(tiếp theo)
4.37. Những ngày ở Trại 3 (Hồ Thác Bà)
Đang ở Trại 5, bây giờ chuyển sang Trại 3, nhất là không c̣n hung thần Phạm Ngọc Diêu làm đội trưởng nữa, tôi có cảm tưởng như ḿnh đang từ tầng thứ chín địa ngục được lên tầng thứ sáu, thứ bẩy vậy. Thật là sảng khoái chi lạ!
Ở đây, tôi quen biết được một số bạn bè mới mà họ thuộc thành phần ở lại của Trại 3 để sáp nhập với nhóm Trại 5 chúng tôi mới tới. Tôi chỉ c̣n nhớ tên một số ít thôi, gồm có các anh như Hồ Đắc Thái, Vơ Tấn Tài, Vũ Cao Hiến, Trần Cao Chánh, Nguyễn Chánh Vi, và anh Lộc.
Hồ Đắc Thái, Vũ Cao Hiến, và Nguyễn Chánh Vi đều bị chết trên đường vượt biển. Vơ Tấn Tài đang ở Houston. Trần Cao Chánh không rơ hiện nay ở tiểu bang nào.
Riêng anh Lộc, có biệt danh là Lộc “Chị năm” v́ anh có giọng nói ỏn ẻn như con gái. Anh Lộc được tha đầu năm 1981, là người đă tới gặp em trai của tôi để chuyển lời tôi nhắn chú em tôi, như đă kể ở phần trên. V́ một lư do nào đó, anh Lộc không đi Mỹ như mọi người, mà ở lại Việt Nam. Anh Lương Văn Quang, là người trước đây ở cùng xă với anh Lộc, mới đây (2008) cho tôi biết rằng anh Lộc dạo này trúng mối v́ giá đất đai ở Sài-G̣n lên cao, anh Lộc nhờ vậy hốt được khá nhiều tiền bán đất. Do đó hiện nay cuộc sống của gia đ́nh anh rất sung túc. Cũng mừng cho anh.
Trong thời gian ở đây, chúng tôi đă bắt đầu nghe được các bài chửi Trung Cộng từ loa phóng thanh của trại. Đồng thời hàng tuần cũng được đọc báo Quân Đội Nhân Dân. Nhờ đó mới biết rằng Việt Nam và Trung Cộng bây giờ đang đối đầu nhau gay cấn, chứ không c̣n t́nh đồng chí như trước nữa. Hơn nữa, chúng tôi không phải làm công việc ǵ có tính cách xây dựng trong trại. Công việc hằng ngày của chúng tôi là duy tŕ mấy mảnh vườn rau và thay phiên nhau đi đào sắn cho nhà bếp. Thỉnh thoảng, một đội được cử đi lên kho Liên Trại 4 (xă Cẩm Nhân) để khiêng gạo và mắm muối về trại. Căn cứ vào mấy sự việc kể trên, chúng tôi chắc rằng chúng tôi sẽ bị chuyển sâu xuống phía nam để tránh xa vùng lửa đạn. Trong thâm tâm, tôi thầm mong cho quân Tầu đánh sớm, trước khi Việt Cộng đưa chúng tôi về phía nam, với hy vọng rằng ḿnh sẽ có cơ hội trốn thoát. B́nh tâm mà xét, đă là người Việt Nam, ai lại muốn cho giặc Tầu sang đánh nước ḿnh cơ chứ. Nhưng ở vào hoàn cảnh nghiệt ngă của chúng tôi th́ sự mong muốn đó cũng có thể tha thứ được.
Có lần đội tôi đi đào sắn, phải đi ngang qua vị trí ban đầu của Trại 5 khi mới ra Bắc. Tôi có dịp nh́n lại nơi ḿnh đă ở trước đây. Nhà cửa cũ đă biến mất, nhường chỗ cho mấy vườn rau, có lẽ là của Trại 7. Mới cách đây vài tuần (tháng 10/2008), khi nói chuyện với anh Nguyễn Tiến Xuyên (Cali) th́ được anh cho biết, rằng sau khi Trại 5 chúng tôi chuyển sang bên kia bờ hồ Thác Bà, th́ Trại 7 của anh sang tháo gỡ nhà cửa đem về Trại 7 để sử dụng. Các anh ấy đỡ phải tốn công leo núi t́m cây làm chi cho mệt. Xuyên nói, “Đời tù mà, đỡ phải đổ mồ hôi chừng nào, tốt chừng đó.”
Người phi công hào hoa.
Chiều chiều, sau bữa cơm, chúng tôi thường tụ lại từng nhóm nhỏ, vừa đứng nghe loa phóng thanh phát ra những bài chửi Trung Cộng để ước đoán t́nh h́nh, vừa nói đủ thứ chuyện - những chuyện không đầu không đuôi - để quên đi hiện trạng của ḿnh. Có một lần, Lộc “Chị năm” kể cho tôi nghe về một anh chàng phi công hào hoa (*) mà đă lâu ngày tôi không c̣n nhớ tên; ở đây cứ tạm gọi tên anh là X cho tiện. Tôi cũng không nhớ anh X thuộc trại nào, Trại 3 hay Trại 7. Có lẽ X thuộc Trại 3 th́ đúng hơn v́ Lộc ở Trại 3. Tuy nhiên, cũng có thể X thuộc Trại 7 v́ hai trại chỉ cách nhau chừng hơn cây số; khi leo núi chặt cây th́ người của hai trại gặp nhau là chuyện thường; từ đó câu chuyện có thể được truyền từ trại này qua trại kia. Câu chuyện đại khái như sau:
Trong một chuyến đi lên Cẩm Nhân khiêng gạo về trại, dọc đường trời mưa nặng hạt, cả đội thấy có căn nhà tranh ở gần th́ chạy tới trú mưa. Tới nơi, họ mới biết đây là một trường học. Gọi là trường cho nó oai, chứ thực ra nó chỉ là một căn nhà lá ba gian (dài cỡ 30 Ft); chung quanh được quây bằng những tấm phên nứa. Một cô giáo dậy đủ các lớp. Cô giáo thấy tù vào trú mưa th́ cho học tṛ nghỉ cho tới lúc họ đi th́ mới tiếp tục học lại. Cô giáo thấy X mặc một cái áo khoác của Không Quân (loại áo có hai mầu, bên ngoài mầu xám, bên trong mầu cam) th́ thích lắm. Cô tới gần anh X, đưa tay vê vê vải áo rồi tỏ ư muốn mua cái áo đó, hoặc đổi đồ ăn. Anh X trả lời cô rằng cô không có khả năng mua nổi cái áo này đâu. Tuy nhiên, X nói thêm, nếu cô thích th́ “tôi tặng cô đấy”. Nói xong, X cởi áo ra và trao cho cô giáo. Hành động của X làm cho mọi người, từ cô giáo đến đồng đội của X, phải ngạc nhiên. Cô giáo đưa tay ra nhận cái áo mà mặt sáng rỡ; chắc cô tưởng như ḿnh đang mơ. Anh X chỉ cần đi một đường lả lướt như vậy mà, theo tôi nghĩ, nó đă thừa sức đánh tan những điều tuyên truyền của Việt Cộng từ trước tới giờ, rằng “Bọn ngụy là lũ ác ôn, côn đồ, ăn gan, uống máu con nít và hăm hiếp phụ nữ.” Ngoài chuyện anh X cho áo, c̣n chuyện những người khác cho dân thuốc chữa bệnh nữa (Thuốc đă giấu, không nộp cho trại). Nhờ vậy mà càng ngày dân địa phương càng có cảm t́nh với tù Miền Nam.
(*) Tôi chỉ nghe một ḿnh anh Lộc kể chuyện này; do đó tôi kể lại ở đây với sự dè dặt thường lệ. Bạn nào đă ở trong toán đi khiêng gạo với anh phi công này, nếu thấy có ǵ không đúng sự thật th́ xin lên tiếng sửa sai nhé, đa tạ.
Người “ngây thơ cụ.”
Tôi gọi T. như thế v́ tôi không nghĩ rằng anh lại khờ dại đến như vậy trong khi anh có bằng Cử Nhân Luật và trước 30/4/1975 anh thuộc Nha Quân Pháp, làm Ủy Viên Công Tố (?) ṭa án Quân Sự Mặt Trận.
T. có dáng người mảnh khảnh và rất hiền. Ngày c̣n ở Trại 5, anh và tôi ở cùng đội chặt nứa. Tôi chưa khi nào thấy anh to tiếng với ai trong đội; do đó không ai tỏ thái độ ghét bỏ anh cả. Bây giờ sang Trại 3, chúng tôi lại vẫn ở chung một đội, anh nằm cách tôi mấy người. Tôi nằm ở tầng dưới; anh ở tầng trên. Trước hết, xin ngược lại ngày c̣n ở Trại 5, bên kia bờ hồ Thác Bà.
Một hôm, trong khi chuẩn bị đi chặt nứa, T. được gọi tên ở lại trại “làm việc”. Chúng tôi không biết v́ sao mà T. phải ở lại “làm việc,” nhưng buổi chiều, khi chúng tôi về trại, th́ thấy mặt T. tươi rói. Sau này mới biết rằng T. có bà chị ở bên Pháp về thăm. Chị của T. ở trong hội Việt Kiều Yêu Nước ở bên Pháp; có lẽ bà giữ chức vụ ǵ khá quan trọng cho nên bà về Việt Nam để hội họp chi đó. Nhờ vậy, bà xin được phép tới thăm T. trong khi nhà nước chưa có chính sách cho thăm nuôi. Hai chị em T. được gặp nhau tṛ chuyện ở trên Ban Chỉ Huy trại cho tới gần chiều th́ chị của T. phải trở về Hà-Nội. Có lẽ v́ cuộc thăm nuôi này mà T. có vẻ yêu đời hơn, và tin tưởng vào chính sách khoan hồng của nhà nước hơn.
Trở lại Trại 3, một buổi nghỉ trưa, T. đọc một cuốn truyện đầy hoang tưởng mà T. mới mượn của trại. Nếu T. đọc bằng mắt th́ chẳng có chuyện ǵ xảy ra cả. Nhưng tự dưng, T. nói lớn, “Có chuyện này hay lắm, anh em ơi,” rồi T. đọc to cho mọi người nghe. Câu chuyện kể về một thằng bé bị bom Mỹ, cụt mất hai tay. Thằng bé đă phấn đấu làm việc bằng chân. Nó dùng ngón chân cầm kim may vá, không những cho ḿnh mà c̣n cho cḥm xóm nữa. Tôi nghe thấy ngứa nhĩ quá, phét lác vừa phải thôi chứ. Tôi quát lớn: “Yêu cầu anh đóng cái miệng anh lại để khỏi làm phiền hàng xóm trong lúc nghỉ trưa. Truyện có hay th́ anh đọc bằng mắt để thưởng thức, đừng có ồn ào.”
Thế là đài phát thanh im re. Từ đó T. hết có cảm t́nh với tôi. Tôi nghĩ T. thừa biết đó là một truyện tưởng tượng do bọn văn nô viết ra để tuyên truyền thôi, nhưng T. muốn làm ra vẻ ngây thơ, hoàn toàn tin tưởng vào “Cách Mạng”, anh vui thú với cái kỳ tích phấn đấu của thằng bé “cháu ngoan bác Hồ”. Đây cũng là một cách gián tiếp để anh lấy điểm với bọn Việt Cộng (qua tai mắt của mấy tên làm ăng-ten trong đội), rằng chỉ có Chủ Nghĩa Xă Hội Miền Bắc mới đào tạo được những đứa bé có ư chí phấn đấu với nghịch cảnh như vậy.
Chương 5
Trại Vĩnh Quang B, huyện Tam Đảo,
tỉnh Vĩnh Phú
5.1. Chuyển trại về Tam Đảo
Như đă nói ở trên, thời gian ở Trại 3 là thời gian chờ đợi để đi nơi khác cho nên chúng tôi được tà tà nhất. Nội qui được thả lỏng, bọn tôi chỉ làm mấy công việc vớ vẩn quanh trại, thỉnh thoảng có một đội được chỉ định đi xă Cẩm Nhân khiêng thực phẩm cho trại mà thôi.
Vào một buổi trưa, cả trại được lệnh chuẩn bị chuyển trại ngay. Bọn tôi vội vàng chuẩn bị gồng gánh để lên đường. Độ một giờ sau th́ chúng tôi được dẫn ra một băi đất trống gần trại và được lệnh “bầy hàng” để khám xét đồ. Bọn quản giáo soi mói từng tí, xem có t́m thấy cái ǵ “vi phạm nội qui” để c̣n tịch thu chuyến chót. Sau khi màn khám xét chấm dứt, chúng tôi lại được dẫn trở lại trại, ai về chỗ nấy, không thay đổi ǵ cả. Vài ngày sau th́ mới chính thức chuyển trại bằng xe Molotova sau khi chúng tôi phải đi bộ hơn một tiếng để ra băi đậu xe. Đến gần chiều tối th́ chúng tôi tới nơi, ngồi chờ ở phía ngoài cổng trại cho bọn cai tù bàn giao. Ḅ vàng (công an) xuất hiện, đây là chỉ dấu kể từ nay chúng tôi bị quản lư bởi công an.
Vào trong trại, chúng tạm thời chia thành từng nhóm 30 người cho mỗi căn nhà, chúng tôi được lệnh cử người đi lănh cơm chiều “khẩn trương” (cho lẹ) để c̣n kịp thời vào buồng cho chúng khóa cửa lại. Một cảnh sống khác hẳn mấy năm trước bắt đầu từ đây.
Về quản lư tù th́ do công an trách nhiệm. Bọn công an không cần phải che đậy ǵ cả, mà công khai gọi chúng tôi là tù, hết c̣n dùng mỹ từ “cải tạo viên” nữa. Nhà nhốt tù chỉ có một cửa ra vào, tối bị khóa cửa và sáng hôm sau tên cán bộ trực trại xuống mở cửa từng buồng cho tù ra làm vệ sinh cá nhân và chuẩn bị đi lao động.
Trại tù Vĩnh Quang B là trại đă xây cất lâu rồi, mỗi căn dài chừng 12 mét, ngang 5 mét (40 ft x 16ft). Mái lợp bằng rơm (bông lúa đă đập hết hạt lúa) rất dầy và cũ cho nên sinh ra rất nhiều rết, con nào cũng dài gần một gang tay, nhưng cũng rất may là buồng tôi chưa ai bị rết cắn, c̣n những buồng khác th́ không biết. Tường trát bằng đất nhào với rơm/rạ (*). Dọc theo căn nhà, hai bên là sạp ngủ ghép bằng những tấm gỗ bề ngang chừng 25-30 cm (10 đến 12 inches), ở giữa là lối đi, một đầu dẫn ra cửa và đầu kia dẫn vào cầu tiêu. Trên tường và trên sạp ngủ đầy những máu/mủ đă khô, tạo ra một mùi tanh khiến cho buồn ói. Những buồng này trước đây dùng để nhốt tù h́nh sự, bây giờ nhốt chúng tôi. Bọn tù h́nh sự th́ hầu như đứa nào cũng bị ghẻ lở v́ chúng ăn ở dơ dáy và thiếu dinh dưỡng. Ngoài ra c̣n có cái nạn rệp mà chúng tôi gọi là “xe tăng”. Đoàn quân rệp đă bị đói nhiều ngày, bây giờ chúng tôi tới làm mồi cho chúng. Đêm đầu ít có ai ngủ được ngon lành v́ bị rệp tấn công và mùi hôi hám nồng nặc. Nhất là ai vớ phải chỗ nằm gần cầu tiêu th́ đúng là một cực h́nh v́ phải hít thở mùi khai/thối từ nhà cầu xông ra.
(*) Rơm = Phần trên của cây lúa đă được đập để lấy hết hạt thóc ra khỏi bông lúa.
Rạ = Phần gốc của cây lúa c̣n lại (ở ruộng) sau khi cây lúa đă được cắt phần ngọn đi rồi.
Sáng ngày hôm sau, chúng tôi được phân công làm vệ sinh cho buồng. Người th́ gánh nước từ suối về rửa nhà cầu, người th́ lấy vôi về ḥa với nước để quét tường, cầu tiêu, và nền nhà (đất) để sát trùng, kẻ th́ đem các tấm ván sạp ngủ ra dộng cho rệp văng đi rồi phơi nắng cho mấy con c̣n nằm trong kẹt chết đi. Nhờ vậy mà căn buồng đă khấm khá hơn trước nhiều. Tuy nhiên đoàn quân xe tăng vẫn chưa bị diệt hẳn, vào những ngày nghỉ tôi vẫn phải đem ván gỗ ra dộng tiếp. Có điều kẹt là nếu chỉ một vài người làm th́ rệp ở những sạp bên cạnh vẫn ḅ qua tấn công như thường.
(Xem tiếp bản đồ trang sau)
(c̣n tiếp)
Bookmarks