đơn vị c̣n lại của Sư đoàn 22 Bộ binh triệt thoái khỏi tỉnh B́nh Định.
    * Trung đoàn trưởng Trung đoàn 42 Bộ binh tự sát tại bờ biển Qui Nhơn
    -Trong cuộc triệt thoái tại Qui Nhơn, vị Trung đoàn trưởng Trung đoàn 42 Bộ binh là Đại tá Nguyễn Hữu Thông đă không chịu đi, từ chối cuộc di tản và sau đó ông đă tự sát bằng súng Colt 45.
    * Một Tiểu đoàn trưởng Địa phương quân tỉnh B́nh Sát tự sát ngay trước quận đường Phù Cát
    -Cũng lúc diễn ra trận chiến tại Qui Nhơn, tại Căn cứ Không quân Phù Cát, sau 2 ngày đến cố thủ và tổ chức, Trung đoàn 47/Sư đoàn 22 Bộ binh đă bị CQ tấn công cường tập. Trong đêm, Trung đoàn này rút về Qui Nhơn th́ bị phục kích tại quận lỵ Phù Cát, bị thiệt hại gần 50% lực lượng. Cộng quân đă chiếm quận lỵ này vào buổi chiều. Thi hài của vị Tiểu đoàn trưởng Địa phương quân ( các tài liệu không ghi rơ tên) vẫn c̣n nằm nguyên trước Văn pḥng Quận Phù Cát. Thay v́ đầu hàng địch quân, vị tiểu đoàn trưởng này quyết định tự sát.



    1.4.1975: Mặt Trận Khánh Dương

    * Lữ đoàn 3 Nhảy Dù tử chiến với CQ tại mặt trận Khánh Dương, tỉnh Khánh Ḥa.
    Trong ngày 1/4/1975, cùng với cuộc tấn công cường tập pḥng tuyến tiền phương của Quân đoàn 2, tại Phú Yên, Cộng quân đă mở nhiều cuộc tấn công vào vị trí pḥng thủ của các đơn vị Quân lực VNCH tại Khánh Ḥa bị tấn công. Tại Khánh Dương, Lữ đoàn 3 Nhảy Dù do Trung tá Lê Văn Phát chỉ huy đă kịch chiến với 4 trung đoàn của 2 sư đoàn Cộng quân. Lực lượng của lữ đoàn này đă giao tranh quyết liệt với các đơn vị thuộc Sư đoàn F-10 và F-320 của CQ. Các tiểu đoàn Dù đă đánh trả quyết liệt và bất chấp đạn pháo binh của Cộng quân bắn phá khá chính xác. Nhiều vị trí mất rồi được chiếm lại, rồi lại bị mất, nhiều lần như vậy nhưng các tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn 3 Dù vẫn cố giữ vững vị trí chiến đấu.
    -Theo nhật kư của Thiếu tá Phạm Huấn, sĩ quan Báo chí của Tư lệnh Quân đoàn 2, trong t́nh h́nh sôi động và trước áp lực nặng của Cộng quân, vào lúc 8 giờ 10 phút ngày 1/4/1975, Trung tá Lê Văn Phát tŕnh với Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2, rằng nếu không có tăng viện và không được cấp phát thêm hỏa tiễn Tow chống chiến xa th́ tuyến Khánh Dương sẽ bị Cộng quân tràn ngập. Tướng Phú yêu cầu Lữ đoàn 3 Nhảy Dù cố gắng để chờ quân của Sư đoàn 22 Bộ binh từ Qui Nhơn rút vào cùng với 1 trung đoàn của sư đoàn 23 BB được tái chỉnh trang. Đến 2 giờ 10 chiều ngày 1/4/1975, khi đang bay trên không phận Khánh Dương th́ Tướng Phú chỉ liên lạc được với một sĩ quan của Lữ đoàn 3 Nhảy Dù. Tướng Phú được báo vắn tắt là Cộng quân đă tràn ngập nhiều vị trí của các đơn vị Nhảy Dù, tuyến pḥng ngự đă bị cắt nhỏ. Sau đó phía dưới đất tắt máy.
    *Sư đoàn 23 Bộ binh lập tuyến pḥng thủ Động Ba Th́n, Cam Ranh
    2 giờ 50 chiều ngày 1 tháng 4/1975, khi đang bay từ Khánh Dương về Phan Rang, Thiếu tướng Phạm Văn Phú chỉ thị cho Đại tá Lê Hữu Đức, quyền Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh gom lực lượng về cố thủ Động Ba Th́, Cam Ranh.



    2.4.1975 Ngày Cuối Cùng QĐ 2


    * Ngày cuối cùng trên chiến trường của Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2 Phạm Văn Phú
    Ngày 2 tháng 4/1975, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu nhận được lệnh bàn giao phần lănh thổ cuối cùng của Quân khu 2 cho Quân đoàn 3/Quân khu 3. Đó cũng là ngày cuối cùng củaThiếu tướng Phạm Văn Phú trên chiến trường trong chức vụ Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2. Những giờ cuối cùng của vị tướng này tại Nha Trang và tại Phan Thiết đầy bitráng. Trong nhật kư hành quân mang sang Mỹ được và được phổ biến trong cuốn Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975, Thiếu tá Phạm Huấn-sĩ quan Báo chí-đă ghi lại một số sự kiện xảy ra cho vị tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2 trong hai ngày 1 và 2/4/1975 với nội dung được tóm lược như sau:
    5 giờ 50 chiều ngày 1/4/1975, Thiếu tướng Phú vào bộ Tư lệnh Sư đoàn 2 Không quân ở Nha Trang, nhưng vị Tư lệnh Sư đoàn này đi vắng. Ông phải ngồi ngồi đợi, 20 phút sau th́ Chuẩn Tướng Nguyễn Ngọc Oánh-chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Không quân và Chuẩn Tướng
    Nguyễn Văn Lượng, Tư lệnh Sư đoàn 2 Không quân, bước vào. Lúc bấygiờ Tướng Phú ngồi ở chiếc ghế sát bàn của Tư lệnh của Sư đoàn 2 Không quân. Tướng Lượng và Tướng Oánh thấy Tướng Phú không chào hỏi và tới ngồi ở bàn khác đối diện. Thấy thái độ và cách xử sự khác thường của vị Tư lệnh Sư đoàn 2 Không quân,một trong 2 sư đoàn Không quân thống thuộc quyền điều động của bộ tư lệnh Quânđoàn 2, Tướng Phú hơi ngạc nhiên nhưng rồi ông chợt hiểu. Ông hỏi Chuẩn tướng Lượng:
    -Có chuyện ǵ xảy ra?
    Chuẩn tướng Lượng không trả lời, mặt lầm ĺ. C̣n Chuẩn Tướng Oánh, với giọng từ tốn, lễ độ nói với Thiếu tướng Phú:
    -Tôi muốn thưa với Thiếu Tướng tôi được chỉ định làm Tư lệnh Mặt trận Nha Trang, v́ Quân đoàn 2 không c̣n nữa. Tướng Phú mặt biến sắc, hỏi dồn:
    -Lệnh ai? Anh nhận lệnh ai?
    Tướng Oánh vẫn điềm đạm, chậm răi nói: Thưa Thiếu Tướng, lệnh của Bộ Tổng Tham mưu, của Trung tướng Đồng Văn Khuyên (Tham mưu trưởng Bộ Tổng Tham mưu) từ Sài G̣n.
    Nghe Chuẩn tướng Oánh tŕnh bày, Thiếu tướng Phú cảm thấy danh dự bị tổnthương, v́ theo tổ chức quân đội, người có quyền ra lệnh cho ông là Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng, c̣n Trung tướng Khuyên là tham mưu trưởng, không có quyền ra lệnh cho các tư lệnh Quân đoàn, về vai vế và quyền hạn th́ Tư lệnh quân đoàn và Tư lệnh quân chủng chỉ xếp sau Tổng tham mưu trưởng. 18 giờ 40 TướngPhú dùng điện thoại tại văn pḥng Tướng Lượng để gọi về Sài G̣n gặp Trung tướng Khuyên. Ngay từ câu đầu tiên, Thiếu tướng Phú đă hét lên trong ống liên hợp:
    -Trung tướng hỏi tôi đi đâu à? Tôi bay chỉ huy.
    Sau một hồi tranh cải, Thiếu tướng Phú nói lớn:
    -Tôi là Tư lệnh Quân đoàn. Đi đâu, đó là quyền của tôi. Trung tướng Thuần (Chỉ huy trưởng trường Hạ sĩ quan) cùng đi trên máy bay chỉ huy của tôi mấy tiếng đồng hồ, nhưng tôi không cần Trung tướng phải tin. Và tôi cũng không phải tŕnh Trung tướng.
    19 giờ 45 phút cùng ngày, Thiếu tướng Phú ra trực thăng bay về PhanRang. Khi ông vừa ngồi lên xe Jeep để ra băi đậu trực thăng, th́một sự việc bất ngờ xảy ra. Một xe chở đầy lính và vũ khí phóng tới, một Thiếu tá Không quân nhẩy xuống nói lớn:
    -Tại sao, tại sao, các ông là Tướng lại bỏ lính chạy. Ai pḥngthủ căn cứ này.
    Khi đó, Thiếu tá Phạm Huấn cùng đi với Thiếu tướng Phú, đă ngồi đè lên người Thiếu tướng Phú, và chĩa khẩu AR 18 về phía người sĩ quan này và nói:”Anh không được vô lễ, ông Tướng Tư lệnh Quân đoàn không có nhiệmvụ phải pḥng thủ căn cứ Không quân”. Cuối cùng th́ mọi việc êmxuôi, Thiếu tướng Phú hiểu được sự phẫn nộ của vị sĩ quan Không quân và những người lính đi cùng.

    * Quân đoàn 2 bàn giao phần lănh thổ c̣n lại cho Quân đoàn 3.

    Đêm 1 tháng 4/1975, Thiếu tướng Phú nằm dưới chân núi, trên một cái giường bố, tại ban chỉ huy của một tiểu đoàn Địa phương quân NinhThuận, pḥng thủ căn cứ Phan Rang. 1 giờ 45 trưa ngày 2 tháng1/1975, Tướng Phú bay đến ngọn đồi “Lầu Ông Hoàng” ở Phan Thiết chờ Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu, Tư lệnh phó Quân đoàn 3, để thảo luận về việc bàn giao phần lănh thổ c̣n lại của Quân đoàn 2 &Quân khu 2 được lệnh sát nhập vào Quân đoàn 3. Theo kế hoạch,Quân đoàn 3 chính thức phụ trách tuyến Ninh Thuận-B́nh Thuận từngày 3/4/1975. Vào giờ này, Bộ Tham mưu của Tướng Phú chỉ c̣n lạiThiếu tá Vinh, chánh văn pḥng; Thiếu tá Hóa tùy viên, Thiếu táHuấn, sĩ quan báo chí và Đại tá Lê Hữu Đức, Quyền Tư lệnh Sư đoàn 23BB.
    Đúng 2 giờ 12 phút chiều cùng ngày, Thiếu tá Hóa tŕnh với Thiếu tướngPhú là trực thăng của Thiếu tướng Hiếu sắp đáp xuống. Khi Thiếu tá Hóavừa quay gót, Thiếu tướng Phú rút khẩu súng ngắn ra khỏi vỏ,nhưng tiếng hét thất thanh của Đại tá Đức vang lên: “ThiếuTướng!”, ngay sau đó, khẩu súng trên tay Tướng Phú bị đại tá Đứcgạt bắn xuống đất. Tướng Phú không chết trong ngày 2 tháng4/1975, nhưng 28 ngày sau ông đă tự sát tại Sài G̣n.

    * Cuộc hội ngộ cuối cùng của hai vị Tư lệnh Quân đoàn

    Cũng theo nhật kư của Thiếu tá Huấn, trước đó vào 5 giờ chiều ngày 30 tháng 3/1975, Tướng Phú đă bay ra Cam Ranh, để cùng với Phó Đề đốc Hoàng Cơ Minh, Tư lệnh Hải quân Vùng hai duyên hải, đitrên một soái hạm chỉ huy ra vùng biển ngoài Cam Ranh để đónTrung tướng Trưởng đang bị bệnh nằm trên tàu HQ 404 từ Cam Ranhvào (Tướng Trưởng đă phải bơi từ bờ để ra tàu hải quân đậu ngoàibiển). Trên tàu lúc này có rất đông chiến binh Thủy quân Lục chiến từ
    Quân khu 1 vào. Tướng Phú và Phó Đề đốc Minh phải khó lắm mới lách xuống được chỗ Trung tướng Trưởng nằm dưỡng bệnh. Theo ghi nhận của Thiếu tá Phạm Huấn, có mặt vào giờ phút đó, th́ lúc này Trung tướngTrưởng thở thoi thóp nhờ b́nh nước biển. Quanh Trung tướng Trưởng co ùChuẩn Tướng Nguyễn Đức Khánh, Tư lệnh Sư đoàn 1 Không quân (ĐàNẵng), Đại tá Nguyễn Hữu Duệ, Tỉnh trưởng Thừa Thiên. Thiếu tướng Phú ghé sát tai Trung tướng Trưởng hỏi hai lần, nhưng sắc diện Trung tướng Trưởngkhông thay đổi. Nhưng rồi có một giây Tướng Trưởng ngước nh́n lên. Đôi mắt như muốn bật máu v́ uất ức. Chi tiết về cuộc gặp gởnày cũng đă được Hải quân Trung tá Nguyễn Đại Nhơn, hạm trưởng HQ404 kể lại trong một bài viết phổ biến vào năm 1995. Có một điểmkhác biệt về mốc thời gian là tài liệu của Trung tá Nhơn th́ lạighi là cuộc gặp gở giữa Tướng Phú và Tướng Trưởng diễn ra vào tốingày 1/4/1975, (nhật kư của Thiếu tá Huấn ghi là 5 giờ chiều30/3/1975, như đă tŕnh bày ở trên). Trong khi đó theo lời kể củamột số sĩ quan đi theo Tướng Trưởng, HQ 404 rời Đà Nẵng ngày29/3/1975 và đến chiều ngày 30/3/1975 th́ đă vào vùng biển ở ngoài Cam Ranh.
    Theo lời của Trung tá Nguyễn Đại Nhơn, Hạm trưởng HQ 404, tốingày 1/4/1975, Tướng Phú đă đi tàu nhỏ cập vào chiến hạm để lên tàu thăm và nói chuyện với Tướng Trưởng. T́nh cờ khi vào pḥng lấy hồ sơ, Trung tá Nhơn đă nghe câu nói của Thiếu tướng Phú: “Dù sao đi nữa tôi cũng c̣n vài tiểu khu ở đây với tôi chiến đấu”. Cũng cần ghi nhận rằng Tướng Phú đă có một thời gian làm việc chung với Tướng Trưởng: năm 1967, khi c̣n là đại tá, ông là Tư lệnh phó Sư đoàn 1 Bộ binh do Tướng Trưởng làm tư lệnh; năm 1972, khi Tướng Trưởng là Tưlệnh Quân đoàn 1 th́ Tướng Phú là Tư lệnh Sư đoàn 1 thuộc Quânđoàn này). Cuộc gặp gỡ của hai vị tư lệnh Quân đoàn diễn ra đúng10 phút. Sau đó, Thiếu tướng Phú đứng nghiêm chào từ biệt Trung tướng Trưởng.Rồi ông bước nhanh ra khỏi căn pḥng nhỏ của chiến hạm, những sự kiện bi tráng chờ đợi ông, người hùng Điện Biên Phủ năm nào.



    2.4.1975: Trận Chiến Nha Trang

    -Sau khi chiếm Tuy Ḥa và các quận tỉnh Phú Yên, vào rạng ngày2 tháng 4/1975, Cộng quân gia tăng áp lực tại mặt trận Khánh Ḥa-Ninh Thuận. Vào thời gian này, lực lượng chủ lực của quân đoàn 2 chỉ c̣n trông cậy vào 2 tiểu đoàn vừa tái chỉnh trang của Sư đoàn 23 Bộ binh và một 1 tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 22 Bộ binh (đơn vị này có mặt tại Khánh Ḥa từ trước tháng 4/1975), 2 tiểu đoàn Biệt động quân. Các tiểu đoàn nói trên chỉ c̣n khoảng 2/3 số quân sĩ tại hàng.
    -Cũng như nhiều thành phố khác tại Quân khu 2 (Vùng 2), trong suốt thời gian từ cuối tháng 3 đến những ngày đầu tháng 4, Nha Trang không tránh được sự hỗn loạn, nhốn nháo. Trong ngày 2 tháng 4/1975, không có lực lượng nào có đủ sức duy tŕ trật tự cả an ninh trong thành phố. Theo tài liệu của Đại Tướng Cao Văn Viên th́ Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 vẫn tiếp tục hoạt động tại Nha Trang đến hết ngày 2/4/1975. Tuy nhiên theo hồi kư của Thiếu tá Phạm Huấn, sĩ quan báo chí của Tư lệnh Quân đoàn 2, th́ tối ngày 1/4/1975, Tướng Phú và một số sĩ quan đă ngủ lại tại bộ chỉ huy của một tiểu đoàn Địa phương quân pḥng thủ căn cứ Không quân ở Phan Rang. Trong hai ngày đầu của tháng 4/1975, trận chiến đă diễn ra tại một số nơi trong địa phận tỉnh Khánh Ḥa,

    - Ngày 2/4/1975, Cộng quân bắt pháo kích vào một số doanh trại quân đội gần Nha Trang.

