Page 24 of 27 FirstFirst ... 142021222324252627 LastLast
Results 231 to 240 of 265

Thread: ĐOẠN TRƯỜNG AI CÓ QUA CẦU MỚI HAY

  1. #231
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Đó là những tiếng nói cuối cùng tôi nghe được từ đồn Dakseang “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”. Anh Ngọc hốt hoảng gọi máy về xin chỉ thị quân đoàn. Quân đoàn trả lời phải xác nhận với đồn Dakseang một lần nữa rồi cho biết kết qủa. Chúng tôi gọi muốn đứt hơi nhưng không c̣n liên lạc được với Thạnh Trị nữa. Báo cáo trở lại, quân đoàn quyết định: cho đánh thẳng vào đồn nhưng phải… cẩn thận. “Cẩn thận con C… ông” anh Ngọc lẩm bẩm chửi thề rồi gọi máy thong báo cho mấy ông Tây, bảo đánh thẳng vào đồn. Người phi công hải quân Mỹ vừa kéo con tàu lên sau một loạt tấn công cũng bối rối không kém:
    - Roger! Sir, Did you say…right on it? Over
    - Yes sir, it’s all over. I said you salvo right on it. Over.
    - Roger, sir, I understood, sir, Over.

    Chỉ có vậy thôi, đồn Dakseang biến thành một biển lửa sau hai đợt bomb salvo của mấy chiếc Phantom. Tôi đang chứng kiến một h́nh ảnh mà có lẽ suốt đời sẽ không bao giờ quên được. Tôi biết nói ǵ lúc này đây cho những người chiến sĩ Địa Phương Quân QLVNCH? Tất cả những ngôn từ, những ư nghĩ đều trở thành vô nghĩa trước cảnh tượng bi thảm hào hung này. Bay cách đó chừng 5 cây số với cao độ 5 ngàn bộ mà con tàu tôi như rung lên dưới tiếng nổ và sức ép khủng khiếp của mấy chục trái bomb 500 cân Anh nổ một lần. Làm sao c̣n có ai sống sót sau cơn tàn phá khủng khiếp này?. Những thịt, những xương, những máu của các anh hùng Dakseang đă tung bay khắp nơi rồi rơi xuống lẫn lộn với bụi, với đá, với sắt, để rồi nằm im trên mặt đất. Cũng trên mặt đất nầy của quê hương, ở một nơi nào đó, những người vợ, những đứa con, những bà con thân bằng quyến thuộc của các anh đâu biết người thân của ḿnh vừa anh dũng đền nợ nước, vừa “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” như lời trăn trối cuối cùng của người đồn trưởng, vừa chết để cho cả dân tộc được sống, được hít thở không khí Tự Do dù chỉ trong một khoảnh khắc… Ngày mai đây, những chiếc khăn tang trắng sẽ được chít vội vă lên đầu những người thiếu phụ nghèo nàn khổ sở kia, những khuôn mặt bầu bĩnh vô tội của trẻ thơ. Nước mắt nào khóc cho hết nỗi bi thương của người vợ lính VNCH đây hỡi ông trời xanh thẳm? H́nh ảnh nào có thể thay thế được h́nh ảnh ngọt ngào của Cha chúng nó, suốt khoảng đời c̣n lại của những em bé hồn nhiên vô tội kia hỡi ông trời? Dân tộc tôi đă làm ǵ nên tội, “Tử biệt sinh ly” câu nói nghe được từ thuở học tṛ bầy giờ mới thấy trọn nghĩa ư đau thương. Máu nào chảy mà ruột không mềm, mắt tôi bỗng chan ḥa nước mắt. Tôi tống ga bay trở lại đồn. Qua màn lệ nhạt nḥa, tôi chẳng c̣n thấy ǵ, ngoài những cụm khói đen bốc lên giữa đồn. Những cụm mây oan khiên vừa rồi vẫn c̣n vần vũ như những chiếc khăn tang trắng lồng lộng bao phủ cả bầu trời. Mây ơi là mây, c̣n sống chẳng chịu giúp nhau, bây giờ người đă chết, đồn đă mất sao c̣n lảng vảng để khóc thương.

    Trời chiều cao nguyên vốn đă thê lương cô quạnh lại càng trở nên tang tóc sầu thảm hơn. Hai chiếc Phantom Hoa kỳ ráp thành một hợp đoàn tác chiến bay những ṿng tṛn thấp chung quanh đám đất đá điêu tàn không hiểu để quan sát hay để chào vĩnh biệt những chiến sĩ gan dạ anh hùng của Địa Phương Quân QLVNCH. Dưới trời chiều nắng tắt, trông hợp đoàn Phantom như hai con chim hải âu ủ rũ lượn từng ṿng quanh xác chết của đồng loại. Sau khi nhận kết quả oanh kích của anh Ngọc, giọng nói xúc động của người phi tuần trưởng Phantom vang lên:
    - Sir, may I reach out across the fires and destructions of today to tell you this: Those people down there have fought like men and have gone in honor.

    Giọng anh Ngọc run run nghẹn ngào:
    - Yes sir, they have gone in honor. That was an Alamo by all means, sir. An ever greater Alamo than ours, Over.

    Tôi thấy hai hàng nước mắt chảy dài trên má anh Ngọc.
    - Roger! We have thousand of Alamo like that every day in our country.
    - Roger, I believe that, sir, God bless you all. Over.

    Hai chiếc Phantom liếc cánh chào vĩnh biệt rồi bốc lên cao, mất hút giữa bầu trời ảm đạm. Alamo, cái tên nghe đă đi vào huyền sử của dân tộc Hoa Kỳ mà bất cứ công dân Mỹ nào nghe cũng phải hănh diện. Alamo, làm tôi nhớ đến bài học Anh văn năm đệ ngũ. Alamo, đúng ra là một ngôi nhà thờ “Y pha nho” mà hai ngàn chiến sĩ kỵ binh Hoa Kỳ đă tử thủ khi chống cự lại với hàng chục ngàn quân Mễ Tây Cơ cho đến giây phút cuối cùng. Không ai đầu hàng và tất cả đă bị tàn sát. Người Mỹ chỉ có một thành Alamo trong suốt 200 năm lập quốc mà cả thế giới đều biết, đều mến phục. Đất nước tôi có bao nhiêu thành Alamo c̣n tàn khốc hơn, đẫm máu gấp ngàn lần hơn suốt bao nhiêu năm chinh chiến.

    Sáng hôm sau tôi và anh Ngọc bay thêm một phi vụ sớm trước khi bàn giao biệt đội. Tối đêm qua một trận mưa bomb của B52 đă cày nát khu tập trung quân giặc. Dù biết là vô ích, chúng tôi vẫn mở lại tần số cũ để gọi cho Thạnh trị. Nhưng chả c̣n Thạnh trị nào để trả lời cho Bạch ưng nữa. Đồn Dakseang chỉ c̣n là đống đất vụn điêu tàn. Gió thổi lên từng cơn cuốn theo những lớp bụi đỏ mù. Tôi nh́n xuống đó, tưởng nhớ đến những cái chết oai hùng chiều qua. Trong một quê hương khói lửa, kiếp người quả thật mong manh như gió, như đám bụi mù kia. Mới nói nói cười cười mà giờ đây đă ngàn thu vĩnh biệt. Bay thêm vài ṿng quanh đồn để tưởng nhớ ngậm ngùi cho các anh rồi cũng đến lúc phải từ giă để ra đi. “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” Thôi th́ xin thành kính nghiêm trang giơ tay chào vĩnh biệt các anh. Những người lính Địa Phương Quân âm thầm của một tiền đồn xó núi. Địa Phương Quân, cái tên nghe khiêm nhường và hiền lành như đất, như bộ đồ xanh bạc màu của các anh. Địa Phương Quân, thứ lính…âm thầm nhất trong các thứ lính của quân lực; không màu mè, không áo rằn ri, không có những huyền thoại khủng khiệp, không “truyền thống, binh chủng” không có đến những khẩu hiệu nẩy lửa chết người. Nhưng Địa Phương Quân Pleiku chiều hôm qua đă b́nh tĩnh xin “cho nó nổ trên đầu tôi”. “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi bạn ơi” Xin vĩnh biệt và cảm tạ. Cảm tạ các anh đă đem cái qúi giá nhất của cuộc đời là mạng sống ḿnh để đổi lấy cho quê hương dù đă rách nát tả tơi c̣n có được những ngày xanh hy vọng. Cho buổi hợp chợ ban mai, dù nghèo nàn thưa thớt vẫn c̣n được an b́nh. Cho ngôi trường quận lỵ thấp lè tè những mái tôn cháy nắng c̣n rộn tiếng trẻ thơ cười. Cho mái chùa cong cong nơi sườn núi c̣n được ngân lên những hồi chuông tín mộ. Và cho những người ở lại như tôi đây biết rằng ḿnh sống tức c̣n nợ phải trả…. Các anh chính là những người được mô tả trong một bài học thuộc ḷng tôi thuộc làu làu lúc c̣n là một đứa bé :

    Họ là kẻ khi quê hương chuyển động
    Dưới gót giày của những kẻ xâm lăng
    Đă xông vào khói lửa quyết liều thân
    Để bảo vệ tự do cho tổ quốc
    Trong chiến đấu không nài muôn khó nhọc
    Cười hiểm nguy bất chấp nỗi gian nan
    Người thất cơ đành thịt nát xương tan
    Những kẻ sống ḷng son không biến chuyển
    Tuy tên họ không ghi trong sử sách
    Tuy bảng vàng bia đá chẳng đề tên
    Tuy mồ hoang xiêu lạc dưới trời quên
    Không ai đến khẩn nguyền dâng lễ vật
    Nhưng máu họ đă len vào mạch đất
    Thịt cùng xương trộn lẫn với non sông
    Và linh hồn chung với tấm t́nh trung
    Đă ḥa hợp làm linh hồn giống Việt.

    Xin thành kính viết lại một phần bài thơ của Đằng Phương để tặng các anh. Các anh chính là những “Anh Hùng Vô Danh”. Tổ Quốc Việt Nam, dân tộc Việt Nam ngàn đời sẽ c̣n ghi ơn các anh. Xin vĩnh biệt và cảm tạ.

    Trường Sơn Lê-Xuân-Nhị


    http://hon-viet.co.uk/TruongSonLeXua...onDakSeang.htm

  2. #232
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Trại tù ‘cải tạo’ Ái Tử-B́nh Điền,
    nỗi đau vẫn c̣n đây!



    LTG: Viết cho những ngày họp mặt của các bạn tù “trại cải tạo” Ái Tử-B́nh Điền. Xin thắp nén hương ḷng dành cho các bạn tù đă khuất, những người đă anh dũng đấu tranh đ̣i hỏi công lư cho người tù chiến sĩ VNCH. Các anh đă chết thật vinh quang, thật hào hùng, thật bất khuất dầu trước bạo lực cường quyền. Chúng tôi, những bạn tù c̣n sống hôm nay luôn măi măi nhớ đến các anh.

    Tôi không phải nhà văn, tôi chỉ là một người lính tác chiến b́nh thường, kẹt lại vào những ngày tháng cuối cùng của Tháng Ba năm 1975 buồn thảm tại cửa biển Thuận An, mặt trận phía Bắc tận cùng đất nước. Tôi cũng như bao đồng đội khác đă sớm trở thành những người tù khổ sai trong cái địa ngục đỏ trần gian dưới mỹ từ “tập trung cải tạo” khi toàn thể miền Nam chưa trọn vẹn nằm trong tay giặc.

    Họ, những người Cộng Sản Việt Nam, nhân danh “chánh nghĩa” bằng một thứ bạo quyền, độc tôn ḷng yêu nước đă dồn bọn tôi tới bước đường cùng của cuộc đời “khố rách áo ôm.” Tôi thích viết, viết cho tôi và những người bạn đồng hành, về những điều thật sự cay đắng oan nghiệt tưởng như không hề có ở xă hội loài người. Thế mà nó đă xảy ra, xảy ra một cách chua xót, đau ḷng ngay trên đất nước của ḿnh.

    Tôi muốn làm tṛn bổn phận của một chiến hữu may mắn sống c̣n hôm nay, đối với các bạn tù của tôi đă sớm ngă gục dọc đường, của An, Kế, Giỏ, Cát, Sơn, Nhơn, Báo, Lực, Giang, Sang, Minh, Hồ Lộc,... và c̣n, c̣n nhiều nữa. Các bạn đă sống thật hiên ngang và chết vô cùng bất khuất, đă ngẩng cao đầu lên để thách thức trước họng súng bạo quyền dù không c̣n một mảnh sắt trong tay; các bạn là thứ ngọc quư vô giá được cô đọng lại bởi một quân lực mà chúng ta đă hết ḷng phục vụ: Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa.

    Trước sức tấn công ào ạt mà người CS gọi là mùa Xuân đại thắng 1975, toàn thể lực lượng quân sự Việt Nam Cộng Ḥa đă có lệnh co cụm lại và bỏ ngơ ở các điểm chiến lược quan trọng từ tỉnh lỵ Phước Long đến sự lui binh của Quân Đoàn 2 về thị xă Nha Trang và cuối cùng là Quân Đoàn 1, nhất là mặt trận phía Bắc tỉnh Quảng Trị. Là những chiến sĩ QLVNCH chúng tôi chỉ biết tuân lệnh, mặc dầu khả năng và tiềm lực chiến đấu của người lính chúng tôi vẫn c̣n có thể ǵn giữ phần đất này. Rơ ràng, chúng tôi đă bị thượng cấp buộc phải thua đau, trong niềm tức tưởi nghẹn ngào cùng với cái đau chung của toàn thể dân tộc.

    Hơn 3 ngàn người lính QLVNCH gồm toàn đủ mọi binh chủng đă sớm bắt đầu cuộc đời tù tội của ḿnh vào những ngày cuối Tháng Ba găy súng đau thương đó.

    Chúng tôi đă được chuyển qua nhiều trại tù khác nhau, từ nơi tạm giam tại căn cứ La Sơn, chúng đă đưa các thành phần hạ sĩ quan, binh sĩ về vùng sương lam chướng khí Nam Đông, Khe Tre. Thành phần sĩ quan c̣n lại, chúng lùa anh em chúng tôi vào tận miền đất Hạ Lào rừng rú xa xôi có tên là Buôn Hồ, nơi giam giữ những tù binh mà chúng đă bắt được trong các cuộc giao tranh mùa Hè đỏ lửa 1972 hay mặt trận Cửa Việt 1973. Chúng tôi đă bắt gặp vô số nghĩa địa nơi chúng đă vùi thây biết bao nhiêu tù binh, chiến sĩ QLVNCH, không mộ bia tên tuổi.

    Cuối cùng anh em chúng tôi đă được một dịp may hiếm có, thay v́ tiếp tục giam giữ nơi đây hoặc bị đày ra Bắc, bọn chúng đă mang chúng tôi lại vùng đất Cồn Tiên nơi có những căn cứ vững chắc của các tiền đồn QLVNCH của chúng ta trước đây, vào những ngày giữa tháng 6, 1975 khi chúng hoàn toàn cưỡng chiếm miền Nam.

    Ở đây chưa đầy một năm, anh em chúng tôi lại có lệnh đi bộ về xây dựng trại Ái Tử nằm về phía Tây của quốc lộ 1 hơn 20km đến khu vực Trà Liên, nơi có căn cứ Phượng Hoàng cũ của QLVNCH, chiến tích một thời lẫy lừng của Tiểu Đoàn 6 TQLC lần đầu tiên sử dụng hỏa tiễn M-72 để diệt chiến xa địch vào tháng 4, 1972. Đoàn 76 do quân đội CS quản lư được thành lập qua công tŕnh xây dựng của người tù chúng tôi, được chia thành 5 phân trại để giam giữ tùy theo cấp bậc lớn nhỏ. Đây là giai đoạn đầu đầy sóng gió nhất, đă có nhiều toán tổ chức vượt trại sang tận miền biên giới Lào, và bị bắt về giam dưới các hố sâu Conex như các anh Trần Văn Loan, Châu Đức Thảo, Mai Đức Ḥa thuộc Phân Trại 1.

    * Đă có những tấm gương can trường bất khuất như Nguyễn Tiến Mỹ, Đỗ Bá Niềm (trại 3), Nguyễn Tấn Ngọc (trại 2), Nguyễn Ngọc Thức (trại 1) thà chịu nhịn đói chứ không chấp nhận bị cưỡng bức lao động, để phản đối bọn CS không thi hành đúng theo luật tù binh quốc tế của hiệp định Paris về ḥa b́nh và chấm dứt chiến tranh Việt Nam.

    * Đă có những cái chết vô cùng bí hiểm của các anh Nguyễn Ngọc An, Bửu Kế (trại 1), vô cùng can đảm như Hồ Lộc (trại 3), bí thư chi bộ đảng Đại Việt sau nhiều ngày bị thẩm vấn hỏi cung, biết không thể nào tránh khỏi sự trả thù đê tiện nên đă treo cổ tự sát trong conex biệt giam để bảo toàn tiết tháo của người chiến sĩ cách mạng.

    * Nhưng vượt lên trên tất cả sự tàn nhẫn vô nhân đạo nhất, là việc chúng ra lệnh dẫn độ hai anh Sang và Minh vào rừng thủ tiêu vào một buổi sáng lao động tại đập Trấm Quảng Trị, chỉ v́ những tư thù cá nhân đối với tên thượng úy trưởng trại. Xác hai anh đă được dân vùng kinh tế mới t́m gặp, và chính họ đă chôn cất bên cạnh một ven rừng.


    C̣n tiếp...
    Last edited by Tigon; 03-02-2015 at 01:18 PM.

  3. #233
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    * * *

    Sau hơn 3 năm tập trung “cải tạo học tập” theo đường lối chính sách của đảng và nhà nước là tất cả chúng tôi sẽ được tha về, nhưng nhà cầm quyền CS Hà Nội lật lọng đă bội ước bằng chính văn bản mà chính họ đă kư ra. Cuối tháng 12 năm 1978, Đoàn 76 thuộc trại Ái Tử do quân đội quản lư đă giải tán, sau khi hơn 4 tháng trời anh em tù chúng tôi bị đày ải ra vùng Đô Lương tỉnh Thanh Hóa để thi công ḷng Hồ Sông Mực. Hơn 3 ngàn tù binh chúng tôi một lần nữa đă bị lùa lên nhiều chiếc xe Molotova bịt bùng có công an và vũ khí yểm trợ xuôi Nam về Huế, để cuối cùng áp tải đến trại tù cải tạo “B́nh Điền” giao lại cho công an áo vàng quản lư.

    B́nh Điền là một địa danh rất quen thuộc của người lính Sư Đoàn 1 Bộ Binh, nơi giao tranh giữa ta và địch vào những tháng ngày giành giật nhau từng tấc đất của mùa Hè đỏ lửa 1972, nơi có cứ địa Bastone lẫy lừng với nhiều chiến tích hào hùng của người chiến sĩ VNCH.

    Tổng trại tù B́nh Điền cũng được chia ra thành 5 phân trại và mỗi nơi như vậy được chúng giam giữ bằng nhiều loại tù khác nhau, dựa theo cấp bậc và mức độ tội ác mà chúng gọi là “thành phần ác ôn, có nợ máu nhiều ít với nhân dân.”

    Phân trại 1 được coi là trại nghiêm ngặt nhất nằm sát cạnh bộ chỉ huy tổng trại, gồm toàn các nhà gạch được xây cất theo h́nh thức trại biệt giam cùng vài chục hầm Conex chôn sâu dưới ḷng đất, bao quanh bởi nhiều tầng kẽm gai dầy đặc. Tù ở đây được coi là thành phần nguy hiểm nhất, bị cấm lao động bên ngoài v́ không biết họ vượt trại bất cứ lúc nào. Đa số thuộc thành phần bất hảo can nhiều tội h́nh sự của một xă hội đầy nhiễu nhương lúc giao thời, cướp của giết người, hiếp dâm, tổ chức vượt biên vượt biển.

    Số c̣n lại là những tổ chức mà chúng gọi là phản động mới, âm mưu lật đổ chính quyền, hay các thành phần chúng cho là nguy hiểm không chịu cải tạo từ các trại tù khác. Đa số tù ở trại này có án rơ ràng. Hạ Sĩ Nguyễn Văn Mộng, binh chủng Thiết Giáp bị án chung thân v́ âm mưu lật đổ chính quyền, Trung Sĩ Nguyễn Văn Nhờ, cảnh sát, bị án 20 năm v́ tội tuyên truyền chống phá cách mạng. Sinh viên luật khoa Trịnh Bích bị án chung thân khổ sai v́ cùng người yêu cướp súng vượt biển... C̣n, c̣n rất nhiều những người khác cũng bị chúng kết tội theo một thứ luật rừng theo kiểu Ṭa án Nhân dân.

    Về sau này có lẽ để dễ bề quản lư hơn, trại nữ “Phục hồi nhân phẩm Tây Lộc Huế” cũng được lệnh sát nhập vào Phân trại I. Họ là những cô gái làng chơi c̣n rất trẻ, can phạm đủ thứ tội. Đa số bị án tập trung cải tạo, một số ít khác nặng hơn v́ có tội ác rơ ràng, cô giáo viên cấp I Vân Ánh trẻ đẹp kia bị án tù chung thân v́ bóp cổ bà nội ḿnh để cướp 2 chỉ vàng, chị Thu Vân 20 năm tù v́ tội mua chuộc cán bộ tổ chức vượt biển đại quy mô.

    Việc chuyển trại này đă khởi đầu cho nhiều chuyện t́nh mây mưa ướt át, không biết phải tốn biết bao nhiêu tờ kiểm điểm và hàng vài chục người phải vào ngồi trong các hầm Conex biệt giam. Các sự việc này đa số xảy ra ở các tội phạm h́nh sự. Có những t́nh yêu ở mức độ chỉ gỡ gạc nhau bằng lon đậu, bánh đường, điếu thuốc gói mè, nhưng cũng có thứ cao cấp hơn thề sống chết với nhau bằng một cuộc vượt ngục, nguy hiểm hơn đă có người tự tử như cô Hương ở đội “chổi đót.” Th́ ra cuộc đời càng khốn khổ tuyệt vọng bao nhiêu th́ t́nh yêu càng mặn nồng bấy nhiêu. V́ con tim cũng có lư lẽ riêng của nó.

    Nói tóm lại, đây là trại tù “hầm bà lằng” đủ loại, ngay cả tù chính trị, bọn tôi những người cứng đầu, thách thức, chống đối, vượt ngục hoặc nằm trong các tổ chức chính trị, đảng phái cương quyết không chấp hành nội quy trại cũng đều bị đem về nơi này để chúng canh giữ nghiêm nhặt hơn. Đa số đều bị cùm trong các hầm conex biệt giam, cắt bớt khẩu phần lương thực và cấm không cho gia đ́nh thăm viếng.

    Phân trại 2 cũng là trại gốc từ Ái Tử chuyển qua, thuộc về nơi giam giữ các thành phần mà chúng coi là cực kỳ nguy hiểm như cảnh sát, an ninh t́nh báo và hầu hết những người có chức vụ quan trong tham gia chính phủ miền Nam. Các đảng phái mà chúng gọi là phản động như Đại Việt, Quốc Dân Đảng. Kể các các vị dân biểu, nghị viên, xă trưởng, chiêu hồi, giáo sư. Người tù ở đây vẫn bị canh giữ rất nghiêm nhặt.

    Phân trại 3 và 5 toàn sĩ quan rất trẻ từ cấp chuẩn úy đến trung úy, thêm một ít Nghĩa Quân. Họ sống rất ngang tàng v́ chẳng có một quá khứ tội lỗi nào để họ phải sợ.

    C̣n phân trại 4 th́ lại khác, đa số gốc từ trại 1 Ái Tử về, cấp bực từ đại úy đến trung tá, cũng có một số rất ít cấp bậc nhỏ hơn bị nhét tạm vào đây v́ không c̣n chỗ chứa ở các trại khác.

    Tất cả trên dưới 400 người được chia thành 11 đội, mỗi đội ở một lán (lán là căn nhà tranh vách đất). Công việc hàng ngày là phát rừng, phá rẫy, cấy lúa, trồng khoai để tự túc lương thực theo kế hoạch nhà nước.

    Từ hơn 3 năm, chưa bao giờ người tù chúng tôi bị đói thê thảm và tinh thần xuống dốc như lúc này, cái đói xanh rờn cả mặt, héo cả tim gan, bủn rủn tay chân, thể xác ră rời. Hồi c̣n ở trại cũ do quân đội quản lư có bề lỏng lẻo hơn, cũng bị đói nhưng được cái dễ bề cải thiện linh tinh khi lao động bên ngoài. C̣n bây giờ là bọn công an áo vàng thứ thiệt, chúng kiểm sát khám xét từng người mỗi lần xuất nhập trại. Xin cám ơn những “nạm” rau má, các đọt tàu bay và bao nhiêu thứ thiên nhiên ưu đăi khác, kể cả rắn rít, ễnh ương, cào cào châu chấu đă góp phần kéo dài thêm sự sống cho người tù. Cũng là Việt Cộng như nhau, cùng ác độc như nhau, nhưng mỗi nơi một khác. Chúng tôi như một chiếc bong bóng được thổi phồng lên rồi bị vỡ tung lên v́ cơn gió xoáy, bất măn chán chường. Biết bao nhiêu hy vọng ở mức án tù tập trung cải tạo 3 năm, giờ th́ vỡ mộng v́ sự tráo trở gạt lừa của bọn người gian ác.

    Buổi sáng một lát bột ḿ luộc (bánh xe lăng tử), trưa vài củ khoai hay sắn thối, chiều một chén cơm độn. Thức ăn chỉ toàn là nước muối pha loăng, may mắn lắm th́ được pha thêm muỗng ruốc rẻ tiền. Thế c̣n đỡ hơn so với các bạn tù c̣n đang bị cùm trong các nhà kỷ luật, những người đă vượt trại đến tận miền Savanakhet Lào bị bắt dẫn độ về cùng các thành phần hiên ngang không bao giờ chịu khuất phục trước bạo lực, mà chúng thường gọi là bọn phản động, chống đối. Một bữa sắn, khoai cho mỗi ngày.

    C̣n ǵ để mà hy vọng vào sự bội tín của con người CS (Đừng tin những ǵ CS nói mà hăy nh́n những ǵ CS làm), họ đă hứa đủ điều khi đẩy cả đoàn tù 76 ra tỉnh Thanh Hóa để làm công tŕnh thủy lợi đại quy mô “Ḷng Hồ Sông Mực.” Hàng chục hecta rừng được khai phá cho một công tŕnh dẫn thủy nhập điền, nhiều người đă ngă quỵ v́ sốt rét rừng, có người chết v́ đói quá ăn nhằm nấm độc hay mật cóc như Đại Úy Lực SĐ1BB.

    “Các anh giải phóng Ḷng Hồ Sông Mực th́ chính Ḷng Hồ Sông Mực sẽ giải phóng các anh,” được phát ra từ chính mồm của tên trung tá chính ủy Đoàn 76 lúc khởi công, và khi công tác hoàn thành vượt chỉ tiêu, lời hứa đó đă bị phản bội, họ nhẫn tâm lùa tất cả bọn tôi lên chuyến tàu chợ xe hỏa để về lại trại Ái Tử cùng toa với súc vật.

    Chúng tôi đă bị mất tất cả, mất nhà mất cửa, ngay cả vợ lẫn con, th́ c̣n ǵ đâu để mà sợ. Họ một lớp người nhân danh đạo đức để làm chuyện phi nhân, đă biến đất nước thành nhà tù và biển máu. Hàng triệu người đă bỏ nước ra đi, họ cai trị một đất nước không người, thế mà lại huênh hoang chiến thắng, họ đă đạp anh em chúng tôi xuống hố sâu và giờ đây là lúc phải cùng nhau đứng dậy.

    Đêm qua có nhiều tiếng súng nổ và toàn trại báo động v́ Đại Úy Mai Đức Ḥa đă lợi dụng lúc trực trại điểm danh, anh đă liều chết đánh tên cán bộ Thượng Sĩ Thụ thoát chạy ra ngoài đêm tối bao la. Chúng chẳng làm ǵ được anh v́ đây là vùng đất mà đơn vị anh thường hành quân trú đóng, chỉ hơn 3 tháng sau có tin là anh đă đến Úc. Chuyện trốn trại là chuyện thường xảy ra như cơm bữa trong đời tù, luôn gây căng thẳng thần kinh cho người c̣n lại. Đâu phải dễ ǵ mà trốn thoát v́ khắp mọi nơi đều có công an, du kích. Rất nhiều người đă bị dẫn độ về sau nhiều ngày ẩn trốn đâu đó. Tất cả đều bị cùm, giam vào các nhà biệt giam Conex trong suốt nhiều năm trời. Thế mà trốn vẫn hoàn trốn.

    Họ điểm danh chúng tôi khi ăn, giờ nghỉ, ngay cả lúc đi vệ sinh phía bên ngoài trại, theo sát chúng tôi lúc lao động kềm kẹp tứ bề. Họ mắng nhiếc chúng tôi là đồ phản quốc, ăn bơ sữa đế quốc Mỹ giết hại nhân dân. C̣n chúng tôi th́ một ḷng cương quyết chỉ lao động cầm chừng, chỉ tiêu chẳng có mà năng suất cũng không.

    Đă có những buổi phê b́nh kiểm thảo hàng tuần, nhưng rồi đâu cũng vào đó. Anh em chúng tôi cứ nhắm mắt mà nói như con vẹt để tạm được an thân. Nhưng rồi cuối cùng việc ǵ đến rồi cũng phải đến, người tù chúng tôi như chiếc ḷ xo bị ép hết cỡ đă tới lúc cùng nhau bật dậy để bảo vệ quyền sống cho ḿnh. Chúng tôi đ̣i hỏi họ phải thi hành đúng theo Hiệp Định Paris, phải có ṭa án xét xử công minh, phải cải tiến chế độ tù theo luật tù binh quốc tế. Đại Úy BĐQ Nguyễn Thuận Cát, đội trưởng đội 6 sản xuất, phản đối tên quản giáo trong cuộc họp về việc dùng vũ lực đối với đội viên của anh. Trung Úy Giàu, đội trưởng đội 9, đ̣i hỏi phải thi hành đúng chính sách 10 điểm của chính quyền cách mạng là phải thả chúng tôi ngay tức khắc, vô điều kiện.

    Cuộc đấu tranh măi rồi ra chúng cũng nhượng bộ đôi chút, chế độ thăm gặp được mở lại mỗi hai tháng một lần, chỉ được thăm thân nhân 15 phút ngồi đối diện nhau trên một cái bàn dài, những ánh mắt nh́n nhau tức tưởi nghẹn ngào. Chúng tôi được nhận quà bằng những thức ăn không có tính cách dự trữ lâu dài, v́ họ sợ bọn tôi trốn trại. Nhờ vào gói ḿ, điếu thuốc, viên đường... chúng tôi mua chuộc những tên vệ binh trẻ dẫn giải, v́ vậy mà cuộc sống có phần dễ chịu hơn.

    Nhiều tin tức thật sôi nổi và hấp dẫn được thu thập đâu đó, được đem ra x́ sầm bàn tán nhau trong lúc này. Đại loại đó là những tin làm nức ḷng chiến sĩ để an ủi người tù trước t́nh thế nguy nan vô cùng tuyệt vọng: “Có nhiều tiểu đoàn TQLC chúng ta đang hoạt động vùng núi đồi Hải Vân, có tàu chiến Hoa Kỳ ngoài khơi yểm trợ.” Đặc biệt các thầy tướng số th́ nói t́nh h́nh nay đă sáng sủa rồi, thế nào cũng có phe ta đến để giải phóng trại tù.

    Chúng tôi đă sống những ngày thật sung sướng mà tâm hồn lúc nào cũng thấy lâng lâng bay bổng, lấm lét nh́n nhau bằng những nụ cười khó hiểu, ngón tay cái của bàn tay cứ chỉa thẳng lên trời làm dấu khi gặp nhau. Xin nghiêng ḿnh biết ơn những huyền thoại sống đă cho chúng tôi những cái “phao” để mà bám lấy giữa đại dương mênh mông, hy vọng một vài tia sáng le lói ở cuối đường hầm tăm tối.

    Tết năm đó (1979), tương đối đầy đủ nhờ vào những thức ăn do gia đ́nh mang đến. Từ bấy lâu nay, đó là lúc bọn tôi đoàn kết thương yêu nhau nhất, chúng tôi ăn chung với nhau, chia sẻ nhau những ǵ có được, v́ bao giờ cũng vậy, t́nh cảm chỉ khắng khít mặn nồng khi mọi người cùng khổ như nhau. Chúng tôi rất vui mừng khi hay tin Bắc Kinh xua quân đánh chiếm các tỉnh biên giới, để giáng trả cho Đảng CSVN một bài học tự măn.

    Chúng tôi không c̣n muốn đi lao động ngoài trời nữa, chúng tôi tổ chức đ́nh công, khai bệnh mỗi ngày cả trăm người. Chúng tôi chia nhau đi lao động bên ngoài thừa dịp để cải thiện linh tinh, từ củ sắn, củ khoai đến vài trái ớt, trái cà do chính chúng tôi làm ra. Lẽ dĩ nhiên chỉ là hành động lén lút phải thật nhanh nhẹn kín đáo, nếu chúng phát hiện th́ bị phạm trọng tội: “Phá hoại tài sản xă hội chủ nghĩa,” sẽ bị nghiêm giam kỷ luật. Buổi tối sau giờ điểm danh của tên trực trại, khi cánh cửa trại giam đă được khép kín là giờ sinh hoạt thoải mái của anh em chúng tôi. Chúng tôi tập họp nhau lại ngoài hiên mỗi lán, ca hát những bản nhạc cũ, nhất là các bài t́nh ca của lính, gợi nhớ lại một thời liệt oanh, vàng son của người lính QLVNCH.

    Bố Nguyễn Đ́nh Chi, trung tá già đại diện cho trại trong ban “trật tự thi đua” bị gọi đi làm việc nhiều lần. Ông thường nhắc nhở chúng tôi biết rằng hăy cẩn thận và coi chừng âm mưu thâm độc của chúng. Chúng im lặng không có nghĩa là chúng đă không biết những ǵ chúng ta đang làm, chúng đang chờ cơ hội để ra tay đàn áp một lần cho tất cả, như các vụ án Nhân Văn Giai Phẩm của miền Bắc trước đây.

    C̣n chúng tôi như một chiếc xe đang tuột dốc không “phanh,” cứ thế mà lao vào hố. Ngày 27 tháng 3, 1980, để kỷ niệm 5 năm ngày mất Huế và tưởng nhớ những đồng đội đă hy sinh trong trận chiến sau cùng tại cửa biển Thuận An, chúng tôi làm lễ tưởng niệm và thức hát suốt đêm, tiếng hát ngạo nghễ, thách thức như để xé tan bầu không khí xiềng xích nặng nề; phá hết xích xiềng để dành lại áo cơm “Cờ bay! Cờ bay oai hùng trên thành phố thân yêu, vừa chiếm lại đêm qua bằng máu....” Từ trong xà lim đôi chân bị xích xiềng: Trần Văn Loan, Châu Đức Thảo, Nguyễn Ngọc Thức, Lê Văn Cang, Mai Đức Ḥa, các bạn tù của chúng tôi cũng đồng thanh hát: “Dậy mà đi hỡi đồng ơi! Bao nhiêu năm dân ta sống không nhà, bao nhiêu năm dân ta chết không ḥm. Dậy mà đi! Dậy mà đi.”

    Ngay trong đêm hôm đó chúng đă bắt đi Đại Úy Báu khi tên trực trại xông vào hàng rào gần cổng trại. Anh đă bị dẫn đi trong đêm và sau này được tin anh đă bị đánh đập cho đến chết. Khoảng 4 giờ sáng bên ngoài có lực lượng công an dầy đặc bao vây, bên trong chúng tôi vẫn hát, mọi người đồng thanh hát, cả trại hát như chưa bao giờ chúng tôi được hát xướng như thế. Sáng sớm hôm sau, họ tấn công vào trại bắt đi một số người trong đó có Thiếu Tá Hồ Văn Vĩnh, người nhạc sĩ tài ba của chúng tôi, một trong những người đứng ra tổ chức “Đêm không ngủ” này.

    Thời gian kế tiếp là thời gian điều tra thẩm vấn, họ gọi hết người này đến người kia lên cơ quan làm việc: Cát, Giàu, Quyền,... đă bị bắt c̣ng tay dẫn đi với tội danh “không chịu học tập cải tạo, âm mưu chống phá chính quyền cách mạng.” Nguyễn Thuận Cát, đại úy, tốt nghiệp khóa 24 VBQG Đà Lạt, anh sống rất cương trực và thường chống lại những bất công mặc dầu anh được chúng giao cho chức đội trưởng. Anh đă đương đầu nhất định không khuất phục trước bạo quyền, và chịu đ̣n đau cho đến chết. Riêng Giàu, trung úy BĐQ, là một trường hợp hiếm có ngoại lệ, anh từ chối không gặp mặt cha ḿnh trong lúc đang thọ h́nh, v́ cha anh nay là cán bộ VC cao cấp. Anh nhất quyết giữ vững lập trường:

    “Cha đi đường cha, tôi đi đường tôi
    T́nh nghĩa đôi ta có thế thôi.”

    Ngọn lửa đang bốc cháy cao cho dù bị dập tắt cũng c̣n âm ỉ bởi một thứ than hồng. Chúng tôi bắt đầu chuyển sang h́nh thức đấu tranh mới, dè dặt băi công, thay phiên nhau nghỉ bệnh, con số xuất trại bao giờ cũng ít hơn số khai bệnh ở nhà. Các anh Vũ Ngọc Tụng, Nguyễn Tri Tấn, Phạm Cang, Lê Quang Liễn, Hoàng Hưng, Bác Sĩ Hoàng Thế Định, Phan Văn Lập đă nhen nhúm h́nh thành một tổ chức có tên là “Ủy Ban Hành Động.” Theo dự tính giờ G ấn định, toàn thể các đội viên hiện đang lao động ngoài hiện trường cùng nhau nổi dậy cướp súng các tên vệ binh dẫn giải, kéo nhau về giải phóng trại tù. Việc chưa thành đă bị bại lộ, các anh lănh đạo Tụng, Tấn đă bị chúng bắt đi tra tấn và bị nhục h́nh. Phần c̣n lại rơi vào thảm cảnh đẫm máu của một sự trả thù khủng khiếp nhất.

    Kẻ thù bất chấp luật lệ, chúng điều động những vơ sĩ của Ty Công An B́nh Trị Thiên dùng vũ lực thẳng tay đàn áp, chúng cho người đi khắp các lán với sự thỏa thuận chỉ điểm của các tên quản giáo, tập trung tất cả về một góc phân trại đánh đập trả thù, tiếng khóc tiếng la như gầm chuyển một góc trời, nước mắt đă rơi nhiều cùng máu. Đó là buổi chiều ngày 20 tháng 4 năm 1980 lịch sử đáng ghi nhớ!

    Sau này chúng lần lượt thẩm tra bắt hết các anh c̣n lại của tổ chức trên đem về biệt giam ở đoàn. Thêm các anh Vơ Đằng Phương, Nguyễn Kim Chung, Lê Tự Hào, trong một tổ chức khác có tên là “Phục Hưng Nền Cộng Ḥa.” Câu nói khẳng khái của Vơ Đằng Phương, người sáng lập ra tổ chức này, tại ṭa án nhân dân Thừa Thiên, Huế, năm nào như c̣n măi in sâu vào tiềm thức của những người tù tại trại tù “Cải tạo B́nh Điền”: “Các ông làm ǵ có luật pháp mà xét xử, luật của các ông là thứ luật rừng. Tôi nay ở trong tay các ông th́ do quyền quyết định của các ông, tôi không có ǵ thắc mắc cả!”

    Chúng kêu án anh thêm 10 năm tù sau khi măn án “tù tập trung cải tạo,” mà án tập trung cải tạo là án dây thun th́ biết đến bao giờ! Làm sao quên được h́nh ảnh hiên ngang của người tù Thiếu Tá Vơ Đằng Phương TQLC, tiến đến chiếc xe bịt bùng đang chờ sẵn, hiên ngang, ngạo nghễ, ngẩng cao đầu thách thức đầy niềm hănh diện tự hào, một gương can đảm đầy tiết tháo của người chiến sĩ QLVNCH.

    Đây chỉ là khoảng thời gian khởi đầu cho quăng đường dài của cuộc đời tù tội. Cuộc đấu tranh v́ chính nghĩa của người tù vẫn c̣n tiếp diễn v́ “nơi nào c̣n áp bức là nơi đó có đấu tranh.”

    C̣n nhiều điều đáng viết thêm mà một trí nhớ hạn hẹp không đủ để nhớ hết về sự hy sinh cao cả và ḷng dũng cảm của người chiến sĩ VNCH. Xin tri ân những bà mẹ, người vợ, người anh, người chị, người em, người con đă vất vả gian lao tần tảo để giúp cho người tù c̣n có được những “Ngày Hội Trại Tù Ái Tử-B́nh Điền.”


    Cựu TNCT trại Ái Tử, B́nh Điền

    Phạm Văn Tiền


    http://saigonecho.com/index.php/lich...au-van-con-day

  4. #234
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Con chó Vện và Người Tù "cải tạo"




  5. #235
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Để Tưởng Niệm Một Người Anh‏



    (Sau Bốn Mươi Năm Tan Đàn Xẻ Nghé)

    Phạm Tín An Ninh



    Lần cuối cùng tôi gặp lại anh, khoảng tháng 7 năm 1978 tại Nghĩa Lộ. Trong những người tù ốm o đang vác những bó nứa, băng qua khu ruộng khô mà đám tù chúng tôi đang “lao động” , bất ngờ tôi nhận ra anh, khi anh hỏi xin bọn tôi một ngụm nước. Tôi ngỡ ngàng đứng nghiêm đưa tay lên chào:


    - Đại Tá!

    Anh nh́n lên, nhận ra tôi và nở nụ cười:


    - Mi ở đây à? Chừ c̣n tá với tướng chi mi. Mi khỏe không?

    Tôi đưa cho anh lon guigoz nước rồi nắm lấy tay anh. Anh gầy hơn xưa nhiều, chỉ có nụ cười vẫn vậy, không thay đổi. Chưa kịp hỏi anh ở trại nào và vợ con ra sao, th́ tên vệ binh hét: “không được quan hệ linh tinh, khẩn trương về trại”. Tôi phụ đưa bó nứa lên vai anh. Bước đi, anh nói vọng lại một câu:


    - Mi nhớ giữ ǵn sức khỏe hỉ!

    Có một thời báo chí và nhiều người gọi anh là “Người hùng Ban Mê Thuột”. Điều đó rất xứng đáng. Khi chỉ có trong tay một tiểu đoàn và được tăng cường Đại Đội 23 Trinh Sát tinh nhuệ, nhờ hầm hố công sự vững chắc, anh cùng đơn vị đă phải chiến đấu đơn độc nhưng thật quyết liệt can trường trước nhiều đợt tấn công biển người của địch, giết hằng trăm địch quân và bắn cháy nhiều chiến xa T-54, giữ vững vị trí đến sau khi cả thành phố Ban Mê Thuột đă lọt vào tay giặc gần một tuần trước đó. Ngày 17.3.75, một lực lượng địch đông đảo có nhiều chiến xa kéo đến bao vây tấn công để bằng mọi giá phải nhổ cái gai làm chúng vô cùng căm tức. Với hàng ngàn quả pháo, chúng muốn san bằng cái cứ điểm cuối cùng mà đơn vị anh đang tử thủ, quyết sống chết trong căn cứ B50 bên cạnh phi trường Phụng Dực, cách thị xă Ban Mê Thuột 8 cây số về hướng Đông. Anh đă cùng đồng đội vẫn không nao núng, đánh thật đẹp một trận để đời. Một số binh sĩ hết đạn, anh ra lệnh cho thu nhặt súng đạn của địch để đánh lại địch. Rất tiếc, phi vụ tiếp tế thả dù cuối cùng không may rơi ra ngoài vị trí, lương thực và đạn dược đă cạn kiệt. Anh khôn khéo lừa địch, cùng những thuộc cấp sống sót mở đường máu lúc nửa đêm, phân tán thành nhiều toán nhỏ, vài toán rút về hướng Lạc Thiện, vài toán đi về khu làng Thượng thuộc tỉnh Tuyên Đức, riêng anh cùng một toán trên 20 người đến được Phước An, hai ngày trước khi quân lỵ cuối cùng của tỉnh Darlac này rơi vào tay Cộng sản. Anh và đồng đội đă tạo thêm một huyền thoại trong cuộc chiến tranh Việt Nam.

    Đặc biệt, anh cũng là cấp chỉ huy trực tiếp cuối cùng của tôi vào những giờ thứ 25, trước khi Quân Lực VNCH bị bức tử, để những chiến sĩ anh hùng như anh phải đành đau đớn tức tưởi kết thúc binh nghiệp nửa đường.

    Vào đầu tháng 4/75, QĐ II&QK2 lần lượt lọt vào tay giặc, sau những cuộc triệt thoái tồi tệ và bi thảm nhất trong lịch sử chiến tranh. Hầu hết quân nhân các cấp thuộc các Sư Đoàn và Tiểu Khu thống thuộc c̣n sống sót đă tiếp tục di tản vào B́nh Tuy, Vũng Tàu, Sài g̣n. Được lệnh của Bộ TTM truyền đi trên các đài phát thanh, truyền h́nh, kêu gọi “đến tŕnh diện tại Trại Chí Linh, Trung Tâm Huấn Luyện XDNT Vũng Tàu” để sau đó được bổ sung tái lập một sư đoàn duy nhất: Sư Đoàn 22BB với Thiếu Tướng Phan Đ́nh Niệm tiếp tục làm tư lệnh, đặt dưới quyền xử dụng của Quân Đoàn III.

    Không ngờ số lượng đến tŕnh diện thật đông đảo. Đa số là sĩ quan, chỉ có khoảng một phần ba là hạ sĩ quan và binh sĩ. Khi lang thang đi t́m mấy thằng bạn cùng đơn vị cũ, xem ai c̣n ai mất sau trận chiến Khánh Dương và một số phải di tản theo Tỉnh Lộ 7B oan nghiệt, bỗng tôi nghe trên loa có một giọng Huế quen thuộc gọi tên ḿnh, và yêu cầu đến dăy nhà số 4 gặp Đại Tá Vơ Ân. Tiếng gọi quen thuộc ấy cũng chính là tiếng nói của anh.

    Tôi t́m đến dăy nhà số 4, nơi đặt BCH Trung Đoàn 47 (tái lập). Vội vàng t́m gặp anh, để xem người hùng của trận chiến Ban Mê Thuột bây giờ ra sao. Anh ngồi trên dăy bàn dài với một vài sĩ quan cấp trung tá, có nhiều vị tôi quen biết. Tôi đưa tay chào, chưa kịp tŕnh diện lời nào, th́ anh đă phất tay bảo tôi ngồi:

    -Tau được chỉ định tái lập gấp Trung Đoàn 47 này. Mi về đây với tau cho vui. Anh em 23 nhiều lắm. Tụi ḿnh “đánh đấm” tiếp.

    Thoáng một chút xúc động. Nghĩ ḿnh là một sĩ quan đàn em cấp thấp, cũng chẳng tài cán ǵ, chỉ gặp gỡ một vài lần và được anh quí mến. Vậy mà hôm nay, trong cái cảnh chợ chiều, hổn tạp rối ren này, anh vẫn c̣n nghĩ đến ḿnh.

    Ba ngày sau, Trung Đoàn 47 BB được tạm tái lập với một quân số mà quan nhiều hơn lính. Một tiểu đoàn có đến 2 trung tá. Cấp đại đội có 1-2 thiếu tá, có vị đă từng làm tiểu đoàn trưởng hay chi khu phó. Có nhiều trung đội được chỉ huy bởi một đại úy với quân số không quá 25 người, mà 50% là sĩ quan. Chắc chắn trên thế giới không có một đội quân nào với bản cấp số kỳ quặc và “ghê gớm” như thế.

    Trong hầu hết những bài viết về các trận chiến cuối cùng của QLVNCH, dường như chưa có ai nói đến sự kiện này. Tại sao những sĩ quan cấp tá, cấp úy lại sẵn sàng nhận lănh những chức vụ quá nhỏ nhoi như thế, trong lúc t́nh h́nh nguy ngập, chiến trường đang từng giờ thu hẹp lại, mà mọi bất lợi, hiểm nguy đang chờ họ đối mặt? Hơn nữa hầu hết đều bỏ lại gia đ́nh ở miền Trung mà bây giờ đă thuộc vùng địch chiếm. Bao nỗi ưu tư canh cánh bên ḷng. Nếu không phải là “Tổ Quốc, Danh Dự. Trách Nhiệm”, sứ mạng cao cả mà họ đă tuyên thệ nhận lănh khi qú xuống vũ đ́nh trường trong ngày măn khóa?

    Ngay tại BCH Trung Đoàn, ngoài Đại tá Vơ Ân Trung đoàn trưởng, c̣n có đến 4, 5 trung tá. Trung tá Nguyễn Thắng Phùng, chỉ huy trưởng TTHL/SĐ 23BB nhận lănh chức vụ Trưởng ban 3. Vai tṛ này anh đă từng làm cách đây trên 10 năm, khi c̣n mang cấp bậc thiếu úy. Tôi vẫn c̣n nhớ, khi mới ra trường vài tháng, dắt trung đội biệt phái đến tŕnh diện BCH Trung Đoàn 45BB của Trung tá Vơ Văn Cảnh, đóng trại giữa rừng để chỉ huy trận chiến Quảng Nhiêu đang hồi khốc liệt nhất, tôi được gặp Thiếu Úy Nguyễn Thắng Phùng, đang là Trưởng Ban 3 Trung Đoàn. Anh rất vui vẻ, niềm nở hướng dẫn trung đội tôi ra nằm giữ an ninh cho một Pháo Đội Pháo Binh 155 ly, đóng bên cạnh BCH Trung Đoàn. Anh dặn ḍ chỉ vẽ những điều cần thiết. Chỉ với câp bậc thiêu úy, nhưng tôi nghĩ anh là một Trưởng Ban 3 nhiều kinh nghiệm, khả năng. Tôi có cảm t́nh với anh kể từ ngày ấy. Anh đă đảm trách chức vụ này từ khi c̣n thiếu úy, bây giờ mang đến cấp bậc trung tá, anh lại trở về với cái chức vụ hơn 10 năm trước. Vậy mà anh rất vui vẻ, b́nh dị, thường thân t́nh đùa cợt với anh em và chu toàn trách nhiệm của ḿnh. Anh bảo:


    - Được làm việc với Đại Tá Ân là vui rồi!

    Tôi rất nể phục thái độ và tư cách của anh.

    Trong BCH Trung Đoàn có một vài vị nguyên là tiểu khu phó, tham mưu trưởng của các tiểu khu. Tôi cũng gặp một anh thiếu tá, nguyên là tiểu đoàn trưởng xuất sắc của một tiểu đoàn ĐPQ tại TK B́nh Định. Năm 1971 có một thời tăng phái hành quân cho Trung Đoàn 44 của chúng tôi tại An Khê, c̣n bây giờ th́ anh đang vui vẻ làm đại đội trưởng với quân số chưa tới 80 người.

    Tôi được anh Ân thương mến, giao cho một chức vụ cũng không có trong bản cấp số: Sĩ Quan Hành Quân & Tiếp Vận. Thực chất, đó chỉ là một loại “thượng sĩ thường vụ” của Trung Đoàn, chạy ngược chạy xuôi lo đủ thứ việc.

    Ngày 17/4/1975, chưa kịp trang bị xong, một số quân nhân chưa có cả súng đạn, Trung Đoàn được lệnh di chuyển xuống Long An, đảm trách hành quân an ninh trong vùng Bến Lức. Ban đêm, từng đoàn xe từ Tổng Kho Long B́nh chở vũ khí, quân trang quân dụng xuống để đơn vị vừa hành quân vừa trang bị tiếp. Đạn th́ thiếu nhưng súng lại thừa. Một người có thể được trang bị một khầu M16 và thêm một súng Colt 12 nếu muốn.

    Ngày 22/4/75 có khoảng 10 tân sĩ quan hai khóa 29 và 30 của Trường VBQGVN vừa tốt nghiệp “non” tại Trường Bộ Binh Long Thành, đến tŕnh diện. Các anh vẫn giữ đúng nề nếp, cử một đại diện chỉ huy tŕnh diện đơn vị trưởng theo đúng lễ nghi quân cách. Nh́n họ mà tất cả chúng tôi ai nấy cũng đều cảm kích, chạnh ḷng. Những sinh viên đă từ bỏ học đường chọn binh nghiệp bảo vệ giang sơn tổ quốc. Bây giờ giang sơn đang như sợi chỉ mành trước gió, tổ quốc lâm nguy, vậy mà họ vẫn đến đây, để chấp nhận một cuộc chiến ở giờ thứ 25, trong một hoàn cảnh hoàn toàn bất lợi, khi chưa hề có được một ngày kinh nghiệm chiến trường. Trong những đôi mắt nhuốm chút ít ưu tư ấy vẫn tỏa ra đầy khí phách, sẵn sàng nhập cuộc.

    Đại Tá Vơ Ân đến bắt tay từng người một. Im lặng một lúc, anh lấy giọng:


    -Thay mặt đơn vị, anh cám ơn và hoan nghênh các em đă đến tŕnh diện. Các em đă cho chúng tôi một nguồn sinh lực mới, sau thời gian trải qua những mất mát, giao động. Điều đó cũng đă là một góp phần xứng đáng rồi. Anh biết các em chưa nghỉ phép sau khi làm lễ ra trường. C̣n đơn vị lại đang trong thời kỳ tái tổ chức. Bây giờ theo thông lệ, anh cấp cho các em giấy nghỉ phép mười ngày, để các em về thăm gia đ́nh. Mong là các em hiểu sự quyết định này của anh.

    Hầu hết các tân sĩ quan nhất quyết xin ở lại để chiến đấu cùng đơn vị. Có anh bảo là gia đ́nh ở ngoài Trung, không có ai ở đây. Nhưng tất cả sĩ quan chúng tôi có mặt lúc ấy đều thấy quyết định của ĐạiTá Ân là có cân nhắc và có t́nh có lư, nên khuyên các anh nên chấp nhận quyết định của Đại tá, nếu anh nào gia đ́nh ở miền Trung có thể về Sai gon tạm nghỉ ngơi chờ lệnh, sau khi hết phép trở lại đơn vị cũng chưa muộn (?)

    Ngay chiều hôm ấy, có lệnh bàn giao vị trí cho một đơn vị khác của Quân Đoàn III, chúng tôi khẩn cấp di chuyển đêm xuống giải tỏa áp lực địch tại Quận Cần Giuộc. Theo tin tức, đă có hơn một trung đoàn địch đang trên đường tiến đến uy hiếp khu vực này.

    Tất cả chúng tôi đều đến từ Vùng 2, nên không ai biết rành địa thế và t́nh h́nh trong khu vực lạ lẫm này. Để tránh chậm trể và nguy hiểm, Trung Đoàn được biệt phái một toán Cảnh Sát do một Thiếu Tá chỉ huy, dẫn đường. Khởi hành từ 10 giờ tối, cho măi 5 giờ sáng đơn vị mới tới địa điểm. Toán Cảnh sát “hướng lộ” đă dẫn chúng tôi đi sai lộ tŕnh. Rất may là tất cả an toàn, không đụng độ với bất cứ lực lượng nào của địch.

    BCH Trung Đoàn đóng tại Trường Trung Học Cần Giuộc. Phía trước là đồng ruộng, sau mùa gặt nên đất đă khô và trơ những gốc rạ. Tổng Kho Long B́nh có lệnh phân tán quân trang quân dụng, nên đă đưa xuống đây cả mấy chục chiếc xe GMCvà xe jeep các loại, kèm theo một lệnh miệng: “ Mỗi xe chỉ có đầy b́nh xăng, xử dụng chiếc nào đến hết xăng là bỏ luôn.” Vừa xe, vừa gạo, và quân trang chất thành những đống cao giữa trời, trên những đám ruộng khô.

    Trung Đoàn có ba tiểu đoàn, không có đại đội trinh sát và đại đội chỉ huy công vụ. Một tiểu đoàn đóng chung với BCH Trung Đoàn, làm lực lượng trừ bị, hai tiểu đoàn bung ra xa. Trong đó có một tiểu đoàn hành quân tái chiếm xă Mỹ Lộc, một khu trù phú của quận Cần Giuộc, bị một tiểu đoàn địa phương của địch xâm nhập, truy giết các nhân viên xă ấp và các trung đội nghĩa quân.

    Giữa một cuộc chiến không nh́n thấy tương lai, và phải chỉ huy một đơn vị như chiếc áo cũ mục nát,được vá víu bằng những tấm vải đủ màu, nhưng Đại tá Vơ Ân cùng tất cả chúng tôi đă sống với nhau thật vui vẻ, chí t́nh. Với tôi, đó lại là thời gian đáng ghi nhớ nhất trong cả mười một năm binh nghiệp. Cái ranh giới chỉ huy gần như nhỏ lại, để nhường cho cái t́nh huynh đệ. Điều này có được phần lớn là nhờ vào anh - Đại tá Vơ Ân.

    Ngày xưa, khi c̣n chỉ huy các tiểu đoàn, trung đoàn hùng mạnh, tham dự nhiều trận chiến cam go ở B́nh Định, Pleiku, Kontum, Quảng Đức, anh vẫn vui vẻ thân t́nh như hôm nay. Với bạn bè hay đàn em, thuộc cấp lúc nào anh cũng dùng hai chữ “mi, tau”. Sĩ quan trong đơn vị thực sự xem anh như một người anh, hay một ông thầy của thời trung học.

    Tháng 11 năm 1973, Phóng viên chiến trường Dương Phục, trong một lần đặc biệt đi theo đơn vị của anh, khi ấy là Trung Đoàn 53 thuộc Sư Đoàn 23BB, đang quần thảo với địch trong một trận chiến vô cùng khốc liệt tại Quảng Đức, đă viết:

    “Tôi vác ba lô ra xe và hai tiếng đồng hồ sau có mặt bên cạnh đơn vị có nhiệm vụ tái chiếm hai tiền đồn Bu Prang và Bu Bong đă lọt vào tay địch quân trong cuộc tấn công ngày 4.11 vừa qua.
    Trung Tá Vơ Ân, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 53 Bộ Binh, trông giống một giáo sư hơn là một đơn vị trưởng tác chiến. Cả bộ chiến phục bụi bậm, bẩn thỉu, và khẩu súng lục Colt 12 đeo lủng lẳng bên hông cũng không giúp anh có vẻ ngoài oai hùng của người lính chiến. Nhưng tất cả những thứ đó chỉ là bề ngoài. Sức chịu đựng bền bĩ và ư chí sắt thép của anh Ân được truyền tụng theo chiều hướng huyền thoại hóa trong trung đoàn.

    Ân tiếp tôi ngay tại vị trí chiến đấu của Tiểu Đoàn 2/53. Khuôn mặt trẻ trung, nhưng dầy dạn vẻ phong trần, nụ cười chân t́nh như chỉ những người lính chiến mới biết cười như vậy. Ân bảo tôi :

    - Anh đến chậm mất hai ngày.

    - Hai ngày sớm hơn đă xảy ra chuyện ǵ?

    - Pháo. Địch pháo như mưa, pháo dội vào các đơn vị chúng tôi. Sau pháo, chúng xung phong.”


    C̣n tiếp...

  6. #236
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Sáng ngày 27 tháng 4 /1975, khoảng 10 giờ sáng. Khi chúng tôi đang ngồi uống cà phê trong một pḥng học được dùng làm Trung Tâm Hành Quân, nghe tiếng trực thăng đang đảo thấp một ṿng đáp xuống đám ruộng khô phía trước, cách chúng tôi chừng hơn100 mét. Nghĩ là trực thăng CNC đến làm việc cho Trung Đoàn, Đại Tá Ân bảo tôi lấy một chiếc xe jeep mới toanh, không mui, chạy ra đón phi hành đoàn. V́ trời nóng, nên đa số chúng tôi đều mặc áo thun. Tôi không kịp mặc áo lính, lái xe chạy băng qua mấy đám ruộng khô và dừng lại trước chiếc trực thăng vừa đáp xuống. Bỗng bất ngờ, ngạc nhiên khi thấy một người vừa bước xuống, tay cặp chiếc mũ sắt ngụy trang có gắn 3 ngôi sao. Theo sau là một vị trung tá trên tay cầm khẩu M-18. Tôi giật ḿnh, nhận ra đó là Trung Tướng Ngô Quang Trưởng. Vội vàng bước xuống xe, tôi đứng nghiêm đưa tay chào. Ông bước tới gần tôi. Trong tiếng cánh quạt trực thăng chưa dừng hẵn, tôi nghe ông hỏi lớn:


    - Có Đại Tá Ân trong đó không?
    - Tŕnh Trung Tướng, có .

    Tôi trả lời và mời ông lên xe, nhưng ông từ chối, bảo là ông muốn đi bộ. Có thể là ông có ư cho tôi chạy vào trước để báo cho đại tá Ân, tôi đoán thế.

    Tôi vội vă lái xe chạy vào BCH la lớn cho Đại Tá Ân và mọi người biết: Trung Tướng Ngô Quang Trưởng tới thăm chứ không phải phi hành đoàn.

    Tất cả vội vă mặc áo và sửa soạn lại tấm bản đồ lớn được treo trên bảng đen (của lớp học). Tôi xếp mấy chiếc ghế lại cho ngay ngắn. Khi Đại Tá Ân chưa kịp bỏ áo vào trong quần thi Tướng Trưởng đă bước vào pḥng. Anh chỉ c̣n kịp đứng nghiêm hô to: “vào hàng, phắc” rồi đưa tay lên chào.

    Tướng Trưởng trông khá mệt mỏi, ánh mắt h́nh như bị mất ngủ. Ông hỏi với một giọng buồn bă:


    - T́nh h́nh thế nào em?

    Đại Tá Ân đưa cây que chỉ bảng lên tấm bản đồ, định tŕnh bày t́nh h́nh, th́ Tướng Trưởng đưa tay ngăn lại. Ông chỉ nói một câu ngắn ngủi:


    - Phải cẩn thận. Đừng để hao tốn sinh mạng của anh em một cách vô ích.

    Sau khi đưa tay bắt từng người có mặt trong TTHQ, Tướng Trưởng cho biết ông không có nhiều th́ giờ v́ chỉ mượn được trực thăng trong một thời gian ngắn, và bảo Đại Tá Ân lái xe chở ông sang thăm ông Quận trưởng Cần Giuộc. Tôi gọi toán cận vệ lên một xe jeep khác chạy theo, nhưng Tướng Trưởng khoát tay, bảo không cần. Sau này Đại tá Ân cho biết, anh Trung tá Quận Trưởng này cũng là một thuộc cấp được Tướng Trưởng tin cậy và quí mến, thời Ông c̣n làm Tư Lệnh QĐIV.

    Cả đại tá Ân và chúng tôi không biết lúc ấy Tướng Trưởng giữ chức vụ ǵ. Chỉ biết là ông đến thăm anh Ân và dặn ḍ đôi điều. Anh Ân cũng cho biết là chưa từng làm việc dưới quyền Tướng Trưởng, có lẽ ông chỉ nghe nói đến anh Ân “người hùng trong trận chiên Ban Mê Thuột”, nên đến thăm và khen ngợi anh như từng khen ngợi những sĩ quan, những đàn em xuất sắc của ông ở Quân Đoàn I, nơi có nhiều cấp chỉ huy lỗi lạc với cái tên chỉ có hai chữ như anh (Vơ Ân): Lê Huấn, Vơ Toàn, Vĩnh Dác, Hoàng Măo, Nguyễn Hóa,Vơ Vàng...

    Tôi gặp và biết anh Ân lần đầu tiên vào khoảng cuối năm 1972, khi anh mang cấp bậc trung tá, dắt một tiểu đoàn thuộc Sư Đoàn 22BB, từ B́nh Định lên tăng cường cho Trung Đoàn 44BB chúng tôi, để giải tỏa Trung Nghĩa, một ngôi làng Công giáo, dưới sự chỉ huy của một vị linh mục, quyết tử chiến với Cộng quân, nhưng v́ không đủ hỏa lực nên bị một lực lượng địch cấp tiểu đoàn chiếm hơn nửa làng. Một trận chiến phức tạp, khốc liệt, và cuối cùng anh đă chiến thắng ngoạn mục. Bằng một lối đánh giặc rất đặc biệt, xử dụng toàn súng cối 60 ly thay cho Pháo Binh và phi yểm.

    Sau nhiều lần tấn công bất thành, do lực lượng địch trú ẩn bám trụ trong các giao thông hào kiên cố và chống trả mănh liệt. Lệnh của Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn, tránh tối đa việc xử dụng phi pháo có thể gây thiệt hại cho khu nhà thờ và nhà cửa của dân chúng. Hơn nữa, Pháo Binh khó cận yểm v́ khoảng cách giữa địch và dân quá gần, tiền sát viên của ta khó tiếp cận để điều chỉnh cho thật chính xác.

    Anh lệnh cho các đại đội tạm rút ra, lựa chọn các binh sĩ trẻ và có năng lực tác chiến, chỉ trang bị súng nhẹ, không mang theo ba lô, chia thành nhiều toán nhỏ, làm lực lượng xâm nhập, tấn công. Các binh sĩ lớn tuồi hay yếu kém theo sau, làm lực lượng tải đạn, tản thương và án ngữ. Anh tâp trung cơ hữu và xin chúng tôi tăng cường thêm cho anh nhiều súng cối 60 ly (ít được các đơn vị xử dụng) với đầy đủ đạn dược, cùng một số xạ thủ có kinh nghiệm về loại vũ khí này. Tôi được Đại Tá Phùng Văn Quang, Trung Đoàn Trưởng 44, chỉ định đảm trách công việc này. Anh và tôi cùng hướng dẫn cấp tốc các tiểu đội trưởng cũng như xạ thủ, điều chỉnh súng cối từng mét một. Khi các tiểu đội ḅ vào tiếp cận các hầm hố của địch, đích thân anh điều động trên 20 khẩu súng cối 60 ly tác xạ theo sự điều chỉnh của các tiểu đội trưởng. Kết quả thật không ngờ. Địch quân bị tiêu diệt bởi các khẩu súng cối 60 ly này, số c̣n lại bị thương và bị bắt sống, bên ta không có binh sĩ nào tử thương.

    Sau trận chiến, trước khi trở về đơn vị gốc, anh gọi tôi ra ăn bữa cơm chia tay, cùng với vài sĩ quan của anh ngoài tiệm Thiên Nam Phúc. Và có lẽ do chiến công này, chỉ một thời gian ngắn sau đó anh được thuyên chuyển về Sư Đoàn 23 BB để giữ chức vụ Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 53 thay Đại Tá Trần Văn Chà. Sau này, tôi cũng được nghe kể lại, anh Ân là người chưa từng giữ cấp “phó” bao giờ.

    Anh tốt nghiệp Khóa 12 Thủ Đức, là người thăng cấp trung tá sớm nhất và cũng là người duy nhất của khóa mang cấp bậc đại tá . Hầu hết những sĩ quan giữ chức vụ tiểu đoàn trưởng dưới quyền, đều là khóa đàn anh, có người xuất thân trường Vơ Bị đồng thời với anh. Nhưng tất cả đều nể phục và kính mến anh.

    Ngày 30-4-75, khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, chúng tôi đang quây quần trong pḥng học được dùng làm TTHQ. Đại Tá Ân gục đầu xuống bàn. Tất cả im lặng. Cái im lặng thật rợn người. Có lẽ trong đầu mỗi người đang suy nghĩ về một điều ǵ đó. Tôi bước lại ôm vai anh. Trung Tá Phùng lệnh cho gọi tất cả anh em tập họp trước sân trường để nghe anh Ân ra lệnh lần cuối cùng. Anh cám ơn, bắt tay và ôm từng người, chúc tất cả trở về an toàn và gặp lại gia đ́nh. Anh cũng ra lệnh phá hủy tất cả các loại súng ống trước khi rời vị trí.

    Anh bảo tôi tâp trung tất cả tài xế lái các xe GMC khả dụng chở anh em về cầu chữ Y. Không đủ xe, tôi chạy đi mướn thêm hai chiếc xe đ̣. Tôi nghiệp hai anh tài xế đến giờ này vẫn c̣n chí t́nh với lính, t́nh nguyện chở giúp bọn tôi về đến Sài g̣n. Tôi đưa anh về nhà (chị Ân thuê để cùng các con tạm trú ở đây, sau khi theo đoàn quân di tản từ miền Trung). Anh bắt tay tôi thật chặt, nh́n tôi rồi bỗng nở một nụ cười, như chưa hề có chuyện ǵ xảy ra:


    -Mi về xem vợ con ra sao. Cẩn thận hỉ.

    Tôi nh́n anh, chưa biết nói lời ǵ để an ủi anh, th́ lại nghe tiếng anh đùa:


    -Que sera sera! Chừ tau chỉ tội nghiệp cho vợ con, c̣n tau th́ phó thác số phận cho ông trời!

    Tính anh là vậy đó, lúc nào cũng bất cần, cũng cười đùa, mặc dù trong ḷng đang rối như tơ ṿ.

    Chia tay anh, tôi bước đi mà nước mắt lưng tṛng. Bước chân nhẹ tênh như không c̣n cảm giác, và trong ḷng bây giờ dường như chỉ là một khoảng trống mênh mông!

    Anh bị tù hơn 14 năm. Sang Mỹ cùng gia đ́nh năm 1992 theo diện HO, và chỉ vài năm sau anh qua đời tại Florida, do bị đột quỵ (tai biến mạch máu năo). Có lẽ do hậu quả từ những cơn say và nhiều đêm mất ngủ. Anh dùng rượu để có thể tâm t́nh với hư vô, với những đồng đội đă vĩnh viễn nằm lại ở đâu đó trên các chiến trường xưa, và đă ân hận v́ không trả được món nợ máu xương này cho họ.

    Anh ra đi, nhưng không hề chết. Tên tuổi Vơ Ân vẫn c̣n vang vọng măi trong tâm khảm của mọi người đă từng quen biết và sống chết cùng anh. Lịch sử dân tộc chắc chắn c̣n ghi đậm tên anh. Một người lính đă sống hết ḷng với đồng đội anh em, và chiến đấu bằng tất cả danh dự cùng cả trái tim ḿnh.

    Phạm Tín An Ninh
    (40 năm sau ngày tan đàn xẻ nghé)


    Nhận từ Diễn Đàn TV 64

  7. #237
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    ĐOẠN TRƯỜNG AI CÓ QUA CẦU MỚI HAY !!!

    Rừng Khóc Giữa Mùa Xuân






    Rừng Khóc Giữa Mùa Xuân

    Tác giả Phạm Tín An Ninh

    HạtSươngKhuya diễn đọc

  8. #238
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Ngàn nỗi đoạn trường :


    Một Giao Thừa trong đời



    * Anh c̣n nhớ hay Anh đă quên ? Nếu quên , tôi nhắc lại cho Anh phải nhớ .

    Từ cuối năm 1975, hàng ngàn tù nhân Sĩ quan cấp tá của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa từ nhiều trại tập trung quanh Sài G̣n đă bị chuyển về nhốt tại trại tù Suối Máu, Tam Hiệp, Biên Ḥa.

    Vào một đêm giữa tháng 10, 1975, từ Long Giao, tôi bị chuyển tới đây trên một chiếc Molotova bít bùng kín mít. Tôi bị dẫn vào khu K2. Hai tuần sau có lệnh “biên chế,” tôi lại bị chuyển sang khu K3. K3 chỉ chứa Sĩ quan cấp Thiếu tá. Tôi bị giam ở đây từ ngày 1 tháng 11, 1975 cho tới ngày lên tàu Sông Hương ra Bắc (Tháng 7, 1976). Thời gian này, tin tức truyền thanh, truyền h́nh về t́nh h́nh thế giới càng lúc càng xấu đi. Người ta đồn rằng, h́nh như Cộng Sản Việt Nam đang trên đường tiến chiếm Thái Lan. Thế Giới Tự Do như càng lúc càng xa chúng tôi hơn.

    Anh em chúng tôi gặp nhau thường ngày, tụ tập từng nhóm, đánh cờ tướng, tán gẫu, bàn chuyện nhà cửa, gia đ́nh, nước non, thời quá khứ. Trong những lúc tụ tập chuyện tṛ, chúng tôi nghe bạn bè rỉ tai rằng, chính quyền giải phóng đang nghiên cứu hồ sơ cá nhân của từng người, để xét tha (?).Cũng có tin bi quan, cho rằng chúng tôi sắp bị đưa ra Ṭa án Nhân dân để xử tội. Chúng tôi thực sự hoang mang, chẳng biết tương lai ḿnh sẽ đi về đâu.

    Tôi ở lán 24 thuộc K3 (Lán là nhà, K là Khối, danh từ VC). Mỗi lán chứa khoảng hơn 40 tù nhân, trong lán 24 đó có vài cựu Sĩ quan Đà Lạt gồm anh Trần Ngọc Dương (K10), Nguyễn Lành (K16), Hoàng Thế B́nh (K18), Tạ Mạnh Huy (K19), khóa 20 có Ngô Văn Niếu và tôi (Vương Mộng Long). Lán tôi cách lán 17 vài thước. Lán 17 có ba anh Biệt Động Quân K20 Vơ Bị là Nguyễn Cảnh Nguyên, Trịnh Trân, và Quách Thưởng. Trong cảnh thiếu đói thường xuyên, chúng tôi phải chia nhau từng mớ rau rền, tán đường thẻ, miếng cơm cháy.

    Lán 24 lúc nào cũng hôi thối đầy ruồi nhặng, v́ nó nằm trên đường đi ra cầu tiêu, mà bệnh kiết lỵ của tù ở đây hầu như bất trị. Anh trưởng lán 24 tên Trần Thành Trai nguyên là Y sĩ Thiếu tá làm việc tại Quân y viện Duy Tân, Đà Nẵng. Bác Sĩ Trai luôn luôn xác định lập trường của anh là quyết tâm “Học tập tốt” để được tha về với vợ con, v́ vậy mỗi lệnh của ban chỉ huy trại đưa xuống, anh luôn luôn t́m cách thi hành đúng đắn.

    Thằng Niếu, bạn tôi, được một chân làm bếp, nó ăn uống dưới bếp, nên phần cơm của nó dư, được mang về tiếp tế cho tôi và anh Nguyễn Phong Cảnh (K10/TĐ) người nằm cạnh tôi.

    Vào những ngày cuối năm Ất Mẹo, không khí ở đây trở nên rộn rịp vô cùng. Những người liên lạc được với gia đ́nh th́ có những gói quà nhỏ gởi vào cho ăn Tết, những kẻ ít may mắn hơn th́ đành trông chờ vào những ǵ ban chỉ huy trại ban cho. Thời gian này, các lán gấp rút tập văn nghệ để tŕnh diễn đêm giao thừa.

    Để khỏi tập ca hát nhảy múa, tôi t́nh nguyện làm công tác tạp dịch, quét tước. Trong khi mọi người ca múa, xả rác, tôi đi lượm rác và xách nước về cho bạn cùng lán rửa mặt rửa tay.

    Hai ngày trước Tết, lán tôi phải tập họp đi làm cỏ ngoài rào K3.

    Trại Suối Máu vốn dĩ là trại tù Phiến Cộng Tam Hiệp của Quân Đoàn 3. Trại có hai khu, hai hệ thống hàng rào. Lớp rào trong nhốt tù, rồi tới khu canh tù, ngoài cùng là rào ḿn pḥng thủ. Trại tù Phiến Cộng này có sáu khối. Mỗi khối cách biệt nhau bởi một khoảng đất trống, có rào ḿn. Từ khối này muốn liên lạc với khối kia chúng tôi phải hét lên mới nghe tiếng nhau. Ra khỏi hàng rào thứ nhất, tôi chứng kiến vài sự đổi đời.

    Cái miếu thờ Thổ Địa trở thành cái chuồng nuôi heo. Nhà Thờ và Niệm Phật Đường của trại tù binh đă thành chuồng gà sản xuất. Sư và Cha, Tuyên úy của trại này, chắc cũng đi tù đâu đây không xa! Ngoài xa, bên kia hàng rào ḿn là băi cỏ trống rồi tới đường Quốc lộ 1.

    Trên Quốc lộ, xe Lam chạy xuôi ngược; người người vội vàng buổi chợ cuối năm. Có vài bàn tay giơ lên ngoắc ngoắc về hướng trại tù, đôi người dân có liên hệ, hoặc ai đó c̣n nhớ tới chúng tôi, những Sĩ quan cấp tá của QLVNCH, những người bảo vệ chế độ đến giờ cuối cùng, và những người chậm chân, chạy không kịp, đang bị nhốt ở đây, trong khu nhà tù do chính tay Công Binh Việt Nam Cộng Ḥa xây dựng lên trước đó nhiều năm.

    Sáng nay bầu trời mầu xanh, không một gợn mây. Từ hướng phi trường Biên Ḥa, bên kia cánh đồng trồng khoai ḿ, những chiếc F5 thực tập lên, xuống, lượn ṿng.

    Đưa tay chỉ những cánh chim sắt đang bay trên trời cao, anh bạn Thiếu Tá Không Quân, Trần Chiêu Quân nói với tôi rằng, sau 30 tháng 4, có một số phi công của Việt Nam Cộng Ḥa bị trưng dụng để huấn luyện cho phi công Bắc Việt lái những máy bay chúng ta c̣n để lại. Những chiếc F5 sáng như bạc đảo lộn trong không gian. Tiếng rít của phi cơ làm cho tâm hồn người cựu chiến binh nao nao.

    Làm sao quên được? Lần đầu ra trận (Tháng 2, 1966). Hôm đó, cũng vào một sáng đầu Xuân, đơn vị tôi án binh dưới chân núi Trà Kiệu (Quảng Nam) chờ lệnh xuất phát. Tôi ngồi bên bờ Nam sông Thu Bồn, say sưa nh́n những cánh F-4C, F-5A Hoa Kỳ đan nhau trên vùng trời Bắc. Bên kia sông, vùng trách nhiệm của Trung Đoàn 51 Biệt Lập, khói đạn bom cuồn cuộn…

    Rồi tới trận Mậu Thân (1968) với những chiếc AD 6 Skyrader dềnh dàng, chậm răi phóng từng trái Napalm dài như chiếc xuồng màu trắng, lướt trên đỉnh 1632 cuối phi đạo Cam Ly, Đà Lạt. Khi bom chạm mục tiêu, từ đó, những sợi lửa lân tinh trắng xanh, trông giống như những cái ṿi bạch tuộc, vươn cao…

    C̣n nữa…

  9. #239
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Nhớ thời chống giữ Pleime, ngày ngày, tôi nghe quen tiếng L19 lè xè của Vơ Ư (K17). Chiếc L19 như cánh diều mảnh khảnh, lững lờ quanh đỉnh Chư Gô, hay trên Ya Drang, thung lũng Tử Thần. Chúng tôi trông chờ đôi lúc trời trong, những phi tuần A-37 theo nhau tuôn bom… chờ những chiếc trực thăng rà sát đọt cây, lướt trên ngọn cột cờ căn cứ. Xạ thủ trên tàu chỉ kịp đạp vội xuống sân trại vài thùng pin, đạn, gạo sấy, con tàu đă lật bụng đảo một ṿng, thoát chạy về Đông. Pḥng không như lưới, thảy xuống cho nhau được thùng nào, hay thùng nấy! Thảy đồ xong là chạy. Đồ tiếp tế, có thùng c̣n nguyên dạng, có thùng vỡ tan, có thùng bay vào băi ḿn. Như thế cũng quư hóa lắm rồi! Cám ơn người anh em Nguyễn Công Cẩn (K21) và phi đoàn 229 Lạc Long.

    Rồi đêm xuống, cứ như “Đúng hẹn lại lên,”

    “Thái Sơn đây Hỏa Long gọi!”

    Chiếc AC-47 của anh Trần Bạch Thanh (K16) đă có mặt trên vùng. Những đóm hỏa châu lập ḷe, vừa trải rộng tầm quan sát cho người trấn giữ tiền đồn, vừa làm cho họ cảm thấy ấm ḷng.

    Đă mất rồi, ngày xưa ấy!

    Giờ này tôi đang đứng nh́n những cánh chim sắt chao lượn trên đầu, người lái không phải là quân bạn.

    Tiếng động cơ F5 nghe sao quá xót xa!

    * * *

    Tôi đang nhổ cỏ th́ thấy một đoàn người từ hướng ban Chỉ huy trại ḥ nhau khiêng một cái cổng gỗ rất to vừa đóng xong.

    Tấm bảng nền đỏ chữ vàng “Không Có Ǵ Quí Hơn Độc Lập Tự Do” được nâng niu như trứng trên vai những người tù nhễ nhại mồ hôi. Những người tù đang bị sức nặng của cái cổng đè trĩu trên vai. Họ phải lên gân chân mỗi lúc bước tới trước.

    Mới vài tháng trước đây họ c̣n là những vị Chỉ huy oai phong lẫm liệt. Giờ đây đành cam thân sống cảnh đọa đày, đóng vai những anh thợ mộc bất đắc dĩ không công. Ngày nào họ cũng ra đi rất sớm, chiều tối mới trở về trại. Họ dựng những cái cổng chào. Họ tu sửa, sơn phết những khẩu hiệu trên tường. Họ trồng lại hàng rào trại.

    Mọi việc làm này là để chào đón ngày Quốc Hội Việt Nam Thống Nhất ra đời. Những vị Sĩ quan cao cấp này đă khởi đầu nghề thợ mộc của họ bằng những cái bảng “Không Có Ǵ Quí” ở trại tù Tam-Hiệp.

    Tôi có quen vài người trong số những người hằng ngày xuất trại làm mộc, như cựu CHT/BĐQ/ QLVNCH là Đại Tá Trần Công Liễu (K8 VB) và cựu Tiểu Đoàn Phó Nhảy Dù là Thiếu Tá Trương Văn Vân (K20 VB). Cả hai vị đó, sau này nơi đất Bắc, đă thành hai ông đội trưởng nổi tiếng. Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh!

    Chín tháng sau ngày chế độ Cộng Ḥa sụp đổ, tôi đang chứng kiến một hoạt cảnh chẳng bao giờ ngờ:

    Trên trời, phi công Việt Cộng đang lái F5, trước cổng trại tù, Sĩ quan cấp tá VNCH đang dựng cổng chào, quanh rào trại tù, Sĩ quan cấp tá VNCH đang làm cỏ. Nơi nơi, người người, chuẩn bị đón Xuân. Mỗi người mang một tâm sự riêng…

    Tới trưa, khi nghe tiếng kẻng phát cơm của nhà bếp, chúng tôi được dẫn trở lại trong ṿng rào trại K3. Khi đi ngang qua sân bóng chuyền, tôi thấy người ta đang cá độ nhau trận đấu tay đôi đang diễn, một bên là Thiếu Tá Trần Đạo Hàm, Thủ khoa K17/VB, bên kia là một tay Thiếu Tá Không Quân. Anh Lê Hữu Khái (K15) và thằng bạn tôi, thằng Nguyễn Bích (K20) đang nhảy tưng tưng cổ vũ cho anh Hàm. Cái miệng thằng Bích lớn lắm, nó la hét vỗ tay, b́nh luận ào ào. Anh Hàm thật là may mắn, có cái loa phóng thanh cỡ bự Nguyễn Bích cổ vũ nên anh có vẻ như đang dẫn điểm.

    Tôi thấy nhiều người đă để ghế “xí” chỗ tốt cho buổi TV văn nghệ tối; ngày nào cũng thế, cứ đến trưa là bà con đem ghế ra đặt sẵn trên sân bóng để “xí” chỗ xem phim TV của đài Sài G̣n Giải Phóng. Ai chậm chân th́ không c̣n chỗ tốt. Thời gian này TV Sài G̣n Giải Phóng liên tiếp chiếu bộ phim nhiều tập “Trên Từng Cây Số” và “Đại úy Đen” của Ba Lan.

    Trong các lán, có nhiều bạn tụ tập bóc lột nhau bằng những con bài. X́ phé, sập xám và mạt chược là những môn chơi phổ thông khắp nơi trong trại. Tôi đă chứng kiến nhiều anh thua bạc phải bán cả những quà cáp từ gia đ́nh gởi vào, như kem đánh răng, thuốc lào, thuốc tây để trừ nợ.

    Sau Tết ít lâu, tôi nghe một câu chuyện đau ḷng ở K3 năm ấy: có một vị Thiếu tá Quận trưởng khi cắt bánh thuốc lào làm đôi để chi cho chủ nợ một nửa, th́ phát hiện ra một bức thư “chui” của người nhà giấu trong ruột bánh thuốc lào. Bức thư vắn tắt đôi lời làm đau ḷng người đọc,

    “Chị ấy đă gởi hai đứa con của anh cho bà nội của chúng nuôi. Chị đă đi lấy chồng rồi! Anh đừng buồn, ráng học tập lao động cho tiến bộ để sớm được thả về mà nuôi dạy con anh.”

    Cái tin bất ngờ sét đánh ấy đă làm cho ông Quận sững sờ, buông rơi những con bài cơ, rô, chuồn, bích. Từ đấy, tôi thấy ông suốt ngày thẫn thờ bên rào, nh́n về phía xa xôi. Đôi lúc tỉnh táo, ông ôm cây đàn Guitar Solo những bài nhạc xưa, buồn đứt ruột.

    Tôi bồi hồi nhớ lại lời tổng thống nói ngày nào:

    - “Đất nước c̣n, c̣n tất cả. Đất nước mất, mất tất cả!”

    Ôi! Lời Tổng thống nói thật là hữu lư!

    Tổng thống ơi! Chúng tôi đă cố gắng hết sức ḿnh để giữ nước, nhưng chúng tôi đă không thể giữ nổi.

    Chúng tôi lấy làm xấu hổ vô cùng.

    Sao Tổng thống không ở lại giữ nước với chúng tôi?

    Lúc này chúng tôi đă mất tất cả rồi Tổng thống ơi!


    C̣n tiếp...

  10. #240
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Về tới lán tôi nhận được một vỉ thuốc ho, một nắm xôi đậu xanh, và mười cục đường tán do anh bạn BĐQ Bắc Hải (Phan Văn Hải) ở lán 22 gởi cho. Tôi, Phan Văn Hải, cùng Phan Độ (K20), Huỳnh Bá An (K20), Trần Hữu Bảo (K20), xuất thân từ trường Nam Tiểu Học Đà Nẵng. Chúng tôi là học tṛ của cô giáo Phạm Thị Tịnh Hoài, lớp Nhất C.

    Hải là Sĩ quan khóa Đặc biệt Thủ Đức, anh về phục vụ cùng đơn vị BĐQ của tôi ở Pleiku. Những ngày cuối của cuộc chiến, Thiếu Tá Phan Văn Hải giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng TĐ89/BĐQ. Khi đi tù, bạn tôi không có ai thư từ, tiếp tế, nhưng hắn bài bạc rất giỏi, nên lúc nào cũng sung túc.

    Chiều hôm đó, anh lán phó hậu cần, Hải Quân Thiếu Tá Bùi Tiết Quư thâu tiền của trại viên trong lán, gởi cán bộ trại mua giùm ḿ gói, tương, chao, x́ dầu và đường tán để ăn bồi bổ thêm trong ba ngày Tết. Tối đến, sau khi đă chia hết phần đường cho người mua, anh Quư cạo được một chén đường chảy dính trong thùng giấy và bao giấy gói đường. Anh ung dung ngồi thưởng thức nồi chè đặc biệt, nấu bằng đường mót được với hột su su và mấy hạt bắp non anh trồng được bên rào. Làm đội phó hậu cần cũng có chút bổng lộc!

    Sáng ba mươi Tết, lại gặp ngày tổ tôi trực lán, tôi và một số bạn bị chỉ định xuống làm việc tăng cường cho lán 9 nhà bếp. Tôi phụ việc vo gạo cho thằng Niếu và anh Cung. Những tạ gạo đựng trong bao viền chỉ xanh rất cũ được chuyển về từ bưng biền. Gạo th́ mốc vàng, mốc xanh. Những tổ sâu gạo to như nắm tay.
    Khi tôi tách những cái tổ sâu ra từng phần nhỏ th́ những con sâu gạo trắng ngần có khoang, béo núc, to gần bằng đầu đũa và dài cả phân, ngo ngoe, ngo ngoe…Anh Cung không cho phép tôi vứt bỏ những cái tổ sâu ấy, anh nói rằng nếu vứt bỏ sâu đi th́ hết gạo.

    “Nếu vứt sâu đi th́ c̣n cái ǵ mà ăn? Cứ nấu tưới đi! Sâu cũng bổ béo, cũng nhiều ‘Prồ-tê-in’, sâu gạo chứ có phải là ḍi ở ngoài chuồng xí đâu mà ngán!”

    Khi chảo cơm bắt đầu sôi th́ nhiều khách khất thực nước cơm đă cầm ca đứng đợi. Anh Cung cho vài người, mà cũng từ chối đôi người. Người có phần, th́ riu ríu cám ơn, người không có phần tiu nghỉu ra về, miệng lầm bầm, “đ.m, đ.m…”

    Những trại viên nhà bếp gọi đám người chờ xin nước cơm là “Đội quân cầm ca.” Chữ “cầm ca” ở đây không có nghĩa là ca sĩ, ca hát, hay ca kỹ mà có nghĩa đen chỉ sự cầm cái ca U.S dùng để đựng nước uống, cái ca nằm dưới cái bi-đông bộ binh ấy mà! Dân cầm ca phải đứng xếp hàng cả giờ đồng hồ trước cửa ḷ cơm để chờ xin một ly nước cơm. Chuyện xếp hàng trước, xếp hàng sau, đôi lúc cũng gây ra ẩu đả. Nước cơm có Vitamin B1 chữa được bệnh phù thũng (?).

    Sau này, khi ở trại tù Phú Sơn 4, Thái Nguyên, tôi có đọc một tài liệu nói về cái chất độc của nấm cúc vàng từ gạo mục, gạo mốc. Nấm cúc vàng có chứa một loại chất độc nguyên nhân gây ung thư gan. Nước cơm lại là phần đậm đặc nhất của chất độc nấm cúc vàng từ gạo mốc. Không biết có bao nhiêu nạn nhân của bệnh xơ gan sau này có mặt trong đội quân “cầm ca” ngày ấy?

    Chiều ba mươi Tết, bữa ăn có thịt heo kho. Thằng Niếu đem thêm về cả phần ḷng heo bồi dưỡng nhà bếp của nó.

    Thời buổi khó khăn, thuốc lá bắt đầu khan, những tay nghiền miền Nam bắt đầu nói chuyện thuốc lào.

    Những danh từ “điếu cày,” “điếu bát,” “Cái Sắn,” “Hố Nai,” “Vĩnh Phúc,” “Tiên Lăng” nghe măi cũng quen tai.

    Anh Hoàng kim Thanh, Liên Đoàn Trưởng LĐ24/ BĐQ của tôi, từ bên K4 nhờ ai đó chuyển cho tôi được một bao 555 và một lạng cà phê.

    Trong khi thằng Niếu và anh Cảnh lo bếp núc cúng Tất Niên th́ tôi đi ṿng ṿng tán dóc với Lưu Văn Ngọc (K20), cựu Sĩ quan Quân Pháp Quân Đoàn 2.

    * * *

    C̣n tiếp...

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. HY LẠP BẦU THỦ TƯỚNG LÂM THỜI
    By Hắc Y Hiệp Nữ in forum Tin Việt Nam
    Replies: 0
    Last Post: 12-11-2011, 01:31 PM
  2. Replies: 16
    Last Post: 03-09-2011, 09:02 AM
  3. Replies: 59
    Last Post: 29-06-2011, 04:26 AM
  4. Replies: 26
    Last Post: 03-05-2011, 02:12 PM
  5. Replies: 0
    Last Post: 22-04-2011, 10:13 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •