(Tiếp theo Bài 3)
IV. Các bản dịch toàn bộ Kinh Thánh sang tiếng Việt
1. Các bản dịch Việt ngữ trong Hội Thánh Tin Lành
Năm 1911 Hội Truyền giáo Phúc âm Liên hiệp (The Christian and Missionary Alliance) chính thức hoạt động truyền giáo Tin Lành tại Việt Nam. Hội Truyền giáo Phúc âm Liên hiệp do Mục sư Albert Benjamin Simpson, người Canada, thành lập năm 1887 và hiện nay có trụ sở chính ở Colorado Springs, bang Colorado, Mỹ.
Bản dịch sang tiếng Việt cuốn Sách Thánh đầu tiên của Giáo Hội Tin Lành là cuốn Phúc Âm Luca do M. Bonnet, Giáo Sư của trường Ngôn Ngữ Đông Phương tại Paris (L’École đes Langues Orientales de Paris) dịch và được Thánh Kinh Hội Anh Quốc và Hải Ngoại (British & Foreign Bible Society - BFBS, Paris) xuất bản tại Paris năm1890.
Năm 1899, Thánh Kinh Hội Anh Quốc (BFBS), tiền thân của Liên Hiệp Thánh Kinh Hội (United Bible Societies - UBS), cho xuất bản Phúc Âm Mác bằng tiếng Việt tại Singapore. Năm 1917, Thánh Kinh Hội xuất bản Phúc Âm Mác tại Hà Nội. Đây có lẽ là cuốn sách Kinh Thánh đầu tiên của Giáo Hội Tin Lành in tại Việt Nam.
Ngoài nhiều bản dịch lẻ tẻ như đă nêu trong hai ví dụ ở trên, Giáo Hội Tin Lành c̣n có nhiều bản dịch toàn bộ Kinh Thánh, gồm cả Cựu Ước lẫn Tân Ước. Trong số các bản dịch toàn bộ Kinh Thánh, các bộ Kinh Thánh sau đây là các bộ nổi tiếng và được ưa thích nhất: Kinh Thánh Việt ngữ 1926, Bản Dịch Mới 2002, Bản Phổ Thông 2010 và Bản Dịch 2011.
Liên Hiệp Thánh Kinh Hội (UBS) là một hiệp hội trên toàn thế giới của các hội Kinh Thánh. Năm 1946 đại biểu đến từ 13 quốc gia đă thành lập UBS, như một nỗ lực để phối hợp các hoạt động của các hội Kinh Thánh. Trụ sở đầu tiên là London và Geneva. UBS hiện có 146 hội viên, hoạt động tại hơn 200 quốc gia và vùng lănh thổ. Công việc của UBS là dịch, xuất bản và phân phối Kinh Thánh trên thế giới.
Trong khi dịch các sách trong Kinh Thánh ra tiếng Việt, các dịch giả Tin Lành và Công Giáo xử dụng các từ có khi khác nhau. Sau đây là tên các sách Kinh Thánh trong các bản dịch tiếng Việt của Tin Lành (TL) và Công Giáo (CG):
Tên các sách Kinh Thánh trong các bản dịch tiếng Việt của Tin Lành (TL) và Công Giáo (CG)
Chữ viết tắt trong bảng trên:
Truyền Thống 1926 = Kinh Thánh Truyền Thống hay Kinh Thánh Việt ngữ 1926, Tin Lành.
Bản Dịch Mới 2002 = Kinh Thánh Bản Dịch 2002 của Hội Kinh Thánh Việt Nam, Tin Lành.
Bản Phổ Thông 2010 = Kinh Thánh Bản Phổ Thông 2010 của Cơ Quan Phiên Dịch Kinh Thánh Thế Giới, Tin Lành.
Bản Dịch 2011 = Kinh Thánh Bản Dịch 2011 của Mục sư Đặng Ngọc Báu, Tin Lành.
KT Ấn bản 2011 = Kinh Thánh Ấn bản 2011 của Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ, Công Giáo.
NABRE 2011 = New American Bible Revised Edition 2011, Công Giáo Hoa Kỳ.
Các bản dịch tiếng Việt của Kinh Thánh nói trên sẽ được tŕnh bày trong phần sau.
Như đă nói ở bài 2, “Thánh Kinh đại cương”, trong phần Cựu Ước của anh em Tin Lành chỉ có 39 sách; Giáo Hội Tin Lành không xem bảy sách sau đây có ơn linh hứng như Giáo Hội Công Giáo La Mă: Tô-bi-a (Tobit), Giu-đi-tha (Judith), 1 Ma-ca-bê (1 Maccabees), 2 Ma-ca-bê (2 Maccabees), Khôn ngoan (Wisdom, or Wisdom of Solomon), Huấn ca (Sirach, or Wisdom of Ben Sira, or Ecclesiasticus) và Ba-rúc (Baruch).
Các sách trong phần Tân Ước, Giáo Hội Tin Lành và Giáo Hội Công Giáo La Mă đều có 27 sách như nhau.
a. Kinh Thánh Việt ngữ 1926
Bản dịch Kinh Thánh Việt ngữ 1926, c̣n được gọi là bản dịch Truyền Thống, hay c̣n gọi là bản dịch của Cadman-Phan Khôi.
Năm 1913, Grace Hazenberg, người Mỹ, được Hội Truyền giáo Phúc âm Liên hiệp cử đến Đà Nẵng công tác, chỉ hai năm sau khi những nhà truyền giáo đầu tiên của hội đặt chân đến đây để bắt đầu công cuộc truyền giáo Tin Lành tại Việt Nam. Năm 1914, William C. Cadman, người Anh, cũng được Hội Truyền giáo Phúc âm Liên hiệp cử đến Đà Nẵng truyền đạo.
Tại Đà Nẵng, William C. Cadman đă gặp Grace Hazenberg và hai ông bà mục sư cưới nhau năm 1915. Hai ông bà đă truyền giảng đạo Tin Lành ở Việt Nam cho đến hơi thở cuối cùng. Bà Grace Hazenberg Cadman mất năm 1946 tại Sài g̣n , thọ 69 tuổi, và được an táng trong Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, Sài g̣n. Mục sư William Charles Cadman mất tại Đà Lạt năm 1948, thọ 65 tuổi, và được an táng trong một nghĩa trang ở thành phố này.
Từ năm 1916 ông bà Mục sư William C. Cadman đă khởi xướng cho bản dịch Kinh Thánh Việt ngữ 1926. Bản dịch này do công sức của nhiều người thực hiện: ông bà Mục sư William C. Cadman, các Mục sư John D. Olsen và I. R. Stebbins, nhà văn Phan Khôi, và của một số thành viên khác trong đó có dịch giả Trần Văn Dơng, sinh viên trường Cao Đẳng Đông Dương, cụ Tú Phúc và vài học giả khác. Tuy nhiên người phiên dịch chính là ông Phan Khôi.
Ông Phan Khôi không phải là một tín hữu của Kitô giáo, ông chỉ dịch thuê Kinh Thánh cho Hội Thánh Tin Lành, nhưng ông đă có công rất lớn trong bản dịch Kinh Thánh Truyền Thống.
Trong bài viết “Phan Khôi Dịch Kinh Thánh Tin Lành Như Thế Nào?” Nguyễn Tà Cúc viết:
“Có một điều cần phải nhấn mạnh là tuy Phan Khôi là người dịch chính nhưng vai tṛ của bà Cadman không phải là thiếu quan trọng. Bằng cớ là, đúng như Phan Khôi nói, bà Cadman phải quyết định những vấn đề quan trọng liên quan đến thần học”.
Trong bài “Bàn về việc dịch kinh Phật”, Phan Khôi viết: “Tôi đă từng dịch kinh điển đạo Cơ Đốc từ tiếng Pháp và tiếng Tàu ra tiếng Việt Nam. Hồi đó tôi làm việc ấy dưới quyền hai ông bà Mục sư W.Cadman. Tuy họ coi tôi là người trọng yếu lắm trong việc dịch, nhưng dầu đến một câu trong đó họ cũng không để toàn quyền về tôi. Gặp câu nào nghĩa hơi khó một chút th́ bà Cadman đem nhiều bổn sách ra mà đối chiếu, - v́ bà biết đến 13 thứ tiếng - để chọn lấy nghĩa nào đúng nhứt. Phần chúng tôi dịch chỉ có bộ Tân ước và một phần ba Cựu ước thôi, song mất đến 5 năm mới thành.
Tôi kể việc ấy vào đây để cho thấy người ngoại quốc làm việc dịch kinh, coi là việc trọng đại lắm, không dám cẩu thả”.
Trong bài “Giới Thiệu Và Phê B́nh Thánh Kinh Báo”, ông Phan Khôi c̣n nói rơ ông đă dịch Kinh Thánh từ năm 1920 đến năm 1925.
Ông Phan Khôi (1887-1959) người Quảng Nam, là một học giả tên tuổi, một nhà báo, nhà thơ, nhà văn, và là một trong những người thành lập tờ Nhân Văn và đứng trong nhóm Nhân Văn - Giai Phẩm (1955-1958). Ông đỗ Tú tài chữ Hán năm 19 tuổi. Phan Khôi là tác giả truyện ngắn rất nổi tiếng “Ông Năm chuột”. Do vụ Nhân Văn - Giai Phẩm, Phan Khôi bị cấm sáng tác cho đến khi qua đời năm 1959 tại Hà Nội.
Phần việc của Phan Khôi mất 5 năm, nhưng toàn bộ việc dịch bản dịch Kinh Thánh Việt ngữ 1926 đă mất 10 năm mới hoàn thành và bản dịch này được “Hiệp Hội Thánh Kinh Anh Quốc Và Nước Ngoài-Thượng Hải” (Société Biblique Britannique Et Étrangère-Shanghai) xuất bản tại Thượng Hải năm 1925 và được nhà xuất bản Thánh Kinh Hội xuất bản tại Hà nội năm 1926.
Theo bài viết “Phan Khôi Dịch Kinh Thánh Tin Lành Như Thế Nào?” của Nguyễn Tà Cúc, bản dịch Truyền Thống đă dựa vào bản dịch bằng tiếng Pháp của Louis Segond (1810–1885), được gọi là Louis Segond Bible, LSB.
Louis Segond, là một nhà thần học người Thụy Sĩ dịch Kinh Thánh sang tiếng Pháp từ nguyên bản tiếng Do Thái và Hy Lạp. LSB được Alliance Biblique Universelle xuất bản vào năm 1910 và được coi là bản dịch tiếng Pháp tương đương với bản dịch tiếng Anh King James. Bạn đọc có thể đọc Louis Segond Bible ở đây.
Phan Khôi có viết: “Tôi đă từng dịch kinh điển đạo Cơ Đốc từ tiếng Pháp và tiếng Tàu ra tiếng Việt Nam”. Cho đến hôm nay chúng tôi chưa t́m thấy tài liệu nào nói về tên bản dịch Kinh Thánh bằng tiếng Tàu mà Phan Khôi cũng đă dựa vào để dịch bản dịch Truyền Thống.
Nói về tầm ảnh hưởng của bản dịch Kinh Thánh Truyền Thống 1926, Nguyễn - Đ́nh - Bùi - Thị, một tín hữu Tin Lành có viết:
“Tôi tin chắc rằng bản Kinh Thánh Việt ngữ xuất bản năm 1926 đă ăn sâu vào trong tâm khảm của con dân Ngài tại Việt Nam, có nhiều người thuộc nằm ḷng khá nhiều câu Kinh Thánh theo bản dịch ấy đến nỗi khó có thể thay đổi đi được trong tâm họ. Thậm chí có không ít những người Việt Nam tin Chúa quả quyết rằng chỉ có bản dịch Kinh Thánh năm 1926 là số một mà thôi, không bản dịch nào hơn cả và rồi họ chỉ dùng độc bản dịch đó để đọc, để học, để chia sẻ, để giảng dạy. Theo tôi, làm như thế là cực đoan, thái quá. Nhưng nói như vậy để cho thấy rằng bản dịch Kinh Thánh năm 1926 đă có một chỗ đứng vững vàng trong ḷng rất nhiều người tin Chúa tại Việt Nam trong gần một thế kỷ trôi qua”.
Năm 1995, toàn bộ Kinh Thánh của Giáo Hội Tin Lành đă được tái bản tại Đà nẵng, ViệtNam. Bộ Kinh Thánh tái bản lần này là bản Kinh Thánh 1926. Việc tái bản này do Hội Thánh Tin Lành Việt Nam thực hiện với sự hổ trợ của Liên Hiệp Thánh Kinh Hội, UBS. Đây là bản Kinh Thánh đầu tiên của Giáo Hội Tin Lành Việt Nam được phép in và phát hành dưới chế độ cộng sản Việt Nam.
Bạn đọc có thể đọc Kinh Thánh Bản Dịch Truyền Thống 1926 theo địa chỉ sau đây, phần Tân Ước chỉ có 4 sách Phúc Âm Ma-thi-ơ, Mác, Lu-ca và Giăng trong tổng số 27 sách:
http://vi.wikisource.org/wiki/Kinh_Th%C3%A1nh_1926
Bạn đọc cũng có thể đọc Kinh Thánh Bản Dịch Truyền Thống 1926 trọn bộ ở đây, (xin nhớ đổi ô thứ ba bên phải từ Hiệu Đính sang Truyền Thống).
Trên internet, một vài trang mạng có đăng Kinh Thánh Bản Dịch Truyền Thống 1926, nhưng đă mắc lỗi trầm trọng là khi đánh máy lại đă tự động sửa đổi một số chữ trong nguyên bản, thí dụ như chữ “nhơn” đổi thành “nhân”, “chơn” đổi thành “chân”… Trang mạng này là một ví dụ.
“Phải đến 22 năm sau kể từ ngày bản Kinh Thánh tiếng Việt 1926 được xuất bản, năm 1948, một nhóm học giả dưới sự lănh đạo của J. D. Olsen và Ông Văn Huyên khởi sự nhuận chánh phần Tân Ước của bản dịch này.
Tuy nhiên, theo thời gian cùng với sự thay đổi, chuyển hóa của ngôn ngữ, một số từ trong bản Kinh Thánh tiếng Việt năm 1926 trở nên cổ, một số từ mà ngữ nghĩa đă thay đổi, một số cách diễn đạt không c̣n thích hợp và trở nên khó hiểu đối với độc giả hiện nay.
Với sự bảo trợ của Liên Hiệp Thánh Kinh Hội, công tác hiệu đính bản Kinh Thánh Việt ngữ 1926 khởi sự từ năm 1999, đến năm 2004 hoàn tất hiệu đính bản Tân Ước, và bản Cựu Ước vào cuối năm 2007. Sau khi thu nhận nhiều ư kiến đóng góp và qua ba kỳ hội thảo về công tác hiệu đính trong những năm 2005, 2007, và 2009, bản Hiệu đính được phát hành năm 2010.”
“Hiệu đính” có nghĩa là “đọc” (hiệu) để “sửa lại cho đúng” (đính ), cho phù hợp hơn với ngôn ngữ đương thời và “nhuận chánh” có nghĩa là “sửa lại” (nhuận) cho “đúng” (chánh).
Sau hơn 10 năm làm việc, Kinh Thánh bản Truyền Thống Hiệu Đính 2010 của Liên Hiệp Thánh Kinh Hội UBS đă được phát hành vào năm 2010 nhân kỷ niệm 100 năm Tin Lành đă được truyền bá đến Việt nam (1911-2011). Một buổi lễ “Cung Hiến Bản Kinh Thánh Hiệu Đính 2010” đă được tổ chức vào ngày 1/9/2010 tại Nhà thờ Tin Lành Nguyễn Tri Phương, 314 Ngô Quyền, P.8, Q.10, TP. Hồ Chí Minh.
Bạn đọc có thể đọc hay download bản văn Kinh Thánh Bản Dịch Truyền Thống Hiệu Đính 2010 ở đây.
Bạn đọc cần lưu ư là trên internet cũng có bản hiệu đính có tên là “Thánh Kinh Việt ngữ Bản Dịch Phan Khôi Hiệu Đính 2011”, về sau đổi tên lại là “Thánh Kinh Việt ngữ Bản Dịch Truyền Thống Hiệu Đính 2012” hay gọi vắn tắt là “Bản Dịch Truyền Thống - Hiệu Đính 2012”. Bản Hiệu Đính 2012 này do Huỳnh Christian Timothy thực hiện và bản này không phải là Bản Truyền Thống Hiệu Đính 2010 do Liên Hiệp Thánh Kinh Hội phát hành năm 2010.
b. Bản Dịch Mới 2002
Kinh Thánh Bản Dịch Mới (New Vietnamese Bible - NVB) 2002, cũng c̣n được gọi là Bản Dịch Mới 2002 đă được Hội Kinh Thánh Việt Nam phát hành năm 2002.
“Vào năm 1987, Vietnamese Bible Inc. được thành lập tại Midland, Texas, với mục đích thực hiện một bản dịch Kinh Thánh Việt Ngữ trung thực, hiện đại, truyền đạt được chân lư của Chúa.
Lúc đầu, Vietnamese Bible Inc. do các Mục Sư Baptist Việt Nam khởi xướng, nhưng sau đó dự án đă mở rộng và mời các Mục Sư thuộc các giáo phái Tin Lành khác nhau cùng cộng tác.
Thành phần của Ủy Ban Phiên Dịch gồm có các Mục Sư Lê Hoàng Phu, Vơ Ngọc Thiên Ân, Trần Đào, Nguyễn Hữu Cương, Mai Hữu Phước, Nguyễn Minh Thắng, Nguyễn Xuân Hà và bà Phạm Xuân.”. (Trích từ “Kinh Thánh tiếng Việt h́nh thành thế nào?” - Đỗ Hữu Nghiêm)
Lời Giới Thiệu Của Ủy Ban Phiên Dịch Kinh Thánh của Kinh Thánh Bản Dịch 2002 có viết:
“Công việc phiên dịch bắt đầu từ năm 1987 với một ủy ban phiên dịch gồm những mục sư của nhiều giáo phái khác nhau như Báp-tít (Baptist), Phước Âm Liên Hiệp (CM&A), Mennonite, Giám Lư (Methodist), Trưởng Lăo (Presbyterian), v.v. Bản dịch được chuyển ngữ sát ư nghĩa theo nguyên tác Hy-bá và Hy-lạp nhưng cũng dễ đọc và dễ hiểu. Đức Chúa Trời đă chuẩn bị nhiều người từ nhiều địa phương khác nhau đă giúp đọc thử bản dịch này. Bản dịch đă được đọc thử tại Việt Nam, Đông Âu, Hoa Kỳ, do tín hữu lẫn người ngoại đạo, mục sư, tín hữu, người trí thức, b́nh dân, già, trẻ, đàn ông, đàn bà và thanh thiếu niên nam nữ. Cuộc thử nghiệm cho thấy bản dịch mới đă đáp ứng đúng nhu cầu của nhiều tầng lớp giữa người Việt Nam.
Sau khi phiên dịch, mỗi sách được một chủ bút, một ủy ban và chủ biên duyệt lăm và sửa chữa với sự góp ư của dịch giả. Bản dịch cũng đă được một số tôi tớ Chúa và tín hữu duyệt lăm tại Việt Nam để bảo đảm bản dịch thích hợp với hội thánh và người đọc tại Việt Nam”.
Về Tân Ước, Bản Dịch 2002 dựa chủ yếu vào ấn bản mới của Tân Ước bằng tiếng Hy Lạp có tên Greek New Testament, bản in lần thứ ba với kư hiệu là UBS3, được phát hành năm 1975. Tên gốc của Greek New Testament bằng tiếng La-tinh là “Novum Testamentum Graece”, tên gốc này được Liên Hiệp Thánh Kinh Hội, UBS, đổi tên sang tiếng Mỹ mỗi khi UBS phát hành. Nội dung Greek New Testament và Novum Testamentum Graece cơ bản như nhau, nhưng nội dung Greek New Testament có khác chút ít với Novum Testamentum Graece do nội dung của Greek New Testament nhắm phục vụ các dịch giả, trong khi nội dung Novum Testamentum Graece nhắm phục vụ các sinh viên và các nhà nghiên cứu. Greek New Testament được UBS ấn hành nhiều lần; lần đầu tiên ấn hành năm 1966 được kư hiệu UBS1. Các thành viên ban biên tập của UBS3 gồm Kurt Aland, Matthew Black, Carlo Martini, Bruce M. Metzger và Allen Wikgren.
Novum Testamentum Graece cũng được Nestle-Aland ấn hành nhiều lần; ấn bản Nestle-Aland mới nhất được kư hiệu là NA28 (Nestle-Aland tái bản lần thứ 28) phát hành năm 2012. Nội dung NA28 cơ bản như nội dung UBS5.
Về Cựu Ước, Bản Dịch 2002 dựa chủ yếu vào phiên bản mới hơn của bản văn Masoretic Text có tên là Biblia Hebraica Stuttgartensia, BHS; BHS có cập nhật một phần dựa trên các Dead Sea Scrolls. BHS là một phiên bản mới của bản văn Masoretic Text của Kinh Thánh tiếng Do Thái được xuất bản bởi Deutsche Bibelgesellschaft (Hội Kinh Thánh Đức) tại Stuttgart, Đức. Ấn bản đầu tiên của Biblia Hebraica Stuttgartensia được phát hành năm 1977. Phiên bản thứ tư của BHS đă được sửa đổi và được phát hành năm 1997.
Bản văn trên internet của Kinh Thánh Bản Dịch 2002 được đăng ở đây, xin nhớ chọn Vietnamese 2002.
(C̣n tiếp)
Bookmarks