    Nhận định về t́nh h́nh Nha Trang trong ngày này, Đại tướng Cao Văn Viên cho biết “do hỗn loạn, Quân đoàn 2 phải bỏ Nha Trang.”
    *Các đơn vị của Tiểu khu Lâm Đồng, Tuyên Đức rút về Phan Rang
    -Cũng trong ngày 2/4/1975, theo ghi nhận của Đại tướng Cao Văn Viên, sư đoàn 7 CSBV tiếp trợ cho 2 sư đoàn F-10 CSVC, gây áp lực nặng tại phần lănh thổ c̣n lại của Quân khu 2. Các đơn vị thuộc hai tiểu khu Lâm Đồng và Tuyên Đức đều triệt thoái về Phan Rang.



    3.4.1975: Phan Rang Hỗn Loạn

    *T́nh h́nh Phan Rang
    Sau khi các đơn vị VNCH triệt thoái khỏi Nha Trang ngày 2/4/1975, theo ghi nhận của Đại tướng Cao Văn Viên, t́nh h́nh tỉnh Ninh Thuận trở nên hỗn loạn, nhốn nháo, công chức bỏ nhiệm sở, quân nhân các đơn vị Địa phương quân bỏ đơn vị đi t́m gia đ́nh. Gần một nửa số tiểu đoàn Địa phương quân tỉnh NinhThuận bảo vệ Căn cứ Phan Rang đă bỏ vị trí pḥng thủ. Tỉnh trưởng/Tiểu khu trưởng Ninh Thuận bỏ Phan Rang sau khi ra lệnh thiêu hủy một số dụng cụ và phương tiện thiết yếu.

    * Tư lệnh Sư đoàn Thủy quân Lục chiến giữ chức Tổng trấn Vũng Tàu

    Ngày 3 tháng 4/1975, sau cuộc triệt thoái khỏi Đà Nẵng bằng tàu Hải quân vào ngày 29/3/197, lực lượng c̣n lại của Sư đoàn 3 Bộ binh do Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh chỉ huy đă cập bến Vũng Tàu. Vào ngày này, lực lượng Thủy quân Lục chiến đă phối trí lực lượng bảo vệ pḥng tuyến Vũng Tàu. Thiếu tướng Bùi Thế Lân, Tư lệnh Sư đoàn Thủy quân Lục chiến, kiêm nhiệm chức vụ Tổng trấn Vũng Tàu.

    * Sư đoàn 3 Bộ binh tái chỉnh trang tại Trung tâm huấn luyện Vạn Kiếp

    Theo kế hoạch của Bộ Tổng Tham mưu Quân lực VNCH, lực lượng Sư đoàn 3 Bộ binh tập trung về Trung tâm huấn luyện Vạn Kiếp. Sư đoàn 2 Bộ binh lên B́nh Tuy. Tất cả sẽ phải chỉnh trang và sẵn sàng chiến đấu.
    Sau khi liên lạc với Bộ Tư lệnh Hải quân Vùng 3 duyên hải và Đặc khu Vũng Tàu, vào 15 giờ chiều ngày 3 tháng 4/1975, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 3 Bộ binh và các đơn vị của Sư đoàn này về đến Trung tâm Huấn luyện Vạn Kiếp.



    4.4.1975: Trận Chiến Ninh Thuận

    *Quân đoàn 3 lập pḥng tuyến Ninh Thuận

    Sau khi 6 tỉnh Cao nguyên và 8 miền tỉnh miền Trung bị lọt vàotay CSBV, để ngăn chận địch quân tràn chiếm hai tỉnh Ninh Thuận,B́nh Thuận, thành lủy cuối cùng của Quân khu 2, Bộ Tổng Tham MưuQuân lực VNCH đă quyết định giao cho Quân đoàn 3 lập tuyến pḥngthủ bảo vệ hai tỉnh này.Để có sự chỉ huy thống nhất, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đă chỉthị cho Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư lệnh Quân đoàn 3 & QuânKhu 3,thành lập Bộ tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 tại Phan Rang,và Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi được Tổng thống Thiệu cử làm Tư
    lệnh phó Quân đoàn 3, trực tiếp chỉ huy Bộ Tư lệnh Tiền phươngcủa Quân đoàn này. Vào thời gian đó, Trung tướng Nghi là chỉ huytrưởng trường Bộ Binh, ông cũng đă từng giữ chức tư lệnh Quânđoàn 4 & Quân khu 4 từ tháng 5/1972 đến 11/1974 sau khi đă giư ơchức vụ tư lệnh Sư đoàn 21 Bộ binh gần 4 năm (từ tháng 6/1968 đếntháng 5/1972).

    * T́nh h́nh tỉnh Ninh Thuận

    Ngay sau khi Bộ tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 được thành lậptại Phan Rang (tỉnh lỵ Ninh Thuận), trật tự an ninh tại tỉnh nàyđă được văn hồi ngay. Vị Đại tá Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởngNinh Thuận bỏ đi trong ngày 2/4/1975 được lệnh trở về tái lậpviệc pḥng thủ quanh thị xă và điều hành công việc hành chínhtrong tỉnh. Theo kế hoạch, lực lượng Địa phương quân được phối trí pḥng thủgần thị xă, bảo vệ cầu, các cơ sở và tham gia lực lượng giữ ǵnan ninh tại thị xă và các vùng phụ cận. Lực lượng ṇng cốt để bảovệ Phan Rang vẫn trông cậy vào các tiểu đoàn Nhảy Dù.
    Với lực lượng mới được tăng cường, với sự yểm trợ không quân hữuhiệu, với sự chỉ huy thống nhất, an ninh được tái lập và t́nh h́nh tại Phan Rang lắng dịu lại sau những ngày hỗn loạn.
    Last edited by alamit; 04-02-2013 at 08:57 PM.

  10. #30
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Những trận chiến cuối cùng QLVNCH
    P4


    5.4.1975: Thủ Tướng Khiêm Từ Chức



    *Thủ tướng Trần Thiện Khiêm từ chức

    Ngày 5 tháng 4/1975, Đại tướng Trần Thiện Khiêm, Thủ tướng Chính phủ kiêm Tổng trưởng Quốc pḥng đă nộp đơn lên Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu xin từ chức. Tổng thống đă chấp thuận và cử ông Nguyễn Bá Cẩn, chủ tịch Hạ Viện, thành lập nội các (Ngày 14/4/1975, nội các của ông Nguyễn Bá Cẩn mới hoàn tất thành phần nhân sự và tŕnh diện Tổng thống). Trong thời gian chờ chính phủ mới h́nh thành, nội các của Đại tướng Trần Thiện Khiêm tiếp tục hoạt động dưới h́nh thức xử lư thường vụ. (Theo tài liệu của Đại tướng Cao Văn Viên, và hồi kư của Trung tướng Trần Văn Đôn)

    * Phối trí lực lượng tại mặt trận Ninh Thuận.

    Theo kế hoạch của bộ Tổng Tham Mưu và sự phân nhiệm của bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 & Quân khu 3, th́ Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 (Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi giữ chức Tư lệnh Tiền phương), đặt tại căn cứ Không quân Phan Rang cùng với bộ Tư lệnh Sưđoàn 6 Không quân. Trách nhiệm của Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 là chỉ huy cáclực lượng pḥng thủ và bảo vệ hai tỉnh Ninh Thuận và B́nh Thuận.
    Lực lượng chính để bảo vệpḥng tuyến Phan Rang là Lữ đoàn 3 Nhảy Dù (Lữ đoàn này về Sài G̣n vào ngày 7/4/1975, sau khi có Lữ đoàn 2 Nhảy Dù ra thay thế).Về hỏa lực không pháo là các phi đoàn thuộc Sư đoàn 6 Không quân. Yểm trợ hỏa lực pháo binh có 1 tiểu đoàn Pháo binh của Sư đoàn Dù và một số pháo đội do Quân đoàn 3 điều động đến.



    6.4.1975: Trận Chiến B́nh Thuận

    * 1 sư đoàn CSBV tiến về gần Phan Thiết, tỉnh lỵ tỉnh B́nh Thuận.

    Theo phân tích của Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực VNCH, vào thượng tuần tháng 4/1975, sau khi đă chiếm Nha Trang, Cam Ranh và các quận tỉnh Khánh Ḥa, do bị thiệt hại nặng tại mặt trận Khánh Dương, Cộng quân cần phải bổ sung quân số, chưa đủ lực lượng để mở đợt tấn công lớn vào Ninh Thuận. Các tin tức t́nh báo nhận được cho biết sư đoàn 7 CSBV sau khi mở các cuộc tấn công vào Cao nguyên đă được điều động về hoạt động tỉnh B́nh Thuận. Ngày 6 tháng 4/2005, sư đoàn 7 CSBV này đă khai triển lực lượng hoạt động tại phiá Tây Phan Thiết. Trong khi đó sư đoàn 3 CSBV và một vài đơn vị của sư đoàn 10 CSBV đóng cách Cam Ranh khoảng 50 km về hướng TâyBắc.
    *Lữ đoàn 2 Nhảy Dù thay thế Lữ đoàn 3 Nhảy Dù tại pḥng tuyến Phan Rang.
    Ngày 6 tháng 4/1975, Bộ Tổng Tham Mưu điều động Lư đoàn 2 Nhảy Dù ra Phan Rang bằng không vận để thay thế cho Lữ đoàn 3 Nhảy Dù. (Một ngày sau, Lữ đoàn 3 Nhảy Dù trở về Sài G̣n sau khi Lữ đoàn 2 Nhảy Dù ra Phan Rang). Cùng với cuộc chuyển quân của Lữ đoàn 2 Nhảy Dù, c̣n có các toán thám sát của Nha Kỹ Thuật đến hoạt động tại khu vực Đông Bắc và Tây Bắc Phan Rang.



    Tháng 4-1975, Tại Tiểu Khu B́nh Thuận

    B́nh Thuận nằm về cực nam của miền Trung nước Việt, đông là biển với những đồi cát mông mênh chạy dài từ Cà Ná tới tận Cù My, qua những làng chài , xóm lưới Long Hương, Phan Rí Cửa, Mũi Né, Hàm Tân. Nhiều nơi trước năm 1975, không hề có bước chân của người Phố Thị, ngoài lính tráng. Miền tây của tỉnh, cũng là phần đất cuối cùng của rặng Nam Trường Sơn, nên có nhiều núi cao sông rộng, tuy nhiên người Phan Thiết , dù là ai chăng nửa cũng không bao giờ quên được hai địa danh Tà Dôn-Tà Cú, nằm sát trên con đường quan lộ số 1, trước đây không bao giờ thiếu ḿn chông, bom đạn. Ngoài khơi có đảo Phú Quư, đông đúc, nhiều thắng cảnh đẹp, dân chúng giàu có nhờ ngư nghiệp.
    Trước năm 1975, B́nh Thuận có chừng 25 vạn người, với đủ sắc dân, Kinh, Chàm, Nùng, Hoa, Thượng, sống chung đụng khắp nơi trong tỉnh. Riêng Thị xă Phan Thiết có 50.000 người. Ngay từ thời Pháp thuộc, B́nh Thuận nổi tiếng khắp nước, là chốn ” Rừng tiền, biển bạc” và là vựa cá mắm của Đông Dương, c̣n thóc gạo đủ nuôi sống dân trong tỉnh, nên trong trận đói năm Ất Dậu 1945, địa phương vẫn không bị ảnh hưởng.
    Về chiến thuật, B́nh Thuận nằm án ngữ, trên con đường sắt xuyên việt Hà Nội-Sài G̣n và quốc lội số 1. Là phân nhánh của đường ṃn HCM, từ Đà Lạt, Lâm Đồng , tới các mật khu Nam Sơn, Lê Hồng Phong, Ba Ḥn, Cà Ná, Vĩnh Hảo..vào tới Rừng Lá, Cù Mi xuống tận các cửa ngỏ tiếp tế từ biển của VC tại La Gàn, Ḥn Rơm, Mũi Điện. Do các yếu tố trên, từ khi Quốc Tế Cọng Sản xâm nhập VN vào thập niên 30, cho tới ngày kết thúc cuộc chiến Đông Dương lần thứ 2 (1945-1975), luôn nuôi mộng cưỡng chiếm cho bằng được vùng đất thép của Chính Phủ Quốc Gia, mà giặc luôn gọi là thành đồng cách mạng, ngang cỡ Củ Chi, Mơ Cầy, Ba Tơ, Dầu Tiếng. Nhưng người B́nh Thuận tuy hiền ḥa, chỉ biết lam lũ làm ăn nhưng đa số là con cháu của dân Ngũ Quảng, vốn có bản chất lời ngay nói thật. Bởi vậy ngoài một số trí thức khoa bảng no cơm ấm cật, thụ hưởng tiền bạc của tổ tiến, nên không biết làm ǵ, ngoài việ chạy theo gót giặc để được nổi tiếng xấu, hay có một số đồng bào sống trong vùng xôi đậu, bắt buộc phải theo VC, c̣n hầu hết dân bản địa, có cơm ăn áo mặc và hít thở được không khí tự do, đều tin tưởng vào Quốc Gia. Cho nên sự kiện, tỉnh B́nh Thuận bị VC tấn công ba lần vào dịp Tết Mậu Thân 1968 nhưng vẫn giữ vẹn thành phố. Ngoài ra, đây cũng là tỉnh duy nhất ở Trung Phần, vào những ngày cuối tháng 4-1975, đă quyết tâm, ngăn chống giặc Bắc xâm lăng, cho tới khi không c̣n chịu nổi, trước sự tấn công biển người, với xe tăng, đại pháo, mới đành bỏ quê hương mà đi trong ngấn lệ.
    Tháng 8-2004, John Pilger một nhà làm phim người Úc, đă thực hiện bộ phim ” trận đánh cuối cùng”, nói về chiến tranh VN, theo óc tưởng tượng Tây Phương , cùng đơn đặt hàng của Hollywood và VC. Ai cũng biết, lịch sử nào cũng đẫm máu và nước mắt, chứ không phải chỉ riêng có lịch sử chiến tranh VN. Điều đáng chú ư là con người, không thể nào sống ngoài lịch sử của nước ḿnh, cho nên dẩu ta có là nạn nhân của lịch sử, cũng phải biết quên khổ đau của chính ḿnh, để chia chung niềm tự hào của những anh hùng dân tộc, đă xem nhẹ cái chết vào những giờ phút tử thần. Ngoài ra,ai cũng biết lịch sử của cọng sản, là toàn cảnh chủ nghĩa hiếu chiến và đấu tranh giai cấp, nên đừng có lạ khi được xem qua bộ phim trên, với nội dung ” kẻ nào không đứng chung với ta đưới một màu cờ, đều là kẻ thù thua trận “. Tóm lại, lịch sử không phải là văn chương, nên không thể ngồi một chỗ để hư cấu, mà là những trang kể về các anh hùng và tiểu nhân có thật, được viết bằng máu và nước mắt của chính nhân vật trong cuộc, để chấp nhận phê phán theo quan niệm đạo lư cùng với chính nghĩa. Nhưng văn chương, xét cho cùng từ khởi thủy cho tới chung cuộc, vẫn là tiếng rên nghẹn của thân phận con người. C̣n lịch sử th́ trái lại muôn đời không dời đổi, giống như chuyện dài về các đế quốc, triều đại xưa nay, trong đó có đế quốc Việt Cộng
    Chắc chắn người B́nh Thuận dù ở trong thế hệ nào chăng nữa, qua hơn 300 thành lập, cũng đều tự hào về những trang sử vẻ vang của quê hương ḿnh, từ lúc khởi đầu, cho đến những ngày cuối cùng tháng 4-1975, đẫm đầy máu lệ, càng đọc càng thắm thiết và trân trọng, cho tất cả những quân dân đă một thời bỏ ḿnh v́ nước..

    1- Phan Thiết, Những Ngày cuối Tháng 4-1975

    Theo sử liệu, Chưởng Cơ Nguyễn Hửu Cảnh, một tướng lănh tài danh của Đàng Trong, thời Chúa Nguyễn Phúc Chu, đă chỉ huy đạo quân Đại Việt đầu tiên, tiến vào miền Thủy Chân Lạp bằng đường bộ,sau khi Châu Panduranga cuối cùng của Vương quốc Chiêm Thành mất vào năm Quư Dậu 1693. Đoàn quân khi qua sông Mai Nương, thuộc xứ Pan Rang, bắt đầu tiến dọc vào vùng gió cát ven biển lúc đó, hầu như không có bao nhiêu làng xóm, sự sống, mà chỉ có hàng hàng lớp lớp cát đụn, xương rồng mọc suốt bờ biển phía đông B́nh Thuận , từ Cà Ná chạy vào tới Phù My, giáp ranh với Bà Rịa. Cuộc hành quân đường bộ dài trên 150km, đă góp phần tạo nên những thị trấn trù phú sau này như Long Vĩnh trong vịnh Ṛn, Phan Rí ở cửa biển Paric, Phố Hải tại vịnh Ba Giai và Hamulithít (Phan Thiết). Cũng ở vùng này, từ thế kỷ thứ VIII sau TL, người Chàm trong vương triều Panduranga I, đă hoàn thành nhóm đền tháp Pôshanư, thờ cúng các vị thần thánh Ấn Độ giáo, trên đồi Bà Nài cách Phan Thiết về phía nam chừng 7 km. Từ thế kỷ XVII về sau, các thị trấn miền đông B́nh Thuận như Long Hương, Phan Rí Cửa, Mũi Né, Phú Hài và La Gi.. càng lúc càng trở nên trú phú và quan trọng, dù từ đầu thế kỷ XX, tỉnh lỵ đă dời từ Ḥa Đa về Phan Thiết, chỉ là một Xóm Biển, nằm ngay trên cửa sông Mường Mán, chẳng mấy chốc, đă chiếm lĩnh địa vị số 1 của Phố Hải suốt mấy thế kỷ qua. Trước năm 1975, Mũi Né là thủ phủ của quận Hải Long, giống như La Gàn,Ba Ḥn, Cù Mi..những cửa ngơ để Hà Nội tiếp tế mọi thứ bằng đường biển cho bộ đội Bắc Việt, trong mật khu Lê Hồng Phong. Vùng này chạy từ Ḥn Hồng,Băi Xếp, Ốc,Ghềnh, Dơi thuộc B́nh Nhơn,Ḥa Thắng đối diện với Ḥn Nghệ ngoài biển, về hướng bắc Thạch Long, Khánh Thiện cũng như Vùng Rạng, Thiện Nghiệp. Những ngày cuối cùng cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai (1960-1975), theo các sử gia trong và ngoài nước cận đại, th́ B́nh Thuận là tỉnh duy nhất của miền Trung,từ lính cho tới công chức, kể cả dân chúng, không bỏ chạy và họ đă chiến đấu với cộng sản Hà Nội tới ngày cuối cùng vào sáng 19-4-1975, cũng như đă thực hiện được các cuộc lui quân về Nam an toàn bằng đường bộ lẫn đường biển. Riêng tại mặt trận miền đông Phan Thiết, trong vùng chiến thuật thuộc chi khu Hải Long, bao gồm quận lỵ Mũi Né, các phân chi khu Thện Nghiệp, Thiện Khánh,An Hải,Phước Thiệu Xuân và Thanh Hải..theo báo chí VC, măi tới 5 giờ sáng ngày 19-4-1975, khi QLVNCH được lệnh di tản chiến thuật khỏi tỉnh B́nh Thuật,mới có một đại đội thuộc C/482 VC, tới tiếp thu Hải Long đă bỏ ngỏ. Sau này nhân có một vài cấp sĩ quan tại B́nh Thuận đă rời chức vụ trước khi giặc tới như Thiếu Tá Lê Văn Thông, quận trưởngThiện Giáo, hay Thiếu Tá Vơ Đạm, Chỉ Huy Trưởng Quân Y Viện Đoàn Manh Hoạch, bỏ chạy về Sài G̣n từ đầu tháng 4-1975,tạo cớ cho một vài người, mặc dù mang tiếng là lính, nhưng chưa hề phục vụ tại TK.B́nh Thuận, qua đây viết báo, chỉ trích về một trận đánh nào đo, không tên tuổi,ù vào giờ thứ 25 của chiến cuộc, là không có đại bàng, lúc mà các trụ đèn v́ không có chân và những tù nhân đang bị giam, nên không thể chạy. C̣n hầu như mọi người kể cả một vài tướng lănh, các sĩ quan cao cấp, công chức, sư ni cha cố, đại trí thức, ca sĩ, đĩ điếm,me Mẽo, thương gia cho tới hàng mệnh phụ, tiểu thư đă dám thí cái trinh tiết ngàn vàng cho cả lính Mỹ da đen, chỉ để xin một chổ ra khỏi nước, hầu giữ mạng trước biển giặc. Sự thật th́ tới lúc đó, các đại bàng lớn nhỏ gần như đều có mặt, và có một vài đơn vị Nghĩa Quân đóng tại Xă Phước Thiệu Xuân, Kim Ngọc, dù được lệnh di tản, vẫn nhất định ở lại. Chính Họ đă bắn cháy vài chiếc T54 của Bắc Việt trên QL1, nên Cọng Sản phải chia làm hai cánh quân, một tiến theo đường công hương qua Phú Hài về Phan Thiết. Toán kia theo QL1. Nhưng thôi lích sử vẫn là lịch sử , nhất là các thẩm quyền lúc đó của Tiểu Khu, như Đại Tá Tỉnh Trưởng Ngô Tấn Nghĩa, Phó TT. Phạm Ngọc Cửu và những Sĩ Quan chỉ huy chiến trường như Thiếu Tá Dụng Văn Đối,Thiếu Tá Lê Văn Trung, Thiếu Tá Phạm Minh, Thiếu Tá Phan Sang, Đại Uư Huỳnh Văn Quư, Đại Uư Huỳnh văn Hoàng, Đại Uư Lê Bá Hùng, Đại Uư Bác Sĩ Lê Bá Dũng, Đại Uư Đặng Vũ Đàng, Đại Uư Mai Xuân Cúc, Tỉnh Đoàn Trưởng XDNT. Lê Minh Giang, Thiếu Úy Lê văn Thắng….sau nhiềunăm tù tại Miền Bắc, đều có mặt ở Hoa Kỳ qua diện HO. Chính họ mới là nhân chứng thật sự, có tư cách , để xác nhận củng như phê phán trước quân sử VNCH, rằng cho tới trọn ngày 19-4-1975, các mặt trận tại B́nh Thuận, gần như có đại bàng và binh sĩ các cấp tham dự, trong biển máu địa ngục, giữa tuyệt vọng v́ phải đối mặt với hằng chục ngàn quân xâm lăng Bắc Việt , có đầy đủ tăng, pháo và sự tiếp tay của lũ ăn chén đá bát, cùng bọn nhân danh đủ thứ để có cớ đâm sau lưng người lính tận tuyệt, khiến cho miền nam VN phải mất, dân tộc VN bị nhuộm đỏ và đất nước măi đắm ch́m trong nhục nhă đói nghèo giữa thiên đàng xă nghĩa, được tạo bởi một phần công quả của một đám người được ưu tiên hậu hỹ suốt 20 năm tại VNCH…

    2-Tiểu Khu B́nh Thuận, Trước Tháng 4-1975 :

    Ngày 20-12-1960 theo tinh thần nghị quyết số 15 của trung ương đảng tại Hà Nội, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, cánh tay nối dài của Quốc Tế Cọng Sản ra đời, mở màn cho cuộc xâm lăng của Bắc Việt. Tại B́nh Thuận, bọn nằm vùng như Nguyễn quư Đôn, Nguyễn Như, Năm Trà, Song Mă,Hồ ngọc Lầu, Nguyễn Thị Kim Liên, Trần Thiện Bật, Ngô Đ́nh Cường, Nguyễn Phong Đạm..vẫn bám trụ trong nội thành và không ngớt bày binh bố trận, từ khủng bố bằng quân sự cho tới việc xuí dục các học sinh trung học trong tỉnh , nhân danh tôn giáo , tiếp tay với chúng phá hoại đời sống an lành của người dân hiền ḥa miền biển mặn. Sau ngày binh biến 1-11-1963, t́nh h́nh chiến sự tại miền nam VN trở nên tồi tệ v́ ba năm xáo trộn chính trị do bọn kiêu tăng loạn tướng gây ra, tạo diều kiện cho VC hồi sinh và phá hoại dữ dội khắp nơi. B́nh Thuận cũng không tránh khỏi nạn kiếp trên, một mặt th́ học sinh biểu t́nh, tuyệt thực,do chính Nguyễn Văn Minh, bí thư của Chi Bộ Cọng Sản tại Trường TH.Phan Bội Châu, năm 1966 (đă chết trước năm 1975), vạch ngực lấy máu..bắt chính quyền phải hoà hợp mời bắc bộ phủ về cầm quyền. Mặc khác đêm 25-12-1964, C430VC tấn công dồn cảnh sát cổng chử Y, cùng lúc C480VC tấn công các ấp chiến lược ven biên thị xă Phan Thiết, mở màn cho những bửa tiệc máu người dân vô tội, cho tới khi Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa, nguyên Trưởng Pḥng 2/Quân Đoàn II về nhậm chức tỉnh trưởng vào mùa thu năm 1969, mới văn hồi được an ninh khắp tỉnh và thị xă Phan Thiết , cho tới ngày tàn cuộc 19-4-1975. Tại Tiểu khu B́nh Thuận, năm 1966 tỉnh trưởng là Trung Tá Đinh văn Đệ, khoá 1 sĩ quan trừ bị Nam Định, về sau là dân biểu QHVNCH, giữ chức vụ chủ tịch uỷ ban QP.Ha viện vào năm 1969, nhưng lại là một điệp viên của Hà Nội, lộ mặt sau tháng 5-1975. Về tổ chức, th́ thiếu tá Trần văn Chà làm tiểu khu phó kiêm Phó TT.Nội An., về sau TT.Chà lên Trung Tá và làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 53/SD23BB. Đại Úy Lê Trung Hưng làm Tham Mưu Trưởng TK. Trung Úy Lữ Tây Tựu, người PT, một sĩ quan tài giỏi và can trường, từ SD23BB được biệt phái về giữ chức Trưởng pḥng 2.TK. Cũng năm đó, trưởng pḥng 3/TK là trung úy Nguyễn văn Trị. Riêng đại uư Lê văn Trạch là quận trưởng Hàm Thuận, đại uư Trọng QT.Thiện Giáo, đại uư Kiều văn Út QT.Hải Long, thiếu tá Woàng sắn Cảnh, QT.Hải Ninh, đại uư Lương Vặng,QT.Phan Lư Chàm, đại uư Nguyễn quang Mẫn,QT.Ḥa Đa, Thiếu tá Bùi quang Huỳnh QT.Tuy Phong. Về quân sự, thuở đó cấp đại đội DPQ là đơn vị cao nhất trong tỉnh. Về phía bắc có Trung tâm HL.DPQ-NQ Sông Mao do Trung Tá Thanh làm chỉ huy trưởng, c̣n Thiếu tá Woàng văn Thông th́ làm CHT/BCH bắc BT bao gồm 4 quận HD,TP,PLC và HN. Riêng CHT/DPQ-NQ tỉnh là thiếu tá Lê văn Thông, đóng chung với Quân vụ thi trấn và đồn quân cảnh trong TK củ đối diện với vườn hoa và Ty ngân khố, cạnh trường nử TH. Về chủ lực quân biệt phái, chỉ có TD2/44/SD23 của Thiếu tá Xứng bao vùng khắp lănh thổ. Cuối năm 1967, Trung Tá Nguyễn khắc Tuân thuộc tổng cục quân huấn/BTTM về làm tỉnh trưởng BT thay trung tá Đinh văn Đệ, Trung Tá Tuân ở lại VN đi tù và chết tại Bắc Việt.
    Giữa năm 1968, Đại Tá Đàng thiện Ngôn về làm tỉnh trưởng BT thay thế Trung Tá Tuân, c̣n Thiếu tá Hồ ứng Phùng làm tiểu khu pḥ và đại uư Lê văn Anh làm Tham mưu trưởng. Mùa thu năm 1969, DT Nghĩa thay DT Ngôn làm TT, Trung Tá Vương Đăng Phong, TKP và Trung Tá Mai Lang Luông TMT. Các pḥng sở cũng được thay đổi như sau : Phó Tỉnh Trưởng HC. Phạm Ngọc Cửu, Chánh Văn Pḥng Cát Ngọc Giao. ThT Nguyễn văn Mầng (K17SQTD), trưởng pḥng Tổng Quản Trị. Đại Uư Nguyễn văn Hiển (K19SQTD) trường pḥng 1. Đại Uư Đặng Vũ Đàn (K19SQ/DPQ) trưởng pḥng 2. ThT Nguyễn Văn Trị, trưởng pḥng 3. ThT Trần Hoạt (chết tại Honolulu), trưởng pḥng 4. ThT Phạm Minh (K16VBDL) Trung tâm trưởng TTTV. ThT Trực,trưởng pḥng Truyền Tin.Trung Tá Phan Trần Bảo, Trưởng Ty CSQG. Từ năm 1970 về sau, trong đà cải tiến QLVNCH, cơ cấu BCH.TK thay đổi, TrungTá Trí, TKP kiêm TMT, Trung Tá Mai Lang Luông, TTT B́nh Định phát triển nông thôn nhưng Lê Minh Giang vẫn Tỉnh Đoàn Trưởng TD.XDNT. Thiếu Tá Nguyễn văn Trí, Trưởng Ty ANQD. ThT Nguyễn Văn Hồng, trưởng khối CTCT. Trung Tá Nguyễn Ḥa, chủ tịch Hội Đồng Tỉnh.

    Các Quận Trưởng cũng được hoán chuyển từ cuối năm 1974 : Quận Tuy Phong, ThT Hà Văn Thành, Ḥa Đa Trung Tá Kiều Văn Út, Phan Lư Chàm ThT Đặng Chánh Anh, Hải Ninh Trung Tá Diêp Sắng Cảnh, Thiện Giáo ThT Lê Văn Thông, Hàm Thuận ThT Dụng Văn Đối, Hải Long ThT Hàng Phong Cao, Xă Trưởng Phan Thiết ThT Nguyễn Thanh Hải, Yếu Khu Châu Thành ThT Cư và CHT.QYV Đoàn Mạnh Hoạch, ThT bác sĩ Vơ Đạm.
    DD/DPQ được nâng cấp, có 8 Tiểu Đoàn, một Liên Đội Đặc Nhiệm Nông Trường Sao Đỏ và nhiều DD/Biệt Lập, được phối trí như sau : – DD206/DPQ Trinh sát , do DU Lê văn Tṛ (khóa 19.SQ/DPQ) làm DDT. DD290 Biệt lập của DU Sâm, đóng tại Hải Long. DD283 biệt lập của DU Nguyễn văn Ba, đóng tại Tuỳ Ḥa,Thiện Giáo, kiêm Yếu Khu trưởng Phú Long. Ở Hàm Thuận có 2 DD/DPQ biệt lập 127 và 887.
    Tại Bắc B́nh Thuận có TD248/DPQ của Thiếu Tá Lê văn Trung tại Tuy Phong, sau là ThT Xuân làm TDT., TD212DPQ của Thiếu tá Quân cọi Lương Sơn, Sông Lũy.TD 229/DPQ của ThT Tiến, đóng tại Phan Rí. Sau khi Bắc BT thất thủ, TD này về giữ mặt nam Thị Xă Phan Thiết.
    Nam B́nh Thuận có 5 TD/DPQ : TD249 DPQ của Thiếu tá Phan Sang, BCH đóng tại núi Tà Dôn, hoạt động tại Long Hiệp, Ḥa Vinh,Tuỳ Ḥa., những ngày cuối cùng do DY.Huỳnh văn Quư làm TDT thế ThT Sang. TD202DPQ của Thiếu Tá Lương văn Bính hoạt động tại Cây Táo,Long Thạnh., sau DU.Huỳnh văn Ḥang XLTV.TDT thế ThT Bính. TD275 /DPQ của Thiếu tá Nguyễn Tư, có 1 DD của Trung Uư Lợi, đóng trên núi Tà Dôn, bảo vệ Khẩu đội Pháo Binh., một DD của DU.Nguyễn Đ́nh Úy đóng tại Ḥa Vinh, thành phần c̣n lại của TD đóng ở Kim Ngọc. TD230DPQ của Thiếu tá Thổ Thêm, hoạt động tại Thiện Giáo, sau giao cho DU Mai Vi Thành XLTV.TDT và DU Trần Đăng Thiệt TDP. TD274DPQ của Thiếu tá Trịnh văn B́nh hoạt động tại Bầu Gia,Phú Hội., Thiếu Tá B́nh chết tại trại tù ở Bắc Việt.
    Tại Bắc BT, BCH quân sự băi bỏ nhưng thay vào đó là BCH.Liên đoàn DPQ do Đại Tá Lại văn Khuy, nguyên Trung đoàn Trưởng TRD42/SD22BB về làm CHT. BCH Liên đoàn đóng tại xă Lương Sơn, đối diện với mật khu Lê Hồng Phong, gồm 2 TD229 và 212 DPQ, hành quân tại 4 quận miền bắc. Từ tháng 3/1975, B́nh Thuận không c̣n Trung Đoàn 44/SD23 và Chi đoàn 3/8/Thiết kỵ tăng phái, v́ những đơn vị chủ lực quân này đă di chuyển hết lên cao nguyên năm 1972. Để bảo vệ an ninh cho thị xă Phan Thiết, từ năm 1970 lập thêm Yếu khu châu thành hay BCH/LD/DPQ/PT đóng tại trại Đinh công Tráng, trước sân vận động Quang Trung, kế trường trung học Bạch Vân, do thiếu tá Nguyễn văn Cư làm CHT. Phía Nam Phi Trường Phan Thiết, có Liên Đội DPQ.Đặc Nhiệm Công Trường Sao Đỏ, do DU Huỳnh văn Quư chỉ huy, hoạt động tới Phú Khánh-Ba Ḥn. Về đơn vị Đồng Minh, quan trọng nhất vẫn là Bộ chỉ huy MACV/TKBT đóng tại khách sạn Hồng Hưng, đối diện với trường Tiến Đức, tức là PBC củ trên đại lộ Trần Hưng Đạo. Để góp phần giải tỏa an ninh cho bốn quận miền bắc, cũng như lộ tŕnh đường bộ trên QL1, từ Ḥa Vinh tới Phan Rí, ngang qua mật khu Lê Hồng Phong dối diện vói các xạ Long Phú,Lương Son,Sông Lủy, Chợ Lầu,Tịnh Mỹ,Hiệp An, Hiệp Ḥa….cơ quan MACV đă phối hợp với TK.B́nh Thuận, thành lập lực lượng Dân Sự Chiến Đấu, BCH đóng tại trại Phi Long ở xă Lương Sơn, trại Phi Mă ở xă Phan Rí Thành cạnh Chi khu Ḥa Đa, trại Phi Hổ ở ấp Tịnh Mỹ, xă Chợ Lầu, đồn Mara ở Sông Lũy..Tất cả doanh trại Lực lượng DSCD đều có băi đáp trực thăng, c̣n các SQ,HSQ chỉ huy đều thuộc các toán A/LLDB VN và SQ-HSQ /LLDB Hoa Kỳ làm cố vấn., chính họ đă vô hiệu hóa cái gọi là mật khu thành cây vách cát Lê Hồng Phong của VC, nơi trú ẩn của các tiểu đoàn địa phương 482 và 840 VC, cũng như Trung đoàn chính quy 812 Bắc Việt của quân khu 7 VC tăng phái. Năm 1970, các trại LLDB tại B́nh Thuận đóng cửa nên Biệt kích Mỹ hay LL/DSCH cũng giải thể để thành lập các DD/DPQ., các cấp chỉ huy được mang quân hàm Thiếu úy, c̣n danh hiệu là DD700,710,720,730/ DPQ/BT, sau đó nhập chung thành Liên Đội 2/32/DPQ/BT do Thiếu Tá Nguyễn thanh Xuân chỉ huy, trách nhiệm bao vùng tư Lương Sơn, Sông Lũy , tới ngả ba Chợ Lầu-Sông Mao. Sau năm 1972, LD2/32/DPQ lại cải danh thành tiểu đoàn 2/212 do thiếu tá Quận chỉ huy cho tới lúc tàn cuộc. Về các đơn vị tăng phái, có Duyên Đ̣an 28 Hải thuyền, hoạt động bảo vệ vùng duyên hải B́nh Thuận, từ mủi Đá Chẹt ở bắc Tuy Phong, vào tới Mũi Đèn Nam B́nh Thuận, chỉ huy Duyên Đoàn từ đầu có Thiếu úy hải quân Nguyễn văn Thuận, cựu HS/PBC 1955-1962, đă chết trong lúc di tản. Duyên đoàn trưởng cuói cùng là HQ.Thiếu tá Việt và Duyên đoàn phó, Đại Uư HQ.Cat. Ngoài ra c̣n có Biệt đội quan sát L.19, thuộc Phi Đ̣an quan sát 215, SD2 Không quân từ Nha Trang tăng phái cho TK/BT giúp P2,3/TK bay quan sát bao vùng hành quân, mở đường và hướng dẫn pháo binh tác xạ. Về thiết kỵ, trước năm 1973 có các chi đoàn 2 và 3/8 thuộc SD23 tăng phái.. Tết Mậu Thân 1968 trung úy Hàng phong Cao làm chi đoàn trưởng 2/8 giải tỏa Phan Thiết, sau biệt phái về làm Quận Trưởng Hàm Thuận từ thời Đại Tá Ngô tấn Nghĩa. Riêng Chi Đoan 2/8 giao cho Đại Uư Đệ, nguyên DDT 948 DPQ, lúc đó hoạt động tại Tuỳ Ḥa và Phú Long. Đại đội này về sau di chuyển ra Ḥa Đa và giao cho Đại uư .Mai xuân Cúc, nguyên trưởng ban 2/ quận Ḥa Đa của Quận Đối làm Đại Đội Trưởng và những ngày cuối cùng là đơn vị đóng trong thị xă Phan Thiết cho tới sáng 19-4-1975, B́nh Thuận hoàn toàn thất thủ, mới xuống tàu HQ tại Kim Hải, di tản về Bà Rịa-Vũng Tàu.

    3- Những Ngày Chiến Đấu Cuối Cùng
    Của TK.B́nh Thuận, Vào Cuối Tháng 4-1975 :


    Theo VC, từ sau năm 1970 qua chương tŕnh b́nh định của Đại Tá Nghĩa, đă khiến các cơ sở nằm vùng cũng như bộ đội trong tỉnh lâm vào t́nh trạng gần như bế tắc và bị tổn thất nặng nề , trong đó phần lớn do ḿn Claymore gây ra. Từ sau Phước Long thất thủ vào đầu năm 1975, tiếp theo là Ban Mê Thuột mất ngày 14-3-1975, VC B́nh Thuận bắt đầu ngoi lên và phá hoại khắp, nơi như đốt các cây xăng số 6,8, tấn công đồn cảnh sát Đức Long. Từ ngày 5-4-1975, Chi Khu Thiện Giáo di tản chiến thuật trên Liên tỉnh lộ 8 .Nhân dịp này, thiếu tá quận trưởng Lê văn Thông và Chi khu phó là DU.Lê văn Tuân, đă trốn về Sài G̣n nhưng TD.230/DPQ của DU Mai Vi Thành và Các DD/DPQ biệt lập của Quận, vẫn không ră ngủ. Phan Thiết, Hải Long lúc đó gần như tràn ngập người tị nạn khắp miền Trung đổ xô về bằng đủ mọi phương tiện, đường bộ, tàu thuyền..và được Ty Xă Hội trợ cấp giúp đở tận t́nh. Để giải toả bớt căng thẳng trong thị xă, từ ngày 13-4-1975 Tỉnh cho thành lập tại Thiện Khánh và Thiện Nghiệp các trung tâm tiếp cư tạm thời dưới các rặng dừa và sân vận động, để chờ tàu HQ vào di tản họ tới Vũng Tàu. Do trên t́nh h́nh tại Hải Long thêm phức tạp, một phần từ những phần tử xấu như đào binh, đặc công trà trộn gây rối loạn, cũng như công khai cướp bốc tài sản của dân chúng tại địa phương. Mặt khác, bọn VC nằm vùng thừa cơ hội dậu chưa đổ, nhưng b́m đă leo khắp nơi với sự ra đời của cái gọi là ủy ban khởi nghĩa, may sẳn cờ, khẩu hiệu..và các đội tự vệ vơ trang em bé quàng khăn đỏ.. Từ ngày 15-4-1975, t́nh h́nh Hải Long càng thêm nặng nề v́ có nhiều đơn vi từ QD1 và 2 ngoài Trung đến đây bằng đường biển. Riêng các xóm đạo của người Bắc di cư, tại Thanh Hải, Cầu Ké, Vĩnh Thủy, Vĩnh Phú đă kéo tàu thuyền chạy về Long Hải, Vũng Tàu. Tuy nhiên, t́nh h́nh mặt trận miền đông và Phan Thiết, vẫn chưa có ǵ nguy ngập, tới ngày 17-4-1975 Chi Khu Hải Long chưa loan và tất cả các đại bàng kể cả quận trưởng Hàng phong Cao vẫn có mặt , trong các vị trí pḥng thủ gần như 24/24.
    A- TỬ THỦ PHÚ LONG :
    Ngày 16-4-1975 pḥng tuyến Phan Rang vở, trước sự tấn công của mấy sư đoàn Bắc Việt, với xe tăng, đại pháo tối tân của Liên Xô, Trung Cộng cà cả khối cọng sản quốc tế. Trong lúc VNCH gần như kiệt quệ về nhân lực cũng như trang bị, v́ người Mỹ phản bội, thất hứa. Gần hết Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của Quân Đoàn III, trong đó có Thiếu Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, cũng như Tư Lệnh Sư Đoàn 6 KQ là Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang, Lữ Đoàn Trưởng LD2/ND là Đại Tá Nguyễn Thu Lương và nhiều Sĩ Quan cao cấp khác, đều lọt vào tay giặc tại Phan Rang.
    Cũng trong ngày đó, các lộ quân Bắc Việt, từ Nha Trang, Đà Lạt, ồ ạt theo QL1 tiến vào B́nh Thuận. Cho nên trách sao được bốn chi khu Tuy Phong Ḥa Đa, Phan Lư Chàm, Hải Ninh với quân số chưa tới 3 Tiểu Đoàn, mà chỉ toàn DPQ + NQ, th́ lấy chi chọi với tăng pháo và biển người.. Cũng nhờ có nhiều chiến hạm của BTL. Vùng 2 Duyên Hải , đă bất chấp pháo địch, ghé sát bờ , vớt được nhiều đơn vị đă tham chiến tại Phan Rang, cũng như các Chi Khu của bốn quận miền Bắc. Nói chung tất cả quân các cảnh tại đây, kể luôn Tiểu Đoàn 274 DPQ của ThT Xuân, lúc đó đang đóng tại cầu Đá Chẹt, giáp ranh với Cà Ná, cũng di tản được tới Vũng Tàu bằng ghe đánh cá , tại Long Hương và Phan Rí Cửa.
    Như vậy từ đó, ranh giới của tỉnh B́nh Thuận với giặc Hồ là thị trấn Phú Long, trên QL1, cách Phan Thiết khoảng 10 km, về phía bắc. Ở mặt trận miền đông, Chi Khu Hải Long vẫn c̣n và BCH.Tiền phương của TK.B́nh Thuận, do Đại Tá Tỉnh Truởng , Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa, vẫn đóng trên Lầu Ông Hoàng. Trong thị xă, c̣n có 2 BCH khác, một do Trung Tá Trí, TMT/TK kiêm CHT/DPQ+NQ, đóng tại Căn Cứ của Duyên Đoàn 28 tại của biển Thương Chánh. C̣n BCH.Hành Chánh Tỉnh th́ do Phó TT là Phạm Ngọc Cửu, cùng với các Trung Tá Ḥa, Luông, ThT Huỳnh văn Việt (Trưởng Ty CCB/BT) chỉ huy, đóng ngay trong Ṭa Hành Chánh, lúc đó coi như lănh đạn pháo kích của VC hằng giờ.
    Chiều ngày 12/4/1974, Đại Uư Huỳnh Văn Quư, lúc đó đang là Liên Đội Trưởng Liên Đội Đặc Biệt, đang bảo vệ Nông Trường Sao Đỏ, ở phía nam phi trường Phan Thiết, thuộc Ấp B́nh Tú, xă Kim B́nh, quận Hàm Thuận, nơi có mấy ngàn Viêt Kiều hồi hương từ Kampuchia về. Ông được chỉ đinh làm Tiểu Đoàn Trưởng , TĐ 249 DPQ, lúc đó do ThT.Phan Sang chỉ huy. Việc bàn giao đơn vị được thực hiện ngay lúc 7 giờ tối cùng ngày, với nhiệm vụ TD249 phải tái chiếm lại Phú Long, đă mất từ mấy ngày qua. V́ quân số quá hao hụt, nên TK biệt phái thêm cho TD, Đại Đội 283 Biệt Lập của Đại Uư Nguyễn Văn Ba, một sĩ quan LLDB rất gan dạ và tài giỏi. Ngoài ra Đại Uư Nguyễn Văn Hạnh, cũng được chỉ định làm TDPhó/249 thay DU Huỳnh Đắc Hoá. Ngày 13-4, sau khi hết nhiệm vụ, ThT Phan Sang được TK.B́nh Thuận, trả về đơn vị gốc là SD21BB. Lúc 4 giờ chiều ngày 13-4-75, xe chở TD249 và DD283, từ Phan Thiết tới Phước Thiệu Xuân th́ đổ quân và tái chiếm Phú Long bằng ba cánh : – 1 do DD283 tăng phái của DU Ba và DD3/249 của Trung Uư Thời, đánh từ Ḷ Vôi tới Chợ và Cầu Phú Long. Cánh 2, do DD4/249 của Trung Uư Thành và Trung Đội Thám Sát của TD, đánh từ Ḷ Vôi tới Trụ Sở Xă Phú Long. Cánh 3, do DD1/249 của DU.Đáp, tấn công hướng đông. Riêng DD2/249 của Đại Uư Nguyễn Chánh Trúc, làm lực lượng trừ bị cho TD. Trận chiến rất khốc liệt, kể cả TrD6/SD2BB biệt phái, mấy ngày trước vẫn phải rút về Phước Thiệu Xuân, v́ hỏa lực của giặc rất mạnh, lại chiếm được nhiều cao ốc trên QL1, đặt súng Đại bác 57 ly và B40 bắn từ trên cao xuống. Thêm vào đó là pháo 105 ly, mà giặc đă chiếm được , bắn liên tục từ B́nh An sang, làm thương vong nhiều người, trong đó có TrU Thời (DDT) và TrY Nhàn (DDP) của DD2/249, tại Ấp Phú Trường. V́ vậy tới ngày 14-4-75, TD phải đánh cận chiến bằng lưu đạn, cũng như tranh giành từng thước đất khắp các vị trí, mới chiếm lại được xă Phú Long, ngoại trừ các ngôi chùa, không dám đụng tới v́ sợ hư hại chốn tôn nghiêm, kể cả sự yểm trợ của Không Quân và Pháo Binh tác xạ.

    Coi như TD249 và DD283 biệt lập cố thủ tại Phú Long, cho tới ngày 18-4-1975, th́ nhận được lệnh của TK/BT báo, là sẽ có Đơn Vị khác lên thay thế, cho TD đă quá mệt mỏi và tổn thương nhiều, trong mấy ngày tử chiến.
    V́ Miền Bắc BT bỏ ngỏ từ khi Phan Rang thất thủ, nên Binh Đoàn Bắc Việt tiến vào Phan Thiết rất nhanh và sáng ngày 18-4-75, đă tới Tà Dôn. Bởi vậy Đại Uư Quư., xin Đại Tá Nghĩa, tăng cường cho TD249, Chi Đoàn Thiết Giáp của SD2BB, đóng tại Phước Thiệu Xuân, cùng với TrD 6/SD2BB nhưng TK không đáp ứng, v́ các Đơn Vị tăng phái này, đang chuẩn bị rút về Nam, khi biết tin quân Bắc Việt sắp tới Phú Long. Khoảng 6 giờ chiều ngày 18-4, qua hệ thống truyền tin, Đại Uư Quư, biết BCH. Tiền Phương của Đại Tá Nghĩa, đóng trên Lầu Ông Hoàng, đă rút ra bờ biển, theo đường Phú Hài về Phan Thiết. Dù nhận lệnh cố thủ Phú Long, nhưng Quư không thể chấp hành lệnh, khi tất cả các đơn vị,kể cả Thiết Giáp đă rút. Lúc đó, coi như TD249 và DD283/DPQ là đơn vị đoạn hậu. Tuy nhiên cuộc rút quân, chỉ thực hiện, khi biết xe tăng địch đă tới Xă Tuỳ Ḥa, vào lúc 7 giờ tối. Theo kế hoạch, DD4/249 đóng ở Cổng Bắc xa nhất, rút trước. C̣n DD2/249 là thành phần trừ bị, nên rút sau cùng. V́ nghĩ rằng sẽ về tái chiếm lại , nên DU Quư không cho phá Cầu Phú Long, ngang sông Cả, trên QL1, như lệnh của TK/BT, mà chỉ gọi Hải pháo . Trong lúc TD249 rút quân, th́ máy của Thiết Giáp/SD2BB, liên lạc ngăn chận, bảo chờ gở ḿn. Thật sự , Đơn Vị này đă rút , nhưng muốn gạt DPQ ở lại đoạn hậu,cho an toàn. Tại Lầu Ông Hoàng, lúc đó c̣n có DD1/275DPQ của Đại Uư Nguyễn Đ́nh Uư, từ Tà Dôn rút về. C̣n DD290/DPQ biệt lập của DU Sâm, th́ từ lâu ở đó, để bảo vệ BCH nhẹ của TK và Khẩu Đội Pháo Binh 105, đóng tại đây. Cuối cùng trong đêm 18-4-1975, TD 249 và DD283 rút về Rạng và được thuyền đánh cá, chở tới Vũng Tàu. Riêng DD1/275 của DU. Uư và DD290 của DU.Sâm, chỉ rút khỏi Lầu Ông Hoàng, khi xe tăng VC tấn công . Tại QL số 1, dù SD2/BB cũng như các TD249/DPQ và TD275/DPQ rút về Phan Thiết, nhưng các Trung Đội Nghĩa Quân vẫn ở lại, dù có lệnh di tản. Chính Họ đă bắn cháy một T54 , trước Nhà Thờ Kim Ngọc, trong khi Mặt Trận Không Có Đại Bàng, không phải v́ Đại Bàng khiếp nhược bỏ chạy, mà v́ ” Thời Thế Thế Thời Thời Phải Thế “.
    Last edited by alamit; 04-02-2013 at 09:00 PM.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Ảnh hưởng của Quân đội VNCH trong sự phát triển của chiếc M113
    By mơtiên in forum Quân Sử Việt Nam Cộng Ḥa
    Replies: 4
    Last Post: 15-07-2012, 03:18 AM
  2. Replies: 0
    Last Post: 22-09-2011, 05:14 PM
  3. Replies: 0
    Last Post: 13-08-2011, 02:18 PM
  4. Replies: 35
    Last Post: 19-10-2010, 03:13 PM
  5. Replies: 0
    Last Post: 15-08-2010, 05:09 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •