Page 3 of 9 FirstFirst 1234567 ... LastLast
Results 21 to 30 of 90

Thread: TÀI LIỆU THAM KHẢO: TỘI ÁC CỘNG SẢN VIỆT NAM - Biến cố Tết Mậu Thân 1968

  1. #21
    chichchoe
    Khách

    Không vơ đũa cả nắm mà mắc mưu Tàu Cộng tiêu diệt trí thức chân chính VN.

    Quote Originally Posted by Dr_Tran View Post
    Các bạn ghi nhớ danh sách đám Ăn cơm quốc gia, Thờ ma Việt Cộng này:

    http://www.vietlandnews.net/forum/sh...911#post115911
    Mấy ông Trần văn Khê, Đặng Thái Sơn.. tội ǵ?.

  2. #22
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    tại Sài G̣n và Huế Tết Mậu Thân 1968

    Khối Tự do Dân chủ cho Việt Nam 8406

    I- NGHIÊN CỨU TỔNG QUÁT
    Việt cộng thảm sát đồng bào vô tội

    tại Sài G̣n và Huế Tết Mậu Thân 1968

    Mường Giang

    Cuối tháng 12-1960, VC thành lập tại Hà Nội cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, dùng làm b́nh phong lừa bịp thế giới về âm mưu cưỡng chiếm VNCH bằng quân sự. Để hoàn thành giấc mộng nhuộm đỏ toàn cơi VN, Hồ Chí Minh bắt các cán binh, bộ đội gốc Miền Nam, đă tập kết ra Bắc năm 1954 phải hồi kết, qua đường ṃn Trường Sơn. Số này sẽ kết hợp với các cán binh nằm vùng năm xưa và một vài trí thức khoa bảng đang bất măn chính phủ Ngô Đ́nh Diệm, v́ đa số thuộc thành phần địa chủ, thượng lưu có quốc tịch Pháp, mà xí nghiệp, ruộng đất đang bị quốc hữu hóa, theo luật pháp của Quốc Gia VN. Tất cả sẽ dấy lên một phong trào tranh đấu giả tạo, để lật đổ chính quyền hợp pháp của Miền Nam bằng kế hoạch ba mặt giáp công. Đó là chính trị, binh vận và quân sự của Miền Bắc, quyết tâm chiếm cho được nửa phần đất nước Việt c̣n lại, từ bờ nam sông Bến Hải (Quảng Trị), vào tới Mũi Cà Mâu.

    Cuộc binh biến ngày 1-11-1963 với kết quả đưa VNCH vào t́nh trạng vô chính phủ và gây nên những xáo trộn chính trị triền miên, suốt những năm 1964-1967. Nắm lấy thời cơ vàng ṛng mà Hồ Chí Minh cho là đă chín mùi tại Miền Nam, nên đầu năm 1964, đảng ra lệnh tập trung các cán bộ Y tế, Giáo dục, Văn hóa, Thể dục Thể thao, Nhà văn, Nhà báo, Nông nghiệp, Bưu điện, Tiếp vận... khắp đất Bắc, để học tập, huấn luyện, lên đường vào Nam, tiếp tay với bọn ăn cơm Quốc gia thờ ma cọng sản, dấy lên phong trào cướp chính quyền ở Huế, Đà Nẵng, Sài G̣n và nhiều thành phố khác. Đợt đó có 300 người bị tập trung tại Trường Huấn luyện Đặc biệt ở Phú Thọ, mang tên là Đoàn K-33.

    Ngày 22-12-1964 lớp học bế mạc. Tất cả các học viên đều lên đường vào Nam. Để che mắt và lừa bịp công luận quốc tế, mọi người được trang bị như VC chính hiệu ở Miền Nam, với quần áo bằng vải kaki Nam Định, mũ tai bèo may bằng vải rộng vành, dép râu B́nh Trị Thiên, cổ quàng khăn rằn và ai cũng thuộc bài “Giải Phóng Miền Nam” của Huỳnh Minh Siêng, tức Lưu Hữu Phước, lúc đó cũng đang có mặt tại Cục R ở Nam phần.

    Trong số cán bộ trên, hiện c̣n nhiều người sống sót và được đảng thưởng công rất hậu như Nguyễn Trung Hậu (Bí thư tỉnh ủy Thuận Hải), Trần Ngọc Trác (Chủ tịch tỉnh Thuận Hải), Ngô Triều Sơn (quyền Bí thư tỉnh ủy B́nh Thuận), Nguyễn Tường Thuật (Chủ tịch tỉnh Phú Yên)... Ngoài ra c̣n có các nhạc sĩ, nhà văn như Phan Huỳnh Điểu, Thuận Yến, Lê Anh Xuân, Tô Nhuận Vỹ, Dược sĩ Nguyễn Kim Hùng, Tiến sĩ Vơ Quảng, Nguyễn Thới Nhậm, Nguyễn Khoa Điềm..

    Qua bài thơ “40 Năm Gặp Lại” đăng trong tờ Xuân Ất Dậu 2004 của VC, B́nh Thuận, Nguyễn Khoa Điềm đă viết :

    “Những người cùng đi trên chuyến tàu lửa ngày ấy

    Qua khu bốn, qua sông Xê-Bang-Hiên, đường chín

    nh́n thấy đêm Noel trong một chớp sáng

    Vâng, chúng ta đă chia tay nhau ở Xê-Phôn

    Tôi rẽ theo vĩ tuyến…”

    Qua lời thơ đă xác nhận, từ cuối năm 1964 khi vào Nam, Nguyễn Khoa Điềm đă được chỉ định hoạt động tại các tỉnh miền hỏa tuyến, thuộc Vùng I chiến thuật của VNCH. Về Huế, y đă trà trộn trong Đại Học Văn Khoa và bị bắt vào những năm 1964-1966 nhưng có điều chỉ bị giam ở Nhà Lao Thừa Phủ, mà không bị giải ra Côn Đảo như đồng bọn.

    Khi VC làm chủ được thành phố Huế, vào những ngày đầu Tết Mậu Thân 1968, Nguyễn Khoa Điềm được giải thoát và trở thành xếp chúa lúc đó. V́ là một cán bộ chính quy có đảng tịch, cho nên chắc chắn y đă ban lệnh hay đề nghị thảm sát đồng bào bị kẹt lại trong thành phố, để trả thù “Ngụy quân-Ngụy Quyền”, những thành phần đối tượng mà từ người cha là Hải Triều (Nguyễn Khoa Văn) tới con Nguyễn Khoa Điềm “không đội trời chung”.

    Lâu nay nhiều người thắc mắc về sự liên hệ giữa Nguyễn Khoa Điềm và Hoàng Phủ Ngọc Tường. Thậm chí không ít người quả quyết cả hai chỉ là một. Nhưng có một hay hai th́ chúng vẫn là những ác nhân thiên cổ, đă tàn nhẫn dă man mất hết nhân tính khi ra lệnh chôn sống, đập đầu và tùng xẻo hàng ngàn đồng bào vô tội tại Huế vào những ngày Tết Mậu Thân (1968).

    Sau ngày 30-4-1975, cộng sản Hà Nội huênh hoang tuyên bố tất cả những tṛ lừa bịp chính trị đă làm từ năm 1930 là thời gian mà đảng cộng sản quốc tế chính thức xâm nhập vào VN, cho tới khi dùng bạo lực cưỡng chiếm được toàn thể quê hương. Để chia chung tội danh thiên cổ đă làm hủy hoại đất nước suốt bao năm qua, Việt Cộng đểu cáng đă lôi bọn việt gian VNCH, kể cả đám sư săi cha cố từng giúp giặc đâm sau lưng người lính miền Nam vào chung xuồng, tung hê ca tung bọn ăn chén đá bát này khi viết lại lịch sử cận đại bằng chủ thuyết Mác-Lê cộng với những huyền thoại hoang tưởng về cái gọi là chiến thắng ba đại đế quốc Pháp, Nhật, Mỹ… Trong khi đó, tội bán nước cho Tàu đỏ cùng với hằng ngàn thảm kịch chiến tranh núi xương, sông máu và những cơn giông băo nước mắt của triệu triệu nạn nhân cộng sản trong bao năm qua, bị chế độ độc tài đảng trị cùng những trí thức không tim óc tiếp tay, chôn giấu vùi dập một cách tận tuyệt trong đáy mộ thời gian.

    Nhưng lịch sử vốn vô t́nh và rất công bằng, bởi vậy đă có rất nhiều trí thức trong và ngoài nước, buổi trước đă ồn ào ca tụng Việt Cộng, nay v́ lương tâm và trên hết là sự thật, phải thay ng̣i bút để viết lại lịch sử. Nhờ vậy những uẩn khúc bi kịch về cuộc chiến VN đă đội mồ sống lại, lột trần những huyền thoại sắt máu dối gian của ngụy quyền Hà Nội từ 1945 -2007. Và trong muôn ngàn câu chuyện “hồi tưởng” đặc biệt nhất cũng vẫn là cái mang tên “Tổng Công Kích Tết Mậu Thân 1968” của 40 năm về trước. Đây là cuộc thảm sát của Cộng Sản Bắc Việt, nhắm vào thường dân vô tội khi chúng tấn công VNCH mà sự khổ đau thê thiết nhất đă xảy ra tại Huế và Sài G̣n.

    Giống như những người Nhật c̣n sống sót khi đă hứng hai trái bom nguyên tử của Mỹ năm 1945, hiện có một số lớn nạn nhân may mắn sau thảm kịch Tết Mậu Thân Huế 1968, đă quả quyết thủ phạm chính cuộc tàn sát dă man lúc đó là những thành phần trong mặt trận Liên Minh Dân Tộc Ḥa Giải do Hà Nội dựng lên tại Huế vào ngày mồng ba tết MT (1-2-1968) gồm Lê Văn Hảo, Hoàng Phủ ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Đoá, Đào Thị Xuân Yến, Hoàng Phương Thảo... Tất cả bọn nam nữ ác quỷ lúc đó đều thuộc thành phần thượng lưu trí thức, ăn trên ngồi trước, ǵ ǵ cũng thừa thải… chỉ thiếu có máu và xác người.

    Bia đá trăm năm có thể bị huỷ diệt bởi con người và thời gian, lịch sử cũng có thể bị thay đen đổi trắng bởi bọn cầm quyền và đám bồi bút vô loại, nhưng bia miệng th́ không bao giờ bất biến bởi chúng là những tác phẩm vô h́nh không chữ nghĩa. Ngoài ra c̣n có luật trời và ṭa án lương tâm, nhất là đối với những người có ḷng tin tôn giáo “Quả Báo Nhăn Tiền”. Nên nay có mặc áo vàng, áo đỏ, áo lam, áo đen hay ở trần đóng khố th́ rốt cục cuối đời cũng phải mặc áo quan để về với đất. Tất cả hăy lấy bọn ác tặc trên để sám hối trước khi “về nguồn” sửa soạn tái sinh, và cơ duyên xấu hay tốt của kiếp tới đều do kiếp này gieo quả.

    Ai là người miền Nam VN, đă được sống sót và đầu thai trở lại khi may mắn đến được bờ đất hứa tự do, chắc không làm sao quên được sự dă man có một không hai của cán binh VC tại bất cứ nơi nào khi chúng hiện diện trước tháng 4-1975. Sau đó là những cảnh xử giảo các thành phần “Quân Cán Cảnh VNCH” qua cái gọi là Ṭa Án Nhân Dân. H́nh ảnh Cố Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Tỉnh trưởng Chương Thiện tại pháp trường Cần Thơ năm nào, bị VC bẻ gập găy xương sống rồi dùng mă tấu đâm nát cơ thể trước khi bắn, vào những ngày đầu tháng 5 mất nước. Cảnh tượng dă man đó làm sao xóa được, để mà hớn hở ḥa hợp, về nguồn khi người tỵ nạn cộng sản đă đi hết biển ?

    Nguyễn Đắc Xuân, tên đao phủ thủ số một trong cuộc tàn sát đồng bào Huế vào những ngày Tết Mậu Thân (1968) mới đây có khoe trên báo Kiến Thức Ngày Nay số 594 xuất bản tại thành Hồ vào ngày 10-2-2007. Y chỉ nhân danh “Phật Tử” mà đă được các chùa hải ngoại khắp nước Mỹ đưa đón trọng thể. Nhờ đó Xuân mới biết, tới nay sau 32 năm, đồng bào Việt hải ngoại, chỉ v́ cái bài vị và di ảnh của Dương Văn Minh được gửi trong chùa Quán Thế Âm ở Orange County, Nam CA, nên biểu t́nh chống đối và gọi đây là chùa VC (?). Bao nhiêu xảo ngôn đó, đủ thấy muôn đời VC vẫn là VC, cho dù chúng có thay đổi màu da như cắc kè…

    Lịch sử VN đă bị đảo lộn v́ sự bóp méo của ng̣i bút trí thức. Dân tộc VN bị mất chủ quyền đất nước và quyền sống vào tay ngụy quyền Hà Nội, cũng chỉ v́ mù quáng tin thật vào những đảo lộn của lịch sử và hậu quả dối trá trên nay vẫn là món hàng thời thượng không mất giá. H.C.M một đời bán nước hại dân làm ngàn tội ác, nay vẫn được thành Bụt ngồi trên bệ thờ trong chùa, trước các đấng thần linh. Lũ ác gian ăn ốc, dân lành VN đổ vỏ từ thế hệ này cho tới thế hệ khác và tới bao giờ mới chấm dứt ? VN là như vậy đó, th́ làm sao mà về nguồn để t́m lại bản sắc dân tộc Hồng Lạc ngàn đời, nay đă bị tức tưởi tanh hôi dưới hố sâu máu và xác người dân Việt đói nghèo trong ngục tù nô lệ VC ?

    1- LỘT TRẦN NHỮNG BÓP MÉO XUYÊN TẠC VNCH :

    Ngày nay những luận điệu điêu ngoa láo bịp, bẻ cong ng̣i bút của đám truyền thông báo chí phương tây mà phần lớn là Mỹ nhắm vào VNCH đă trở nên lỗi thời, sau khi Bắc Việt công khai xé bỏ hiệp ước ngưng bắn mà chúng đă kư với Hoa Kỳ vào năm 1973. Về trận chiến Tết Mậu Thân, Sir R Thompson, nhà bỉnh bút người Anh đă dựa vào lời kể của Dương Quỳnh Hoa, Trần Văn Trà, Hoàng Văn Hoan, Viễn Phương.. viết: “Đây là ư đồ của Vơ Nguyên Giáp, muốn tạo sai lầm chiến thuật, để đẩy VC miền Nam vào chỗ chết. Có vậy Hà Nội mới đưa được cán binh Bắc Việt vào Nam trám chỗ các đơn vị địa phương vừa bị QLVNCH và Đồng Minh tiêu diệt, để dành lấy địa vị độc tôn sau cuộc chiến”.

    Sự thật là vậy nhưng hệ thống truyền thông HK đă đổi trắng thay đen, biến thất bại quân sự của CS tại miền Nam thành một chiến thắng chính trị trên đất Mỹ, gieo sự nghi ngờ tới tầng lớp dân chúng về những công bố của chính phủ trong cuộc chiến VN. Từ đầu năm 1967, Hà Nội đă ban hành nghị quyết số 13, kêu gọi đồng bào miền Nam “đồng khởi” để giành thắng lợi trong một thời gian ngắn. Sở dĩ có hiện tượng này là v́ Đảng quá tin tưởng vào cảnh rối ren đang xảy ra khắp VNCH nhất là tại Miền Trung, bỉ ổi tới cái độ đem bàn thờ Phật ra đường để biểu t́nh. Vin vào cảnh loạn ngầu trên, Lê Duẩn kết luận rằng khi phát động cuộc tổng công kích, dân chúng miền Nam sẽ đứng dậy theo chúng và lật đổ chính quyền như họ đă từng làm vào ngày 1-11-1963.

    Do ảo tưởng trên, Hà Nội đă chuẩn bị sẵn chính quyền tương lai cho miền Nam bằng cái gọi là “Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và ḥa b́nh” để làm mồi danh lợi câu bọn trí thức khoa bảng phản thùng VNCH. Đồng thời dùng liên minh trên để thay thế Mặt Trận Ma GPMN đang hấp hối sắp bị tiêu diệt. Ngoài ra Duẩn c̣n ban lệnh cho tất cả cán binh bộ đội miền Bắc thẳng tay tàn sát “ngụy quân” để làm tan ră “ngụy quyền”. Kết quả VC đă gây nên một cuộc tàn sát có một không hai trong gịng sử Việt tại VNCH mà ghê gớm nhất ở cố đô Huế.

    Tất cả đều là ảo tưởng v́ chỉ có Huế bị giặc chiếm lâu ngày nên đồng bào không chạy thoát được. Những nơi khác tại VNCH, kể cả hai thành đồng của “bác” là Phan Thiết và Bến Tre, cũng chẳng thấy ai đứng dây đồng khởi. Ngược lại ở đâu đồng bào đều di tản vào các vùng do QLVNCH trấn giữ, để tránh bị thảm sát v́ giặc và bom đạn. VC c̣n hoang tưởng tới độ cho rằng lính miền Nam đánh thuê cho Mỹ, nên không có lư tưởng, do đó sẽ buông súng đầu hàng “cách mạng” chống lại chánh quyền. Nhưng đă không có chuyện ǵ xảy ra. Và dù quân số tại hàng rất ít, thế mà QLVNCH vẫn giữ vững được pḥng tuyến và phản công sau đó để chiếm lại hầu như tất cả những lănh thổ bị giặc cưỡng chiếm ban đầu.

    Dịp này Duẩn bắt giam Hoàng Minh Chính, Vũ Đ́nh Huỳnh, Đặng Kim Giang… đồng thời sang chầu Nga, Tàu mua chịu bom đạn súng ống. Riêng Mao tăng viện cho 300.000 quân pḥng không và công binh, để giúp pḥng thủ đất Bắc từ Thanh Hóa trở ra. Theo Xuân Sách th́ năm 1967, không quân Hoa Kỳ oanh tạc Bắc Việt dữ dội. Kế hoạch tổng công kích Tết Mậu Thân nhằm tấn công thẳng vào VNCH, cũng để giải vây cho Hà Nội.

    Tất cả các kế hoạch đột kích miền Nam được chuẩn bị rất chu đáo và bí mật, trong đó có công tác của đội văn công trung ương. V́ quá tin tưởng sẽ chiếm được VNCH nên Duẩn ra lệnh cho Xuân Sách, Huy Du, Vũ Trọng Hối, Huy Thục, Doăn Nho… dàn dựng một bản đại hợp xướng với tiêu đề “Xuân chiến thắng”, được nữ ca sĩ Kim Oanh hát và thu vào băng nhựa để phát ra khắp miền Nam sau khi chiếm được Sài G̣n vào giờ G.

    Nhưng năm Mậu Thân 1968 vĩnh viễn không có giờ G để đám Việt Gian có dịp hát. V́ vậy cuối cùng Đảng chỉ xài có phần 3 của bảng hợp xướng để tuyên truyền qua tựa “VN trên đường chúng ta đi”. Chính Vơ nguyên Giáp là người đă soạn thảo kế hoạch c̣n Hồ Chí Minh th́ ban lệnh tổng tấn công, qua bài thơ máu nay vẫn c̣n :

    “Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua

    Thắng trận tin vui khắp mọi nhà

    Nam-Bắc thi đua đánh giặc Mỹ

    Tiến lên ! toàn thắng ắt về ta!”

    Giáp cũng là tác giả vụ “đổi lịch mới” từ 1-1-1968, để cho ngày mùng một Tết trên đất Bắc trùng với giờ giao thừa tại miền Nam, hầu đánh lừa dư luận để giữ kín bí mật quân sự. Sau tháng 5-1975, VC khoe thành tích và ăn mừng chiến thắng Mậu Thân hằng năm nhưng năm 1969, khi Giáp được một nhà báo phương tây phỏng vấn, th́ cũng chính miệng hắn chối là Hà Nội không hề hay biết ǵ về cuộc chiến Tết Mậu Thân xảy ra tại Miền Nam. Tư cách của các chóp bu đảng CS là thế đó, nên khi chúng nắm được quyền lănh đạo đất nước, VN không đói nghèo hèn nhục trước giặc Tàu và thế giới, th́ mới là chuyện lạ.

    Trong khi đó tại VNCH, gần suốt 20 năm hiện diện, dù đang bị chiến tranh triền miên và từ Tổng thống Diệm tới Tổng thống Thiệu đều bị tố cáo tham nhũng độc tài, thế nhưng cả nước đâu cũng có quyền biểu t́nh xuống đường chống chính phủ, làm báo viết văn phỉ báng cá nhân cấp lănh đạo không chừa lớn bé nếu thích, chẳng ai làm ǵ ai, v́ đó là quyền tự do ngôn luận. Những câu chuyện sử mà sau tháng 5-1975 được viết kể lại để khoe thành tích “nằm vùng, đâm sau lưng người lính trận” của đám Việt Gian như là những vết dao trí mạng của cuộc đời.

    Bi thảm nhất là ngay tại thủ đô Sài G̣n vào những ngày lửa đạn người chết nhà cháy, th́ một số chùa đ́nh lại là nơi giặc Hồ đặt Bộ Chỉ huy quân sự, kho chứa súng đạn, hầm giấu người… Trên tờ Thế Giới Mới số 220 xuất bản tại thành Hồ ngày 20-1-1997, sư Thích Trí Dũng đă khoe thành tích hợp tác với các đặc công trong Biệt Động Đội VC tại Thủ Đức như Bùi Kỳ Vân, Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Văn Bá, Nguyễn Văn Thắng… để xây dựng các cơ sở bí mật tại chùa Một Cột (Thủ Đức) và chùa Phổ Quang kế phi trường Tân Sơn Nhất, để nuôi dưỡng và che giấu các tên đặc công thuộc Lữ đoàn 316 Biệt Động Sài G̣n.

    Sư Dũng cũng là người chỉ huy trực tiếp các cơ sở bí mật của VC tại Sài G̣n cho tới ngày 1-5-1975. Tàn nhẫn vô nhân đạo nhất là hành động sư đă cậy nắp mồ của Ngô Đ́nh Cẩn để giấu súng đạn vũ khí bên trong. Trong trận Tết Mậu Thân, chùa Phổ Quang là điểm khai hỏa trong đêm tấn công phi trường cũng như chổ ẩn nắp của Trần Hải Phụng (Thiếu tướng công an VC) và Trần văn Bá (chỉ huy đặc công Sài G̣n-Gia Định).

    Trong khi đó chùa Giác Lâm ở Tân B́nh (Gia Định), trong gian thờ Thập Điện Diêm Vương là cơ sở hậu cần nuôi chứa cán bộ hoạt động trong thủ đô. Các sư Hồng Hưng, Thiện Thuận đều là VC. Năm 1969 khi Hồ về chầu tổ Mác, chính chùa này đă công khai tổ chức lễ truy điệu cáo vương. Bên cạnh c̣n có chùa Giác Viên ở đường Lạc Long Quân, quận 11 B́nh Thới, cũng là cơ sở hậu cần nuôi giấu cán bộ VC do sư Minh Nguyệt chỉ huy.

  3. #23
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    2- MẶT TRẬN SÀI G̉N :

    Từ tháng 4-1965, tổ đặc công thành lập tại Sài G̣n, Gia Định qua bí số T.300 thuộc Quân khu 6 do Đỗ Tấn Phong chỉ huy, gồm hai tổ A-20 và A-30 có nhiệm vụ chuyển vận và chôn giấu vũ khí tại các cơ sở nằm vùng. Dương Long Sang, Sáu Mía, cha con Vơ Văn Nhân phụ trách chuyển vận súng ống từ ngoài vào Sài G̣n bằng đường bộ và đường sông. Trước khi mở màn cuộc chiến, VC đă có được 8 hầm bí mật chứa vũ khí tại Sài G̣n gồm nhà Năm Lai ở 287/70 Nguyễn Đ́nh Chiểu (Gia Định), Nguyễn Thị Phê số 59 Phan Thanh Giản, Đỗ Văn Căn số 183/4 Minh Mạng. Riêng Bộ Chỉ Huy Đặc Công th́ đặt tại tiệm phở B́nh. Ba Đen (Ngô Thanh Vân) chỉ huy toán đánh Ṭa Đại Sứ Mỹ, Trần Phú Cương chiếm Đài Phát Thanh, Lê Tấn Quốc tấn công Dinh Độc Lập và Đỗ Tấn Phong đột kích Bộ Tổng Tham Mưu.

    Trong khi đó Bộ Chỉ Huy Tiền Phương Nam của VC, vào những ngày sắp tết đóng tại Ba Thu là một xóm Việt kiều trên đất Miên, sát tỉnh Kiến Tường. Đây là một g̣ đất nổi nằm giữa vùng đất trũng đầm lầy giáp với khu Đồng Tháp Mười, mùa khô nước sông cạn nhưng sát đáy có nhiều bùn lún rất nguy hiểm. Trên bờ kênh có thể đi bộ nhưng cũng rất khó khăn v́ đất thịt gồ ghề trơn trợt nếu có mưa. Năm đó VC được lệnh ăn Tết sớm v́ lệnh tổng tấn công dự định vào ngày mùng bốn rạng mùng năm. Cũng theo kế hoạch, Đảng sẽ tổ chức một Tết vĩ đại gọi là Tết Quang Trung tại vườn Tao Đàn Sài G̣n để ăn mừng thắng lợi.

    V́ vậy trưa ngày 29 tháng chạp âm lịch (28-1-1968), tất cả Bộ đội VC tại Miền Nam cũng như BCH Miền gồm Vơ Văn Kiệt (Sáu Dân), Trần Bạch Đằng (Trương Gia Triều - Tư Ánh) đang lúc chuẩn bị ăn Tết th́ nhận được lệnh hỏa tốc của Phạm Hùng (xứ ủy Miền Nam thay Nguyễn Chí Thanh đă chết), qua truyền đạt của Nguyễn văn Linh (Mười Cúc) “Tổng Tấn Công Miền Nam vào lúc 1 giờ sáng ngày Mùng Một Tết Nguyên Đán Mậu Thân (31-1-1968)”.

    V́ có lệnh hưu chiến trong ba ngày Tết nên phía VNCH có phần lơ là trong việc pḥng thủ, nhất là tại các yếu điểm Đức Ḥa, Bến Lức… nên VC đă dùng xuồng nhỏ di chuyển quân từ kênh kháng chiến tới kênh Bo Bo rồi vào sông Vàm Cỏ nằm đầy dọc trong các ruộng lúa và dọc bờ sông Bến Lức (Long An). Cuối cùng vào lúc 15g ngày 30 tết, VC đă tập trung tại Bến Cây Dương và gần sáng 01 mới tới Long Cang. Trong khi đó th́ nhiều tỉnh ở Miền Trung và Cao Nguyên, trận chiến đă mở màn do lệnh không thống nhất v́ “đổi lịch mới”. Riêng lực lượng chính tấn công vào Tổng Nha CSQG tại Sài G̣n là Tiểu đoàn Long An, từ Tiểu đ̣an trưởng xuống tới du kích, theo lời kể của Trần Bạch Đằng, th́ ai cũng đang say rượu. Bộ đội lệnh lạc và kế hoạch như thế, quả thật Vơ Nguyên Giáp đă chơi màn tháu cáy sâu hiểm, lùa gọn cán binh Mặt Trận Ma GPMN vào tử lộ để QLVNCH và Đồng minh tiêu diệt.

    Lúc 2 giờ 50 phút sáng mùng một Tết Mậu Thân, đang lúc đồng bào thủ đô đang vui vẻ đón xuân mới v́ lệnh giới nghiêm được mở và là thời gian hưu chiến, nên quang cảnh ban đêm cũng rộn rịp như ban ngày. Bỗng dưng từ hướng Dinh Độc Lập trên đường Thống Nhất, các loại súng lớn nhỏ thi nhau nổ rầm trời, làm thành những cột khói xanh phá tan màn đêm. Tiếp theo là súng đạn nổ khắp nơi gần như bốn phương tám hướng, nơi nào cũng có, át hẳn tiếng pháo nổ đ́ đẹt. Mọi người túa ra đường coi v́ tưởng có đảo chánh. Măi tới 7 giờ sáng ngày mùng một Tết, đài phát thanh Sài G̣n mới ban lệnh giới nghiêm của Ṭa Đô Chánh và cho biết VC đang tấn công một vài nơi trong thành phố như Dinh Độc Lập, Ṭa Đại Sứ Mỹ ở đường Thống Nhất, Đài Phát Thanh Sài G̣n trên đường Phan Đ́nh Phùng, BTL Hải Quân ở Bến Bạch Đằng, Bộ TTM, Ngă Tư Hàng Xanh ngoài xa lộ, Trại Hoàng Hoa Thám của Nhảy Dù, phi trường Tân Sơn Nhất, trại Quân Cụ ở G̣ Vấp, Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, Ṭa Đại sứ Phi Luật Tân ở đường Trương Minh Giảng, Trại Phù Đổng của Thiết Giáp…

    Tại Sài G̣n, VC tấn công 3 đợt bắt đầu đêm mùng một Tết, sử dụng lực lượng Biệt Động Thành F-100 và các đơn vị chủ lực của cục R. do Trần Văn Trà, Mai Chí Thọ, Lê Đức Anh, Vơ Văn Kiệt, Nguyễn Văn linh và Trần Bạch Đằng chỉ huy. Về phía QLVNCH ngoài lực lượng CSQG, các đơn vị cơ hữu chuyên môn… c̣n có Chiến Đoàn 1 Dù (TĐ 1,6 và 8) từ Vùng 1 về + Liên Đoàn 5 BDQ (TĐ 30, 33, 34 và 38) và Chiến Đoàn B/TQLC.

    Trong những ngày lửa loạn, bộ mặt Sài G̣n khác hẳn với Huế, Nha Trang, Phan Thiết với quang cảnh chết thật sự. Tại thủ đô, dù hai bên đang đánh nhau ngập trời máu lửa nhưng ngoài phố lúc nào cũng đông người. Đó là những nạn nhân chiến cuộc rời bỏ các vùng đang giao tranh để tới các khu an toàn hơn. Sau đó lại phải chạy ḷng ṿng v́ rốt cục chỗ nào cũng xảy ra giao tranh. Đó là bức tranh vân cẩu của những ngày tết Mậu Thân, ghi lại những khuôn mặt hốc hác đau khổ, bên cạnh xác chết, nhà cháy và sự thắc mắc trong ḷng mọi người lúc đó là tại sao VC lại có thể mang được súng đạn vào SG nhiều quá vậy ?

    Cuối cùng VC cũng bị đánh bật ra khỏi thủ đô, chỉ tội nghiệp cho đồng bào cứ tin theo đài BBC Luân Đôn với những loan báo trên trời dưới biển, làm cho cả chánh phủ VNCH lẫn Hoa Kỳ phải yêu cầu người Anh căi chánh măi.

    3- THẢM SÁT TẾT MẬU THÂN TẠI HUẾ :

    Tỉnh Thừa Thiên nằm giữa miền Trung VN, có diện tích 5054km2 và dân số tính đến năm 2000 là 1.045.134 người với các quận Phong Điền, Quảng Điền, Hương Trà, Phú Vang, Hương Thủy, Phú Lộc, A Lưới và Nam Đông. Tỉnh lỵ là thành phố Huế hiện có diện tích 380km2 với 209.043 người. Theo từ nguyên, Huế là do Hoá tên nôm của Thuận Hóa đọc trại ra nhưng đến nay vẫn chưa t́m được xuất xứ, ngoài tên Huế được đề cập lần đầu, trong bài văn viết bằng chữ nôm “Thập giới cô hồn quốc ngữ văn” của đại đế Lê Thánh Tôn (1460-1497). Là cố đô của nhà Nguyễn (1802-1945), Huế muôn đời vẫn đẹp và thơ mộng, mang nhiều sắc thái tiêu biểu cho dân tộc, nhân chứng của một chặng đường lịch sử, văn hóa, kiến trúc VN, nên trong hội nghị lần thứ 17 tại Catagenna nước Columbia, vào tháng 12-1993, tổ chức UNESCO của LHQ, đă công nhận Huế là di sản văn hóa của nhân loại cần bảo tồn

    Nghĩ về Huế, dù là địa phương hay kẻ viễn khách, ai cũng đều ưa thích những công tŕnh kiến trúc lịch sử cung điện và lăng tẩm của các tiên vương nhà Nguyễn. Kinh thành Huế do vua Gia Long cho khởi công xây cất từ năm 1805 măi tới năm 1838 đời vua Minh Mạng mới xong. Đây là một ṭa thành h́nh vuông, mỗi cạnh 2.223m, bề cao 6,60m, chân thành có hào sâu 4m, phía đông nam sát bờ sông Hương nh́n về phía trước là núi Ngự B́nh. Ngoại thành hướng bắc có pháo đài Mang Cá, ngoài ra c̣n có 10 cửa chính với những vọng lầu cao ngất, dùng để ra vào. Ṭa thành được kiến trúc độc đáo, từ kiểu Vauban của Pháp cho tới nghệ thuật xây cất Á Đông, biểu hiện nét hoành tráng, lộng lẫy nhưng không kém phần thơ mộng trang đài từ vách thành, vọng lầu, cửa ngọ môn… cho tới đền đài cung các được chạm trổ, điêu khắc hài ḥa trong cảnh trí thiên nhiên tuyệt diệu.

    Ngược ḍng lịch sử, từ năm 1366 Huế đă là thủ phủ của Đàng Trong, tức là hai Châu Ô, Rí do vua Chế Mân của Chiêm Thành dâng cho nhà Trần làm sính lễ cưới công chúa Huyền Trân của Đại Việt, từ đó trở thành đất Thuận Hóa. Những ǵ c̣n lại của Huế hôm nay chỉ là một phần công tŕnh của cố đô trong đống gạch vụn do Việt Cộng và bọn Việt Gian VNCH tàn phá vào Tết Mậu Thân 1968. Ngoài ra Huế c̣n nhiều nét tiêu biểu khác như Chùa Thiên Mụ, cầu Trường Tiền, Chợ Đông Ba, với trường Quốc Học cổ kính nằm cạnh bờ sông với hàng phượng vỹ nở rộ mỗi độ hè về, núi Ngự B́nh trước tṛn sau méo, sông An Cựu nắng đục mưa trong, hồ Tịnh Tâm sen nở ngút ngàn và Phú Văn Lâu trơ gan cùng tuế nguyệt.

    Nói tới Huế để nhớ về những h́nh ảnh nổi bật dịu dàng của người dân đất Thần kinh như mái tóc thề, tà áo dài trắng, chiếc nón bài thơ, những giọng ḥ, câu hát… tất cả là những nét đẹp làm Huế miên viễn sống với sông núi thời gian. Đến Huế để ăn những món vương giả cũng như b́nh dân tính hơn 600 món vừa chay vừa mặn, vừa cháo vừa chè, kể cả bánh, mứt và đủ thứ dưa. Đến Huế đâu quên món bún ḅ gị heo cọng to rất cay, rồi th́ bánh khoái nơi cửa Thượng Tứ, chiều tối đi ăn cơm Âm Phủ, là thứ cơm thập cẩm đặc biệt với món dưa gang làm món chua rất ngon. Cũng đâu quên được cơm hến bến Cồn, một hương vị đặc thù của Huế, giống như nem chua An Cựu, mè xửng và ốc gạo bến Cồn, mực Thuận An và ṣ huyết Lăng Cô. Cuối cùng nhớ Huế là nhớ đến công tŕnh mở nước vĩ đại của các Chúa Nguyễn Hoàng, Săi Vương, Hiền Vương, Phúc Chu, Phúc Trú… cho ta một giải giang sơn gấm vốc tới tận mũi Cà Mâu no giàu để con cháu về sau một đời sung măn. Những đấng Tiên Vương công đức và sự nghiệp ngất cao như núi trên, từ khi VC lên nắm quyền, đă bị chúng huỷ diệt, để giành công, giành tiếng và giành địa vị độc tôn yêu nước trong ḍng sử Việt.

    Từ năm 1967, Hà Nội đă quyết định tổng tấn công VNCH vào những ngày hưu chiến Tết Mậu Thân 1968. Trong số 44 tỉnh, thị tại miền nam bị đột kích, th́ Sài G̣n và Huế là quan trọng hơn cả. V́ trại Lực lượng đặc biệt A Shau rút đi, nên thung lũng A Shau bị bỏ ngỏ và VC đă lợi dụng dịp này để chuyển một số lớn bộ đội vào tấn công Cố đô với sự dẫn đường chỉ lối của đám Việt gian VNCH tại Huế. Trận chiến mở màn vào sáng mồng 02 Tết, nhằm ngày 31-1-1968, bằng 2 cánh quân : Đoàn 6 gồm các tiểu đoàn đặc công K1, K2, K6 và K12 từ phía bắc tả ngạn sông Hương, tấn công BTL. SĐ I BB tại đồn Mang Cá, phi trường Tây Lộc, Đại Nội. Đoàn 5 gồm các tiểu đoàn K4A, K4B, K10 và K21 từ phía nam hữu ngạn sông Hương, hợp với Thành đội tấn công các cơ sở hành chánh phía nam. Ngoài ra c̣n có Đoàn 9 gồm 2 tiểu đoàn 416, 418 hợp với 1 đơn vị mang tên Đường 12, tấn công mặt tây.

    Cũng nói thêm là VC đă lợi dụng những xáo trộn tại Huế trong các năm 1965,1966, xâm nhập hoạt động cũng như móc nối dụ dỗ một số học sinh, sinh viện quá mê thầy mà phản bội lại VNCH. Thật ra mặt trận quan trọng nhất của VC ở Huế là mặt trận chính trị, v́ vậy Hà Nội bất chấp máu xương của cán binh và thường dân vô tội, ra lịnh cho đám tàn binh phải cố thủ trong Đại Nội dù thực trạng bi thảm tuyệt vọng bởi các ṿng vây của quân lực Hoa Kỳ và VNCH.

    Phụ trách công tác tổng khởi nghĩa, để lập chính quyền cách mạng ở Huế là Hoàng Kim Loan và Hoàng Lanh, đă vào nằm vùng từ lâu trong nhà một giám thị trường Quốc Học là Nguyễn Đoá. Ngoài ra c̣n có Nguyễn Trung Chính, Nguyễn Hữu Vân (giáo sư trường Âm nhạc kịch nghệ), Phan Nam, Nguyễn Thiết. Ngày 14-2-1968 đài VC phát thanh tại Hà Nội cho biết đă lập xong chính quyền cách mạng tại Huế do Lê Văn Hảo làm chủ tịch, c̣n Đào Thị Xuân Yến và Hoàng Phương Thảo làm phó. Ngoài ra c̣n có cái Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Ḥa b́nh được Hà Nội nặn ra ngày mồng ba Tết (1-2-1968) cũng do Lê Văn Hảo, tiến sĩ giảng sư về nhân chủng học tại Đại học Huế và Sài G̣n làm chủ tịch liên minh.

    Theo Hảo v́ trốn lính, nên 1953 qua Pháp du học và tiêm nhiễm chủ nghĩa cọng sản của Trần Văn Khê, Nguyễn Khắc Viện, rồi vào các năm 1965, 1966, dù đang sống trong cảnh giàu sang, chức trọng lại được khỏi đi lính nhưng vẫn tán tận lương tâm, theo VC nằm vùng là Hoàng Phủ Ngọc Tường và Tôn Thất Dương Tiềm. Hai tên này vào MTGPMN và ra bưng cuối tháng 12-1967. Trong Liên Minh Ma này c̣n có Hoàng Phủ Ngọc Tường, Thích Đôn Hậu, Nguyễn Đoá, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân... Tóm lại mặt trận được chỉ huy tổng quát bởi Lê Minh, Trưởng ban an ninh khu ủy Trị Thiên, c̣n Tống Hoàng Nguyên và Nguyễn Đ́nh Bảy Khiêm chỉ lo về phần thủ tiêu, giết người vô tội tại Huế. Theo Bảy Khiêm, chính y đă giết rất nhiều sĩ quan và cán bộ, công chức VNCH bị kẹt tại Huế, cùng các giáo sư người Đức dạy tại Đại học Y khoa, qua chỉ điểm của VC nằm vùng và sau này Lê Minh lẫn Bùi Tín đều xác nhận Việt Cộng đă tận tuyệt tàn sát vô nhân đạo đồng bào vô tội tại Huế vào Tết Mậu Thân 1968.

    Ngay từ đầu, nhờ lợi dụng dịp hưu chiến, nhiều đơn vị cho các quân nhân về nhà ăn Tết, nên VC đă chiếm được hầu hết các cơ sở hành chánh, khu Đại Nội, chợ Đông Ba, cửa Thượng Tứ, An Ḥa, Chánh Tây… ngoại trừ BTL. SĐ I BB tại đồn Mang Cá, cơ sở MACV, Tiểu khu Thừa Thiên, Đài phát thanh, Trường Kiểu Mẫu và cầu tàu Hải Quân vẫn do QLVNCH kiểm soát. Ngày mồng ba Tết 1-2-1968, một ngày sau đó, Chiến đoàn Dù với 2 tiểu đoàn 2, 7 và chi đoàn 2/7 từ phía bắc vào giải vây Huế. Hai đại đội TQLC cùng 4 chiến xa M48 trong Chiến doàn X-Ray đóng tại Phú Bài cũng về Huế tăng cường pḥng thủ MACV. Chiều ngày mồng 4 Tết, TĐ 9 Dù được trực thăng vận vào chiến trường. Từ đây cho tới ngày 12-2-1968, cuộc chiến trở nên khốc liệt bạo tàn với sự tổn thất nhân mạng rất cao của cả hai phía. Cùng ngày đó, Chiến đoàn A Thủy quân lục chiến VN gồm các tiểu đoàn 3, 4, 5 thay thế chiến đoàn Dù, tiếp tục giải tỏa áp lực VC tại sân bay Tây Lộc và Đại Nội. Ngày 19-2 TQLC mở chiến dịch Sóng Thần 739/68. Ngày 22-2 hai tiểu đoàn 21 và 39 BDQ được tăng cường tại Huế và VC cũng bắt đầu tháo chạy. Ngày 25-2-1968 Biệt động quân chiếm lại Khu Gia Hội, chấm dứt chiến cuộc tại Huế với đổ nát, điêu tàn, nhà cửa, cầu cống, cây cối, đường xá gần như tử địa với xác người nằm la liệt đă śnh thối. Tất cả chỉ c̣n là sự tàn nhẫn, thê lương, từ bàn tay đẫm máu của VC và bọn Việt gian mang đủ loại mặt nạ gây nên. Tóm lại không c̣n lời nào để đủ viết về Huế đang quằn quại trong lửa máu, giống như những nhịp cầu Tràng Tiền trên Hương Giang đớn đau găy sập. Hỡi ôi sắt thép, gỗ đá c̣n biết rơi nước mắt với Huế thê lương, trong khi đó lại có không ít người thản nhiên đứng vỗ tay cười.

    Những hành động dă man nhắm vào dân lành tại Huế, làm nhớ tới Nga Sô tàn sát hơn 5000 hàng binh Ba Lan phần lớn là sĩ quan vào tháng 9-1939 tại rừng Katyn ở phía tây thành phố Smolensk, chứng tỏ bản chất hiếu sát vốn tiềm tàng trong máu óc của cọng sản, dù chúng là ai chăng nữa, tất cả đều giống nhau v́ cùng chung một tổ, một ḷ. Trong trận chiến Tết Mậu Thân 1968, Huế là thành phố bị thiệt hại nặng nhất về nhân mạng cũng như vật chất v́ bị VC chiếm đóng lâu dài nhất. Riêng người Huế sở dĩ bị tàn sát dă man, theo một số nhân chứng, do VC được chỉ điểm bởi một số nằm vùng địa phương v́ thù oán nhau mà trả thù, rồi lại được tự do đi lại trong thành phố nên tự do hành động, nhất là trong khoảng từ mồng hai tới mồng bốn, tha hồ đi từng nhà, lôi từng người ra bắn giết theo ư muốn, đúng với kỹ thuật bắt và thủ tiêu theo KGB và Mao-ít.

    Đọc lại những trang sử của VNCH từ 1963 tới tháng 4-1975, ngày nay cả thế giới đều công nhận là VC thua VNCH trên mặt trận quân sự nhưng ngược lại chiếm được miền Nam bằng thủ đoạn chính trị, qua phương cách xách động quần chúng, đồng thời vin vào đó mà nặn ra những mặt trận MA như Giải Phóng Miền Nam năm 1960, rồi sau đó là Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc do phần lớn cọng sản nằm vùng lănh đạo như Lê Khắc Quyến, Lê Tuyên, Tôn Thất Hanh, Lê Văn Hảo, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Tôn Thất Dương Tiềm…

    Trong số các hung thần can dự tới bữa tiệc máu tại Huế, dư luận trước sau vẫn nhắm vào Lê Văn Hảo, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngọc Phan và Nguyễn Đắc Xuân. Năm 1966 khi c̣n là một sinh viên, Nguyễn Đắc Xuân từng tổ chức đoàn “Phật Tử Quyết Tử” quậy nát Huế, sau đó trốn theo VC và trở lại cố đô vào Tết Mậu Thân, phụ trách đội “Công tác thanh niên” và khuyến dụ các quân nhân VNCH bị kẹt, để lập cái gọi là đoàn nghĩa binh… Trái với dự đoán của cộng sản, dân chúng Huế không hưởng ứng tổng khởi nghĩa, trái lại bỏ trốn sang các khu vực có QLVNCH như Mang Cá, Trường Kiểu Mẫu, Tiểu Khu Thừa Thiên, Bến Tàu, Phú Bài… Bắt đầu ngày mồng ba Tết, QLVNCH và Hoa Kỳ phản công, ngày 7-2-1968 VC giựt sập cầu Trường Tiền. Ngày 15-2 Quân Ủy cọng sản tại Hà Nội ban lệnh cho VC tử thủ tại Huế, nhưng t́nh h́nh càng lúc càng bi đát cho VC nên Lê Minh muốn rút quân. Ngày 23-2 VC bị đẩy ra khỏi Huế, lá cờ VNCH lại tung bay trên kỳ đài ở Phú văn Lâu.

    Nói chung cọng sản tàn sát đồng bào Huế nhiều nhất là tại khu dân cư Gia Hội v́ vùng này bị VC chiếm lâu nhất, từ ngày mùng 2 Tết đến 22-2-1968 mới được Biệt Động Quân giải tỏa, bởi vậy giặc và Việt gian mới có cơ hội giết nhiều đồng bào vô tội. Cho đến nay không ai biết chính xác số người bị VC tàn sát tại Huế là bao nhiêu nhưng căn cứ vào thống kê số hài cốt t́m được trong một số hầm chôn tập thể sau khi giặc bị đánh đuổi khỏi thành phố, tại các địa điểm Trường Gia Hội, Chùa Theravada, Băi Dâu, Cồn Hến, Tiểu Chủng viện, Quận tả ngạn, Phía đông Huế, Lăng Tự Đức, Đồng Khánh, Cầu An Ninh, Cửa Đông Ba, Trường An Ninh Hạ, Trường Vân Chí, Chợ Thông, Chùa Từ Quang, Lăng Gia Long, Đồng Di, Vĩnh Thái, Phù Lương, Phú Xuân, Thượng Ḥa, Thủy Thanh, Vĩnh Hưng và Khe Đá Mài... tổng cộng đếm được 2326 xác.

    Về câu hỏi tại sao VC tàn sát thường dân vô tội, đến nay Hà Nội vẫn tránh né, c̣n Vơ Nguyên Giáp th́ đểu giả hơn. Khi bị các kư giả ngoại quốc phỏng vấn sau Tết Mậu Thân, đă trả lời là Bắc Việt không hề biết v́ đó là chuyện của MTGPMN và VNCH. Theo các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, động cơ cộng sản tàn sát dân chúng tại Huế, ngoài lư do nhỏ là sự trả thù do hờn oán trước đây giữa cá nhân và cá nhân, th́ đó là theo kế hoạch phá huỷ và làm rối loạn bộ máy cầm quyền của VNCH, điều này đă được ghi lại trong một tài liệu của cán bộ VC, bị SĐ 1 Không kỵ Hoa Kỳ bắt được tại tỉnh Thừa Thiên ngày 12-6-1968. Tàn sát để khủng bố và cảnh cáo đe dọa dân chúng đừng ṭng quân chống cộng. Tàn sát tín đồ Công Giáo để chia rẽ sự đoàn kết tại miền nam, tạo sự nghi kỵ giữa các tôn giáo cho tới ngày VC cưỡng chiếm dược miền Nam mới chấm dứt v́ VC độc tài đảng trị, cấm biểu t́nh xuống đường, nên bốn bên bốn phía b́nh đẳng chịu sống chung ḥa b́nh. Từ đó mới không thấy tự thiêu, tuyệt thực và ra báo chống đối, bêu xấu, hạ nhục chính quyền như cơm bữa thời VNCH. Tàn sát dân chúng để gây tiếng vang với thế giới.

    Trong ḍng Việt Sử, từ thời Vua Hùng dựng nước cho tới ngày nay, chỉ thấy có ghi lại một cuộc tàn sát tập thể là tàn sát tôn thất nhà Hậu Lư do Trần Thủ Độ gây ra vào năm 1232 bằng thủ đoạn cho giựt sập nhà trai đàn, giết chết chừng vài chục người trong tôn thất nhà Lư. Hành vi trên dù đă thuộc vào quá khứ, đến nay vẫn bị đời nguyền rủa, dù mặt thật của lịch sử, nếu không có Trần Thủ Độ sẽ không có Trần Thái Tông quyết chiến chống quân Mông Cổ xâm lăng Đại Việt lần thứ 1 với câu nói vang danh thiên cổ : “Đầu Độ chưa rơi, không thể đầu hàng giặc Mông!”. Cũng qua ḍng Việt sử, ta thấy kinh thành Thăng Long từ lúc được vua Lư Thái Tổ chọn làm kinh đô vào năm 1010 cho tới thời Pháp thuộc vào năm 1884 đă 10 lần bị giặc Tàu, giặc Chiêm, giặc Pháp tàn phá chiếm đóng (Pháp cũng chiếm đóng kinh thành Huế năm Ất Dậu 1885), nhưng tuyệt nhiên không thấy nói tới quân ngoại quốc tàn sát người Việt khi làm chủ thành. Tóm lại, dù bị kết tội như thế nào chăng nữa, người Tàu, Chiêm, Pháp cũng c̣n nhân đạo hơn VC trăm ngàn lần, về cung cách đối xử với thường dân trong chiến tranh.

    Đem các biến cố năm 1885 tại Huế và 1946 ở Hà Nội để so sánh với Mậu Thân 1968 tại Huế, bỗng thấy lạnh ḿnh về những lời chạy tội của tên Đại Tá VC Bùi Tín, khi trả lời về cuộc tàn sát của VC đối với thường dân tại Huế năm 1968. Theo nhận xét của Nguyễn Đức Phương trong “Chiến Tranh toàn tập”, th́ Bùi Tín không biết ǵ về qui ước Genève dành cho tù binh chiến tranh, hoặc biết nhưng giả bộ ngây thơ không biết để có lư do bào chữa sự tàn ác dă man của cán binh VC và biết thêm về quan niệm của Hà Nội, luôn qui chụp tất cả những ai chống đối họ, đều bị gán là tù binh với kết quả như Bùi Tín nói là phải được chết để giữ ǵn bí mật quốc pḥng.

    Theo Chính Đạo trong “Mậu Thân 1968 thắng hay bại?” th́ sau khi các mật khu bất khả xâm phạm của VC tại Tam Giác Sắt, các chiến khu C-D bị quân Đội Đồng Minh và QLVNCH phá tan nát, khiến Nguyễn Chí Thanh trùm cộng sản Hà Nội, chỉ huy Cục R đă phải thay đổi chiến lược tại Miền Nam vào tháng 5-1967, là đưa chiến tranh vào thành phố để cứu nguy cho cán binh và cơ sở VC tại nông thôn đang sắp bị tiêu diệt. Nhưng rồi Nguyễn Chí Thanh đột ngột chết vào mùa thu năm đó và cái chết của y tới nay vẫn chưa được đưa ra ánh sáng v́ có quá nhiều nguồn tin và các cách chết khác nhau từ VNCH, Bùi Tín, Hoa Kỳ và Xuân Vũ, một cán binh VC hồi chánh từng sống hơn 2000 ngày tại Củ Chi và rất thân cận cũng như am tường chuyện thâm cung bí sử của vua chúa VC tại Cục R. Do trên, Lê Duẩn ra lệnh cho Vơ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng… cải tiến kế hoạch đột kích của Nguyễn Chí Thanh, thành tổng công kích và thêm vào đó là lập một mặt trận ngoại giao chính trị.

    Cũng theo Chánh Đạo, th́ việc Trần Độ năm 1968 là Phó chính uỷ B2, phụ trách t́nh báo, có địa vị tại cục R rất khiêm tốn so với Phạm Hùng, Trần Nam Trung, Trần Văn Trà, Lê Trọng Tấn… nên dù là một trong những cấp chỉ huy trong mặt trận tại Sài G̣n vào Tết Mậu Thân 1968, cũng chưa chắc được Quân Ủy Hà Nội thông báo các kế hoạch bí mật trong Đảng và lời tuyên bố không có cơ sở với kư giả Stanley Karnov năm 1981 rằng phản ứng của Mỹ trong cuộc chiến này chỉ là sự may mắn không có dự liệu trước. Chỉ v́ dă tâm xâm lăng cho được VNCH, mà Hà Nội trong cuộc chiến Mậu Thân đă giết hại hàng chục ngàn người trên toàn quốc và chỉ riêng tại Huế lại chôn sống đồng bào, vậy mà tới nay từ Hà Nội cho tới bọn cộng sản tại Huế vẫn coi như không hề xảy ra một chuyện ǵ và cũng chẳng có ai nhận trách nhiệm, ngoài việc công khai đổ hết nợ máu cho Lê Văn Hảo, Hoàng Phủ ngọc Tường, Hoàng Phủ ngọc Phan, Nguyễn Đoá, Nguyễn Đắc Xuân.

    Năm 1998, ngày giỗ chung của gần 100.000 người VN chết trong cuộc chiến cũng là ngày VC ăn mừng chiến thắng Mậu Thân, ca tụng bài thơ của Hồ viết chúc Tết đồng thời cũng là mật hiệu cho cán binh tại miền nam mở cuộc tiệc máu. Chính Bộ Trưởng quốc pḥng Bắc Việt lúc đó là Vơ Nguyên Giáp soạn thảo kế hoạch, Phạm Hùng Ủy viên Bộ Chính trị chỉ đạo Trung Ương Cục Miền Nam chỉ huy trận tổng tấn công, vậy mà cũng chính Vơ Nguyên Giáp đă trâng tráo dám nói láo với nhà báo Tây Phương vào năm 1969 là hoàn toàn vô can, vô trách nhiệm. Đây là một tội danh thiên cổ mà VC đă gây ra trong ḍng sử Việt, được các sử gia xếp chung với bốn cuộc tàn sát lớn trên thế giới cận đại như vụ quân Nhật tàn sát 300.000 người Hoa tại thành Nam Kinh ngày 13-12-1937, việc Đức quốc xă giết hàng triệu dân Do Thái trong Đệ nhị Thế chiến 1939-1945, kế đến là cộng sản Liên Xô tàn sát 15.000 tù binh Ba Lan năm 1940 và Khmer đỏ tàn sát hơn 2 triệu dân lành sau năm 1975 khi chiếm được Cao Mên.

    Theo Nguyễn Lư Tưởng, th́ những hành động dă man của VC tại Thành Nội và Gia Hội, do cái gọi là Toà Án Nhân Dân được quyết định bởi các chóp bu trong Liên Minh Dân Chủ Ḥa B́nh là Lê Văn Hảo, Thích Đôn Hậu, bà Nguyễn Đ́nh Chi… nhưng chủ chốt và dă man tàn bạo vẫn là bọn theo phong trào tranh đấu chống VNCH năm 1966, sau đó theo VC và quay về Huế như Hoàng Phủ ngọc Tường (giáo sư), Hoàng Phủ Ngọc Phan (sinh viên y khoa), Nguyễn Đắc Xuân (sinh viên sư phạm), Trần Quan Long (sinh viên sư phạm), Phan Chính Dinh hay Phan Duy Nhân (sinh viên)… dẫn an ninh VC như Tống Hoàng Nguyên, Bảy Khiêm… đi lùng bắt bạn bè, thân nhân, các thành phần quân, công, cán, chính VNCH cũng như các đảng phái bị kẹt lại tại Huế.

    Hiện nay tất cả những bí mật của lịch sử gần như được khai quật trong đó có cuộc thảm sát thường dân tại Huế năm Mậu Thân. Những tội nhân thiên cổ ngoài bản án của lương tâm, đạo đức và sự nguyền rủa của đời, nên không ngớt t́m đủ mọi cách để biện minh về tội lỗi của ḿnh. Năm 1988, trên báo Sông Hương và được dịch đăng lại trên tờ Newswwek ở Hoa Kỳ, Đại Tá Bắc Việt Lê Minh, nguyên chỉ huy mặt trận Thừa Thiên-Huế, xác nhận và chịu trách nhiệm về việc tàn sát dân chúng Huế nhưng vẫn đưa ra lư do là lúc đó VC đang ở vào giờ thứ 25, nên không kiểm soát được. C̣n thủ phạm chính Hoàng Phủ Ngọc Tường th́ đổ thừa cho cục bộ, địa phương chứ không phải tại đảng, vẫn giữ nguyên ư là miền nam mất v́ cách mạng chứ không bị cộng sản quốc tế xâm lăng, và trên hết vào ngày 12-7-1997 Tường công khai chối tội là không tham dự mặt trận Huế, v́ lúc đó y đang trốn tại địa đạo trong quận Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. C̣n nhân vật bị bia miệng nhắc tới là Hoàng Phủ Ngọc Phan mà người Huế tưởng lầm là Lê Văn Hảo hiện đang sống tại Pháp cũng chối tội. Sau rốt chỉ có Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Đắc Xuân v́ lúc đó gần như là công an, cai tù, chánh án và đao phủ thủ.. nên người Huế ai cũng nhận được, v́ vậy phải chịu tai tiếng nhơ nhớp muôn đời.

    Ngày nay ai cũng biết Tết Mậu Thân VC thua lớn và Tổng thống Hoa Kỳ là Johnson phải trực tiếp chịu trách nhiệm trước lịch sử v́ đă cố t́nh tạo nên một lỗi lầm nghiêm trọng về đạo đức, gây tử vong cho nhiều người, có thể tránh khỏi nếu được báo trước sự thật.

  4. #24
    Tam
    Khách
    Quote Originally Posted by chichchoe View Post
    Mấy ông Trần văn Khê, Đặng Thái Sơn.. tội ǵ?.
    tội theo việt cộng, mà việt cộng th́ tội đem ba cái chủ nghiă mác lê ngoại lai nhập vào Việt Nam gây ra cuộc chiến tranh Nam Bắc tương tàn, bây giờ th́ cúng sao vàng trên cờ việt cộng lên cờ tàu cộng, ko khác ǵ bán trắng cái tự hào dân tộc Việt cho thằng chệt cộng thối tha, kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt Nam

  5. #25
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Tóm lại, dù Hà Nội đă chuẩn bị kế hoạch cưỡng chiếm VNCH thật chu đáo, cũng như đă tin tưởng tuyệt đối vào đám Việt gian Miền Nam nhưng cuộc tổng tấn công đă hoàn toàn thất bại về quân sự. Chúng cũng thua VNCH về phương diện đạo đức và chính nghĩa, khi đă tàn nhẫn bất lương, xô đẩy hàng trăm ngàn người vào cơi chết, kể cả bắt các thiếu niên đi lính đỡ đạn “sanh bắc tử nam”. Hồ, Duẩn lẫn Giáp đă phỉnh gạt cán binh chết lót đường cho chúng khi nói láo rằng “Miền Nam đă được giải phóng, nên miền Bắc chỉ vào tiếp thu mà thôi”.

    Rốt cục cận sử VN chỉ là một canh bài bịp, Hồ và băng đảng VC đă thắng cuộc, đă xây được một nấm mồ tập thể vĩ đại tại Huế và khắp nước suốt cuộc chiến “nồi da xáo thịt” từ 1945 đến 1975. Ngoài ra c̣n phải nói tới cái gọi là “bạo lực cách mạng”. Chính nó mới là niềm vinh quang của đảng. Hỡi ôi đă 40 năm qua rồi nhưng những ai c̣n sống sót sau cuộc chiến, chắc chắn làm sao quên được cảnh giết người man rợ của VC trong những ngày Tết Mậu Thân 1968.

    Xóm Cồn Hawaii, tháng giêng 2008


    Thảm sát tại Huế

    Douglas Pike

    Huế là một trong những thành phố buồn nhất trên trái đất chúng ta, không phải chỉ v́ những ǵ đă xảy ra ở đấy vào tháng 02-1968 mà vốn không thể tưởng tượng. Đó c̣n là một lời khiển trách thầm lặng đối với tất cả chúng ta, những kẻ thừa hưởng 40 thế kỷ văn minh nhưng trong thế kỷ này, lại đă cho phép những quan điểm tập thể hóa đẩy chúng ta vào những tội lỗi hiện đại xấu xa nhất, từ thờ ơ đến vô nhân đạo. Những ǵ đă xảy ra ở Huế làm cho mọi ai c̣n là văn minh trên hành tinh này phải dừng lại suy nghĩ. Nó phải được khắc ghi để khỏi bị quên lăng cùng với những hành xử vô nhân đạo khác giữa loài người với nhau vốn đă rải rác ghi dấu lịch sử nhân loại. Huế là một minh chứng khác về việc con người có thể đẩy ḿnh đến chỗ làm những ǵ khi nó không đặt giới hạn cho hành động chính trị mà lại vô t́nh theo đuổi giấc mơ về một xă hội hoàn hảo nào đó.

    Những ǵ đă xảy đến tại Huế có thể được mô tả cụ thể qua vài con số thống kê. Một lực lượng Cộng sản lên tới 12,000 người đă xâm chiếm thành phố Huế đêm mồng một Tết, ngày 30-01-1968. Họ đă ở lại 26 ngày và sau đó bị quân đội (Việt Nam Cộng Ḥa và đồng minh) đánh bật ra khỏi. Sau cuộc tấn công dịp Tết này, 5,800 thường dân Huế đă bị giết hại hoặc mất tích. Nay người ta biết phần lớn trong họ đă chết. Xác của phần lớn họ từ đó đă được t́m thấy trong những nấm mồ cá nhân và tập thể khắp tỉnh Thừa Thiên vốn bao quanh thủ đô văn hóa của Việt Nam này.

    Đấy là những sự kiện cơ bản, những thống kê quan trọng. Thế giới không tọc mạch biết được ǵ về Huế th́ cũng chỉ như thế, v́ đó là những ǵ đă được báo chí thế giới ghi lại cách khiêm tốn sơ sài. Xem ra nó đă chẳng ảnh hưởng ǵ lên lương tri hay lương tâm của thế giới cả. Đă không có những phản đối mạnh mẽ, những cuộc biểu t́nh trước các ṭa Đại sứ Bắc Việt khắp năm châu. Trong một cung giọng hết sức cay đắng, người dân ở đây sẽ nói với bạn rằng thế giới không biết chuyện ǵ đă xảy ra ở Huế, hoặc nếu biết th́ cũng chẳng bận tâm.

    Trận chiến

    Trận chiến tại Huế là một phần chiến dịch Đông-Xuân 1967-1968 của Cộng sản. Toàn bộ chiến dịch được chia làm ba giai đoạn:

    Giai đoạn I bắt đầu trong tháng 10, tháng 11, tháng 12 năm 1967 và đ̣i hỏi những “phương pháp chiến đấu phối hợp”, nghĩa là những trận đánh khá lớn, kiểu cổ điển nhắm vào các căn cứ quan trọng (của QLVNCH) hay những nơi tập trung quân Đồng minh. Các trận đánh ở Lộc Ninh tỉnh B́nh Long, ở Dakto tỉnh Kontum và ở Cồn Tiên tỉnh Quảng Trị, cả ba tại các vùng đồi núi Nam Việt gần biên giới Cam Bốt và Ai Lao, đều là những trận đánh điển h́nh và do đó là yếu tố quan trọng của Giai đoạn I.

    Giai đoạn II diễn ra trong tháng 01, tháng 02, tháng 03 năm 1968, và kéo theo việc dùng “những phương pháp chiến đấu độc lập”, nghĩa là nhiều trận đánh do những đơn vị khá nhỏ thực hiện cùng lúc trên một diện tích lớn và sử dụng những chiến thuật du kích tiên tiến, tinh luyện. V́ rằng Giai đoạn I đă thực hiện chủ yếu với các toán quân chính quy Bắc Việt (lúc ấy khoảng 55.000 đang ở miền Nam), Giai đoạn II thực hiện chủ yếu với các toán Cộng quân miền Nam (tức Lực lượng Vũ trang Giải phóng). Cao điểm của Giai đoạn này là cuộc Tấn công Tết Mậu Thân trong đó 70,000 quân đánh vào 32 trung tâm dân cư lớn nhất của Nam Việt, kể cả thành phố Huế.

    Giai đoạn III, diễn ra trong tháng 04, tháng 05 và tháng 06 năm 1968, đầu tiên là phối hợp những phương pháp chiến đấu độc lập và hiệp đồng, kết thúc là một trận đánh lớn cố định đâu đó. Đây là điều mà các tài liệu bắt được đă thận trọng nhắc đến như “đợt sóng thứ hai”. Có thể đó đă là Khe Sanh, căn cứ Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ nằm ở góc cực Bắc của Nam Việt. Hoặc có thể là Huế. Đă không có đợt sóng thứ hai chủ yếu là v́ trong Giai đoạn I và II, các biến cố đă không phát triển như mong đợi. Mặc dù vậy, cuộc chiến đă đạt tới độ đẫm máu nhất trong tám năm hồi ấy, suốt thời gian kể từ trận đánh Huế vào tháng 02 tới cuộc giải vây cho Khe Sanh vào mùa hè.

    Suốt ba tháng ấy, tổn thất của Hoa Kỳ trung b́nh vào khoảng 500 binh sĩ tử thương hàng tuần; tổn thất của Nam Việt gấp đôi; c̣n tổn thất của Việt Cộng (cả Bắc lẫn Nam) gần tám lần của Hoa Kỳ. Trong chiến dịch Đông Xuân, Cộng sản bắt đầu với khoảng 195,000 quân chính quy miền Bắc và du kích miền Nam. Suốt 9 tháng, họ mất (v́ tử thương hay tàn phế vĩnh viễn) khoảng 85.000 người.

    Chiến dịch Đông Xuân là cố gắng toàn lực của Cộng sản nhằm đánh găy lưng Quân lực Nam Việt và dồn chính phủ Việt Nam, cùng với các lực lượng Đồng minh, vào trong các khu vực pḥng thủ ở thành phố. Nói cho đúng, Trận đánh Huế thuộc Giai đoạn I hơn Giai đoạn II v́ nó đă sử dụng “các phương pháp chiến đấu hợp đồng” có lôi kéo quân đội Bắc Việt hơn là các du kích quân miền Nam. Về phía Cộng sản, chủ yếu là hai sư đoàn kỳ cựu của Bắc Việt trong đó có Sư đoàn 324-B, được tăng cường bằng các tiểu đoàn chính quy và một vài đơn vị du kích với khoảng 150 chính ủy và cán bộ dân sự địa phương.

    Tóm lại, trận đánh Huế gồm ba bước phát triển lớn sau đây: Cuộc tấn công khởi đầu của Cộng sản, chủ yếu do hai tiểu đoàn 800 và 802, đă đủ lực và đà để tiến vào Huế. B́nh minh ngày đầu tiên, Cộng sản đă kiểm soát toàn thành phố ngoại trừ Bộ Tư lệnh Sư đoàn I Bộ binh và khu vực các cố vấn quân sự Mỹ. Việt và Mỹ đă điều động quân tiếp viện với mệnh lệnh tới hai điểm c̣n cầm cự đó để củng cố cho họ. Cộng sản liền điều động một tiểu đoàn khác, tiểu đoàn 804, với mệnh lệnh ngăn chận lực lượng tiếp viện. Việc này thất bại, hai điểm cầm cự đă được củng cố và không bao giờ c̣n bị đe dọa trầm trọng nữa.

    Từ đó, trận đánh mang tính cách một cuộc bao vây. Cộng quân ở trong Thành Nội và ŕa tây thành phố. Quân Việt và Mỹ tại ba mặt c̣n lại, bao gồm phần phía Nam Huế của con sông (Hương), đă quyết tâm đánh bật chúng ra khỏi, với hy vọng ban đầu là dùng hỏa pháo và không kích. Nhưng Thành Nội được xây quá kiên cố và người ta đă sớm thấy rơ rằng nếu Cộng quân được lệnh cầm cự, th́ chúng chỉ có thể bị đánh bật bằng chiến tranh thành phố, đánh chiếm từng nhà và từng khối, một h́nh thức chiến đấu đắt giá và chậm chạp. Lệnh đă được ban ra.

    Qua tuần thứ ba của tháng 02, việc bao vây Thành Nội đă tiến triển tốt đẹp và Quân đội VNCH lẫn Thủy quân Lục chiến Mỹ tiến từng thước qua Thành Nội. Sáng ngày 24 tháng 02, lính Sư đoàn I Bộ Binh giật xuống lá cờ VC đă treo 24 ngày trên ṿng thành ngoài và thượng lá cờ ḿnh lên. Trận chiến đă toàn thắng, dù thỉnh thoảng c̣n tiếp tục đánh nhau bên ngoài thành phố. Khoảng 2.500 cộng quân chết suốt trận đánh và 2.500 tên khác chết khi những thành phần Cộng sản bị truy đuổi bên ngoài Huế. Tử trận của Đồng minh là 357 người

    Những cuộc phát hiện

    Trong cảnh hỗn loạn tiếp theo sau cuộc chiến, mệnh lệnh đầu tiên cho công việc dân sự là cấp cứu, dưới h́nh thức cung cấp thực phẩm, ngăn ngừa bệnh dịch, săn sóc y tế cấp thời v.v… Tiếp đến là nỗ lực xây dựng lại nhà cửa. Chỉ sau đấy Huế mới bắt đầu lập bảng kê các thương vong của ḿnh. Đă chẳng có một cuộc kiểm kê dân số thực sự ngay sau cuộc tấn công. Đến tháng 03, các viên chức địa phương mới báo cáo rằng 1.900 thường dân đă nhập viện với những vết thương chiến tranh và họ ước lượng rằng khoảng 5.800 người đă không t́m ra tung tích.

    Khám phá đầu tiên về các nạn nhân của Cộng sản là tại sân trường Trung học Gia Hội ngày 26-02: rốt cục 170 thi thể đă được t́m thấy. Trong những tháng kế tiếp, thêm 18 địa điểm chôn người được t́m thấy, lớn nhất là Tăng Quang Tự (67 nạn nhân), Băi Dâu (77), vùng Chợ Thông (ước lượng khoảng 100), khu vực các lăng tẩm (201), Thiên Hàm (khoảng 200) và Đông Gi (khoảng 100). Tổng cộng gần 1,200 xác đă được t́m thấy trong những ngôi mộ đào vội vă, lấp sơ sài.

    Ít nhất một nửa trong họ đă cho thấy bằng chứng bị giết cách thảm khốc: hai tay bị trói bằng dây sau lưng, giẻ rách nhét đầy miệng, thân thể vặn vẹo không thương tích (cho thấy bị chôn sống). Gần 600 nạn nhân c̣n lại mang nhiều vết thương nhưng chẳng có cách nào xác định họ đă chết v́ bị xử bắn hay v́ lạc đạn.

    Nhóm phát hiện lớn thứ hai nằm trong bảy tháng đầu tiên của năm 1969 ở quận Phú Thứ (Độn Cát và Lệ Xá Tây), quận Hương Thủy (Xuân Ḥa, Vân Dương) vào cuối tháng 03 và tháng 04. Thêm nhiều địa điểm chôn xác khác cũng đă được t́m thấy tại quận Vinh Lộc trong tháng 05 và quận Nam Ḥa trong tháng 07. Lớn nhất trong nhóm này là các phát hiện ở Độn Cát tại ba địa điểm Vinh Lưu, Lê Xá Đông và Xuân Ổ, trong các cồn cát nhấp nhô với cỏ mọc thành búi gần biển Đông. Ngăn cách bởi những thung lũng đầm lầy nước mặn, các độn cát này thật lư tưởng để làm mộ địa. Trên 800 thi thể đă được phát hiện ở đây.

    Trong cuộc phát hiện ở Độn Cát, kiểu chung là trói các nạn nhân thành từng nhóm 10 hoặc 20 người, xếp hàng họ trước một con mương được dân công lao dịch địa phương đào rồi hạ sát họ bằng súng máy (một trong những kỷ vật trân quư của địa phương là một viên đạn súng máy đă bắn của Nga lấy được từ một ngôi mộ). Thường th́ người chết bị chôn thành ba bốn lớp, khiến cho việc nhận diện hết sức khó khăn.

    Tại quận Nam Ḥa là phát hiện thứ ba, hay c̣n gọi là phát hiện Khe Đá Mài, cũng được gọi là Phủ Cam tử bộ (dead march), diễn ra ngày 19-9-1969. Ba hồi chánh viên VC đă kể cho các sĩ quan t́nh báo của Lữ đoàn 101 Không vận HK rằng họ đă chứng kiến cuộc thảm sát vài trăm người tại Khe Đá Mài, cách phía nam Huế khoảng 10 dặm, vào tháng 02-1968. Vùng này rất hoang vu, không người ở và gần như bất khả xâm nhập. Lữ đoàn đă phái đi một nhóm thám sát, họ báo cáo rằng khe suối chứa rất nhiều xương người. Bằng việc ghép lại các mảnh thông tin, người ta xác định được những ǵ đă xảy ra tại Khe Đá Mài như sau: Vào ngày mồng 5 Tết tại Phủ Cam, nơi sinh sống của khoảng ba phần tư trong số 40.000 người Công giáo thành phố, một số lớn cư dân đă t́m nơi lẩn trốn trận đánh tại ngôi nhà thờ địa phương, một phương pháp lánh nạn chiến tranh thông thường tại Việt Nam. Nhiều người trong đó thật ra không phải là Công giáo.

    Một chính ủy Cộng sản đă đến nhà thờ và ra lệnh cho khoảng 400 người, một số th́ đích danh, một số xem ra v́ ngoại diện của họ (trông giàu có hoặc nh́n như thương gia đứng tuổi, ví dụ vậy). Y nói họ sẽ đi đến “vùng giải phóng” trong ba ngày để học tập cải tạo, sau đó ai nấy có thể về nhà.

    Họ đă đi bộ chín cây số về hướng Nam đến một ngôi chùa nơi Cộng sản thiết lập bộ chỉ huy. Tại đó 20 người bị kêu ra khỏi nhóm, tập hợp trước một ṭa án quân sự dă chiến, bị xét xử, bị tuyên tội, bị hành quyết và chôn trong sân chùa. Số c̣n lại bị dẫn qua qua bên kia sông và được giao lại cho một đơn vị Cộng sản trong một sự trao đổi có giấy biên nhận đưa cho viên chính ủy. Có lẽ viên chính ủy định rằng tù nhân của y sẽ được cải tạo rồi trở về, nhưng với chuyện bàn giao, mọi chuyện thoát khỏi sự kiểm soát của y.

    Suốt nhiều ngày kế tiếp, chính xác bao nhiêu không ai biết, những người bị bắt và những kẻ bắt người lang thang vùng nông thôn. Và rồi đến một điểm nào đó, Cộng sản địa phương đă quyết định thủ tiêu các nhân chứng: Các tù nhân bị dẫn qua sáu cây số của một trong những vùng đất gồ ghề lởm chởm nhất miền Trung Việt Nam, đến khe Đá Mài. Tại đấy họ đă bị bắn hoặc bị đập vỡ sọ và xác của họ bị để cho trôi đi theo gịng nước chảy. Nhóm binh lính lo nhiệm vụ chôn cất của lữ đoàn 101 Không vận thấy rằng không thể vào tới khe bằng đường bộ, v́ đường không có hoặc không thể đi qua. Tán lá nơi khe là cái mà tại Việt Nam gọi là nhị tầng, nghĩa là hai lớp, lớp một gồm những bụi rậm và cây thấp sát đất, lớp hai gồm những cây lớn với cành lá xoè rộng trên cao. Bên dưới là ánh sánh thường xuyên lờ mờ. Công binh lữ đoàn đă bỏ hai ngày để mở một lỗ xuyên qua hai tầng lá bằng cách cho nổ các quả ḿn lúc lắc cuối những sợi dây dài dưới các trực thăng lượn lờ của họ. Việc này đă tạo ra một mặt phẳng cho các trực thăng chở quan tài hạ xuống. Rơ ràng đây là nơi mà xác chết dễ dàng bị che giấu không cần phải chôn cất.

    Ḷng khe Đá Mài, dài khoảng một trăm thước Anh tính ngược lên hẻm núi, để lộ nhiều sọ, nhiều bộ xương và nhiều mảnh xương người. Xác chết đă bị để trên đất (đối với những người thờ vật linh giữa họ, điều ấy có nghĩa là hồn họ sẽ lang thang trên trái đất hiu quạnh măi măi, v́ đó là số phận của kẻ chết không được chôn táng) và 20 tháng trong ḍng suối chảy đă rửa sạch trắng những bộ xương.

    Nhà chức trách địa phương sau đó đă phổ biến một danh sách gồm 428 người mà họ nói đă được nhận diện từ những ǵ c̣n lại ở ḷng khe. Lư do căn bản Cộng sản đưa ra về cách hành xử thái quá của họ chính là tiêu diệt các “phần tử phản cách mạng”. Danh sách 428 nạn nhân được phân ra như sau: 25 phần trăm là quân nhân: hai sĩ quan, c̣n lại là hạ sĩ quan và binh sĩ; 25 phần trăm là học sinh sinh viên; 50 phần trăm là công chức dân sự, viên chức làng xă, nhân viên phục vụ đủ loại và công nhân b́nh thường.

    Nhóm phát hiện thứ tư hay Phát hiện Ruộng muối Phú Thứ là vào tháng 11-1969, gần làng đánh cá Lương Viện, khoảng mười dặm về phía Đông của Huế, một nơi hoang vu khác. Quân đội chính quyền từ đầu tháng đă bắt đầu một nỗ lực tập trung nhằm dọn sạch khu vực tàn quân của tổ chức Cộng sản địa phương. Dân làng Lương Viện, khoảng 700 người, từng giữ im lặng trước sự hiện diện của quân đội suốt 20 tháng trời, sau đấy xem ra cảm thấy đủ an toàn khỏi bị CS trả thù nên đă phá vỡ im lặng và dẫn các sĩ quan đến chỗ phát hiện mộ. Dựa trên các mô tả của những dân làng mà trí nhớ không phải luôn luôn rơ ràng, các viên chức địa phương đă ước lượng số thi thể tại Phú Thứ ít nhất phải 300 và có thể tới 1000.

    Câu chuyện không hoàn tất. Nếu sự ước lượng của nhà chức trách Huế gần đúng, th́ khoảng 2,000 người vẫn c̣n mất tích.

    Tổng kết số người chết và mất tích:

    Sau trận đánh, chính phủ Nam Việt ước lượng số thương vong dân sự do trận đánh Huế là 7,600:

    Bị thương (đem vào bệnh viện hay chữa trị ngoại trú) với thương tật do chiến cuộc

    Thường dân ước lượng chết v́ bom rơi đạn lạc

    Các phát hiện thứ nhất: thi thể t́m ra ngay sau trận đánh, 1968

    Các phát hiện thứ nh́, gồm cả các phát hiện ở Độn Cát, tháng 3-7/1969 (ước lượng)

    Cuộc phát hiện thứ ba, khe Đá Mài (quận Nam Ḥa), tháng 9-1969

    Các phát hiện thứ tư, ruộng muối Phú Thứ, tháng 11-1969 (ước lượng)

    Các phát hiện linh tinh suốt năm 1969 (khoảng chừng)

    Tổng số c̣n thiếu

    Tổng số thương vong tại Huế:


    1,900

    844

    1,173

    809

    428

    300

    200

    1,946

    7,600

  6. #26
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Lư do căn bản của Cộng sản

    Việc giết người tại Huế cho thấy cuộc thảm sát ở đây đă vượt xa mọi việc tàn ác của CS trước đó tại Nam Việt về số lượng. Điểm khác biệt không chỉ ở mức độ mà c̣n ở thể loại. Đặc tính của sự khủng bố nhận thấy từ việc nghiên cứu Huế hoàn toàn khác với những hành vi khủng bố của CS ở chỗ khác, dù thường xuyên hoặc tàn bạo. Cuộc khủng bố tại Huế không phải là một hành vi nâng cao tinh thần (Cộng quân) v́ đă thọc sâu và nhanh vào hang ổ đối phương để chứng minh chỗ yếu nhược của kẻ thù, sự toàn năng của du kích, tính khác biệt với việc bắn gục thường dân trong những vùng do du kích kiểm soát. Đó cũng chẳng phải là cuộc khủng bố để quảng cáo chính nghĩa, để gây bối rối và cách ly cá nhân về tâm lư, v́ phần lớn các cuộc chém giết đều thực hiện trong bí mật. Đó cũng chẳng phải là cuộc khủng bố để triệt tiêu các lực lượng đối nghịch, dù có giết vượt quá sổ đen. Huế đă chẳng theo mô h́nh khủng bố nhằm khiêu khích phản ứng thái quá của chính phủ Nam Việt v́ nó đă chỉ dẫn đến cái gọi là sự trợ giúp của chính phủ thôi. Có nhiều yếu tố khách quan, chân thực, nhưng không yếu tố nào giải thích được kiểu cách giết người rộng khắp và đa dạng mà Cộng sản đă thực hiện.

    Điều được đưa ra đây là giả thuyết cho rằng có lôgic và hệ thống đằng sau những ǵ xem ra là một cuộc tàn sát ngẫu nhiên và đơn giản. Trước khi đề cập đến nó, chúng ta hăy xem xét ba sự kiện vốn thường xuyên xuất hiện với một du khách đến Huế để khám phá chính xác cái đă xảy ra tại đó và quan trọng hơn nữa, chính xác tại sao nó đă xảy ra. Cả ba sự kiện này lởn vởn trước ư thức thông thường và ở một mức độ nào đó, mâu thuẫn với những ǵ đă được viết ra. Ngay cả khi ḍ hỏi đủ mọi nguồn -tỉnh trưởng, cảnh sát trưởng, cố vấn Hoa Kỳ, nhân chứng tận mắt, tù nhân bắt được, cán binh hồi chánh hay một số ít người thoát chết cách kỳ lạ- ba sự hiện ấy vẫn nổi lên đi nổi lên lại.

    Sự kiện thứ nhất, mà có lẽ quan trọng nhất, là bất chấp những dáng vẻ bên ngoài, không cuộc giết người nào của CS là do thịnh nộ, thất vọng hay hoảng loạn khi Cộng sản cuối cùng phải rút lui. Những lối giải thích như thế thường được nghe, nhưng nếu xem xét cẩn thận th́ không đứng vững. Ngược lại th́ có, v́ truy nguyên bất cứ vụ giết người đơn lẻ nào, sẽ khám phá ra rằng hầu hết đều là kết quả của một quyết định có suy nghĩ và biện minh được trong tâm trí Cộng sản. Quả thế, phần lớn những cuộc hành quyết đều từ tính toán, mệnh lệnh của CS.

    Sự kiện thứ hai : trong chừng mực xác định được, gần như như tất cả các vụ hành quyết đều do cán bộ CS địa phương chứ không phải do quân đội Bắc Việt hoặc quân lực Cộng ḥa hoặc những tay CS bên ngoài nào khác. Khoảng 12,000 binh lính VNCH đă tham gia trận đánh Huế và đă giết một số thường dân trong tiến tŕnh chiến đấu nhưng đó chỉ là ngẫu nhiên trong nỗ lực quân sự của họ. Đa phần trong số 150 cán bộ dân sự CS hoạt động nội thành đều là người địa phương, nghĩa là từ khu vực tỉnh Thừa Thiên cả. Chính họ đă ra những lệnh tử h́nh. Mà cho dù họ đă hành động theo các chỉ thị từ bộ chỉ huy cao hơn (theo hệ thống tổ chức CS, ai nấy phải đảm nhận những ǵ ḿnh đă làm) th́ những chỉ thị đó như thế nào, cho đến nay chẳng ai biết rơ được.

    Sự kiện thứ ba: ngoài các cuộc hành quyết điển h́nh xử tử những “cường hào ác bá” nổi bật, phần lớn các vụ sát hại đều đă được thi hành cách bí mật với nỗ lực lạ thường là giấu các thi thể. Phần lớn những kẻ bên ngoài đều h́nh dung Huế như một pháp trường công khai với những mồ chôn tập thể dễ thấy mới đào. Các cuộc hành quyết tuyên bố công khai chỉ có trong những ngày đầu và chúng tương đối hiếm hoi. Các địa điểm chôn xác trong thành phố dễ dàng khám phá v́ khó mà tạo nên một nghĩa địa không ai để ư trong vùng đông đảo cư dân. Mọi nơi phát hiện khác đều đă được giấu kỹ, tất cả đều nằm tại vùng đất dễ che đậy; có lẽ đây là lư do đầu tiên khiến các địa điểm đă được chọn lựa.

    Một thân xác chôn vùi trong độn cát cũng khó t́m như một vỏ ṣ ấn sâu xuống băi biển mà bị sóng xoá dấu vết liền. Khe Đá Mài nằm tại phần xa xôi hẻo lánh nhất của tỉnh Thừa Thiên và hẳn đă làm cho Cộng sản rất tốn công khi đưa các nạn nhân đến đó. Nếu ba cán binh hồi chánh đă chẳng dẫn những người t́m kiếm đến điểm hoang vu vắng vẻ này, th́ hẳn các xác chết vẫn măi không được khám phá cho tới ngày nay. Viếng thăm mọi địa điểm sẽ cảm nhận ấn tượng là CS đă hết sức cố gắng che giấu các hành động của họ. Giả thuyết nêu lên ở đây nối kết và xác định đúng lúc việc CS đánh giá về triển vọng ở lại Huế của họ với loại mệnh lệnh giết người đă ban ra. Từ việc xem xét kỹ các bằng chứng, ta thấy rơ là họ đă không có sự đánh giá bất biến về chính họ và về tương lai của họ tại Huế; đúng hơn, t́nh h́nh thay đổi suốt diễn tŕnh trận đánh đă làm đổi thay các triển vọng và ư định của họ.

    Cũng rơ ràng không kém từ các bằng chứng là CS đă chẳng có chủ trương nào về các mệnh lệnh hành quyết; thay vào đó, loại mệnh lệnh giết người ban ra đă thay đổi suốt diễn tŕnh trận đánh. Mối liên hệ giữa cả hai rất rơ và chia ra ba giai đoạn. Thành thử có giả thuyết cho rằng kế hoạch của CS thay đổi suốt trận đánh Huế ra sao th́ bản chất các mệnh lệnh giết người ban ra cũng thay đổi thể ấy. Kết luận này dựa trên những lời tuyên bố không úp mở của CS, trên chứng từ của tù nhân và hồi chánh viên, trên tường thuật của các nhân chứng tận mắt, trên những tài liệu bắt được và trên lô-gích nội tại của t́nh h́nh CS.

    Suy nghĩ trong Giai đoạn I đă được phát biểu rơ ràng trong một nghị quyết của Cộng đảng ở Nam Việt (Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam) ra cho các cán bộ ngày áp cuộc tấn công: “Phải bảo đảm sao cho các thành thị giải phóng được củng cố thành công. Mau chóng kích hoạt các đơn vị vũ trang và chính trị, thiết lập các cơ quan hành chánh ở mọi cấp, xúc tiến các hoạt động dân sự tự vệ và yểm trợ chiến đấu, thúc đẩy nhân dân thành lập hệ thống pḥng không và rộng răi động viên họ sẵn sàng chống lại địch khi chúng phản công...”

    Đây là quan điểm giới hạn ban đầu và đă được tuân theo trong thời gian ngắn. Những diễn biến sau đó tại Huế đă được tường thuật với những lời lẽ khác. Đài phát thanh Hà Nội ngày 04-02-1968 nói rằng: “Sau một giờ chiến đấu, Lực lượng Vũ trang Cách mạng đă chiếm được dinh thự của tên tỉnh trưởng ngụy (tại Huế), nhà tù và các văn pḥng hành chánh ngụy… Lực lượng Vũ trang Cách mạng đă trừng trị những tên viên chức ác ôn nhất của địch và nắm quyền kiểm soát các đường phố… tập trung và trừng trị cả tá bọn ác ôn, đánh sập các cơ quan kiểm soát và áp bức của địch…”

    Suốt thời gian ngắn ở lại Huế, các cán bộ dân sự, được các toán hành quyết tháp tùng, đă tập hợp và giết chết nhiều yếu nhân, việc khử trừ này sẽ làm suy yếu nặng nề bộ máy hành chánh của chính phủ sau khi VC rút lui. Đây là giai đoạn sổ đen, thời gian của ṭa án quân sự dă chiến. Các cán bộ với danh sách và địa chỉ trong hồ sơ xuất hiện rồi gọi ra trước ṭa án bất hợp pháp “các kẻ thù khác nhau của Cách mạng”.

    Những phiên ṭa của họ công khai, thường là trong sân một bộ chỉ huy dă chiến của CS. Mỗi phiên xử kéo dài khoảng 10 phút và chẳng có phán quyết vô tội nào được biết đến cả. H́nh phạt, luôn luôn là “tử h́nh”, được thi hành ngay lập tức. Các xác chết hoặc được chôn gấp rút hoặc trả lại cho gia đ́nh. Bị chọn lănh kiểu đối xử này là các viên chức dân sự, đặc biệt những người liên quan tới an ninh hay công việc cảnh sát, các sĩ quan quân đội và vài hạ sĩ quan, cộng thêm những lănh đạo không chính thức nhưng là tự nhiên của cộng đồng, đặc biệt là các nhà giáo và nhà tu.

    Với ngoại lệ là tấn công tàn độc giới trí thức ở Huế, kiểu thức của Giai đoạn I đúng là thủ tục hành động tiêu chuẩn của Cộng sản tại Việt Nam. Đó là những ǵ đă được tiến hành cách có hệ thống trong các làng mạc suốt 10 năm. Sổ đen thường trực, được bộ chỉ huy đảng trong vùng hay liên vùng chuẩn bị, đă tồn tại lâu dài để đem sử dụng khắp cả miền Nam, mỗi khi có cơ hội thuận tiện.

    Tuy nhiên, không phải mọi kẻ có tên trong những danh sách được dùng tại Huế đă bị thủ tiêu. Có rất nhiều người hiển nhiên bị ghi danh, ở lại trong thành phố suốt trận đánh, nhưng đă thoát nạn. Suốt thời gian 24 ngày, các cán bộ Cộng sản bận rộn săn lùng những con người có trong sổ đen của họ, nhưng sau một ít ngày, nỗ lực của họ đă chuyển qua một hướng mới.

    Huế: Giai đoạn II

    Trong những ngày đầu, cuộc tấn công Tết đă tiến triển rất thuận lợi cho CS tại Huế (mặc dù không như vậy ở miền Nam, nơi mà các lănh đạo đảng đă nhận nhiều đánh giá khá ảm đạm từ những cán bộ ở giữa cuộc tấn công vùng đồng bằng sông Cửu Long), đến nỗi trong một lúc phấn khởi, họ đă tưởng ḿnh có thể giữ được thành phố. Có lẽ ư kiến cho rằng CS vào Huế để ở lại đă không được các cấp cao hơn chia sẻ, nhưng nó đă lan rộng tại Huế và ở cấp độ tỉnh Thừa Thiên. Một bức điện bắt được của Cộng sản, xem ra viết ngày 02-02, cổ vũ các cán bộ tại Huế hăy chiếm giữ cho nhanh mà rằng: “Một thời kỳ mới, một giai đoạn cách mạng thực sự đă bắt đầu (nhờ các chiến thắng của chúng ta ở Huế) và chúng ta chỉ cần tấn công nhanh (ở Huế) là đạt được mục tiêu và chiến thắng hoàn toàn”.

    Tờ báo đảng chính thức ở Hà Nội, Nhân Dân, cũng nhắc lại cùng chủ đề: “Như một tia sét, cuộc tổng tấn công đă giáng xuống đầu bọn Mỹ ngụy… Bộ máy Mỹ ngụy đă bị trừng phạt đích đáng… Các cơ quan hành chánh ngụy… đă th́nh ĺnh sụp đổ. Chính phủ Thiệu-Kỳ không thể thoát cảnh sụp đổ toàn diện. Quân đội ngụy đă trở nên hết sức yếu hèn và sẽ không thể tránh khỏi bị hoàn toàn tiêu diệt”.

    Đương nhiên, một số lời lẽ dông dài này chỉ nhằm cổ vũ những ai tin theo, và v́ đó luôn là trường hợp khi đọc những ǵ CS đưa ra, nên rất khó phân biệt đâu là niềm tin, đâu là ước muốn. Nhưng lời chứng từ các tù binh và hồi chánh viên, cũng như những bức điện bắt được, cho thấy rằng cán binh cũng như cán bộ đều tin trong ít ngày rằng họ ở lâu dài tại Huế, và họ đă hành động phù hợp với niềm tin ấy.

    Trong số các hành vi của họ có việc mở rộng lệnh giết người và phát động cái trên thực tế là một thời kỳ tái xây dựng xă hội kiểu CS. Các mệnh lệnh, xem ra từ đảng ủy cấp tỉnh ban bố, là tập trung cái mà một tù nhân gọi là “những tiêu cực xă hội”, nghĩa là những cá nhân hay thành viên các nhóm có thể gây nguy cơ hay bất lợi cho trật tự xă hội mới. Đây là điều không liên quan đến riêng ai, chẳng phải là sổ đen các tên tuổi nhưng là sổ đen các tước vị trong xă hội cũ, không nhắm đến những con người nhưng nhắm đến các “đơn vị xă hội”.

    Như đă thấy trước đây tại Bắc Việt và tại Trung Cộng, người Cộng sản đă cố phá vỡ trật tự xă hội địa phương bằng cách thủ tiêu những thủ lănh và những khuôn mặt then chốt trong các tổ chức tôn giáo (sư săi Phật Giáo, linh mục Công Giáo), các chính đảng (bốn thành viên của Ủy ban Trung tâm Việt Nam), các phong trào xă hội như các tổ chức phụ nữ và các nhóm trẻ, kể cả việc hoàn toàn không thể giải thích nổi, là hành quyết những thủ lănh sinh viên thân cộng thuộc các gia đ́nh thượng lưu hay trung lưu.

    Phù hợp với điều này, trong vài trường hợp là giết cả gia đ́nh. Trong một trường hợp có đầy đủ tài liệu suốt thời kỳ này, một toán có lệnh ám sát đă xông vào nhà một lănh đạo cộng đồng lỗi lạc và bắn ông, vợ ông, con trai và con dâu, con gái c̣n nhỏ của ông, cặp gia nhân nam nữ và đứa con của họ! Con mèo của gia đ́nh bị bóp cổ, con chó bị đánh đến chết, những con cá vàng cũng bị hất ra khỏi chậu, quẳng xuống nền nhà. Khi những tên CS bỏ đi, trong nhà chẳng c̣n ǵ sống sót. Một “đơn vị xă hội” đă bị tiêu diệt!!!

    Giai đoạn II cũng chứng kiến một nỗ lực tập trung nhằm thủ tiêu giới trí thức, mà có lẽ ở Huế nhiều hơn bất cứ nơi nào khác tại Việt Nam. Những trí thức Huế sống sót đă giải thích điều này là do một mối căm thù lâu đời của Cộng sản đối với giới trí thức của Huế, vốn chống Cộng theo kiểu cách xúc phạm nhất: từ chối coi trọng chủ nghĩa Cộng sản. Giới trí thức Huế đă luôn khinh bỉ ư thức hệ CS, gạt nó sang một bên như kẻ đến muộn trong lịch sử các tư tưởng và chẳng phải là cái ǵ có ư nghĩa. Vốn là một pháo đài của chủ nghĩa truyền thống, với những nhà trí thức đắm ḿnh trong kiến thức Khổng giáo đan xen với Phật giáo, Huế đă không thèm để ư đến những công lao của chủ nghĩa Cộng sản, dẫu trong các thập niên biến động 1920-1930. Huế bất biết nó. Chẳng hạn các nhà trí thức tại viện Đại học, trong một giáo tŕnh trọn năm về các tư tưởng chính trị, đă chỉ thí cho chủ thuyết Mác-Lênin nửa giờ, phác thảo nó như một loạt những khẩu hiệu chính trị man rợ và nông cạn, chẳng có chiều sâu và thực tế được thời gian trắc nghiệm như tri thức Khổng giáo, cũng chẳng có sự huy hoàng và tính nhân bản cao vời như tư tưởng Phật giáo.

    V́ lẽ người Cộng sản, đặc biệt người Cộng sản gốc Huế, xem trọng giáo điều của ḿnh, y có thể trở thành quỷ quái khi bị một nhà nho coi như một kẻ ngu dốt về triết học, hay bị một Phật tử coi như một tên duy vật tầm thường. Hoặc tệ hơn bị coi thường là bị bất biết qua năm tháng. Thành ra với sự chính trực của một tín đồ chân thành, y đă t́m cách đánh trả để loại bỏ thái độ dửng dưng đầy thách thức này. Những người trí thức nay nói rằng cuộc săn lùng hàng ngũ của họ đă dạy cho họ một bài học khắc nghiệt, đó là phải coi trọng chủ nghĩa Cộng sản, không phải như một tư tưởng, nhưng ít nhất như một sức mạnh được sổ lồng trong thế giới của họ.

    Những cuộc tàn sát trong Giai đoạn II có lẽ đă giải thích việc 2,000 người bị mất tích. Nhưng điều tồi tệ nhất vẫn chưa chấm dứt.

    Huế: Giai đoạn III

    Một điều không thể tránh được, và như giới lănh đạo tại Hà Nội hẳn đă phải thừa nhận khi xét đến những lực lượng điều động chống lại nó, là trận đánh tại Huế đă xoay chiều bất lợi cho CS. Một bản tin radio bắt được của Quân đội Nhân dân truyền đi từ Thành Nội ngày 22 tháng 2, đă xin phép rút quân. Bản trả lời: từ chối cho phép, phải tấn công ngày 23. Trận tấn công này là trận cuối cùng nhưng vô hiệu quả. Ngày 24, Thành Nội được lấy lại.

    Ít nhất một tuần trước đó, CS đă thấy việc trục xuất này là không thể tránh khỏi. Đây là lúc Giai đoạn III bắt đầu: giai đoạn xóa dấu vết. Có lẽ toàn thể cán bộ dân sự nằm vùng tại Huế đă lộ mặt suốt Giai đoạn II. Những ai dù đă không bị nghi ngờ cũng đứng lên công bố căn tính của họ. Điển h́nh là trường hợp một cư dân Huế đă mô tả sự ngạc nhiên của anh khi biết rằng người hàng xóm của ḿnh là lănh đạo một phường (đứng từ hàng thứ 10 đến 15 giới dân sự CS trong thành phố). Anh nói trong nỗi kinh ngạc: “Tôi biết ông ta đă 18 năm nay mà không bao giờ nghĩ rằng ông ta lại quan tâm đến chính trị như vậy.” Một cán bộ như thế có thể không hoạt động ngầm lại được trừ phi chẳng có ai xung quanh nhớ đến ông.

    V́ thế, Giai đoạn III là thủ tiêu các nhân chứng. Có lẽ số cuộc giết chóc lên cao nhất là ở giai đoạn này và cũng v́ lư do đó. Những người từng bị bắt đi nhồi sọ chính trị có lẽ đă được dự tính sẽ thả về. Nhưng họ là dân địa phương như những kẻ đă bắt họ, quen biết tên tuổi và mặt mũi nhau. Nên khi kết cục đến gần, họ đă trở thành không phải một gánh nặng cho bằng một mối nguy đích thực. Chắc hẳn đó là trường hợp của nhóm người bị bắt đi từ nhà thờ Phủ Cam. Hay trường hợp của 15 học sinh trung học mà thi thể đă được t́m thấy ở ruộng muối Phú Thứ.

    Việc phạm trù hóa trong một giả thuyết như thế, dĩ nhiên, chỉ có tính cách tổng quát và may lắm th́ có tính cách minh họa. Các sự việc không gọn gàng rơ rệt trong đời thực. Ví dụ suốt toàn bộ thời gian, cuộc săn lùng theo sổ đen” đă được tiến hành. Do đó, đă có những cuộc tàn sát trả thù của người Cộng sản nhân danh đảng, nhân danh cái gọi là “công lư của cách mạng”. Nhưng chắc hẳn cũng đă có những vụ tư thù, tư oán do các cá nhân đảng viên thực hiện.

    Quan điểm chính thức của Cộng Sản về việc tàn sát ở Huế được chứa đựng trong một cuốn sách được viết và phổ biến tại Hà Nội: “Tích cực phối hợp nỗ lực với Lực lượng Vũ trang Giải phóng và với nhân dân, những đơn vị tự vệ và vũ trang của thành phố (Huế) đă bắt giữ và kêu gọi đầu hàng những viên chức c̣n lại của Ngụy quyền và những sĩ quan binh sĩ của Ngụy quân c̣n lẩn lút. Các tên ngoan cố ác ôn đều đă bị trừng trị.”

    Tại Ḥa đàm Paris sau này, Cộng Sản đă cho rằng những cuộc thảm sát ở Huế không do bàn tay của Cộng Sản nhưng do “những đảng phái chính trị đối kháng địa phương”. Dù vậy, tưởng cũng nên lưu ư: ngày 26-04-1968, khi chỉ trích nỗ lực t́m xác tại Huế, đài Phát thanh Giải phóng Hà Nội đă nói rằng các nạn nhân chỉ là “những tên tay sai côn đồ đă có nợ máu với nhân dân yêu nước ở Huế và họ đă bị các lực lượng vũ trang miền Nam cùng nhân dân tiêu diệt trong mùa Xuân”. Giọng điệu tuyên truyền này đă sớm bị bỏ qua để thay thế bởi một luận điệu khác: đó thực là những vụ thanh toán tranh chấp giữa các nhóm chính trị địa phương.

    Trích từ Viet Cong Strategy of Terror

    (Chiến lược khủng bố của Việt Cộng, tr. 23-29).

    Bản dịch của Linh mục Phan Văn Lợi

  7. #27
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Trận chiến Mậu Thân tại Huế

    từ góc nh́n của Chỉ huy chiến trường Bắc quân

    Nguyễn Ngọc Bích

    Tŕnh bày tại Vietnam Center, Sixth Triennial Vietnam Symposium, Ngày 13-15/3/2008. Texas Tech University, Lubbock, Texas.

    Bốn mươi năm trước đây, Cộng Sản Việt Nam, trong cố gắng đảo ngược thế cuộc chiến tranh v́ các thất bại liên tiếp của họ vào hai năm 1966–1967, đă phát động cuộc Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân từ tháng giêng đến tháng hai năm 1968. Cuộc Tổng Tấn Công này trở thành một đại thảm họa về quân sự cho phía Cộng Sản. Chính Cộng Sản Việt Nam đă thú nhận là họ thất bại nặng nề, với 48.000 tổn thất nhân sự (41.000 tử vong, 7.000 lính bị bắt làm tù binh, chưa kể thương binh) trên tổng số 84.000 quân trong lực lượng tấn công. Cộng Sản Việt Nam đă phải tốn ít nhất là 3 năm (theo Trần Văn Trà), đến 5 năm (theo Bùi Tín), để tái xây dựng lực lượng. Trên thực tế, hậu quả của cuộc tấn công 1968, nếu tính cả trận đầu cùng với hai lần tấn công theo sau, vào tháng 05-1968 và tháng 08-1968, th́ sẽ cho người ta thấy rơ điều này: Cuộc chiến năm 1968 đă tiêu diệt một cách hữu hiệu hầu như toàn bộ bộ máy chiến tranh của họ tại miền Nam Việt Nam.

    Chiến địa duy nhất mà Cộng Sản Việt Nam cầm cự được hơn vài ngày là tại Huế, cố đô của Việt Nam, nơi quân Việt Cộng tử thủ đến 25 ngày nhờ vào sự kiên cố của các bức tường cổ thành. Walter Cronkite, phóng viên Hoa Kỳ, khi thăm Huế trong giai đoạn này đă gọi cuộc chiến là “không thể thắng được.” Tổng Thống Lyndon B. Johnson của Hoa Kỳ lúc bấy giờ than: “Nếu tôi mất [sự ủng hộ của] Cronkite rồi th́ cũng coi như tôi mất sự ủng hộ của người dân b́nh thường tại Hoa Kỳ.” Đến tháng ba 1968, Johnson quyết định không tái tranh cử Tổng Thống cho nhiệm kỳ hai; thay vào đó, ông ra lệnh ngưng oanh tạc Bắc Việt, một điều đưa đến sự sửa soạn cho “Ḥa đàm” Paris.

    Có thể nói rằng sự thảm bại quân sự khổng lồ nhất của Việt Cộng trong suốt cuộc chiến, bỗng nhiên dẫn đến bước ngoặt quan trọng nhất trong chiến tranh VN có lợi cho Cộng Sản Bắc Việt. Sau Tết 1968, cục diện chiến tranh Việt Nam thay đổi hoàn toàn: nếu trước đó, huyền thoại về một chiến tranh du kích do người dân miền Nam bị áp bức nổi lên vẫn c̣n được thêu dệt dù khó tin, sau Tết, v́ quân của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam hầu như đă không c̣n nữa, Hà Nội trắng trợn chường ra bộ mặt của một kẻ xâm lăng, vi phạm Hiệp Định Genève năm 1954, hiệp định phân chia Việt Nam ra thành hai miền Nam Bắc rơ ràng trong khi chờ đợi một giải pháp chính trị (mà lúc đầu được quan niệm là sẽ thống nhất bằng một cuộc Tổng Tuyển Cử).

    Một năm bản lề

    Các sử gia tương lai sẽ ghi nhận rằng năm 1968 là một năm bản lề trong chiến tranh Việt Nam. Và trong năm đó trận chiến tại Huế sẽ nổi bật lên như là chiến trường đóng góp vào cái nh́n sai lạc mà lại được truyền bá cùng khắp thế giới, nhờ vào các hăng truyền thông của Hoa Kỳ. Sự truyền thông sai lạc này đă thuyết phục được những con diều hâu như Bộ Trưởng Quốc Pḥng Clark Clifford trở thành những con chim bồ câu ngây thơ, và cuối cùng đă thúc đẩy Tổng Thống Johnson đi vào con đường bất khả đảo ngược dẫn đến sự triệt thoái và, cuối cùng là thất bại trên chiến trường Việt Nam.

    Điều đáng ngạc nhiên nhất, là tuy quan trọng như vậy, nhưng trận chiến tại Huế chỉ được nhắc sơ qua trong các sách sử tiêu chuẩn về chiến tranh Việt Nam.

    Duyệt qua các sách giáo khoa về cuộc chiến, người ta sẽ giật ḿnh thấy một lỗ hổng lớn lao giữa tầm quan trọng của trận quyết định này trong chiến tranh Việt Nam và sự xem thường cuộc chiến tại Huế trong các sách giáo khoa như: Huế 1968 không được nhắc đến trong tác phẩm của Tướng Bruce Palmer, Jr., The 25 Year War: America’s Military Role in Vietnam (1984). Huế 1968 chỉ chiếm 1 ḍng trong sách của Tướng Phillip B. Davidson, Vietnam at War (trang 475). Huế 1968 được nửa đoạn trong sách của Robert D. Schulzinger, A Time for War: The United States and Vietnam, 1941-1975 (trang 259), Huế 1968 được một đoạn trong sách của William S. Turley, cuốn The Second Indochina War được mô tả là một cuốn “Lược sử chính trị và quân sự, 1954-1975” (trang 109), một đoạn và 4 ḍng trong sách của George C. Herring, America’s Longest War (trang 186-187), và một đoạn rưỡi trong sách của Neil Sheehan về “John Paul Vann và Hoa Kỳ ở Việt Nam” có tựa đề là A Bright Shining Lie (trang 719-720). Trong sách của Michael McClear, Vietnam, A Complete Photographic History, một đại tác phẩm dày 736 trang với trên 2.000 h́nh ảnh và bản đồ với những phụ đề chữ nhỏ li ti, đă không hề có một đề mục nào cho trận Mậu Thân tại Huế, trừ một chương với tiêu đề “T́m hiểu về Tết” có nhắc đến trận này (để chỉ trích các thông tin sai lạc của đồng minh) trong ba đoạn rưỡi. Chỉ có một vài cuốn là dành cho Huế một ít chú tâm, nhưng ngay cả trong những sách như của A. J. Languth, Our Vietnam, câu chuyện cũng thiên về cuộc thảm sát tại Huế nhiều hơn là tự thân cuộc chiến (trang 475-478). Ngoại lệ duy nhất có lẽ là sách của Dave R. Palmer, Summons of the Trumpet, khi trận Huế được trân trọng dành cho tới hai trang (trang 192-193) nhưng lại đầy dẫy những thông tin sai lạc.

    Điều lạ hơn nữa, là ngay trong các sách Việt Nam, kể cả sách giáo khoa, trận chiến tại Huế cũng bị quên lăng. Thí dụ như, trong tập Lịch Sử Việt Nam, 1945-1975 (Trần Thục Nga và người khác, Lịch Sử Việt Nam, 1945-1975, Nhà xb Giáo Dục, 1987), sách giáo khoa được Đảng CSVN chuẩn nhận trong chương tŕnh dành cho các thầy cô theo ngành sư phạm hiện nay tại Việt Nam, trận chiến tại Huế được nhắc đến trong hai đoạn văn (trang 145), mà đoạn sau không hơn không kém là một đoạn tuyên truyền. Về phía Quân Lực VNCH và người Việt hải ngoại, cuộc chiến tại Huế cũng chỉ nhận được nhiều lắm là vài trang (chính xác là 3 trang, 403-405) trong Chiến tranh Việt Nam toàn tập, tác phẩm được xem là đầy đủ nhất về lịch sử cuộc chiến của Nguyễn Đức Phương. Nếu đem so sánh với sự quan tâm to lớn dành cho vụ Thảm Sát tại Huế th́ phải nói là ta sẽ không thể nào hiểu được vụ thảm sát kia nếu ta không hiểu trận Huế diễn ra như thế nào. Một ngoại lệ có thể t́m thấy trong tập Huế, Xưa và Nay (Hue, Past and Present – Vietnamese Studies Số 37) do Hà Nội xuất bản ngay sau Tết 1968, trong đó có đăng bài của Tôn Vy về “Cuộc Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân 1968 của Nhân Dân tại Quảng Trị - Thừa Thiên” kể lại trận chiến trong 14 trang nhỏ. Tiếc thay, loạt bài này không có bản đồ, không chỉ rơ đâu là quân Bắc Việt và Việt Cộng, đâu là quân Việt Nam Cộng Ḥa, và thêm thắt khá nhiều chi tiết tưởng tượng. Như vậy, câu chuyện thực về cuộc chiến Mậu Thân 1968 tại Huế, theo góc nh́n của người Việt miền Nam, vẫn c̣n cần được kể lại một cách trung thực.

    Những đặc điểm của trận Huế vào Tết Mậu Thân 1968

    Cuộc chiến tại Huế vào Tết 1968 không chỉ đặc biệt v́ Việt Cộng đă cầm cự được đến 25 ngày trong khi tại các địa điểm khác trong cuộc tấn công, quân xâm lăng đă bị đẩy lui ngay trong ṿng vài tiếng đồng hồ đầu tiên, và nhiều lắm là vài ngày (tại Sài G̣n–Chợ Lớn là 9 ngày). Trận Huế năm 1968 đặc biệt là bởi v́, như tại Khe Sanh, quân tấn công là lực lượng chính quy Bắc Việt, những lính chuyên nghiệp dầy dạn chiến trường, được gửi vào từ Miền Bắc… Lư do chính là trước khi phát động cuộc Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân, Việt Cộng đă sắp xếp lại các ranh giới quân sự quanh Sài G̣n và Huế để tăng sự đột ngột và sự công phá đến mức tối đa.

    Cuộc chiến tại mỗi đô thị được giao cho hai nhóm chỉ huy chiến trường. Tại Sài G̣n là Trần Văn Trà, Mai Chí Thọ, Lê Đức Anh - một người miền Nam kèm bởi hai tướng Bắc Việt - trách nhiệm việc tấn công từ phía Bắc thành phố. Vơ Văn Kiệt và Trần Bạch Đằng chỉ huy việc tấn công từ phía Nam.

    Trong trường hợp Huế, Trung tướng Trần Văn Quang là Chỉ huy trưởng quân khu Trị Thiên -Huế, nhưng Đại tá Lê Minh lại nhận được lệnh trước khi ra quân rằng: “Về chiến dịch, anh là chỉ huy trưởng, về mặt Đảng, anh là trưởng ban công kích và khởi nghĩa của toàn khu.” Trên thực tế, cũng như trường hợp tại Sài G̣n, Lê Minh điều khiển vùng phía Bắc và Thân Trọng Một điều khiển sự tấn công từ phía Nam vào Huế. Mặc dầu vậy, Một nằm dưới quyền Minh, như chúng ta sẽ có dịp nhận xét sau này.

    Trận chiến tại Huế năm 1968 đặc biệt v́ nếu các cuộc tấn công vào Sài G̣n là sự tổng hợp lực lượng giữa Quân Giải phóng của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam, như các đơn vị miền Nam dưới sự chỉ huy của Trần Văn Trà, Vơ Văn Kiệt, Trần Bạch Đằng, và các đơn vị chính quy Bắc Việt dưới quyền Lê Đức Anh, Mai Chí Thọ, th́ sự việc tại Huế đă hoàn toàn dính liền với danh dự của riêng Quân đội chính quy Bắc Việt mà thôi. Điểm này rất quan trọng khi chúng ta bàn đến câu hỏi ai là thủ phạm trong việc thảm sát tại Huế năm 1968.

    Trận chiến tại Huế năm Mậu Thân cũng đặc biệt về thời điểm, v́ sau Tết 1968, Hà Nội không c̣n cố gắng che giấu sự thực là những quân đoàn chính quy đông đảo, trong đó một số từng tham gia trận Điện Biên Phủ, đă hiện diện tại miền Nam, biến đổi hoàn toàn tính chất “du kích chiến” (được cho là do sự nổi dậy của kháng chiến quân miền Nam) sang cuộc chiến quy ước có trang bị vũ khí quân cụ đầy đủ (bởi các lực lượng ngoại bang và từ phía Bắc vĩ tuyến 17 mang xuống). Sự kiện này trở nên trắng trợn hơn nữa khi Hà Nội tấn công miền Nam, vào Lễ Phục Sinh 1972, với toàn lực của Quân Đội Nhân Dân Miền Bắc, tất cả là những đoàn quân chính quy (với chỉ một sư đoàn để lại ở miền Bắc vào tháng 12-1972). Hà Nội lại thảm bại trong trận chiến này, sau 56 ngày bao vây An Lộc thất bại (tháng 04-06/1972), và đặc biệt sau khi Thủy quân lục chiến Việt Nam Cộng Ḥa tái chiếm Cổ thành Quảng Trị vào tháng 09-1972, chứng tỏ sự trưởng thành anh dũng của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, 4 năm sau Tết 1968, khi trực chiến với Quân Đội Bắc Việt một khi có đầy đủ pháo binh và không quân yểm trợ.

    Sau cùng, trận chiến tại Huế 1968 đặc biệt v́ đó là chiến địa duy nhất mà Việt Cộng có đủ thời giờ để thành lập cả một “hội đồng nhân dân” gồm đa số là dân địa phương bị Bắc Việt giật dây. Những kẻ chủ chốt trong việc này là Hoàng Kim Loan và Hoàng Lanh, hai tên nằm vùng ẩn náu trong nhà của Nguyễn Đóa, một Giám Thị tại trường Quốc Học. Hai ngày sau khi xâm nhập Huế, vào mồng 2-02, Đài phát thanh Hà Nội loan báo Ủy Ban Nhân Dân Cách Mạng Thừa Thiên - Huế được dựng lên với Giáo sư Đại học Văn khoa (ngành Dân tộc học) Lê Văn Hảo làm Chủ Tịch, và Bà Tuần Chi, một người trong ngành giáo dục, làm Phó. Mười hai ngày sau đó, 14-02, Đài phát thanh Hà Nội lại loan báo đă thành lập Ủy Ban Nhân Dân địa phương với Lê Văn Hảo làm Chủ Tịch, và hai phó là Đào Thị Xuân Yến (tên con gái của bà Tuần Chi) và Hoàng Phương Thảo.

    Trên thực tế, Việt Cộng đă vào Huế mang theo nhiều danh sách và địa chỉ do bọn nằm vùng cung cấp (như anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường và Hoàng Phủ Ngọc Phan, giáo sư Tôn Thất Dương Tiềm, Nguyễn Đóa và Bà Tuần Chi - vợ Nguyễn Đ́nh Chi, học giả Nguyễn Đắc Xuân, v.v…) và gần như lập tức đi lùng các người có tên trong danh sách.

    Trận thư hùng về quân sự

    Hướng dẫn bởi thành phần bất măn do chính phủ VNCH đă dẹp cuộc khủng hoảng Phật Giáo miền Trung (1965-1967), Việt Cộng đă giữ được yếu tố bất ngờ khi họ tràn xuống từ vùng đồi núi phía Tây thành phố vào đêm 31-01-1968. Họ đă kiểm soát được thành phố trong một thời gian tương đối ngắn (chưa đầy 24 giờ) ngoại trừ căn cứ của Đại đội 81 Quân Cụ, Đài Phát Thanh Huế, Phi trường Tây Lộc, và đặc biệt là Đồn Mang Cá, tổng hành dinh của Sư Đoàn 1 Bộ Binh dưới sự chỉ huy của Tướng Ngô Quang Trưởng. Phần phụ lục đính kèm sẽ có chi tiết thời điểm rất rơ, nhưng ở đây chúng ta chỉ có thể tóm tắt trận chiến tại Huế như sau:

    31-01-1968: Giữa đêm, bốn tiểu đoàn Bắc Việt dưới quyền Đại tá Lê Minh, hỗ trợ bởi một tiểu đoàn đặc công, tấn công Cổ Thành Huế từ phía Tây, Tây Bắc và chiếm một vùng lớn của thành phố, nhờ yếu tố bất ngờ. Bốn tiểu đoàn khác, cùng với tiểu đoàn đặc công thứ hai, dưới sự điều động của Thân Trọng Một, tấn công từ phía Nam. Toán đầu tiên gặp sự kháng cự tại sân bay Tây Lộc, trong khi nhóm thứ hai chạm trán với sự pḥng thủ kiên cường của Đại Đội 81 Quân Cụ tại Tam Thai. Trong cùng thời gian, một tiểu đoàn Bắc Việt khác tiến vào An Ḥa, phía Bắc của Huế nhằm chặn đường tiếp viện của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa đến từ Quảng Trị. Cuối cùng, một lực lượng khác gồm hai tiểu đoàn Bắc Việt đóng chốt tại An Cựu và Phú Cam pḥng ngăn quân tiếp viện đến từ phía Nam.

    31-01 đến 03-02-1968: Việt Cộng kiểm soát được thành phố trong 4 ngày đầu. Sáng 01 tháng 2, họ tập họp dân chúng trong vùng bị kiểm soát, bắt học tập tư tưởng Mác-Lênin rồi cho về để chứng tỏ sự “khoan dung” của phe thắng trận, khuyến khích dân đi rủ những người c̣n đang trốn tránh ra tŕnh diện. Rất nhiều người rơi vào bẫy này. Tuy nhiên, trong cùng thời gian, Tướng Ngô Quang Trưởng của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa đă thành công trong việc gọi quân về để cũng cố pḥng thủ Đồn Mang Cá ở phía Đông Cổ Thành.

    04 đến 05-02-1968: Chiến trận tạm lắng v́ cả hai bên đều kiệt lực, nhất là v́ Việt Cộng hết đạn (có điện đánh về Hà Nội ngày 5-2-1968).

    06 đến 07-02-1968: “Vào ngày thứ bảy của trận chiến, Hoa Kỳ nhập cuộc.” Tuy chiếm được đa số các mục tiêu nhưng v́ đạn đă cạn gần hết, Lê Minh họp cấp chỉ huy và đề nghị rút lui v́ “một chiến thắng quyết định” không thể đạt được. Lê Minh ra lệnh mang các chiến lợi phẩm về căn cứ của Việt Cộng tại vùng quê và trong rừng, cũng như tải thương và mang tù binh ra khỏi thành phố.

    07 đến 09-02-1968: Lo ngại sự phản công của quân đội VNCH, Việt Cộng phá cầu Trường Tiền vào đêm 7 tháng 02. Nhưng thay v́ rút lui, Tướng Bắc Việt Trần Văn Quang đă đến Huế và tái phối trí các đơn vị dưới quyền Lê Minh, rồi ra lệnh dồn hết sức tấn công đồn Mang Cá. Sau 3 tiếng đồng hồ giao tranh dữ dội (từ 9 giờ đêm đến 12 giờ khuya ngày 9/02), nỗ lực này của Bắc Việt đă hoàn toàn thất bại, và quân xâm lược đă phải rút khỏi trận địa. Một điện tín thứ hai được gửi cấp tốc về Hà Nội xin tiếp viện quân và đạn dược. Yêu cầu thứ hai này được Hà Nội hứa chuẩn y, kư bởi 3 vị tướng cao nhất là Vơ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng và Song Hào. Một điện tín khác, sau đó, cũng từ Hà Nội hứa sẽ gửi binh tiếp viện.

    10 đến 15-02-1968: Đạn dược tiếp liệu do Hà Nội hứa không bao giờ đến, và đội binh tiếp viện đă bị Sư Đoàn 3 Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ chặn và gần như tiêu diệt hoàn toàn trước khi đến Huế. Ngày 10-02, quân lực VNCH đă bắt đầu càn quét khi địa phương quân thay thế các đơn vị nhảy dù để họ có thể quay sang tấn công quân Bắc Việt.

    12-02-1968: Thủy quân lục chiến Việt Nam đến thay thế lực lượng nhảy dù. Một đơn vị Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ (Đại đội 1 của Robert Thompson, Sư đoàn 5 Thủy quân lục chiến) cũng vượt sông Hương và bắt liên lạc với Tướng Trưởng tại đồn Mang Cá.

    12 đến 20-02-1968: Giao tranh dữ dội, trên mọi đường phố và trong từng căn nhà với sự can dự của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ ở phía Đông và Đông Nam Cổ Thành. Việt Cộng phản công dữ dội khi Thủy quân lục chiến Việt Nam cố mở đường tấn công vào phía Tây Nam Cổ Thành, nhằm cắt đường tiếp viện của địch. Ngày 16-02, quân lực VNCH thành công trong việc tràn lên các vị trí của địch và hai ngày sau đó, 18-02, đă đến cửa Chánh Tây và góc Tây Bắc của Cổ Thành.

    14-02-1968: Đài Phát Thanh Hà Nội thông báo sự thành lập chính quyền địa phương với Lê Văn Hảo làm chủ tịch (thị trưởng), kèm theo hai bên là hai phó chủ tịch phái nữ. Đứng sau Lê Văn Hảo là một số nhân vật có tiếng tại Huế mà người dân thành nội tin rằng chính là thủ phạm của các vụ Thảm Sát Tết Mậu Thân tại Huế: Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Tôn Thất Dương Tiềm, v.v…

    21-02-1968: Dưới áp lực nặng nề của 3 lữ đoàn Thủy quân lục chiến VNCH, không kể Sư Đoàn 1, và 3 tiểu đoàn Hoa Kỳ, quân Bắc Việt “quyết định rút, bởi v́ bây giờ dù quân chi viện có vào nữa th́ cũng không thay đổi được t́nh thế.”

    22-02-1968: Quân Bắc Việt cố gắng trong tuyệt vọng làm một cuộc phản công hầu tạo xao động cho lính VNCH. Nhưng Trần Ngọc Huế và đội Hắc Báo của ông đă tập hợp chống trả mạnh mẽ và chiến thắng.

    24-02-1968: Cuối cùng, quân lực VNCH đă thành công trong việc tái chiếm kỳ đài để hạ cờ Việt Cộng vào lúc 5 giờ sáng, và thay bằng lá cờ vàng ba sọc đỏ của Việt Nam Cộng Ḥa nơi cửa Thượng Tứ.

    Tổn thất

    Hà Nội chưa bao giờ công bố số quân Bắc Việt tử vong tại Huế, tuy một bài thơ của Chế Lan Viên (1920-1989) đă tự thú nhận: “Hai ngàn quân tràn xuống đồng bằng. Chỉ ba mươi người trở lại…”. Trần Văn Trà viết “Có những đơn vị tham chiến mà không ai sống sót trở về,” có lẽ để nói về trận chiến tại Huế. (Bài viết năm 1993, trang 62).

    Thống kê của Đồng minh ước đoán lính Việt Cộng tham chiến tại Huế có khoảng 7.500 người (tương đương với 15 tiểu đoàn), trong số đó 5.000 tử trận tại chỗ, c̣n 3.000 xác khác được t́m thấy tại những vùng đất chung quanh Huế. Tuy thật là khó tin, song xác những lính chính quy Bắc Việt t́m được chung quanh các đồi phía Tây của Huế có thể là những nhân sự Hà Nội đưa vào Nam với hoang tưởng là đă chiếm xong được Huế. Chỉ điều này mới giúp giải nghĩa được cảnh tượng sau đây trong những ngày chiến đấu cuối cùng tại Huế, như lời kể của Andrew Wiest qua tác phẩm Vietnam’s Forgotten Army: “Khi tiến lên cùng với lính của ḿnh, Trần Ngọc Huế không thể tin vào mắt ông: những xác chết c̣n nguyên quân phục mới tinh, xếp chồng chất lên nhau hàng hàng lớp lớp ngút tầm mắt, tràn ra khỏi các mương rănh, hố cá nhân và bụi rậm. [… Cuối cùng, t́m ra một người lính Bắc Việt c̣n sống] Huế hỏi tại sao đội quân của anh ta lại mặc quân phục đại lễ và mang theo cờ. Người tù chán nản trả lời: “Họ bảo chúng tôi rằng Huế đă được giải phóng và chúng tôi đến để diễu hành mừng chiến thắng” (trang 116).

    Nhật kư của Lê Minh xác nhận điều này: “Đến ngày 26-2-68 th́ tất cả đă rút ra khỏi thành phố. Thực sự là bắt đầu rút từ ngày 22, và cuộc rút lui kéo dài trong 5 ngày mới kết thúc. V́ các chiến lợi phẩm đưa ra tấp ở ngoại thành hoặc ven rừng đều đă bị địch phản kích chiếm lại hết, nên lên rừng người nào là đói ngay trong ngày đó. Sau cuộc liên hoan mừng chiến thắng (sic) có cả nhân sĩ trí thức Huế ở Khe Trái th́ cả rừng ăn muối. Khó khăn ập tới sau khi rút ra khỏi Huế là giống như t́nh h́nh hồi vỡ mặt trận.”

    “Hàng vạn người đă lên rừng phải lo ăn,” Lê Minh tiếp tục, “người ở ngoài kia [Bắc Việt] tiếp tục ập vào, nào công an, đài phát thanh, truyền h́nh, cục lưu trữ, kể cả cảnh sát giao thông, v.v… ở đâu cũng đ̣i gạo đ̣i muối; trong khi đó Trung ương lại cứ tiếp tục giao nhiệm vụ đánh Huế đợt 2 [vào tháng 05-1968].”

    Về phía đồng minh, Việt Nam Cộng Ḥa bị tử thương 384 người, 1.800 người bị thương, và Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ báo cáo 147 tử thương, 857 bị thương nặng cần chuyển về bệnh viện.

    Tuy vậy, con số dân lành bị thiệt mạng trong cuộc chiến tại Huế thật khổng lồ. Gần 7.000 người mất tích, trong khi chỉ có 844 tử thương và 1.900 bị thương v́ bom đạn. Trong số mất tích người ta t́m được 2.800 tử thi từ các hầm chôn tập thể ở rải rác nhiều nơi trong thành phố, nhất là tại Gia Hội, nơi nhiều người dân bị xử tử, và khoảng 19 địa điểm khác quanh Huế. Các nạn nhân này bị tàn sát bất kể người già, phụ nữ, trẻ em, ngay cả trẻ sơ sinh. Việt Cộng sợ rằng nếu có người sống sót trở về, họ sẽ tiết lộ các nơi trú ẩn của tàn quân Bắc Việt.

    Về chuyện này, ngay cả Lê Minh cũng bị nhói trong tim khi viết trong hồi kư: “Tôi thấy cần phải nói đến một điều đáng buồn. [Về] sự tang tóc trong biến cố Mậu Thân […] c̣n lại một mặt của vấn đề, việc trừng trị những người có tội ác với nhân dân (sic) trong một cuộc chiến tranh là điều không tránh khỏi, một khi quần chúng (sic) đă nổi dậy. […] Rốt cuộc là đă có những người bị xử lư oan trong chiến tranh. Dù lư do thế nào th́ trách nhiệm vẫn thuộc về lănh đạo, trong đó có trách nhiệm của tôi.”

    Nhận định sơ khởi

    Với những khảo sát kể trên, tôi mong là đă làm rơ được một số vấn đề chung quanh trận Mậu Thân tại Huế - một trong những cuộc giao tranh quan trọng nhất trong chiến tranh Việt Nam. Trận chiến quân sự, với tất cả những tính toán sai lầm và những giây phút hèn nhát ở cả hai phía, đă là một thiên hùng ca cho cả 3 quân đội: Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ, và Quân Bắc Việt. Cả ba đă vượt sức ḿnh để chiến đấu.

  8. #28
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Trận chiến Mậu Thân tại Huế từ góc nh́n của Chỉ huy chiến trường Bắc quân

    Trận chiến Mậu Thân tại Huế

    từ góc nh́n của Chỉ huy chiến trường Bắc quân


    Trong trận chiến chính trị, rơ ràng là Việt Cộng đă lầm to khi tiên đoán về cảm t́nh của người dân Huế mà họ hy vọng sẽ đứng về phía họ, một chuyện đă không xảy ra. Thế nhưng Việt Cộng đă thật bất ngờ khi cuộc tổng công kích Mậu Thân đă đưa Hoa Thịnh Đốn đến quyết định hoàn toàn thay đổi chiều hướng của cuộc chiến.

    Trên phương diện đạo đức, cuộc Thảm sát tại Huế năm 1968 sẽ đi vào lịch sử như một hành động cực kỳ tàn ác, vô nhân, và vô nghĩa lư của CSVN, nhắm vào người dân lành, mà chính Lê Minh, người chỉ huy quân Bắc Việt, cũng đă tự nhận có một phần trách nhiệm trong đó. Do vậy nên tất cả các chối bỏ tội ác bởi những đầu óc lệch lạc như Gareth Porter nhằm biện minh cho Cộng Sản là hoàn toàn không đứng vững.

    Keith Nolan cũng không có lư trong tác phẩm Battle for Hue của ông khi chối bỏ vai tṛ của Quân Lực VNCH trong trận chiến đặc biệt này, và hạ vai tṛ của họ xuống như là chỉ đi “theo dọn dẹp chiến trường cho Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ” (trang 87), cũng như kết án họ là “đi từ nhà này sang nhà khác như những nhóm có tổ chức để hôi của.”

    Ông Andrew Wiest đă công bằng hơn khi viết: “Từ những nỗ lực đầu tiên để giải tỏa khu MACV, các Thủy quân lục chiến Mỹ đă biểu lộ sự can trường cá nhân và sức chiến đấu của các đơn vị, một truyền thống của TQLC Mỹ, một binh chủng mà vẫn được xem như đ̣an bộ binh thiện chiến nhất thế giới. Rơ ràng là phía Hoa Kỳ đă hy sinh vô vị lợi. TQLC Mỹ đă chính tự thân giải phóng được thành phố mới ở phía Nam sông Hương và đánh một trận chiến hùng sử ở trong Cổ Thành, với 147 người bị tử thương. Song, trong một trận chiến ít được ngợi ca, Quân Lực VNCH đă thực sự đóng vai chính khi anh dũng chiến đấu để giành lại Thành Nội, những đơn vị thiếu quân số của họ đă đánh bại các lực lượng tự phụ của Bắc Việt và Việt Cộng trong trận chiến dai dẳng và đắng cay mà không hề có sự hỗ trợ trực tiếp của pháo binh cơ hữu hạng nặng. Tại chiến trường này, với số tử vong là 357 chiến sĩ, lính VNCH đă gây – một con số lạ kỳ - là 2.642 cái chết ngay trong lúc giao tranh cho bộ đội Bắc Việt và Việt Cộng.”

    Cuối cùng, tôi tin rằng Tổng tư lệnh quân đội Hoa Kỳ, Tướng William C. Westmoreland, đă có nhận xét và thông tin đúng đắn hơn Keith Nolan: “Rất nhiều người Mỹ tham dự trận chiến Tết Mậu Thân […], tuy nhiên… chỉ có một trận tấn công lớn của Việt Cộng vào căn cứ Hoa Kỳ tại ṿng đai của Long B́nh. […Như vậy] nói chung, cuộc Tổng tấn công Mậu Thân 1968 của Cộng Sản đă hoàn toàn bị đẩy lui bởi Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Chúng ta cần vinh danh Quân Lực VNCH, không quân Việt Nam, địa phương quân, cảnh sát quốc gia – tất cả đă đóng vai tṛ chính yếu trong việc đẩy lui cuộc tấn công của CS.”

    Nhận định tổng quát

    Như ai đă làm thầy giáo đều biết, nhận định công bằng nhất đối với một trận đánh phải đặt trên mục tiêu tiên khởi đưa đến việc làm ấy. Chỉ khi đó chúng ta mới thực sự đo lường được sự thành công hay thất bại trong công việc.

    Với ư tưởng này, thiết tưởng cũng nên nhắc lại tên do chính Hà Nội đặt cho cuộc tổng tấn công Mậu Thân là “Tổng Công Kích-Tổng Nổi Dậy”. Đó là v́ trong lối nh́n của Hà Nội, họ không chỉ muốn ngừng lại ở chiến thắng quân sự (dù như có được), mà c̣n muốn nó được kèm theo bởi h́nh ảnh của một cuộc tổng nổi dậy để cho hành động xâm lăng này xem ra có “chính nghĩa.” Nói cách khác, Hà Nội không muốn bị nh́n là một kẻ hiếu chiến, mà muốn mang mặt nạ của một kẻ đi “giải phóng” nạn nhân của bất công, giúp những người từ lâu bị đàn áp dưới “chính thể tàn độc,” mà Hà Nội phỉ báng là “Đế quốc Mỹ” và “ngụy quyền Sài G̣n.”

    Về phương diện này, cuộc tấn công Tết Mậu Thân của Bắc Việt không chỉ là một thất bại quân sự nặng nề, mà c̣n là một thảm bại về chính trị lớn lao cho họ v́ ở cả 25 thành phố và tỉnh lỵ bị tấn công trong năm định mệnh ấy, không nơi nào người dân Việt tiếp đón Cộng Sản cả. Ngay cả ở Huế, nơi mà trong suốt 3 năm trước đó, thành phố đă sôi sục với phong trào Phật Giáo đối lập với chính quyền Sài G̣n.

    Lúc đầu, Cộng Sản cố gắng khoác lên bộ mặt nhân đức. Hướng dẫn bởi các tên nằm vùng, với danh sách trong tay, cán bộ Cộng Sản đến từng địa chỉ đă định và đ̣i hỏi chủ nhà phải ra tŕnh diện trong buổi họp mặt với “chính quyền mới” (Hiểu là: chúng tôi biết đích xác là các anh ở đâu). Sau đó, người dân được thuyết giảng về “cách mạng” và bị răn đe rằng cuộc “cách mạng” này, tuy “nhân đạo” song sẽ không tha thứ cho bất cứ ai chống đối. Rồi họ cho phép những người dân này trở về nhà và khuyến khích những người đang ẩn trốn đi ra tŕnh diện. Không ít người rơi vào cái bẫy này: những người ra đầu thú bị bắt ngay lập tức, và có người c̣n bị xử bắn ngay trước mặt thân nhân, điển h́nh cho cái gọi là “công lư cách mạng.” Giai đoạn thứ ba, các thanh niên sinh viên được gọi ra tŕnh diện và bị bắt đào các đường mương, hào làm chỗ trú bom cho bộ đội trong trường hợp bị thả bom hay pháo kích.

    Nhưng chỉ trong một thời gian ngắn, ai cũng nh́n ra rằng các hào sâu này chính là nơi Cộng Sản xử bắn những người bị gán tội “kẻ thù của nhân dân.” V́ Việt Cộng cần tiết kiệm đạn, đa số nạn nhân bị chôn sống sau khi bị đập vào đầu bằng báng súng hay “đánh cho chết bằng xẻng cuốc.” Nạn nhân của giai đoạn này đa số là đàn ông từng làm việc với cảnh sát và chính quyền Miền Nam. Cuộc hành quyết kéo dài nhiều đêm tại nhiều nơi khác nhau trong thành phố.

    Khi cuộc chiến đang diễn ra, Cộng Sản khám phá chỗ trú ẩn của nhiều người. Ban đầu, họ tập họp tất cả lại như tù nhân, nhưng chẳng bao lâu sau những tù nhân này bị xem như gánh nặng v́ không đủ lương thực, thiếu pḥng vệ sinh, và nếu gia đ́nh đi thăm nuôi th́ lại trở thành vấn đề thông tin phản gián, đưa đến quyết định là dời tù ra ngoài thành phố, đưa lên vùng đồi núi, hay giản dị hơn là thủ tiêu nạn nhân.

    Hoàn cảnh xấu nhất xảy ra khi, không thể chống lại sự phản công của phe quốc gia trong những ngày cuối, Cộng Sản phải quyết định triệt thoái lên núi. Việc rút này phải được tuyệt đối bảo mật. Họ đă thử dời tù nhân lên vùng đồi núi để giữ làm con tin hay làm bia đỡ đạn. Nhưng v́ con số tù nhân quá đông, nên điều này trở thành không thể.

    Hơn nữa, không đủ lương thực để nuôi tù, không đủ thời gian để đưa họ đi ra Bắc. Thả tù ra là một đề nghị nguy hiểm v́ chắc chắn tù binh được thả sẽ tiết lộ đường rút quân. Từ đó đưa đến quyết định bịt miệng và thủ tiêu nhân chứng. Điều này giải thích cho rất nhiều mồ chôn tập thể được t́m thấy sau này, dọc theo con đường rút quân của các đơn vị bộ đội Bắc Việt.

    Ai là thủ phạm của quyết định giết dân lành?

    “Thị trưởng” Huế trong thời gian này là Lê Văn Hảo (giữ chức Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Cách Mạng Thừa Thiên, Huế), sau đă trốn sang Pháp, không nhận đây là tội của ông. Ông khai rằng ḿnh chỉ bị giật dây và sai khiến, không có tiếng nói trong mọi quyết định của Cộng Sản tại Huế. Hoàng Phủ Ngọc Tường, người sau này có vị thế lớn tại Huế, cũng nói ông không nhúng tay vào thảm kịch ghê sợ này, nhưng dù sao, như Lê Minh, ông ta đă không chối là có các mồ chôn tập thể, trong khi Gareth Porter hay Philip Hones Griffith, một người phản chiến, lại muốn đổ tất cả tội vào bom đạn của Hoa Kỳ. Nhưng ít ra th́ người dân Huế, cho đến ngày hôm nay, 40 năm sau, vẫn c̣n nhớ như in cảnh Hoàng Phủ Ngọc Phan (em trai Hoàng Phủ Ngọc Tường) và Tôn Thất Dương Tiềm hay Nguyễn Đắc Xuân dẫn đường cho Cộng Sản đi từng nhà điệu nạn nhân ra, kết án họ đă “mắc tội với nhân dân” và có khi c̣n đọc bản án tử h́nh cho một số nạn nhân. Đây là đợt thảm sát đầu tiên trong thành phố Huế như Gia Hội.

    C̣n những nạn nhân bị giết trên đường rút lui của Cộng Sản th́ trách nhiệm phải thuộc những người chỉ huy quân đội như Lê Minh, người đă tự nhận một phần trách nhiệm, hay những người chỉ huy thấp hơn, đă tự động thủ tiêu nạn nhân trước rồi báo cáo sau, như Lê Minh ngụ ư trong lời khai của ông. Tuy nhiên, cách hành xử này đă rất phổ biến, đưa đến ít nhất là 22 mồ chôn tập thể được t́m ra sau này, và cho thấy lệnh thủ tiêu dân lành có thể được ban ra từ cấp chỉ huy cao hơn cả Lê Minh, rất có thể là từ Tướng Trần Văn Quang, tư lệnh quân khu Trị Thiên - Huế, hay ngay cả từ Hà Nội.

    Việt Báo

  9. #29
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Huế, 40 năm sau Tết Mậu Thân, vết thương vẫn chưa lành

    TƯỜNG THUẬT CHI TIẾT

    Huế, 40 năm sau Tết Mậu Thân, vết thương vẫn chưa lành

    Thiện Giao, phóng viên RFA

    Cách đây đúng 40 năm, trong chiến dịch Đông Xuân 1967-1968, Quân Đội Bắc Việt, dưới danh nghĩa là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, đă đồng loạt tấn công vào 41 tỉnh, thành phố, thị trấn và hàng trăm thị xă miền Nam Việt Nam. Thời điểm cuộc tấn công diễn ra đúng vào giao thừa trong bối cảnh hai phía Bắc – Nam và cả quân đội đồng minh đă thoả thuận hưu chiến 36 giờ đồng hồ để người dân được yên hưởng một Tết truyền thống trong hoà b́nh.

    Vi phạm thoả ước, Việt Cộng đă tấn công đúng vào giao thừa để dành phần bất ngờ. Chiến trường Huế, một địa điểm chính yếu trong toàn cuộc chiến, đă diễn ra ác liệt và kéo dài đến 25 ngày đêm. Khi quân đội Bắc Việt bị đánh bật ra khỏi thành phố, người dân Huế nhận ra rằng, nhiều ngàn người dân thường đă bị thảm sát, để rồi từ đó về sau, mỗi năm, Tết nguyên đán trở thành ngày giỗ người thân của hàng ngàn gia đ́nh ở cố đô Huế.

    Tưởng niệm 40 năm biến cố Mậu Thân, đài Á Châu Tự Do xin kể lại cuộc thảm sát thông qua kư ức của chính những người trong cuộc, qua đối thoại trực tiếp hay tài liệu lưu trữ. Loạt bài gồm 5 phần, do biên tập viên Thiện Giao thực hiện.

    Khuya mùng Một, rạng sáng mùng Hai Tết Mậu Thân, tức là ngày 31 tháng Giêng năm 1968, Huế bắt đầu những ngày vui, nhưng bất ngờ chuyển thành ngưỡng cửa vào địa ngục, khi tiếng súng bỗng hoà vào, rồi thay hẳn tiếng pháo… Huế bị tấn công trong Chiến Dịch Đông Xuân 1967-1968 của quân đội miền Bắc chỉ một ngày sau các tỉnh, thành phố, thị trấn khác của miền Nam.

    Bị tấn công sau, nhưng Huế đă trở thành chiến trường tàn khốc nhất, dai dẳng nhất. Nếu chấp nhận một định nghĩa, rằng những tiếng đạn pháo đầu tiên qui định giờ khắc bắt đầu cuộc chiến, th́ Huế bắt đầu trở thành chiến trường vào đúng 2g33 rạng sáng ngày 31 tháng Giêng. Ông Nguyễn Phúc Liên Thành, Phó Trưởng Ty Cảnh Sát Đặc Biệt Lực Lượng Cảnh Sát Quốc Gia tại Thừa Thiên, kể lại: “Cuộc tấn công Huế chính thức vào đêm mồng Một, ngày 31-01-1968, rạng sáng Mồng hai Tết, lúc 2g33. Những quả đạn Việt Cộng đầu tiên bắn vào phi trường Tây Lộc, bộ Tư Lệnh và một số địa điểm Quận 3, thị xă Huế.”

    Huế đă nằm trong tay địch 25 ngày đêm liên tiếp. Khi quân đội Việt Nam Cộng Hoà cùng đồng minh Hoa Kỳ văn hồi an b́nh cho Huế, với cao điểm là các trận tái chiếm Đại Nội, hạ cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, dựng lại cờ Việt Nam Cộng Hoà tại Kỳ Đài ở Phu Văn Lâu ngày 22 tháng Hai, Huế đă trải qua hơn 3 tuần kinh hoàng.

    25 ngày thảm sát kinh hoàng

    Những kinh hoàng không dừng lại với h́nh ảnh của chiến tranh và âm thanh của đạn pháo. Huế, bắt đầu một cơn ác mộng khác nữa, khi người dân Huế bàng hoàng nhận ra, rằng nhiều ngàn người dân đất Thần kinh đă bị thảm sát, bằng nhiều cách khác nhau, trong đó có cả việc cột người ta lại thành từng xâu, rồi đẩy xuống hố chôn sống. Đây là lời kể của những kẻ chứng kiến tận mắt cảnh khai quật tử thi nạn nhân.

    Theo nhà báo Vũ Ánh, đương kim Chủ bút Nhật báo Người Việt, Cựu Phóng viên Mặt trận Hệ thống Truyền thanh Quốc gia Việt Nam Cộng Hoà, th́: “Ngay tại Phú Thứ, bác sĩ Lê Khắc Quyến nói với tôi là: Đây là cách giết người của người ở thời Trung Cổ.”

    Ông Vơ Văn Bằng, Trưởng ban Truy t́m và Cải táng Nạn nhân Cộng Sản Tết Mậu Thân, hồi tưởng: “Các hố cách khoảng nhau. Một hố vào khoảng 10 đến 20 người. Trong các hố, người th́ đứng, nào là nằm, nào là ngồi, lộn xộn. Các thi hài khi đào lên, thịt xương đă ră ra. Trên thi hài c̣n thấy những dây lạt trói lại, cả dây điện thoại nữa, trói thành chùm với nhau. Có lẽ họ bị xô vào hố thành từng chùm. Một số người đầu bị vỡ hoặc bị lủng. Lủng là do bắn, vỡ là do cuốc xẻng.”

    Mức độ kinh hoàng dâng lên, từ từ, từng ngày, từng tuần, từng tháng. Rồi, đến ngày 19-09-1969, tức là 20 tháng sau trận Mậu Thân, Huế vỡ oà với những phát hiện về vụ thảm sát tại Khe Đá Mài thuộc quận Nam Hoà. Người ta t́m ra khoảng 400 bộ hài cốt. Những hài cốt chỉ c̣n xương và sọ. Thịt da đă rữa và trôi đi theo ḍng nước.

    Huế 1968, là Huế của “chiều đi lên Băi Dâu, hát trên những xác người.” Huế 1968, là Huế của “đàn con nay lớn khôn, mang gươm đao vào xóm làng.” Huế 1968, là Huế của khăn sô vào áo tang trắng. Đó là những h́nh ảnh không thể nào quên với những ai đă một lần chứng kiến: “Mỗi lần nhà thờ Ḍng Chúa Cứu Thế làm lễ, dân chúng đi lễ, cả nhà thờ mặc đồ trắng và để tang trắng cả nhà thờ”, Trần Tiễn San, Trung Uư Tiểu Đoàn 39 Biệt Động Quân vào năm 1968 nói. “Dọc đường, từ đường Lê Lợi, các quận lên mồ chôn tập thể Ba Tầng toàn khăn tang áo trắng”, Nguyễn Phúc Liên Thành, Phó Trưởng ty Cảnh sát Đặc biệt Lực lượng Cảnh sát Quốc gia tại Thừa Thiên phát biểu.

    Những địa danh của Huế, vốn chỉ được biết trong cộng đồng cư dân Huế, nay bỗng chốc, trở thành đề tài bán tán của dư luận, trên báo chí quốc gia, và cả quốc tế. Một Gia Hội, một Cồn Hến, một Chợ Thông, một Phú Thứ, một Khe Đá Mài, một Băi Dâu. Ai đă thắng trận chiến dành lấy từng căn nhà, từng con đường của thành Nội, kéo dài trong 25 ngày tại Huế? Ai thắng có lẽ không phải là điều quan trọng? Hay ít nhất không phải là điều quan trọng nhất.

    Trách nhiệm thuộc về ai?

    Người dân Huế quan tâm hơn đến câu hỏi: Ai đă giết, ai đă chết, ai sẽ chịu trách nhiệm những ǵ xảy ra trong gần 4 tuần lễ kinh hoàng của Huế? Học giả Douglas Pike, thuộc Pḥng Thông Tin Hoa Kỳ, trong bản báo cáo hoàn tất vào ngày 1 tháng Hai năm 1970 tại Sài G̣n, đă viết: chỉ trong một trận Mậu Thân tại Huế, gần 4,800 thường dân đă chết và mất tích. Ông Pike kết thúc lời mở đầu của báo cáo bằng một khẳng định: “Nếu báo cáo của tôi là một bản án đối với thái độ của người CS, th́ thật sự nó là như vậy đấy. Đơn giản v́ thái độ ấy đáng bị lên án.”

    Trong khi đó, trong một bài viết đăng trên số 33 tạp chí Indochina Chronicle, ngày 24-06-1974, tiến sĩ Gareth Porter phản bác lại tất cả những ǵ ông Pike đă viết. Tiến sĩ Porter nhận định rằng, vụ thảm sát Mậu Thân 1968 tại Huế, với chữ thảm sát để trong ngoặc kép, chỉ là một câu chuyện hoang đường phục vụ lợi ích của Hoa Kỳ và chính quyền miền Nam lúc bấy giờ. Đây là một kết luận đáng ngạc nhiên, v́ ngay một cơ quan chính thức của nhà nước Việt Nam xă hội chủ nghĩa là Cục Văn Thư và Lưu trữ nhà nước từng gọi việc những người miền Nam di tản hồi cuối tháng tư năm 1975 là một “tội ác cưỡng ép di cư” cũng không dám đưa ra một kết luận tương tự như thế.

    Có lẽ, không ai, xin nhấn mạnh, không có bất cứ ai, có đủ tư cách và thẩm quyền để trả lời câu hỏi: Ai đă giết người dân Huế? Chỉ có thành phố Huế và người dân Huế, những nạn nhân trực tiếp của cuộc thảm sát, và những người trực tiếp tham gia công tác truy t́m, mai táng xác nạn nhân mới có thẩm quyền trả lời, và cả thẩm quyền để lên án.

    Những nhân chứng của 40 năm trước hồi tưởng: “Theo những báo cáo của các cuộc cảnh sát các xă thuộc 13 quận của thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên, do các xă báo cáo, khoảng 5,300 nạn nhân bị chôn sống tại tỉnh Thừa Thiên” (Nguyễn Phúc Liên Thành, Phó Trưởng ty Cảnh sát Đặc biệt Lực lượng Cảnh sát Quốc gia tại Thừa Thiên). “Vết thương đó vẫn chưa khô máu, vết sẹo đó mỗi lần trái gió trở trời vẫn đau xót xa” (Huy Phương, cựu Phóng viên Cục Tâm lư chiến).

    Người Huế nói ǵ về biến cố Tết Mậu Thân?

    Và hôm nay, người dân Huế thế hệ Mậu Thân, đang sống tại Huế, nói ǵ? “Gió Nam th́ vỗ về gió Nam, gió Nồm th́ vỗ về gió Nồm. Ngă mô cũng khổ. Không theo th́ chết. Không theo th́ chôn…” - “Nó xô xuống, nó dập, khổ lắm. Ở Huế đây chết nhiều cái thê thảm!” - “Toàn dân không à! Mà họ nói là ác ôn, ri khác! Ai chết th́ chết! Tui chừ tui cũng sợ, tui không dám về làng.”

    40 năm qua là 40 năm người dân Huế đón Xuân cùng lễ giỗ. Bốn mươi năm nhưng vết thương chưa lành. Năm nay, người dân Huế ở hải ngoại lại tổ chức lễ tưởng niệm 40 năm thảm sát Mậu Thân. Ở trong nước, giới chính quyền, giới quân sự th́ tổ chức hội thảo khoa học về chiến dịch Xuân MT 1968. Một trong các hội thảo được tổ chức tại Huế.

    Đến nay, đứng trước những cáo buộc suốt 40 năm của những Việt Nam Cộng Hoà cũ, và của cả giới nghiên cứu quốc tế, nhất là Hoa Kỳ, Hà nội vẫn chưa bao giờ có câu trả lời chính thức: Ai, bằng cách nào, và tại sao, đă giết hàng ngàn người Huế, trong đó có cả sinh viên, thanh niên, học sinh và phụ nữ.

    Nhân kỷ niệm 40 năm biến cố Mậu Thân, ban Việt ngữ đài Á Châu Tự do chúng tôi xin được tái hiện lại, trong chừng mực có thể, dựa trên lời kể của những người trong cuộc, về những ǵ đă xảy ra tại Huế trong năm 1968. Đó chẳng những là một cách để ghi lại những ǵ thực sự xẩy ra trong chuỗi ngày kinh hoàng ấy, mà c̣n là để tưởng nhớ những con người đă chết oan khuất, đớn đau trong một sự kiện lịch sử mà không ít người muốn chôn vùi hay gây nhiễu.

    Loạt bài này gồm 4 chủ đề, tŕnh bày các khía cạnh dân sự lẫn quân sự của trận Mậu Thân trên nền những kư ức về vụ thảm sát. Cũng trong nội dung này, hành tŕnh truy t́m và cải táng các mộ chôn người tập thể những tháng sau đó cũng sẽ được tŕnh bày lại, theo lời kể của các nhân chứng, người Huế và cả các nhà báo theo dơi sự kiện này.

    Trên đây là bài thứ nhất trong loạt bài “Cuộc thảm sát Tết Mậu Thân 40 năm trước” do Thịên Giao thực hiện. Trong bài kế tiếp, chúng tôi xin gởi đến quí vị những hồi ức về Huế, những ngày trước Tết Mậu Thân. Đối với người dân thường, Mậu Thân là một cái Tết b́nh thường như bao cái Tết khác. Nhưng, họ đă không ngờ niềm vui và những ngày hoà b́nh hiếm hoi đang nằm trong nỗi kinh hoàng đang đến dần. Huế, những ngày ấy, như lời nhà văn Nhă Ca trong hồi kư “Giải Khăn Sô Cho Huế,” “Đang mở cửa địa ngục.”

    http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/

  10. #30
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Huế, 25 ngày kinh hoàng của 43 năm trước

    Huế, 25 ngày kinh hoàng của 43 năm trước



    Thiện Giao, phóng viên RFA

    Thưa quí vị, trong bài tŕnh bày trước, để mở đầu cho loạt bài về biến cố Mậu Thân năm 1968 tại Huế, chúng tôi đă gởi đến những con số tổn thất nhân mạng, những nhận định liên quan đến vụ thảm sát nhiều ngàn người tại Huế trong tháng Hai năm 1968.

    Hôm nay, chúng tôi xin tiếp tục phần thứ nh́. Trong phần này, xin gởi đến tiếng nói của những người trong cuộc, kể lại Huế trong 25 ngày kinh hoàng cách đây đúng 40 năm. Bên cạnh đó, các nhân chứng cũng không khỏi bùi ngùi nhớ lại đất cố đô những ngày trước thảm sát, trong một không khí thanh b́nh, cho dù vẫn c̣n văng vẳng xa xa tiếng đại bác. Biên tập viên Thiện Giao tŕnh bày sau đây.

    Những ngày giáp Tết Mậu Thân

    1968, những ngày giáp Tết Mậu Thân, Huế vẫn b́nh yên, một t́nh trạng b́nh yên của thời chiến. Huế, những ngày ấy, bỗng nhiên thanh b́nh hơn. Chợ hoa đầu cầu Trường Tiền vẫn mở. Chợ Đông Ba, dân chúng vẫn tụ tập, mọi người vẫn hớn hở. Vẫn có tiếng đại bác xa xa vọng về, nhưng vẫn là một trạng thái yên b́nh.

    Linh mục Phan Văn Lợi, vào thời điểm năm 1968, mới 17 tuổi, hồi tưởng: “T́nh h́nh tạm yên, vẫn nghe tiếng đại bác từ xa vọng về. Nhưng lúc ấy tôi thấy yên lành hơn. V́ thường thường hai bên đ́nh chiến.” Đ́nh chiến, một danh từ hấp dẫn. Đối với Huế, đ́nh chiến có nghĩa là được thêm vài chục giờ thanh b́nh.

    Hồi tưởng lại những ngày giáp Tết Mậu Thân, ông Nguyễn Phúc Liên Thành, lúc ấy là Phó Trưởng ty Cảnh sát Đặc biệt Lực lượng Cảnh sát Quốc gia tại Thừa Thiên cho biết: “Huế những ngày ấy thanh b́nh hơn những ngày khác. Chợ Hoa đầu cầu Trường Tiền, Chợ Đông Ba, đông dân chúng tụ tập, mọi người hớn hở. Mọi người biết có thoả hiệp đ́nh chiến giữa Việt Nam Cộng Ḥa, đồng minh và Việt Cộng. Đ́nh chiến 3 ngày Tết để dân chúng được hưởng một cái tết thanh b́nh giữa t́nh trạng chiến tranh.”

    Từ Sài G̣n, những người gốc Huế cũng háo hức về đất Thần kinh đón Xuân. Anh Nguyễn Xuân Thắng, năm 1968 vừa mới tṛn 7 tuổi, nhớ lại: “Ḿnh là dân Huế, được về Huế th́ rất mừng. Khung cảnh Huế yên tĩnh, rất thơ mộng. Tối 30, ông Bác dẫn về nhà ông nội ở đường Hàn Thuyên đối diện nhà luật sư Lê Trọng Quát. Tối đó người lớn đi chơi th́ chở ḿnh đi theo.”

    Tấn công ngay trong đêm Giao thừa

    Khoảng thời gian đ́nh chiến, theo tài liệu xuất bản tháng 8 năm 1968, do trung tá Phạm Văn Sơn chủ biên, trước định 48 giờ, sau được lệnh rút xuống 36 tiếng, nghĩa là, lệnh hưu chiến chỉ c̣n giá trị từ 18 giờ ngày 29 tháng Giêng đến 6 giờ ngày 31 tháng Giêng năm 1968.

    Quân đội Bắc Việt chọn tấn công miền Nam đúng vào giờ giao thừa, và xem đó là một trong những bí mật của trận Mậu Thân. Đại tướng Quân đội Bắc Việt Vơ Nguyên Giáp nhấn mạnh: trận Mậu Thân có ba điểm bất ngờ, là mục tiêu, qui mô, và trên hết là thời điểm, đúng giao thừa: “Ra đến cầu Tràng Tiền th́ thấy xe tăng hai bên đường. Tôi nghe người lớn nói với nhau: Không biết chuyện ǵ xảy ra tối nay.” Mà thật là như vậy, tối hôm ấy, mọi chuyện bắt đầu xảy ra.

    Bộ đội Bắc Việt đă có mặt trong thành phố Huế từ sáng sớm mùng Một Tết. Ông Trần Ngọc Huế, vào thời điểm đó, là Đại Đội trưởng Đại đội Hắc Báo thuộc Sư Đoàn I Bộ binh, kể lại rằng cho đến buổi tối, khi phía Bắc Việt bắt đầu tấn công, ông mới trực tiếp nh́n thấy bộ đội đặc công di chuyển vào sân bay Thành Nội. Ông thừa nhận, quân đội Bắc Việt có ưu điểm là giữ bí mật: “Tối đó, sau khi bố trí đơn vị, tôi về nhà. Đến khuya th́ một trung úy của tôi lái xe đi tuần. Tôi nói, mai về sớm để đón tôi vào đơn vị. Đến khuya th́ phía Bắc Việt bắt đầu đánh. Tôi mặc áo quần rồi lấy chiếc xe đạp ra đi. Trên đường đi, tôi thấy Đặc Công tiến vào sân bay Thành Nội. Họ đi lúp xúp, tôi nh́n kỹ, thấy không phải ḿnh. Khi thấy họ ngụy trang đi quẹo vào phi trường. Tôi đi chầm chậm sau đó, rồi băng qua cống Vĩnh Lợi rồi đánh kẻng báo động.”

    Đến 2 giờ 33 phút sáng ngày mồng Hai, những trái đạn pháo đầu tiên bắt đầu bắn vào phi trường Tây Lộc, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Một Bộ Binh và một số địa điểm tại Quận 3 thuộc thị xă Huế.

    Ông Trần Ngọc Huế nhớ lại, có thời điểm, Đặc Công của phía Bắc Việt đă vào đến bên trong Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Một Bộ Binh, cách pḥng tướng tư lệnh Ngô Quang Trưởng chỉ có 30 mét, và tướng Trưởng cũng đang có mặt tại đó: “Đặc công đă vào trong bộ tư lệnh Sư Đoàn Một rồi. Lúc đó là 10 giờ sáng, chuẩn bị mở đường máu vào Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn để giữ an ninh cho bộ tư lệnh. Đặc công chỉ c̣n cách văn pḥng tướng Trưởng 30 mét.”

    Cuộc thảm sát kinh hoàng

    Chiếm thành phố Huế đến đâu, phía Bắc Việt lập Chính Quyền Cách Mạng đến đó. Ông Nguyễn Phúc Liên Thành kể lại, khi Việt Cộng làm chủ Huế qua ngày thứ hai th́ họ bắt đầu thành lập chính quyền Cách Mạng. Cụ thể, tại Quận Nh́, Thành Ủy Viên Thành Ủy Huế Hoàng Kim Loan, cấp trung tá, đứng đầu cùng Hoàng Lanh. Chính quyền Quận Nhất cũng được thành lập. Riêng Quận 3 chưa kịp nhưng được giao cho đại tá Bảy Lanh, phụ trách an ninh thành.

    Ông Liên Thành nhớ lại: “Sau khi lập chính quyền th́ bắt đầu thảm sát. Đầu tiên họ kêu gọi quân nhân cán chính trong thành phố Huế ra tŕnh diện. Sau khi tŕnh diện th́ được cấp giấy, có quyền đi lại, coi như giấy thông hành. Những người này về nói lại với những người khác, người kế tiếp ra tŕnh diện. Đến lần thứ 3 th́ họ yêu cầu tất cả những người đă tŕnh diện lần l và 2 ra tŕnh diện lại, đây là lần quyết định. Và cuộc thảm sát xảy ra.”

    Đầu tiên là những ṭa án nhân dân: “Ngay lúc đầu, có một số người bị đưa ra ṭa án nhân dân xử và chôn sống tại Băi Dâu, tại vùng Chùa Áo Vàng gần chùa Diệu Đế và một số nơi khác trong Quận Nh́.”

    Tiếp theo là Ḍng Chúa Cứu Thế và nhà thờ lớn Phủ Cam: “Riêng tại Quận Ba, Việt Cộng bắt đi hơn 500 người đang trốn trong Ḍng Chúa Cứu Thế, dẫn đi hết, rồi chôn sống. Tội nghiệp nhất là một số nạn nhân hoàn toàn không dính dáng ǵ đến chính quyền. Ngoài ra, trong số này c̣n có một người rất tiếng tăm là Thượng nghị sĩ Trần Điền. Ngoài ra, tại vùng Phủ Cam, bốn ngày sau khi VC chiếm Huế, Nhà thờ lớn Phủ Cam bị ập vào, bắt đi 300 thanh niên sau này được t́m thấy xác ở vùng phía tây Nam Hoà, tức vùng núi dọc khe Đá Mài, lăng Gia Long.”

    Đă có bao nhiêu người bị giết, và đă có bao nhiêu địa điểm chôn người? Giáo sư Nguyễn Lư Tưởng, cựu Dân Biểu đại diện khu vực Thừa Thiên, nói rằng con số 5 đến 6 ngàn người là không sai lệch mấy. Và khoảng 22 địa điểm trở thành nơi che dấu các thi hài: “Tại thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên, 22 địa điểm t́m được là các mồ chôn tập thể. Trong 22 địa điểm này, người ta đếm được 2,326 sọ người. Sau tết, chúng tôi lập Hội Gia Đ́nh Nạn Nhân Cộng Sản trong Tết Mậu Thân. Các gia đ́nh kê khai có người chết, có người mất tích, lên đến 4,000 gia đ́nh. Người ta ước tính vào khoảng 6,000 người. có nhà báo ước tính 5,000. Chúng tôi cho con số 5 đến 6 ngàn là không sai lệch lắm đâu.”

    Ông Nguyễn Lư Tưởng kể rằng, cuộc t́m kiếm nạn nhân Tết Mậu Thân bắt đầu từ giai đoạn Tết đến mùa Hè năm 1968 và đỉnh điểm là vụ Khe Đá Mài, thuộc đỉnh núi Đ́nh Môn Kim Ngọc, tại đây, khoảng 400 bộ hài cốt đă được t́m thấy. Những hài cốt t́m thấy tại Khe Đá Mài chính là của những người trú ẩn tại xứ đạo Phủ Cam, thuộc làng Phủ Cam, xă Thủy Phước, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên:

    “Cộng sản bắt đi trên 500 người, thanh niên từ 15, 16 tuổi đến ông già 60, 70 bị đưa đi giam ở chùa Từ Đàm. Đến đêm, họ bị dẫn đi lên đường núi và qua sông. Sau đó tàn sát hết mọi người trong tư thế bị trói. Khi tàn sát th́ dùng súng máy, trung liên, đại liên, cả lựu đạn. Các xác đó đă bị vùi xuống khe.

    “Từ Tết, tức tháng 2 năm 1968 đến tháng 9 năm 1969, khoảng 20 tháng, có một số người của Cộng Sản về hồi chánh, họ chỉ. Mở đường hành quân vào t́m, th́ t́m được. Sọ người xương người dồn đống dưới khe. Nơi đây thuộc quận Nam Ḥa, có tên là Khe Đá Mài, thuộc vùng núi Đ́nh Môn Kim Ngọc.

    “Quân đội mang hết xương và sọ về để tại một trường tiểu học thuộc quận Nam Ḥa, các đồ vật gồm có thẻ căn cước bọc nhựa, có áo quần, đồ dùng, vật kỷ niệm mang theo trong người. Hàng ngàn thân nhân đến t́m. Nhờ đó, gia đ́nh t́m được dấu vết. Trong số các nạn nhân, có cả học tṛ tôi, như em Phan Minh, Bùi Kha, mới 16, 17 tuổi.”

    Một trong các vụ thảm sát gây phẫn nộ dư luận quốc tế là vụ giết 4 bác sĩ người Đức sang giảng dạy và làm việc tại trường Đại Học Y Khoa Huế. Trong bài viết “The Vietcong Massacre at Hue,” xuất bản năm 1976, một bác sĩ có tên Elje Vannema kể rằng ông bà bác sĩ Horst Gunther Krainick và hai bác sĩ Raymund Discher cùng Alterkoster đă bị giết trong tháng 02-1968 tại chùa Tường Vân hoặc một vùng đất nhiều cây cối cách chùa chừng nửa dặm, nơi người ta t́m thấy thi hài của các nạn nhân. Bác sĩ người Pháp, có tên Le Hir khám nghiệm tử thi các nạn nhân cho biết có dấu vết đạn xuyên qua đầu và ót. Ngày 13-04, linh cữu đưa thi hài các bác sĩ này rời Việt Nam, về Đức. 250 sinh viên y khoa Huế và Sài G̣n cùng đội quân danh dự của Quân Lực VNCH đă đi theo chiếc xe có bốn ngựa kéo, bên trên chở linh cữu của các ân nhân.

    Chiến sự tiếp diễn trong thành nội Huế đến ngày 22 tháng Hai. Vào ngày này, các lực lượng của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa đă kết thúc 2 trận đánh quan trọng, đẩy phía Bắc Việt lui khỏi Đại Nội, nơi cung điện các vua triều Nguyễn, và kéo lá cờ Việt Nam Cộng Hoà lên thay cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam tại Kỳ Đài ở Phu Văn Lâu. Hai ngày sau đó, chiến trường Huế chấm dứt. Huế lại trở về ṿng kiểm soát của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà.

    Vừa rồi là những nét chính về t́nh h́nh Huế những ngày trước và trong khi quân đội Bắc Việt kiểm soát thành phố. Như đă tŕnh bày, gần như ngay lập tức sau khi kiểm soát Huế, Bắc Việt đă cho thành lập chính quyền và bắt đầu các cuộc thảm sát. Trong bài tiếp theo vào kỳ sau, biên tập viên Thiện Giao sẽ tŕnh bày tổng quát kế hoạch tái chiếm Huế, hai trận đánh đặc biệt tại Đại Nội và Kỳ Đài Phu Văn Lâu qua lời kể của những người tham gia trận đánh. Cuộc truy t́m và cải táng nạn nhân trong các mồ chôn tập thể sau khi quân đội miền Nam cùng đồng minh tái chiếm Huế được thực hiện ra sao? Những nhân chứng cũng sẽ tŕnh bày lại kư ức của những ngày đau buồn ấy, 43 năm trước.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •