Page 2 of 5 FirstFirst 12345 LastLast
Results 11 to 20 of 50

Thread: Tổ Quốc Ghi Ơn

  1. #11
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Chuẩn Tướng TRẦN VĂN HAI và Viên Đạn Cuối Cùng

    Trước đó chừng một tháng, tức ngày 31.1.1968 Việt Cộng tấn công 44 tỉnh thành Việt Nam Cộng Ḥa, đặc biệt chiến sự nổ lớn và kéo dài ở Huế và khu vực Sài G̣n-Chợ Lớn-Gia Định. Đại Tá Hai đă có dịp tỏ rơ tài năng quân sự, khi ông chỉ huy Biệt Động Quân giải tỏa áp lực địch trong khu vực trách nhiệm. Quân ta thắng lớn trên khắp mặt trận. Trong đợt tổng tấn công Mậu Thân 2 khởi diễn ngày 22.5.1968, Liên Đoàn 5 Biệt Động Quân của Trung Tá Đào Bá Phước chịu trách nhiệm mặt trận Chợ Lớn. Bộ chỉ huy Liên Đoàn đóng trong Trường Tiểu Học Phước Đức nằm trên đường Khổng Tử. Chiều ngày 2.6.1968, Trung Tá Phước cùng những sĩ quan cao cấp của Cảnh Sát Đô Thành và Biệt Khu Thủ Đô đang họp hành quân trong trường, th́ đột nhiên có một chiếc trực thăng vơ trang của quân đội Hoa Kỳ xuất hiện từ phía trái đường Khổng Tử bay đến. Quân ta chưa kịp nắm vững t́nh h́nh về chiếc phi cơ lạ th́ chiếc trực thăng đă chúi mũi xuống phụt một trái hỏa tiễn bắn thủng bức tường lầu nh́ xuyên xuống tầng dưới. Chiến sĩ Biệt Động Quân vội tung khói màu ra hiệu quân bạn, nhưng chiếc trực thăng đă quay trở lại quạt đại liên xuống dữ dội. Quả rocket và tràng đại liên oan nghiệt đă phụt trúng bộ chỉ huy hành quân hỗn hợp và gây tử thương cho sáu vị sĩ quan cao cấp Việt Nam Cộng Ḥa. Những vị hy sinh gồm có :

    1./ Trung Tá Đào Bá Phước, Liên Đoàn Trưởng LĐ5BĐQ.
    2./ Trung Tá Nguyễn Văn Luận, Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia Đô Thành.
    3./ Thiếu Tá Nguyễn Ngọc Sinh, Phụ Tá Trung Tá Luận.
    4./ Trung Tá Lê Ngọc Trụ, Trưởng Ty CSQG Quận 5.
    5./ Trung Tá Phó Quốc Trụ, Giám Đốc Nha Thương Cảng Sài G̣n.
    6./ Thiếu Tá Nguyễn Bảo Thùy, Chánh Sở An Ninh Đô Thành, ông là bào đệ của Trung Tướng Nguyễn Bảo Trị.

    Ngoài ra c̣n có những vị sĩ quan sau bị thương nặng nhẹ:

    1./ Đại Tá Văn Văn Của, Đô Trưởng Sài G̣n, bị thương nặng.
    2./ Đại Tá Nguyễn Văn Giám, Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô, bị thương nhẹ.
    3./ Trung Tá Trần Văn Phấn, Phụ Tá Tổng Giám Đốc CSQG, bị cưa chân.

    Trong lúc xảy ra tai nạn, Đại Tá Trần Văn Hai đang ngồi trên xe Jeep trực chỉ về hướng Chợ Lớn để dự buổi họp hành quân với Trung Tá Phước. Xe của ông bị kẹt giữa khối đám đông dân chúng đang ùn ùn đổ ra Sài G̣n, cho nên khi ông đến được Trường Phước Đức th́ thảm kịch đă xảy ra và kết thúc từ lâu. Có lẽ định mệnh đă dành cho người một cái chết khác bảy năm sau. Cao cả hơn và bi tráng hơn. Đó là cái ngày 30.4.1975.

    Thủ Tướng lúc đó là cụ Trần Văn Hương chú ư đến cung cách chỉ huy và ḷng trung trực thẳng thắn của Đại Tá Hai trong hai kỳ Mậu Thân. Đại Tá Hai đă cùng lên chiến tuyến với các Tiểu Đoàn Mũ Nâu để khích lệ tinh thần binh sĩ. Đặc biệt, để bảo toàn danh dự quân đội, ông nghiêm cấm binh sĩ không được phá quấy và cướp giật tài sản người dân. Thậm chí ông c̣n hạ lệnh sau mỗi lần diệt xong một ổ kháng cự của VC, ba lô của sĩ quan và binh sĩ đều phải được lục soát kỹ, không cho phép chiến sĩ lợi dụng cảnh hỗn loạn và nhà vắng chủ để lấy của cải dân chúng. Hành động đạo đức này đă được thuộc cấp nể trọng, đến quỉ thần cũng phải cúi đầu.

    Thủ Tướng Hương đề nghị Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cho Đại Tá Hai về làm Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, thay thế Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan bị thương chân giải ngũ. Lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia sau thời điểm Mậu Thân điêu tàn, ḷng người rúng động, cần h́nh ảnh một vị chỉ huy cảnh sát có thành tích chiến đấu v́ dân, có đạo đức, thanh liêm trong sạch và ḷng mẫn cán để thu hút ḷng dân, đưa dân đến gần hơn với những đường lối của chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa. Đại Tá Hai chính là con người hội đủ điều kiện đó. Trong lĩnh vực quân sự, cụ Hương cũng đă đề cử Trung Tướng Đỗ Cao Trí về nắm Tư Lệnh Quân Đoàn III. Hai nhân vật được đề cử đă tạo nên nhiều chiến công lớn , giúp cải thiện t́nh h́nh trị an và quân sự được ổn định một thời gian dài.

    Nhận một chức vụ cực quan trọng, là cánh tay mặt đắc lực của chính quyền, Đại Tá Hai đă hết ḷng chu toàn nhiệm vụ. Cũng v́ tính trong sạch thẳng thắn quá mà ông lại làm phiền ḷng ông Bộ Trưởng Nội Vụ thời đó, v́ ông không chịu sa thải một luật sư phụ tá mẫn cán để thay thế đàn em của ông Bộ Trưởng vào. V́ vậy mật phí dành cho Cảnh Sát Quốc Gia bị thẳng tay cắt giảm quá nửa, gây khó khăn rất nhiều cho ông, nhưng người vẫn quyết làm những ǵ theo lương tâm và ông nghĩ đó là lẽ phải. Với chức vụ cao tột bậc như vậy mà trong thời gian hơn một năm, ông cũng không xun xoe vào gặp cấp lănh đạo cao nhất để cầu cạnh lợi lộc, v́ điều đó trái với tính cách con người ông. Đại Tá Hai chỉ đến gặp Tổng Thống Thiệu, Thủ Tướng Hương rồi Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, sau khi Thủ Tướng Hương rời khỏi chức vụ, khi có lệnh hoặc v́ công vụ phải đích thân tŕnh bày. Chưa bao giờ người ta thấy ông dùng công xa lộng lẫy với c̣i hụ dẫn đường để khoe khoang, mỗi lần di chuyển công tác, người vẫn sử dụng chiếc Jeep BĐQ cùng với mấy người cận vệ ngồi phía sau. Đại Tá Hai chỉ huy CSQG rất tốt và không cho phép nó đi lệch hướng, nhưng những thế lực muốn chi phối lực lượng Cảnh Sát vào những mục tiêu riêng lại không thích ông, v́ ông không thuộc phe phái nào cả. Người chỉ có một phe phái lớn nhất, đó là tổ quốc. Khi được nghe phàn nàn về những bê bối trong ngành Cảnh Sát, người đă trầm ngâm trả lời: “Tôi biết, nhưng vấn đề khôngthể giải quyết một sớm một chiều, mà phải kiên nhẫn t́m ra những đầu mối, những tương quan thế lực chằng chịt th́ mới ngăn chận được. Từ ngày về đây tôi đă gặp khá nhiều khó khăn.Ḿnh như người vác chiếc thang dài đi trong căn nhà hẹp, bốn bề đều đụng chạm. Không ai muốn ḿnh làm những điều ḿnh thấy cần phải làm”.

    Công việc sửa chữa làm sạch ngành Cảnh Sát c̣n đang dang dở th́ Thủ Tướng Trần Văn Hương rời khỏi chức vụ, Đại Tá Hai liền nhận sự vụ lệnh trở ra Vùng II Chiến Thuật làm Tư Lệnh Phó Quân Đoàn II dưới quyền Thiếu Tướng Nguyễn Văn Toàn. Từ vị trí Tư Lệnh Phó, một lần nữa người sĩ quân mẫn cán ấy lại vướng phải một ông Tướng vùng nóng nảy và đầy tai tiếng tham nhũng, ăn chơi xa hoa trụy lạc, ông bằng ḷng trở về làm Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Lam Sơn kiêm Huấn Khu Dục Mỹ, coi như một sự đi xuống trong cuộc đời binh nghiệp của ḿnh. Thời gian này người thường tịnh khẩu, hướng về thiền định, ông ăn uống rất đơn giản, trong bữa cơm thường có nhiều rau trái.

    Cuộc đời lên xuống thăng trầm v́ những thế lực đè nén của người thật giống với cuộc đời của người anh hùng Nguyễn Công Trứ. Cũng giống như cụ Nguyễn Công Trứ, trong bất kỳ t́nh cảnh nào, vị trí nào, Đại Tá Hai đều chu toàn hoàn hảo và hănh diện với nhiệm vụ phục vụ đất nước của ḿnh. Cụ Trứ đă chẳng từng nói: “Lúc làm đại tướng tôi chẳng lấy làm vinh, th́ lúc làm lính thú tôi cũng chẳng lấy làm nhục”. Có lần trong năm 1974, một vị sĩ quan Tiểu Đoàn Trưởng là Thiếu Tá Nguyễn Thanh Vân dẫn Tiểu Đoàn 95 Biệt Động Quân từ căn cứ Ben Het về Dục Mỹ tái trang bị và huấn luyện đă đến thăm người anh cả, người thầy cũ đáng kính của ḿnh. Chuẩn Tướng Hai đă chân t́nh tâm sự với người chiến hữu cũ, măi về sau này nghiệm ra, Thiếu Tá Vân mới nghĩ đó chính là lời nhắn nhủ và là trăn trối cuối cùng mà người để lại cho hậu thế: “Bây giờ “Toi” cũng là Tá, cũng là Tiểu Đoàn Trưởng rồi, và “Moi” bâygiờ cũng mang sao. Nhưng ḿnh hăy xét ḿnh và làm sao cho xứng đáng với cái lon của ḿnh. “Moi” đă già rồi, tóc cũng đă bạc nhiều, rồi mai kia cũng phải ra đi. “Toi” hăy c̣n trẻ, tre tàn măng mọc mà “Toi”, thời gian là như vậy. “Moi” mong “Toi” sống cho đáng sống, đừng để binh sĩ dưới tay ḿnh khổ sở v́ sự kém tài bất đức của ḿnh. Cũng như “Moi” đây, bây giờ được về đây dưỡng già, nhưng nhà binh mà “Toi”, lúc lên voi xuống chó là chuyện thường t́nh, chỉ cần ta sống không thẹn với ḿnh là đủ…”.

    Đất nước trong cơn nghiêng ngửa rất cần những vị chỉ huy tài năng đứng ra chống đỡ. Một lần nữa, Chuẩn Tướng Trần Văn Hai được Tổng Thống Thiệu tín nhiệm trong chức vụ cực kỳ quan trọng ở Miền Tây, ông được vời về làm Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh thay thế Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam lên làm Tư Lệnh Quân Đoàn IV & Quân Khu IV kể từ tháng 11.1974. Chuẩn Tướng Hai về nắm Sư Đoàn 7 Bộ Binh trong thời điểm đă khá muộn màng, ông không c̣n có được bao nhiêu thời gian để cùng chiến binh Miền Tây làm tṛn trách nhiệm bảo quốc an dân. Từ phía Bắc, binh đội cộng sản đă ùn ùn tràn xuống như thác lũ, lần lượt đánh bứt các tỉnh Phước Long, Ban Mê Thuột, rồi toàn Quân Khu II, đến Quân Khu I, và sau cùng, trong những ngày tháng 4.1975 hầu như Quân Khu III cũng rơi vào tay giặc.

    Chuẩn Tướng Trần Văn Hai trong ngày cuối cùng 30.4.1975 vẫn tươm tất uy nghi trong bộ quân phục quân đội Việt Nam Cộng Ḥa ngồi trong văn pḥng tư lệnh b́nh tĩnh chờ quân địch đến. Trước đó, sau khi nghe Tướng Dương Văn Minh đọc hàng lệnh trên đài phát thanh, người đă ôn tồn khuyên bảo sĩ quan và chiến sĩ thuộc cấp, cho phép họ được buông súng trở về gia đ́nh, nhưng có một số vẫn nhất quyết ở lại căn cứ Đồng Tâm, Mỹ Tho và bố trí chiến đấu. V́ họ biết Chuẩn Tướng Hai sẽ không bàn giao Đồng Tâm cho giặc, hoặc nếu người có bàn giao th́ cái phương thức ông làm sẽ không phải là phương thức kiểu đầu hàng. Một con người đă từng chiến đấu bảo vệ những mảnh đất của tổ quốc hơn hai mươi năm, không lư do ǵ người giao lại cho giặc một cách dễ dàng. Chúng muốn lấy th́ chúng phải trả một cái giá nào đó. Chuẩn Tướng Hai cảm xúc nh́n những đôi mắt u sầu của thuộc cấp đang cố giương súng để bảo vệ ông. Người trao lại cho một sĩ quan thuộc cấp một gói nhỏ, trong đó đựng một vài vật dụng cá nhân và tiền hai tháng lương Chuẩn Tướng là 70.000 đồng nhờ trao lại cho bà mẹ già ở G̣ Vấp, Sài G̣n. Người sĩ quan rùng ḿnh, mặc dù không biết những vật ǵ chứa trong gói vải đó, nhưng ông biết giờ phút chia tay với Chuẩn Tướng Hai sắp điểm.

    Khoảng xế trưa, một lực lượng của Việt Cộng thận trọng tiến vào Đồng Tâm và cho người đến yêu cầu Chuẩn Tướng Hai bàn giao căn cứ. Chuẩn Tướng Hai ngồi ngay ngắn sau chiếc bàn bên trên có hai cái đế gắn lá cờ vàng Việt Nam và lá cờ Tướng một sao, b́nh tĩnh và nghiêm nghị ra điều kiện. Ông chỉ bàn giao căn cứ khi nào có một người chỉ huy trưởng sư đoàn của đối phương đến văn pḥng Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh. Ngoài điều kiện đó, ông không muốn bàn chuyện nào khác. T́nh h́nh rất căng thẳng và làm những người lính Cộng bối rối, chúng rút trở ra bàn tính. Măi một lúc sau khá lâu, bọn chúng gọi đâu được một người tự xưng là sư đoàn trưởng xin vào gặp Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh Việt Nam Cộng Ḥa để làm thủ tục bàn giao. Người thủ trưởng sư đoàn rụt rè tiến vào văn pḥng Tư Lệnh SĐ7BB, Chuẩn Tướng Hai bất thần rút súng lục ra nổ mấy phát vào tên sư trưởng địch. Với khoảng cách rất gần đó, người có thể giết chết gă dễ dàng, nhưng người chỉ bắn gă bị thương nhẹ. Người sư trưởng địch cùng mấy cận vệ lần nữa rút chạy ra ngoài. Lính Sư Đoàn 7 Bộ Binh giương súng lên sẵn sàng tử chiến và bảo vệ Tư Lệnh của ḿnh.

    Viên đạn cuối cùng của vị Tướng Việt Nam Cộng Ḥa và ḷng vị tha dành cho người sư trưởng địch đă nói lên được hai điều. Thứ nhất, Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa không phải là một quân đội khiếp nhược. Thứ hai, người lính Việt Nam Cộng Ḥa không bao giờ căm thù những người đồng bào cùng sinh ra trên mảnh đất Việt Nam, khi cuộc chiến tàn, tất cả chỉ c̣n lại thuần túy là người Việt Nam.

    Tối ngày 30.4.1975, Chuẩn Tướng Hai ngồi trong văn pḥng đóng kín cửa và đă uống thuốc độc tử tiết. Sáng hôm sau người Trung Úy thuộc cấp đă t́m được bà cụ thân sinh của Chuẩn Tướng Hai trao lại di vật và hướng dẫn bà trở xuống Mỹ Tho. Bản thân vị Trung Úy cũng chưa trở về gặp lại vợ con của ông ở Sài G̣n. Người mẹ già tấm lưng đă c̣m cơi với thời gian đă mưu trí gạt được người lính VC gác cổng và đưa được thi hài Chuẩn Tướng Hai về G̣ Vấp an táng. Hiện nay bà phu nhân Thiếu Tướng Hai vẫn c̣n ở Việt Nam, các chiến hữu Biệt Động Quân nhớ về người tướng quân tư lệnh binh chủng và người thầy cũ, đă có gửi tiền về cho bà ít nhiều để gọi là trân trọng tưởng nhớ đến ông.

    Người anh hùng dân tộc, vị thần tướng nước Nam Trần Văn Hai đă đi vào cơi thiên thu, nhưng tấm gương chiến đấu anh dũng, tấm ḷng tận tụy phục vụ tổ quốc đến giây phút cuối cùng của người sẽ măi măi được những người c̣n sống và người đời sau truyền tụng và vinh danh.

    Phạm Phong Dinh

  2. #12
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Những Giây Phút Cuối Cùng của Tướng TRẦN VĂN HAI

    Những Giây Phút Cuối Cùng của Tướng TRẦN VĂN HAI

    Những giờ phút cuối cùng của
    Tướng TRẦN VĂN HAI

    ::: Trịnh Văn Ngân :::

    Lời người viết: Trong khoảng thời gian 1975 – 1977, người viết ở chung D (tương đương cấp tiểu đội) với Trung Úy Huỳnh văn Hoa, sĩ quan tuỳ viên của Chuẩn Tướng Trần văn Hai., Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh, kiêm Chỉ Huy Trưởng căn cứ Đồng Tâm. Trước đó, Chuẩn Tướng Trần văn Hai đă từng là Chỉ Huy Trưởng Binh chủng Biệt Động Quân, và cũng từng là Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia. Trong thời gian đi “cải tạo”, anh Hoa đă kể cho người viết nghe những giờ phút cuối của Chuẩn Tướng Trần văn Hai. Ông đă chọn cho ḿnh một cái chết anh hùng như một số tướng lănh khác của QLVNCH: Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Thiếu Tướng Lê Nguyên Vỹ, Thiếu Tướntg Lê Văn Hưng, v.. v.. “Tôi” trong bài này chính là Trung Úy Hoa.

    Căn cứ Đồng Tâm, một căn cứ quân sự quan trọng, nằm ngay yết hầu từ cửa ngơ từ miền Tây về Saigon. Mọi ngày nhộn nhịp xe cộ, kẻ ra người vào. Hôm nay im lặng như tờ. Lúc bấy giờ là 14 giờ 30 ngày 30/4/75.

    Sau khi theo vị Tư Lệnh họp mặt với các sĩ quan thuộc quyền ông lần cuối tại câu lạc bộ sĩ quan sư đoàn, tôi trở về pḥng riêng trong dăy cư xá sĩ quan độc thân để sắp xếp đồ đạc cá nhân và chờ lịnh. Mới cách đây trên hai tiếng đồng hồ thôi, sau khi nhận được lệnh đầu hàng của Tổng Thống Dương Văn Minh và chờ phía “bên kia” đến bàn giao, Chuẩn Tướng Tư Lệnh đă triệu tập tất cả các sĩ quan. Ông đă ngỏ lời cám ơn, cùng chào từ giă các sĩ quan thuộc cấp cũ của ḿnh, đồng thời ra lệnh cho tất cả mọi người trở về gia đ́nh thu xếp cho vợ con, tránh đụng độ với quân địch, đổ máu vô ích.

    Đúng 15 giờ, điện thoại của Tư Lệnh gọi tôi lên văn pḥng của ông. Sau lễ nghi chào kính như thường lệ, tôi đứng nghiêm chờ lệnh. Khác với mọi ngày, Chuẩn Tướng Tư Lệnh không ngước nh́n tôi. Ông ngồi im như pho tượng gỗ. Dường như ông đang suy nghĩ một điều ǵ. Một lúc sau, ông ra dấu cho tôi ngồi xuống chiếc ghế tiếp khách, trước bàn làm việc của ông. Khi tôi đă an toạ, ông mới bắt đầu lên tiếng một cách từ tốn:“Anh cảm ơn em đă ở bên anh trong giờ phút cuối cùng này. Vận nước đă đến hồi như vậy, không thể làm ǵ hơn được. Là quân nhân, chúng ta phải tuyệt đối chấp hành lệnh thượng cấp.” Sau đó ông hỏi thăm gia đ́nh tôi. Cuối cùng, ông mới mở ngăn kéo bàn làm việc, lôi ra một gói đồ gói bằng giấy báo. Ông đưa cho tôi và nói rằng: “Đây là gói quà của anh gửi cho bà xă, và bảo bà đừng lo ǵ cho anh cả. Bây giờ em có thể về doanh trại thu xếp đồ đạc. Từ giờ đến tối, lúc nào cần anh sẽ gọi.” (Sau này tôi được biết, trong gói quà ấy có 70,000 đồng, cũng như một số vật dụng cá nhân hàng ngày của Chuẩn Tướng Tư Lệnh).

    Đứng chào vị Tư Lệnh trở về doanh trại, ḷng tôi bất ổn. Tôi linh cảm sắp có điều ǵ ghê gớm xảy ra cho ông. Chờ măi đến 6 giờ chiều, không thấy điện thoại Tư Lệnh gọi, ḷng tôi hết sức bồn chồn, đứng ngồi không yên. Cuối cùng tôi quyết định chạy bộ lên văn pḥng Tư Lệnh.

    Căn cứ Đồng Tâm rộng lớn ch́m trong hoang vắng. Càng đến gần văn pḥng Tư Lệnh, tôi càng hồi hộp. Và rồi tôi cũng đến nơi. Đèn đuốc trong văn pḥng vẫn sang như mọi ngày, nhưng một bầu không khí lạnh lẽo bao trùm. Tôi rón rén bước lại cửa văn pḥng, nghe ngóng động tĩnh. Vẫn hoàn toàn yên lặng. Sau cùng, tôi liều đẩy mạnh cánh cửa pḥng làm việc của Tư Lệnh, bước vào. Một khung cảnh hiện ra trước mắt làm tôi hết sức ngỡ ngàng.

    Chuẩn Tướng ngồi gục đầu, mê man trên bàn làm việc. Một ly rượu lớn đă cạn c̣n ở trên bàn. Tôi biết điều ǵ đă xảy ra. Tôi cấp tốc liên lạc với Tiểu Đoàn quân y và bệnh xá sư đoàn. Lúc ấy c̣n một vị Thiếu Tá Bác Sĩ ở bệnh xá. Tôi liền tŕnh bày nhanh qua điện thoại t́nh trạng của Chuẩn Tướng. Một lúc sau, ông Thiếu Tá bác sĩ lái chiếc xe jeep cứu thương đến. Chúng tôi đặt Chuẩn Tướng nằm trên băng ca và chở ông xuống bệnh xá Sư Đoàn ngay. Sau một lúc tận lực cứu cấp, vị bác sĩ buồn rầu báo cho tôi biết, v́ thuốc độc đă ngấm vào máu lâu, Chuẩn Tướng không qua được cơn nguy kịch.

    Chúng tôi lặng lẽ lau mặt ông, đặt ông ngay ngắn trên băng ca, và đứng nghiêm chào vị Tư Lệnh đáng kính một lần cuối. Sau khi lấy chăn đậy thi hài ông lại, tôi trở về doanh trại thu xếp đồ đạc, và quyết định khuya nay sẽ về báo tin cho gia d́nh của ông biết.

    Khi về đến Saigon, tôi được biết gia đ́nh Tư Lệnh gồm vợ, con va mẹ, đă chạy lánh nạn ở nhà thương Grall. Sau khi biết tin, gia đ́nh ông đă quyết định bằng mọi cách phải mang xác ông về Saigon.

    Sáng sớm hôm 1/5/1975 mẹ ông và tôi, một già, một trẻ, bao nguyên một chiếc xe lambretta loại ba bánh xuống căn cứ Đồng Tâm. Chúng tôi đến nơi vào khoảng 10 giờ sang. Khác với hôm qua, hôm nay căn cứ tràn ngập người ra vào. Kẻ t́m chồng, kẻ t́m con, kẻ đi hôi của…v/v Xe Honda chạy loạn xạ trong căn cứ. Khi xe lam của chúng tôi chạy đến cổng, th́ gặp một bộ đội CS điạ phương chặn lại. Như sắp đặt trước, mẹ của Tư Lệnh xuống xe mếu máo:

    “Con ơi, má có thằng con bị bắt đi quân dịch. Nghe nói đâu nó chết hôm qua. Cho má vào nhận xác nó đi con. Tội nghiệp má quá. Hoà b́nh rồi ai cũng về nhà. Riêng con má không về nữa…”

    Nói xong không đợi tên bộ đội trả lời, bà dục tôi lên xe và hối tài xế xe lam chạy lẹ vào căn cứ. Tên bộ đội trẻ cứ há hốc mồm ra nh́n, chẳng hiểu ra sao cả. Tôi hướng dẫn tài xế xuống bệnh xá Sư Đoàn. Sau đó cùng khiêng thi hài ra và đưa về Saigon.

    Về đến nhà thương Grall th́ trời đă tối hẳn. Người ta x́ xầm báo cho nhau biết: “chiều nay, ở đây vừa cử hành đám tang tướng Phạm văn Phú”. Phần tôi, lúc này quá mệt mỏi, không biết vợ con hiện giờ ở đâu.

    Sau khi tẩm liệm xác Tư Lệnh xong, tôi đứng yên lặng nh́n ông lần cuối, không dám chào theo nghi thức quân đội, v́ sợ Tư Lệnh bị lộ tông tích, gia đ́nh ông sẽ gặp nhiều phiền toái. Cuối cùng tôi cũng phải từ giă vị Tư Lệnh đáng kính với hai hàng nước măt đầm đ́a về t́m vợ con. Tôi cũng xin nhắc lại một chi tiết đáng lưu ư. Trước ngày 30 tháng 4, 1975 một tuần lễ, TT Nguyễn Văn Thiệu có phái một chiếc trực thăng xuống căn cứ Đồng Tâm đón chuẩn tướng Tư Lệnh về Saigon. Nhưng ông đă từ chối. Ông chỉ cho vợ con về Saigon. Và sau cùng, ông đă chọn một cái chết anh hùng, như tôi đă kể cho anh nghe.

    Trịnh Văn Ngân.

  3. #13
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Chuẩn Tướng LÊ NGUYÊN VỸ

    Chuẩn Tướng LÊ NGUYÊN VỸ





    TƯỚNG LÊ NGUYÊN VỸ
    CHẾT THEO THÀNH



    Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ (1933-1975) là Tư lệnh Sư đoàn 5 bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hoà, là một trong năm tướng lĩnh đă tự sát trong sự kiện 30 tháng 4, 1975.

    Ông sinh ngày 22 Tháng Tám năm 1933 tại Sơn Tây.Năm 1951 ông theo học khóa 2 (Lê Lợi) trường Vơ bị Địa phương Huế đến năm 1965 th́ thăng Thiếu Tá.

    Ông tham gia trong chiến trường An Lộc tử thủ căn cứ chỉ huy. Sau khi chiến thắng, được đề bạt lên làm Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 21 Bộ Binh.

    Năm 1974, ông được thăng chuẩn tướng sau khi học một khóa học chỉ huy và tham mưu cao cấp tại Hoa Kỳ và giữ chức Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh

    Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ về đảm nhiệm chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh vào khoảng giữa năm 1973, khi ông vẫn c̣n mang cấp bậc Đại Tá. Ông nổi tiếng về tinh thần dũng cảm và chống cộng cương quyết, cũng như tính t́nh nóng như lửa cuả ông.

    Vào mùa Hè năm 1972, Đại Tá Lê Nguyên Vỹ, Phó Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh đă có mặt ở Bộ Chỉ Huy Tiền Phương của Sư Đoàn tại An Lộc cùng Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Sư Đoàn. Họ đâu biết rằng họ sẽ là chứng nhân cho một biến cố lịch sử.

    Rạng sáng ngày 5 tháng 4 năm 1972, Cộng Sản Bắc Việt xua bốn sư đoàn (5, 7, 9 và B́nh Long) và hai trung đoàn xe tăng 202, 203 nhiều đơn vị yểm trợ tấn công thị xă An Lộc. Cộng quân đă dùng những trận mưa pháo để chà nát và san bằng thị xă nhỏ bé nàỵ Hàng ngàn đồng bào vô tội đă bỏ ḿnh dưới hỏa lực của Cộng quân.

    Nhiều lần, Cộng Sản Bắc Việt dùng chiến xa T-54 tấn công thẳng vào nơi Chỉ Huy Tiền Phương của Sư Đoàn 5 đang đóng. Lần đầu tiên người lính VNCH gặp phải chiến xa địch, lại không tin tưởng vào khả năng của vũ khí của ḿnh, nên đă hoảng hốt t́m nơi ẩn tránh.

    Không thể trách họ, v́ hoả tiễn M72 không đủ sức xuyên phá nếu bắn vào đằng “mũi” của xe T-54. Khi ấy tướng Hưng đă cầm sẵn một trái lựu đạn nơi tay, với ư định nếu Việt Cộng tràn vào, ông tung ra, tất cả cùng chết. Chiếc chiến xa đi đầu đă tiến gần, quay ngang quay dọc để t́m kiếm trung tâm chỉ huỵ Đại Tá Vỹ thừa cơ đứng lên, bắn một quả đạn M72 vào hông xe làm chiếc xe tăng bốc cháỵ Binh sĩ lên tinh thần theo phương pháp diệt xe của Đại Tá Vỹ, ḅ theo nhũng vách tường, bờ giậu để bắn xe đich. Kết quả là đoàn xe bị tiêu diệt.

    Sau 68 ngày tử thủ, Cộng quân bị đánh lui và An Lộc được giải toả. Đại Tá Lê Nguyên Vỹ được thăng cấp Chuẩn Tướng và về chỉ huy Sư Đoàn 5 Bộ Binh tại căn cứ Lai Khê (B́nh Dương) khi Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng đi nhận nhiệm vụ mới ở Quân Khu IV.

    Tại Lai Khê, ông làm việc không kể giờ giấc, ngày đêm, trong việc xây dựng và tu bổ hệ thống pḥng thủ, cũng như huấn luyện binh sĩ. Ông cũng rất nhiệt t́nh trong việc bài trừ tệ nạn và tham nhũng trong hàng ngũ quân độị V́ thế, ông đă mang lại miềm tin tưởng cho mọi người .

    Cuối tháng 4 năm 1975, quân Cộng Sản Bắc Việt từ nhiều ngả tiến về Saigon. Nhưng cánh quân phía Đông Bắc của chúng không thể vượt qua căn cứ Lai Khê, mặc dù có lực lượng đông gấp nhiều lần. Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ đă làm tṛn nhiệm vu..

    Sáng ngày 30 tháng 4, Tổng thống VNCH ra lệnh cho quân đội buông súng đầu hàng. Tướng Vỹ triệu tập sĩ quan và binh sĩ dưới quyền lần cuốị Ông tuyên bố: V́ tôi là tướng chỉ huy mặt trận, tôi không thể thi hành được lệnh nàỵ Tôi nghĩ thân làm tướng, phần nào đă hưởng vinh dự và ân huệ của quốc gia hơn các anh em, nên tôi phải chọn lấy con đường đi cho riêng tôị” Đoạn ông b́nh tĩnh bước ra sân, nghiêm trang đứng dưới cột cờ của Bộ Tư Lệnh, và rút súng ra tự sát. Lúc đó là 11 giờ sáng 30 tháng 4 năm 1975.

    Thi thể Tướng Lê Nguyên Vỹ được an táng trong rừng cao su gần doanh trại Bộ Tư Lệnh, sau đó được thân nhân bốc lên đem về cải táng ở Hạnh Thông Tây, G̣ Vấp. Năm 1987, hài cốt ông được thân mẫu (mẹ) hỏa thiêu và đem về thờ ở từ đường họ Lê Nguyên tại quê nhà ở tỉnh Sơn Tây

    TƯỚNG LÊ NGUYÊN VỸ CHẾT THEO THÀNH.

    ::: NGUYỄN VĂN HẢI, M.A :::
    Cựu SVSQ/K21 Trường VBQGVN
    Cựu Thiếu Tá Quận Trưởng Quận Phú Giáo, Tỉnh B́nh Dương (VNCH)

    Kính dâng Anh Hồn Tướng Lê Nguyên Vỹ

    Kính tặng các chiến sĩ Quân Lực VNCH.



    Các bạn thân của tôi thường nhắc tôi viết về Tướng Lê Nguyên Vỹ, Cựu Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh. Mọi người Việt Nam đều biết Tướng Vỹ đă tự sát để đền nợ nước tại Bộ Tư Lệnh SĐ5BB ở Lai Khê Bến Cát, tỉnh B́nh Dương vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Nhưng các bạn tôi cho rằng đến bây giờ mọi người chắc chỉ biết về hành động anh hùng của Tướng Vỹ và mọi người rất cần biết thêm nữa về ông. Sở dĩ các bạn tôi quay sang đề nghị tôi viết về ông bởi v́ họ biết tôi là người làm việc với ông từ khi mới ra trường Đà Lạt, từ là một Trung đội trưởng của Trung đoàn 8 BB mà Trung Tá Lê Nguyên Vỹ là Trung đoàn trưởng, rồi lên dần đến Tiểu đoàn Trưởng của SĐ5BB và Đại Tá Lê Nguyên Vỹ là Tư Lệnh Phó, cuối cùng là Tư Lệnh SĐ5BB.

    Nói như vậy, tôi chắc chắn chỉ có thể viết một phần nào về con người làm việc của Tướng Vỹ qua những lần tiếp xúc với ông, nhận lệnh và thi hành lệnh của ông, c̣n cuộc đời riêng tư của ông tôi hoàn toàn không biết ǵ cả. Tuy thế viết đến những ḍng chữ này, tôi cảm thấy rất hănh diện v́ đă có thời gian thật dài làm việc dưới quyền Tướng Vỹ và tri ơn ông, bởi ông là người giới thiệu tôi đi làm Quận Trưởng Quận Phú Giáo, Tỉnh B́nh Dương. Hơn thế nữa ông lại thường hănh diện xác nhận với nhiều người trước đây rằng chính ông là người từng chỉ huy tôi từ lúc tôi mới ra trường, làm Trung đội trưởng của Trung đoàn 8BB, mỗi khi ông có dịp nói một điều ǵ về tôi. Tôi không hănh diện sao được khi tôi được phục vụ dưới quyền của một vị Tướng Anh Hùng, của một Trần B́nh Trọng, của một Nguyễn Tri Phương bất khuất trước quân thù, lấy thân ḿnh để đền nợ nước!

    VÀI NÉT ĐÁNG GHI NHẬN TỪ TƯỚNG VỸ

    Tướng Vỹ là người trực và nóng tính, hăng say làm việc và học hỏi. Ngoài Việt Cộng là kẻ thù không đội trời chung với Tướng Vỹ, về phía Quốc Gia chắc cũng có một số người không thích ông, có thể cả ngay bây giờ là lúc tôi đang viết về ông đây. Tuy nhiên đây cũng phản ảnh được ư ông là nặng thà để người ta ghét, nhưng ông không bao giờ muốn người ta khinh ông.

    Tướng Vỹ nói giỏi hai ngoại ngữ Pháp và Anh văn, sau này ông học thêm chữ Trung Hoa, nhưng ông chỉ biết đọc, viết mà không nói được. Ông học theo lối học chữ Nho của các cụ ta hồi xưa. Ông kể lại cho tôi nghe, khi được Quân Đoàn 3 cho qua Đài Loan du lịch, mỗi khi vào tiệm ăn ông phải viết lên giấy các món ăn. Ông có công đầu trong trận An Lộc vào mùa hè đỏ lửa 1972, chính tay ông đầu tiên đă dùng súng M72 bắn chặn đứng được chiến xa của VC tấn công vào An Lộc, kích động lại tinh thần chiến đấu của các đơn vị tham chiến VNCH lúc bấy giờ. Trước khi Tổng Thống Thiệu lên An Lộc, Tướng Vỹ được trực thăng bốc về Lai Khê để được thưởng “du ngoạn Đài Loan”. C̣n việc lên lon, gắn Bảo Quốc Huân Chương hoặc các huy chương khác phải nhường lại cho những người khác. Nghe nói Tướng Vỹ không được gặp Tổng Thống Thiệu v́ ông không nằm trong “BĂNG” lúc bấy giờ. Trước khi được trực thăng bốc về Lai Khê, Tướng Vỹ có ghé thăm chỗ đóng quân của tôi, tôi có con gà làm cơm mời ông ăn cơm trưa. Cũng v́ bữa cơm tiễn chân ông mà tôi bị người ta gán cho là thuộc “BĂNG” Đại Tá Vỹ lúc bấy giờ. Tuy nói ông là người trực và nóng tính, nhưng sau vụ khen thưởng bất công của Tông Thống Thiệu tại An Lộc, ông không hề bày tỏ ư kiến bất măn hoặc chê bai ai cả, ông coi như không có ǵ xảy ra. Ông lại tỏ ra rất vui và hănh diện khi có người vẽ tặng ông một bức tranh mô tả ông đang dùng súng M72 ngắm bắn chiến xa VC tại mặt trận An Lộc.

    Ông dùng nhiều thời giờ vào việc nghiên cứu các trận đánh hoặc học chữ Nho. Tướng Vỹ thường khuyên tôi cần phải ghi danh học Đại học để có bằng cấp, sau này nếu tôi có làm lớn không bị chê là vơ biền. Tôi theo lời khuyên của ông nên bắt đầu trở lại học college vào tuổi 50 ở đất Mỹ này, thời gian trong tù VC tôi cũng dấu sách học tiếng Trung Hoa để đọc được chữ Tàu, nhưng tôi cũng giống ông làm “Tàu câm”, v́ tôi cũng không học nói tiếng Trung Hoa.

    Tướng Vỹ rất thích người nào thực sự làm việc, c̣n người nào hay báo cáo láo, thoạt đầu ông có thể tin, nhưng nếu sau ông khám phá ra là báo cáo giả th́ người báo cáo rất khó làm việc với ông. Bởi trong buổi họp nào những người lười biếng hay báo cáo láo thường được ông đưa ra làm ví dụ để răn đe những người khác.

    Tướng Vỹ có trí nhớ rất dai, nhất là những lệnh ông đă ban ra, ông luôn theo dơi việc thi hành lệnh ra sao của thuộc cấp. Trước khi ông đề cử tôi đi làm Quận Trưởng Phú Giáo, ông đă bí mật gọi những người tôi cho về phục vụ ở trại gia binh Trung đoàn 8. Tôi c̣n nhớ khi ông c̣n làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 8BB, Đại Tá Vỹ đă có văn thư gửi cho các Đại đội của Trung đoàn, chọn 3 hoặc 4 người lính tốt, đă từng bị thương ở chiến trận được ưu tiên về phục vụ tại trại gia binh của Trung đoàn ở B́nh Dương. Tôi được những người lính mà tôi đă cho về phục trại gia binh (theo lệnh của Tướng Vỹ) khoảng 7 năm trước đó, nói lại rằng đích thân tướng Vỹ gọi từng người vào đập bàn, đập ghế để cướp tinh thần họ và hỏi xem những người này đă phải nộp cho Thiếu Tá Hải (lúc đó tôi là Trung úy Hải, ĐĐT Đại đội 5/TĐ2/8) bao nhiêu tiền để được về phục vụ tại trại gia binh? Giả thử tôi đă không đứng đắn trong việc thi hành lệnh của ông cách đó 7 năm, th́ bao nhiêu cố gắng trước của tôi cũng coi như đổ biển hết. Khi đụng trận, ông thường xuyên mở máy theo dơi tới cấp Trung đội, Đại đội để xem chúng tôi điều động quân như thế nào. Làm việc dưới quyền ông, các đơn vị phải luôn sẵn sàng ở vị trí chiến đấu, mọi bất cNn gây thiệt hại cho binh sĩ, đơn vị đều không được chấp nhận. Khi thăng thưởng cho thuộc cấp Tướng Vỹ cũng làm hết ḷng ông và nhất là không đ̣i hỏi một điều kiện ǵ, tiền bạc hoặc quà cáp chẳng hạn. Với ông muốn lên lon, lên chức nhanh th́ điều kiện duy nhất là phải làm việc giỏi và đánh giặc giỏi.

    Tướng Vỹ là cấp chỉ huy về chiến thuật rất giỏi ông thường nghĩ cách đánh lừa địch dễ như chơi. Kế hoạch rút quân khỏi B́nh Long của ông đă chứng tỏ ông có khả năng vẹn toàn chỉ huy từ tấn công đến lui binh. Sau cuộc rút quân đầy máu và nước mắt tại Đại lộ KINH HOÀNG của Quân khu 2, nhiều người lầm tưởng rằng các cấp chỉ huy chiến thuật của Quân Lực VNCH chỉ biết chỉ huy tấn công mà không biết rút quân. Cuộc rút quân khỏi B́nh Long của Tướng Vỹ là câu trả lời đích đáng cho những lời nhận xét sai lầm trên. Theo lệnh của Tướng Vỹ, cuộc rút quân khỏi B́nh Long đă được giữ bí mật cho đến lúc hoàn tất. Sự liên lạc của các đơn vị qua máy truyền tin được đặc biệt giới hạn, mă hóa. Trong khi rút quân, trực thăng vẫn ồ-ạt chuyên chở những khẩu súng pháo binh và đạn dược vào B́nh Long. Những ổ quan sát của VC quanh B́nh Long chắc chắn đă thông tin cho cấp chỉ huy của chúng là B́nh Long đang được tăng viện quân và vũ khí, đạn dược, cho đến khi VC biết được sự thật B́nh Long đă bị bỏ trống th́ đă muộn. Bởi v́ những khẩu pháo binh trực thăng vận vào B́nh Long kia toàn là súng giả làm bằng giấy!

    Tôi xin kể thêm một trận đánh rất ngoạn mục ở Phú Giáo, cũng nói lên tài đánh lừa địch của Tướng Vỹ. Khi tôi mới về làm Quận Trưởng Phú Giáo được khoảng một tháng th́ VC mở một cuộc tấn công đại quy mô vào Phú giáo và Bến Cát, tỉnh B́nh Dương. Tướng Vỹ đoán biết trước được ư định của địch quân, nên ông đă bí mật dấu 6 khẩu pháo binh trong vườn mía tại Tân Hưng, xă Tân B́nh của Phú Giáo. Khi VC mở ồ- ạt hai mũi tấn công, một vào quận Bến Cát do SĐ18BB trách nhiệm, một vào Phú Giáo (ngay cầu sông Bé). Quận Bến Cát bị VC tràn ngập xă An Điền, c̣n đơn vị giữ cầu sông Bé của tôi cũng đang hấp hối gọi tôi xin pháo binh bắn yểm trợ ngay trên đầu họ. Các ổ pháo binh của Phú Giáo, B́nh Dương và ngay cả ở Lai Khê của SĐ5 hầu như bị tê liệt, bởi các khẩu pháo của VC (VC bao giờ cũng nghiên cứu kỹ vị trí pháo binh của ta trước các trận đánh) đang bắn dữ dội khóa họng các ổ pháo của ta.

    Trong giây phút thập tử nhất sinh, VC đă tràn lên cầu sông Bé, Tướng Vỹ đă ra lệnh 6 khẩu pháo binh dấu tại Tân Hưng (không nằm trong danh sách phải khóa họng của VC) đồng loạt khai hỏa hàng ngàn quả lên đầu giặc đang xung phong lên chiếm cầu. Trận đánh này tôi cũng phải “liều thân tranh đấu”, mặc thường phục lẫn lộn với đám dân chạy loạn, lọt được vào cầu sông Bé để tô chức lại đơn vị Địa Phương Quân giữ cầu đang hấp hối ở đây, mà sau đó Tướng Vỹ đă gọi máy nói đùa với tôi rằng “Tao nghe mày xuống cầu sông Bé để sắp xếp lại đơn vị, tao sợ cho mày mà muốn đái cả ra quần” (xin chân thành cáo lỗi với độc giả v́ đă trích lời nói tục của Tướng Vỹ,). Tướng Vỹ không thích văng tục, cọc cằn như các cấp chỉ huy khác, nhưng ông thích nói tiếu lâm, đôi khi tiếu lâm của ông cũng hàm ư châm biếm nhẹ.

    THÊM VÀI KỶ NIỆM VỚI TƯỚNG LÊ NGUYÊN VỸ.

    Tháng 7 năm 2006, tôi và bà xă cùng con gái, cháu trai ngoại tôi qua Nam Cali dự Đại hội Vơ Bị Đà Lạt K21. Nhân dịp này tôi đă được gặp một Niên Trưởng cấp Tướng, là Trung đoàn trưởng cũ của tôi. Gặp ông ở chung một khu khách sạn, mới đầu ông không nhận ra tôi, nhưng sau khi tự giới thiệu th́ ông mới nhớ ra và nói với mấy người bạn cùng khóa của tôi rằng “anh Hải cũng là người hùng ở trận An Lộc đấy”. Sau khi nghe ông nói vậy, tôi thật chẳng có tí phản ứng hănh diện ǵ cả, bởi đó chỉ là câu nói xuông, “great, wonderful” của người Mỹ. Tuy không được vui lắm với câu khen xuông của ông, nhưng tôi vẫn điềm tĩnh, xin phép ông chạy vào pḥng gọi bà xă tôi ra để chào ông cho đủ lễ nghĩa của một đàn em đối với đàn anh. Sau vài câu giới thiệu và chào hỏi xă giao, không hiểu ngẫu hứng làm sao, ông lại nói một câu rất là trịch thượng, câu nói của một người có quyền uy thuở trước, chắc để lấy le với vợ tôi chăng?: “Khi c̣n là Tư lệnh Sư Đoàn, tôi thấy Tiểu đoàn trưởng nào làm lâu rồi, tôi đều cho đi làm Quận Trưởng”. Đến lúc này th́ tôi muốn nhịn cũng không nổi rồi, định mở miệng hỏi ông một câu cho ra lẽ. Nhưng chợt liếc thấy vợ tôi nháy mắt ra dấu im; tôi lại đành câm miệng hến – chắc do bản tính sợ vợ của tôi – bởi vợ tôi không muốn tôi phá vỡ cảnh gặp gỡ thân mật này!

    Đến khi vào pḥng vợ tôi hỏi tôi: “lúc năy anh muốn nói ǵ mà mặt mày anh đỏ gay lên vậy?” Tôi trả lời: “anh định hỏi ông ta rằng cho đi làm Quận Trưởng như vậy có phải đóng tiền không?”

    Qua đất Mỹ này từ năm 1991, tôi rất ít khi đi dự hội hè, tiệc tùng ǵ. Ngoài mấy kỳ đi dự Đại hội khóa, tôi chỉ có hai lần theo chân vợ đến nhà hai người bạn học Trưng Vương cũ của vợ tôi để ăn cơm thân mật bạn bè và tân gia. Nhưng cả hai lần mỗi khi chủ nhà giới thiệu đến tôi và nhắc rằng trước đây tôi đă làm Quận Trưởng th́ đều bị các thực khách khác cười ồ lên, có người c̣n muốn làm bẽ mặt tôi hơn bằng cách đặt câu hỏi:“Tôi hỏi thật anh Hải đi làm Quận Trưởng trước đây, anh phải đóng hụi chết bao nhiêu tiền vậy?”

    Đối với những câu hỏi móc ḷ, tôi luôn điềm tĩnh trả lời rất gọn:” Đất nước ḿnh trước đây thực sự có việc mua quan bán tước, nhưng cũng có những trường hợp không phải mua, đâu phải ai cũng giống ai”.

    Có vài thực khách không tin vào câu trả lời của tôi nên đă mạnh dạn kể đích danh những người đi làm Quận Trưởng phải hối lộ cho các Tỉnh Trưởng, Tư lệnh Sư đoàn, Quân đoàn như thế nào và bao nhiêu?

    Tôi c̣n nhớ rơ, một ngày của tháng 3 năm 1974, tôi đang dẫn tiểu đoàn hành quân trong rừng, anh lính truyền tin Tiểu đoàn dừng lại và đưa ống nghe cho tôi để nói chuyện với Trung đoàn trưởng, Trung Tá Vuợng.

    Trung Tá Vượng qua máy truyền tin nói với tôi:”báo cho Hải một tin mừng là Tư Lệnh Sư đoàn chọn Hải đi làm Quận Trưởng”

    Thay v́ tôi phải hỏi lại ông là cho tôi đi làm Quận Trưởng quận nào, tôi lại đặt điều kiện với Trung Tá Vượng rằng:”cho tôi đi làm th́ tôi làm, nhưng tôi xin nói trước là tôi không có tiền bạc đóng góp đâu nhé”

    Nghe tôi nói vậy, Trung Tá Vượng hét lên trong máy:” ông Tư Lệnh nếu mở tần số này và nghe mày nói thế này, th́ mày sống không nổi với ông ấy đâu”

    Tôi nhấn mạnh thêm lần nữa:”tôi nói thật là tôi không có tiền đâu”

  4. #14
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Chuẩn Tướng LÊ NGUYÊN VỸ

    Trung Tá Vượng muốn nổi điên, hét to hơn nữa trong máy:”không có tiền bạc ǵ cả”. Rồi ông cúp máy không thèm nói chuyện với tôi nữa. Như vậy trong ngày đầu tiên được đề cử đi làm Quận Trưởng, tôi chưa biết ḿnh sẽ đi coi quận nào nữa. Vài ngày sau được trực thăng bốc về BCH Trung đoàn, lúc đó tôi mới biết tôi được đề cử đi coi quận Phú Giáo. Trước khi lên đường đi nhận nhiệm vụ mới, tôi c̣n đặt điều kiện với Trung đoàn trưởng là phải cho Đại Úy Lạc khóa 22 Đà Lạt, đàn em của tôi được thay tôi, nếu không tôi sẽ không đi làm Quận Trưởng.

    Đó là sự thực việc tôi được cử đi làm Quận Trưởng quận Phú Giáo. Hôm nay tôi cũng xin thành thật xin lỗi Tướng Vỹ v́ đă nghi oan sự đứng đắn của ông khi đề cử tôi đi làm Quận Trưởng. Tôi nghĩ rằng hôm nay tôi xin lỗi ông chắc ông mới biết, bởi v́ Trung Tá Vượng cũng thương tôi nên chẳng bao giờ tiết lộ cho ông biết về những phản ứng vô lễ của tôi khi Trung Tá Vượng thông báo tin vui cho tôi.

    Tôi là người biết Tướng Vỹ mà c̣n nghi oan sự đứng đắn của ông, huống hồ ǵ những người khác, nhất là những người không thích ông. Bởi v́ ngay khi tôi về làm Quận Trưởng Phú giáo được khoảng một hoặc hai tháng th́ Bộ Tổng Tham Mưu đề cử một vị Đại Tá xuống điều tra tôi ngay. Tôi gặp phái đoàn điều tra tại hậu cứ Trung đoàn 9, Sư đoàn 5BB. Vị Đại Tá điều tra đă nói với tôi rằng:

    - Có người đă viết đơn tố cáo ông Tư Lệnh Sư đoàn 5BB cho Thiếu Tá Hải đi làm Quận Trưởng để làm kinh tài cho ông. Vậy Thiếu Tá Hải hăy khai thật anh đă nộp cho ông Vỹ bao nhiêu tiền để được đi làm Quận Trưởng và đă kiếm được bao nhiêu tiền cho ông Vỹ rồi.

    Tôi đề nghị ngay với vị Đại Tá điều tra:” Tôi mới về làm Quận Trưởng, nếu đă đóng tiền cho ông Vỹ chắc chắn bây giờ tôi chưa kiếm đủ vốn. Vậy tôi đề nghị Đại Tá hăy cho ngưng chức tôi để công việc điều tra của Đại Tá được dễ dàng, nếu không có thể tôi lại dùng quyền hành ngăn cản việc khai báo của những thuộc cấp dưới quyền tôi.

    Sau khi nghe tôi tự nguyện xin thôi việc, vị Đại Tá lập tức hủy bỏ cuộc điều tra!

    Không biết tôi có chủ quan hay không, nhưng tôi có cảm tưởng Tướng Vỹ có khuynh hướng muốn huấn luyện tôi thành một sĩ quan hiện dịch mỗi ngày được hoàn hảo hơn. Những lúc được rảnh rỗi qua thăm ông, ông thường bảo tôi ở lại ăn cơm với ông, trong bữa cơm ông thường nói cách đ́ều quân của ông cho tôi nghe và học hỏi, ông bắt tôi đặt câu hỏi hoặc ông hỏi tôi. Nếu tôi trả lời đúng ư ông th́ ông gật- gù rất thích thú. Ông cũng muốn những vị sĩ quan quanh ông mến tôi, nên ông thường khen tôi trước mặt họ: “Hải là vua ḿn bẫy”, ông kể cho người khác nghe cách phục kích ḿn bẫy của tôi từ khi tôi c̣n là Đại đội trưởng, có tuần tổng số VC bị Đại đội 5 của tôi giết c̣n hơn cả tổng số Trung đoàn giết VC. Khi về làm Quận Trưởng, tôi xử dụng toán thám báo quận phục kích đặt ḿn phá hủy được 2 hoặc 3 chiếc xe vận tải chở vũ khí, tiếp liệu của VC trong mật khu Rang-Rang, ráp danh với tỉnh Long Khánh, ông cho trực thăng đón tôi qua gặp ông ngay sáng sớm.

    Trong bữa điểm tâm, ông nói với tôi:”Moa nghe toa không muốn làm Quận Trưởng nữa, nếu toa về lại Sư đoàn moa sẽ để toa làm Trung đoàn trưởng hoặc Trung đoàn phó”. Tôi lúc bấy giờ là thằng háo danh, nghe “Trung đoàn trưởng” th́ vừa tai, nhưng nghe tới “Trung đoàn phó” th́ tôi thối lui ngay. Nhưng tôi chỉ cười, không tỏ ư muốn hay không muốn về lại Quân đội. Lúc đó tôi nghĩ mà không nói ra rằng “thời gian làm phó của Thiếu Tướng trước kia đă mai một tên tuổi của Thiếu Tướng, sao ông lại c̣n muốn tôi về Sư đoàn 5 để làm Trung đoàn phó”. Mặc dầu tôi biết nếu tôi về làm Trung đoàn phó cho Trung Tá Vượng, Trung đoàn Trưởng Trung đoàn 7 th́ chẳng bao lâu tôi cũng sẽ được thay Trung Tá Vượng. Trung Tá Vượng theo tôi được biết đang chờ lên Đại Tá vào ngày Quân Lực 19 tháng 6 năm 1975 để đi giữ một nhiệm vụ mới, tốt hơn. Trung Tá Vượng sống được ḷng Tướng Vỹ và nhiều người khác. Trung Tá Vượng cũng muốn giao Trung đoàn cho tôi khi ông đi, nên đă nhiều lần ông hỏi ư tôi, phân tích thiệt hơn cho tôi nghe.

    Như trên tôi không về lại Sư đoàn 5 là do “tính háo danh” của tôi, ngoài ra c̣n một lư do chính đáng nữa mà Tướng Vỹ và Trung Tá Vượng chắc không để ư đến đó là vào giờ phút cuối cùng của cuộc chiến Việt Nam, tôi thực sự không muốn giao Quận Phú Giáo cho ai cả.

    Tôi biết trước sẽ có cuộc rút quân ra khỏi Phú Giáo, nêú tôi giao lại cho một người mới đến điều động quân (gồm 3 Tiểu đoàn Địa Phương Quân, mấy chục Trung đội Nghĩa Quân, Cảnh Sát, Nhân Dân Tự Vệ…, tất cả đều trang bị súng), chỉ một sơ suất nhỏ cũng đưa đến hỗn loạn, vô chính phủ, không tránh khỏi những đổ vỡ tang thương, chẳng khác chi Đại lộ Kinh Hoàng miền Trung!

    Lại nữa đă có những dấu hiệu nổi loạn trong các đơn vị, tôi phải ra tay dập tắt. Tôi xin nói thêm, các Tiểu đoàn Địa Phương Quân tuy đă thành lập thành Liên đoàn, nhưng vẫn chịu sự điều động tác chiến trực tiếp của tôi và tôi chỉ can dự vào việc điều động tác chiến, không hề xen vào hoạt động nội bộ của các Tiểu đoàn trong Liên đoàn ĐPQ 935. Tôi nhớ Thiếu Tướng Ân Tư Lệnh Phó Quân Khu 3, có lần thăm Phú Giáo đă ra lệnh cho tôi hăy chờ khi nào các Tiểu đoàn Địa Phương Quân phát lương, tôi hăy xuống bất chợt kiểm soát t́nh trạng lính ma, lính kiểng của các Tiểu đoàn ấy ra sao và cho ông biết. Tuy tôi dạ vâng để Thiếu Tướng Ân vui ḷng nhưng tôi đă không thi hành, bởi thi hành theo lệnh của ông tôi sẽ đụng chạm rất nặng, chỉ từ chết đến bị thương cho tôi, nên tôi chẳng dại ǵ mà húc đầu vào tường đá. Các Tiểu đoàn trưởng của Liên đoàn 935 Địa Phương Quân tỉnh B́nh Dương vẫn nhất mực tin ở tôi và tuân lệnh của tôi vào thời điểm thập tử nhất sinh của cuộc chiến Việt Nam. (Nếu có cơ hội tôi sẽ viết một bài nói về cuộc rút khỏi Phú Giáo của Quân và Dân Phú Giáo do tôi điều động).

    Tướng Vỹ có đầu óc rất thực tế như người Mỹ vậy, dù tin ai nhưng vẫn phải kiểm soát (đặt camera, máy nghe lén …)!Có lần tôi phải đi họp ở Tỉnh, ông đáp trực thăng ghé ngay Quận Phú Giáo và vào chỗ ăn ngủ của tôi để kiểm soát sự sinh hoạt hàng ngày của tôi. Tôi không hề buồn ông, bởi tôi nghĩ rằng nặng thà để ông biết rơ mọi việc tôi làm c̣n hơn để ông nghi ngờ. Tôi chấp nhận như thế, nên khi người lính trong quận báo cáo cho tôi biết Tướng Vỹ mới ghé quan sát pḥng ốc của tôi khi tôi đi họp ở Tỉnh th́ tôi vẫn vui vẻ như thường. Tướng Vỹ rất ghét đóng kịch, ai kiếm được súng ở đâu mà lập trận giả để báo cáo chiến công, giết VC, thu vũ khí th́ ông khám phá ra ngay. Tướng Vỹ rất thông hiểu thuộc cấp, hiểu rơ tính nết của mỗi cấp chỉ huy trực thuộc. V́ Tướng Vỹ hiểu rơ về thuộc cấp nhiều quá mà bị một số người không thích ông chăng?

    Có một vị Trung đoàn Trưởng của Sư đoàn 5BB, trước ngày miền Nam mất, đến thăm và than với tôi rằng ông không hiểu Tướng Vỹ muốn ǵ mà mỗi lần Tướng Vỹ xuống thăm đơn vị của ông, tướng Vỹ luôn la rầy, giận dữ ông. Vị Trung đoàn Trưởng này (rất thân với tôi) nhờ tôi rà xem (như rà ḿn vậy) Tướng Vỹ muốn ǵ để ông lo. Tôi thực t́nh cũng chịu thua chẳng biết Tướng Vỹ muốn ǵ nữa. Tiện đây tôi xin thành thực xin lỗi vị Trung đoàn Trưởng trên v́ tôi đă nói ra điều này. Tôi không muốn ám chỉ Trung Tá thích đút lót, hối lộ mà chỉ muốn nói lên nỗi buồn phiền, trách móc của Trung Tá khi Trung Tá đă làm hết bổn phận rồi mà sao Tướng Vỹ vẫn không được hài ḷng. Tôi biết đến giờ này Trung Tá vẫn c̣n giận Tướng Vỹ lắm. Thôi hăy bỏ qua chuyện cũ đi, Trung Tá! Tôi biết Trung Tá rất thương tôi và tin tôi nên tôi mới dám đề nghị Trung Tá bỏ qua chuyện cũ để cùng tôi ca tụng một vị Anh Hùng của Quân Lực VNCH, nào mấy ai có thể làm được như ông. Tôi c̣n nhớ măi, hôm tôi và Trung Tá ngồi chung trong hội trường của trại tù VC ở Cát Lái (Trường Quân Khuyển cũ) – lúc đó chỉ có tôi và Trung Tá – Trung Tá đă lớn tiếng và lấy tay chỉ vào mặt ảnh thằng Hồ Chí Minh treo trên hội trường mà nguyền rủa nó thậm tệ; v́ nó mà dân tộc Việt Nam điêu linh thống khổ, không cất đầu lên được. Tôi biết Trung Tá làm vậy để cho bơ cơn giận với thằng khốn nạn Hồ Chí Minh, nhưng ít nhất Trung Tá cũng phải tin và thương tôi nên Trung Tá mới dám ngang nhiên xỉ vả nó chứ.

    Bởi nhỡ tôi bán đứng Trung Tá bằng cách đi báo cáo cho VC, lập công với chúng th́ sao, phải không Trung Tá? Tôi biết ông vẫn c̣n tin và thương tôi, vậy Trung Tá hăy nghe đàn em bỏ qua những chuyện cũ đi nhé!

    KỶ NIỆM SAU CÙNG NHƯNG MĂI MĂI VỚI TƯỚNG VỸ.

    Vào năm 1973, tôi thường có dịp gặp Tướng Lê Nguyên Vỹ, lúc bấy giờ ông c̣n là Đại Tá Tư Lệnh Phó Sư đoàn 21BB cho Tướng Lê Văn Hưng. Tôi được tṛ chuyện hàn huyên với ông nhiều nhất vào thời gian ông bị thương nằm tại Tổng Y Viện Cộng Ḥa v́ máy bay quan sát chở ông bị rớt trong khi ông đi quan sát mặt trận tại vùng 4 chiến thuật. Một điều mà ông thường nhắc đi nhắc lại trong các lần tôi nói chuyện với ông là “Hải ơi, coi chừng ḿnh sẽ bị mất nước đó”. Lúc bấy giờ tôi chỉ biết lắng nghe mà không bày tỏ một ư kiến nào. Có thể tôi chưa có khái niệm ǵ về sự mất nước cũng như hậu quả của nó chăng? Cũng có thể tôi là một cấp chỉ huy chiến thuật rất tự tin vào ḿnh và đơn vị, nên tôi không bao giờ lại tin là Quân Lực VNCH sẽ thua quân VC để đến nỗi phải mất nước. Nhưng dần dà tôi cũng đă thấy được cuộc chiến VN không được quyết định bằng các trận đánh thắng của Quân lực VNCH ngoài mặt trận và tôi cũng đă linh cảm miền Nam khó giữ được đất đai vẹn toàn. Vào những ngày tháng cuối cùng của cuộc chiến VN, tuy biết miền Nam sẽ thua nhưng tuyệt nhiên tôi không có một ư định nào bỏ trốn khỏi đơn vị để kiếm sự an toàn cho bản thân và gia đ́nh. Những lời khuyên bảo của anh chị ruột tôi, các em gái tôi, phải bỏ đơn vị về Sài G̣n để trốn khỏi VN, đều bị tôi để ngoài tai.

    Tướng Vỹ ít nhất hai hoặc ba lần nói với tôi hăy t́m cách lo cho vợ con đi an toàn, c̣n tôi hăy ở lại chiến đấu với đơn vị.

    Khoảng hơn một tuần lễ trước khi mất nước, Tướng Vỹ cho trực thăng đón tôi qua Lai Khê để gặp ông bàn việc. Trong khi tṛ chuyện ông thường nhắc đi nhắc lại là đến giờ này Tổng Thống Thiệu vẫn c̣n cố chấp, không chịu nghe lời ai cả. Gặp Tướng Vỹ xong, ra đến băi đậu trực thăng, hai sĩ quan lái trực thăng cho Tướng Vỹ nói với tôi rằng tôi hăy cố thuyết phục Tướng Vỹ để cho họ chở Tướng Vỹ và tôi ra Đệ Thất Hạm Đội. Hai vị Sĩ quan không quân c̣n nhấn mạnh rằng mọi người đang lo chạy trốn cả rồi Tướng Vỹ và tôi c̣n đánh làm ǵnữa. Tôi chỉ gật-gù cảm ơn ḷng tốt của họ và không nói thêm ǵ cả. Hai vị Sĩ quan này chắc nghĩ tôi thân với Tướng Vỹ, nên tôi có thể thuyết phục được ông, nhưng tôi lại nghĩ rằng tôi đă không muốn bỏ chạy th́ tôi dại ǵ lại đi thuyết phục người khác hăy bỏ chạy để bỏ tôi ở lại một ḿnh. Hơn nữa tôi cũng biết Tướng Vỹ đă quyết định đánh đến cùng rồi. Về đến quận, vừa ngả lưng nghỉ mệt, người lính gác cổng chạy vào báo cô Quư, em gái ruột tôi từ Sài G̣n lên muốn vào gặp tôi. Tôi căn dặn người lính gác ra nói dối với em tôi rằng tôi đi họp chưa về. Tôi đoán biết Mẹ tôi cho cô em tôi lên thúc tôi bỏ quận để về Sài G̣n lo việc chạy trốn khỏi Việt Nam.

    Tuy tôi đă quyết định ở lại chiến đấu cùng đơn vị, nhưng tôi nghĩ rằng tôi cũng cần phải lo cho vợ con tôi, nên ngày 27 tháng 4 năm 1975 tôi quyết định về Sài G̣n thăm gia đ́nh như lời khuyên của Tướng Vỹ trước đây.Thực sự buổi về Sài G̣n này tôi đă chỉ dám ghé nhà bố mẹ vợ tôi tại đường Nguyễn Bỉnh Khiêm để khuyên vợ tôi hăy mang hai con tôi bám theo mẹ, anh và các em gái tôi mà chạy khỏi VN. Tôi trở về Phú Giáo ngay trưa hôm 27 tháng 4, không dám ghé đường Lê Văn Duyệt gặp mẹ, bởi tôi biết mẹ tôi sẽ bất cứ giá nào giữ tôi ở lại Sài G̣n để cùng gia đ́nh chạy trốn. Tôi đă tự lựa chọn con đường cho tôi đi, mặc dù tôi biết con đường này không có lối thoát! Nhưng tôi không thể bỏ trốn mọi người quân cũng như dân Phú Giáo, mọi người đang trông chờ sự dẫn dắt khéo léo của tôi để may ra được thoát chết trong giờ phút tuyệt vọng của cuộc chiến.

    Sáng 30 tháng 4 năm 1975, tôi hoàn toàn mất liên lạc với tỉnh B́nh Dương! Tôi nói với Thiếu Tá Hùng Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 306 Địa Phương Quân hăy cố gắng đánh mở đường đưa tôi về tỉnh, v́ tôi đă mất liên lạc với Đại Tá Của, Tỉnh trưởng B́nh Dương. Khoảng nửa giờ sau đó, Thiếu Tá Hùng cho tôi biết phía trước đường tiến quân có một cái chốt cấp Đại đội của VC chặn đường. Tôi nhất quyết ra lệnh cho Thiếu Tá Hùng phải vượt qua chốt VC. Thiếu Tá Hùng đă phải vượt lên tuyến đầu để chỉ huy đánh chốt VC. Chừng nửa giờ quyết chiến, Thiếu Tá Hùng báo cáo Tiểu đoàn tràn ngập chốt của VC. Tôi liền ra lệnh toàn thể các đơn vị kéo quân về hướng Ḥa Lợi 2 và tiến về B́nh Dương. Khốn nỗi thay! Đồng thời lúc đó một anh lính đưa cho tôi nghe lệnh đầu hàng qua một radio nhỏ cầm tay của Tổng Thống Dương Văn Minh và Chuẩn Tướng Nguyễn Ngọc Hạnh, tự xưng là Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH. Tôi bàng hoàng, nước mắt ràn-rụa, nói với mấy người lính đứng bên cạnh:”thôi chúng ḿnh mất nước rồi”! Tôi c̣n nhớ hôm bố tôi chết vào dịp Tết Mậu Thân 1968, khi VC đánh vào tỉnh Phan Thiết, tôi cũng không khóc nhiều như thế. Nước mắt ở đâu cứ ràn -rụa đổ ra! Nhưng chỉ ít phút sau tôi lấy lại được b́nh tĩnh và đang đự định lấy tần số liên lạc với Bộ Tư Lệnh Sư đoàn 5, th́ Trung Tá Vượng Trung đoàn trưởng Trung đoàn 7 kéo bộ chỉ huy đến và bảo tôi cùng kéo quân về Lai Khê gặp Tướng Vỹ để nhận lệnh.

    Đến hàng rào căn cứ Lai Khê, Trung Tá Vượng và tôi phải cố gắng thuyết phục những người lính gác ở đây mới lọt được vào cổng của căn cứ, v́ đă có lệnh “nội bất xuất, ngoại bất nhập” của Tướng Tư Lệnh Sư đoàn 5.

    Vừa bước vào pḥng họp, tôi thấy hầu hết các sĩ quan thuộc Bộ Tư Lệnh Sư đoàn 5 đang đứng, ngồi quanh Tướng Vỹ, nào Đại Tá Tường Phụ tá Hành Quân, Pháo binh, các sĩ quan tham mưu, tôi không thấy Đại Tá Thoàn Tư Lệnh Phó và Đại Tá Từ Vấn Tham mưu Trưởng Sư đoàn. Tướng Vỹ ngồi ngay giữa một chiếc bàn nhỏ, trên bàn là bát canh măng khô nấu với vịt, bên cạnh là chén nước mắm ớt. Sau khi tôi và Trung Tá Vượng chào ông theo đúng quân cách, Tướng Vỹ nói:

    - Vượng, Hải vào ăn cơm luôn thể – Giọng nói của ông vẫn khàn khàn, b́nh thản như mọi khi. Tuy không nói ra nhưng tôi thấy ngán-ngẫm và nghĩ trong đầu:”Trời ơi! Giờ này c̣n ăn uống ǵ nữa”

    Sau khi mời chúng tôi xong, Tướng Vỹ tự cầm chén lên xới cơm, chan canh măng vịt và ăn rất nhanh như người bị đói đă lâu. Vừa ăn ông vừa nói:”món măng khô nấu vịt là món moa thích nhất”. Ăn đúng ba chén cơm đầy ông mới buông đũa. Tôi cũng cầm chén ăn cơm, nhưng không sao nhai nổi lưng chén cơm. Tướng Vỹ, sau khi uống ngụm nước cho trôi cơm, ông đứng phắt dậy và vẫy tôi ra một chỗ để nói riêng. Nhưng tôi hỏi ông trước: -Thiếu tướng có lệnh ǵ cho tôi không?

    Ông đáp rất gọn:”Moa lo cho moa, toa lo cho toa”

    Tôi chưng hửng đáp:”Tôi biết lo làm sao bây giờ, Thiếu tướng. Lính của tôi đă bố trí sát hàng rào Lai Khê rồi”

    Khoảng hơn một tháng trước 30 tháng 4 năm 1975, Tướng Vỹ có dặn tôi hăy chuẩn bị một số người lính trung thành để đưa ông và tôi đi. Tôi đoán biết sẽ đi Vùng 4 Chiến Thuật để tiếp tục chiến đấu, v́ ở đó có Tướng Hưng, Tướng Nam là những người Tướng Vỹ có thể tin tưởng được (Tướng Vỹ đă đă nhận định không sai chút nào, v́ hai Tướng Hưng, Nam cũng đều là những Tướng Anh Hùng, vị quốc vong thân!).

    Tướng Vỹ mỉm cười nh́n chằm-chặp vào tôi, nhắc lại y như trên một lần nữa và thêm:”Coi chừng tiêu đó Hải”. Nói xong ông quay lưng bỏ đi ngay.

    Câu trả lời của Tướng Vỹ đă làm tôi hoàn toàn thất vọng. Tôi có cảm giác bị bỏ rơi và nghĩ rằng:”hay Tướng Vỹ đă có trực thăng sẵn sàng bốc ông rồi!”. (Tôi lại nghi oan cho ông lần nữa). Không đầy một phút sau, tôi giật ḿnh v́ nghe có tiếng súng nổ. Tôi thấy Đại uư Nguyên tùy viên của Tướng Vỹ chạy ra nói lớn như khóc:”Tướng Vỹ đă tự sát rồi!”

    Tôi trách Đại Úy Nguyên:”Sao anh không t́m cách dấu súng của ông Tướng trước đi”

    Đại Úy Nguyên trả lời:”Tôi biết ông có 6 khẩu súng cả thảy, tôi đă dấu hết, khẩu ông dùng để tự sát, tôi không biết ông lấy ở đâu” .

    Viên đạn súng colt đă xuyên từ cổ lên đầu Tướng Vỹ làm ông ra đi ngay. Tôi và Trung Tá Vượng đă vào chào ông lần cuối. Cả hai chúng tôi sau đó đă bị VC bắt giữ và đi tù ngay cùng chiều hôm 30 tháng 4 năm 1975. Sau này tôi có nghe nhiều người nói rằng khi tên chỉ huy VC vào căn cứ Lai Khê thấy Tướng Vỹ tự sát đă tỏ ḷng khâm phục và nói:”Làm Tướng chết theo thành như Tướng Vỹ mới xứng đáng làm Tướng”.

    Tướng Vỹ đă tự sát đền nợ nước đúng ngày 19 tháng 3 năm Ất Măo (Âm Lịch), tức ngày 30 tháng 4 năm 1975 (Dương Lịch). Khi c̣n ở Việt Nam, dù c̣n ở trong nhà tù VC tôi đều t́m cách giỗ ông vào ngày 19 tháng 3 âm lịch mỗi năm. Nhưng khi qua đất Mỹ này rồi tôi sợ quên, nên tôi đổi ngày giỗ ông vào ngày 30 tháng 4 Dương Lịch mỗi năm. Sau đây là một bài thơ tôi đă làm để kỷ niệm những ngày tôi làm giỗ Tướng Lê Nguyên Vỹ:

    MĂNG KHÔ NẤU VỊT.

    Măng khô nấu vịt Bác không rời,
    Lời Bác, ḷng tôi luôn nhắc tôi.
    Ngày cuối tháng tư, tôi giỗ Bác,
    Lịch đầu năm măo, Bác chầu Trời.
    Tôi vui như lúc tôi c̣n Bác,
    Bác chết là khi Bác sống đời.
    Đốt nén hương thơm tôi khấn Bác,
    Măng khô nấu vịt, Bác về xơi.

  5. #15
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Chuẩn Tướng LÊ NGUYÊN VỸ

    Cuộc đời của tôi và biết bao các chiến hữu khác kể từ 30 tháng 4 đen, 1975 trở đi đă bước vào một khúc quanh mới của lịch sử Việt Nam, trong đó chúng tôi phải gánh chịu mọi gian nan, đọa đày, chết chóc trong bệnh tật, đói khát và hắt hủi của những tên lính bị tức tưởi thất trận mà có kể ra cho ai nghe đă mấy người tin rằng thật. Bởi có nhiều người đă mơ tưởng rằng sau khi im tiếng súng vào 30 tháng 4 năm 1975, hai miền Nam Bắc sẽ nhận ra cuộc chiến huynh đệ tương tàn đă kéo dài trong bao nhiêu năm chính là do các thế lực bên ngoài cố ư tạo ra cho dân Việt, để rồi anh em ôm nhau mà khóc trên cầu Bến Hải vĩ tuyến 17, cùng tha thứ cho nhau những nhầm lẫn đáng tiếc trong quá khứ và cùng nhau đoàn kết xây dựng lại quê hương Việt Nam đă đổ và rách nát v́ bom đạn, v́ những thứ chủ nghĩa ngoại lai, những mớ lư thuyết và giáo điều lỗi thời, không tưởng.

    Trái hẳn với các mơ ước viển vông trên của các sư, cha, những chính khách xôi thịt, thiển cận, v́ rằng sau màn chém giết là đến những màn trả thù độc ác và có hệ thống khác, cũng đầy dẫy những xác người, ràn-rụa nước mắt gây ra do đói khát, cướp bóc, tố khổ và phân ly.

    Hai cây cùng trồng nhưng mọc không đều, một cây mọc thật nhanh cao hơn hẳn cây bên cạnh mọc quá chậm; bây giờ muốn cho hai cây cao ngang bằng nhau, thay v́ phải dùng phân bón, vun xới cho cây mọc châm được mọc nhanh hơn, VC đă dùng một phương pháp thật là “cách mạng” để giải quyết vấn đề, đó là dùng dao chặt đứt phần ngọn của cây mọc nhanh cho ngang bằng với cây mọc chậm. Kế hoạch bất chợt đổi tiền xảy ra sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 của VC, trong đó mỗi người dân chỉ đưọc phép đổi lấy một số tiền mới nhất định từ những đồng tiền cũ, chính là phương pháp san bằng tài sản rất độc đáo giữa người giàu và người nghèo của VC, y hệt phương pháp chặt cây vừa tŕnh bày ở trên. Mọi người trong xă hội như thế chắc chắn sẽ được nghèo như nhau!

    Sau 33 năm, ngày Tướng Vỹ chết theo thành niềm đau mất nước vẫn c̣n trong tâm khảm những người Việt Quốc Gia thật sự yêu quê hương xứ sở, dân Việt vẫn c̣n phải sống trong đói rách lầm than, chưa bao giờ được thở hít không khí tự do, bởi ách Thực dân, Đế quốc tuy đă được gỡ bỏ, nhưng ách Cộng sản lại đă được tṛng vào cổ dân Việt, nặng nề gấp ngàn lần.

    Ḷng chúng ta vẫn c̣n đau, v́ chúng ta đă thua đau, cái thua không đáng thua chút nào. Một miền Nam của trí tuệ, trù phú lại chịu thua bọn người rừng rú, khố rách áo ôm, ngu si, dối trá.

    Có người bảo rằng miền Nam thua v́ người Mỹ đă bỏ chúng ta. Không đúng hẳn như vậy! Mà phải nói rằng người Mỹ bỏ chúng ta v́ chúng ta quá yếu, không bỏ không được.

    Quân đội là nguồn sức mạnh chính của đất nước sẵn sàng tiêu diệt quân xâm lăng, do vậy quân đội phải được giao phó cho những người có thực tài, can đảm, đạo đức và hết ḷng với đất nước. Điều tôi muốn nhấn mạnh ở đây là nếu các Tư Lệnh Sư đoàn của Quân Lực VNCH đều là Tướng Lê Nguyên Vỹ th́ chúng ta không mất nước. Tôi không nịnh nọt Tướng Vỹ và nói ngoa đâu. Chúng ta cứ đọc lại trang sử Việt đời nhà Trần xem tôi nói có đúng hay không?! Nhà Trần đă chiến thắng oanh liệt đoàn quân Nguyên bách chiến bách thắng xưa kia, v́ đă quy tụ được những tinh hoa của đất nước: nào Trần Thủ Độ, “đầu tôi chưa rơi xuống đất xin Bệ Hạ đừng lo”, nào Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, thao lược mưu trí, Trần Quang Khải, Trần Khánh Dư, Trần Quốc Toản, Trần Nhật Duật…hết ḷng v́ đại sự. Một khi quân đội đă hùng mạnh do các tướng có tài đức chỉ huy như thế, th́ hội nghị Diên Hồng của toàn dân hưởng ứng, hỗ trợ cho quân đội chiến thắng quân xâm lăng ắt sẽ được mở rộng và đồng tâm, nhất trí. Nhà Trần đă chiến thắng vẻ vang quân Mông Cổ không hề dựa vào một sức mạnh quân sự nào của ngoại bang, chỉ dựa vào sức ḿnh là quân đội do các tướng có tài đức chỉ huy và sự ủng hộ của toàn dân. Miền Nam chúng ta đă không quy tụ được các tướng có tài đức cho quân đội, do đó chúng ta cũng không tạo được khí thế Diên Hồng trong toàn dân, v́ dân đă không tin vào quân đội. Những điều tôi vừa tŕnh bày ở trên có thể không làm hài ḷng các vị niên trưởng bậc thày của tôi trong quân đội, nhưng tôi vẫn mạnh dạn nói lên quan điểm của tôi, cũng rất có thể là của nhiều người khác nữa, đă được chứng minh từ những kinh nghiệm đấu tranh của lịch sử Việt Nam trong công cuộc bảo vệ giang sơn Tổ Quốc.

    Tôi viết đến cuối bài “Tướng Vỹ Chết Theo Thành” vào đúng cuối tháng 3, chuẩn bị bước vào tháng 4 đen mỗi năm mà mọi người Việt ở hải ngoại không ai không nhớ đến. Riêng tôi cũng đă sẵn sàng hương đèn để tưởng nhớ đến Tướng Vỹ. Tôi không những làm giỗ ông vào ngày 30 tháng 4, hàng năm vào dịp Tết Nguyên Đán tôi luôn mời ông về chung vui Tết với Tổ Tiên, Ông Bà và Cha Mẹ tôi. Thực ḷng tôi đă xem ông như người thân trong gia đ́nh tôi vậy. Ông là biểu tượng của Anh Hùng Bất Khuất mà tôi luôn ngưỡng mộ và tin tưởng. Tôi thành tâm xin thưa với ông rằng sau tháng tư đen, 1975 mặc dù tôi đă đánh mất tất cả, nhưng tôi đă không đánh mất tôi, tôi vẫn c̣n giữ lại được một chút ǵ gọi là liêm sỉ để trong lời nói cũng như việc làm, tôi không khi nào nói hoặc làm có lợi cho Cộng sản, kẻ thù không đội trời chung của ông, của tôi và của toàn dân Việt yêu chuộng Tự do.

    NGUYỄN VĂN HẢI

    www.KBCHaiNgoai.net

  6. #16
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Đại Tá HỒ NGỌC CẨN

    Đại Tá HỒ NGỌC CẨN





    Vinh Danh

    Cố Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn

    ::: Phạm Phong Dinh :::

    Tên tuổi của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đă bắt đầu lừng lẫy từ khi ông c̣n là một sĩ quan cấp Úy phục vụ trong binh chủng Mũ Nâu Biệt Động Quân ở Miền Tây. Các cấp chỉ huy Biệt Động Quân trong thời điểm đầu những năm 1960 đă để ư nhiều đến tân Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn, Trung Đội Trưởng BĐQ, về những hành động quả cảm đến phi thường trong những cuộc giao tranh. Người Trung Đội Trưởng trẻ mới có 22 tuổi đời đă đứng xơng lưng dẫn quân Mũ Nâu xung phong lên đánh những trận long trời trên chiến trường đồng bằng sông Cửu Long. Những chiếc lon mới nở nhanh theo cùng với những chiến thắng. Chỉ trong ṿng bốn năm, Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn đă được vinh thăng lên đến cấp bậc Đại Úy và được điều về làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1 thuộc Trung Đoàn 33 của Sư Đoàn 21 Bộ Binh “Tia Sét Miền Tây”. Lúc đó trên lănh thổ Vùng 4 Chiến Thuật đă nổi lên những khuôn mặt chiến binh dũng mănh mà đă được ca tụng là những con mănh hổ miền Tây,

    Đại Úy Hồ Ngọc Cẩn có vinh dự nằm trong số năm vị này. Những vị c̣n lại gồm những tên tuổi như sau:

    - Thiếu Tá Nguyễn Văn Huy, Tiểu Đoàn 44 Biệt Động Quân

    - Thiếu Tá Lưu Trọng Kiệt, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 42 Biệt Động Quân.

    - Thiếu Tá Lê Văn Dần, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 44 Biệt Động Quân.

    - Thiếu Tá Lê Văn Hưng, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 31, SĐ21BB.

    - Thiếu Tá Vương Văn Trổ, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 33, SĐ21BB.

    Thật ra bản danh sách này chỉ có tính cách ước lệ và tượng trưng, đâu phải một Miền Tây rộng bát ngát mà chỉ có vỏn vẹn có năm người hùng. Mỗi người lính của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa xứng đáng được vinh danh là những anh hùng, v́ những đóng góp máu xương quá lớn cho tổ quốc.

    Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn sinh ngày 24.3.1938 tại xă Vĩnh Thạnh Vân, Rạch Giá. Thân phụ của ông là một hạ sĩ quan phục vụ trong Quân Đội Quốc Gia Việt Nam (danh xưng của quân đội trong thời Đệ Nhất Cộng Ḥa, dưới sự lănh đạo của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm). Đại Tá Cẩn không may sinh ra và lớn lên trong thời buổi chiến tranh, nên khi lên bảy tuổi ông sắp sửa cắp sách đến trường, th́ chiến tranh Việt-Pháp bùng nổ, việc học của ông bị gián đoạn. Măi hai năm sau, tức vào năm 1947 ông mới được đi học lại, sau khi t́nh h́nh ở các thành phố trở lại yên tĩnh, quân Việt Minh rút về các chiến khu, quân Pháp chiếm đóng các thành phố. Cậu bé Cẩn học muộn đến những hai năm, khi ông học tiểu học được bốn năm th́ thân sinh của cậu quyết định xin cho cậu nhập học Trường Thiếu Sinh Quân Gia Định. Có lẽ vị thân sinh của người đă nh́n thấy được những dấu hiệu, những nảy nở của tinh thần và ư hướng, mà sau này sẽ hướng người vào con đường binh nghiệp, sẽ làm nên những công nghiệp lớn có ích lợi cho đất nước

    Cuộc đời đèn sách trễ nải của chàng thiếu niên Hồ Ngọc Cẩn, lúc này đă 17 tuổi, đă ngáng bước đi lên về mặt văn hóa. Theo học quy của Trường Thiếu Sinh Quân, một học sinh ở độ tuổi 17 chưa học xong Đệ Ngũ, sẽ được gửi đi học chuyên môn. V́ vậy chàng thiếu niên Hồ Ngọc Cẩn được trường gửi lên Liên Trường Vơ Khoa Thủ Đức học khóa chuyên môn CC1 Vũ Khí. Trong lớp văn hóa hồi ở Trường TSQ, ông chỉ ở mức trung b́nh, nhưng sau ba tháng học ở Thủ Đức, chàng trai trẻ lại đậu hạng ưu. Ông được cho học thêm khóa chuyên môn vũ khí bậc nh́ CC2. Sau khóa học này ông quyết định đăng vào phục vụ trong Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, với cấp bậc Binh Nh́. Theo quy chế dành cho các Thiếu Sinh Quân, th́ ba tháng sau, Binh Nh́ Hồ Ngọc Cẩn sẽ được thăng lên Hạ Sĩ, ba tháng kế tiếp được lên Hạ Sĩ Nhất và ba tháng sau nữa được thăng Trung Sĩ. Trong ṿng chín tháng kế tiếp, với khả năng ưu hạng về môn vũ khí, Trung Sĩ Hồ Ngọc Cẩn được chọn làm huấn luyện viên vũ khí cho trường.

    Cuộc đời làm huấn luyện của ông những tưởng êm đềm trôi và tài năng quân sự của người sẽ bị mai một trong một ngôi trường khiêm tốn. Nhưng định mệnh đă dành cho người anh hùng một vị trí xứng đáng trong quân đội và những cơ hội thi thố tài năng, mà sau này được mọi người truyền tụng lại như là những huyền thoại, để phục vụ và bảo vệ tổ quốc. T́nh h́nh quân sự ngày càng nghiêm trọng cho một quốc gia non trẻ và một quân đội c̣n tập tễnh kinh nghiệm chiến đấu, sĩ quan chỉ huy thiếu hụt. Bộ Quốc Pḥng quyết định mở các khóa Sĩ Quan Đặc Biệt bắt đầu từ năm 1962 để cung cấp thêm sĩ quan có khả năng cho chiến trường và nâng đỡ những Hạ Sĩ Quan có ước vọng thăng tiến. Một may mắn lớn cho Trung Sĩ Hồ Ngọc Cẩn, mà cũng là may mắn cho Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, Đại Tướng Lê Văn Tỵ, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa, một cựu Thiếu Sinh Quân, đă nâng đỡ cho các đàn em TSQ. Những Thiếu Sinh Quân không hội đủ năm năm quân vụ và có bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp vẫn được cho đi học Khóa Sĩ Quan Đặc Biệt. Hơn nữa, dường như Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm và Đại Tướng Lê Văn Tỵ có mật lệnh, các tân Chuẩn Úy xuất thân từ Thiếu Sinh Quân đều được đưa về các binh chủng thiện chiến hay đặc biệt như Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Thiết Giáp, Biệt Động Quân, Quân Báo, An Ninh Quân Đội, Lực Lượng Đặc Biệt. Tổng Thống Diệm và Đại Tướng Tỵ cũng không quên gửi những Thiếu Sinh Quân tốt nghiệp Tú Tài vào học các Trường Cao Đẳng Sư Phạm và Y Khoa để có nhân tài phục vụ xă hội và huấn luyện lại cho những thế hệ tuổi trẻ kế tiếp. Đặc biệt nhiều Thiếu Sinh Quân cũng được cho vào học Trường Vơ Bị Quốc Gia Đà Lạt để làm nền tảng cho cái xương sống chỉ huy chuyên nghiệp trong hệ thống quân đội Việt Nam Cộng Ḥa.

    Trung Sĩ Hồ Ngọc Cẩn được cho theo học Khóa 2 Sĩ Quan Hiện Dịch tại Trường Hạ Sĩ Quan QLVNCH, Đồng Đế, Nha Trang. Các tân Chuẩn Úy Đặc Biệt, trong đó có Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn tung cánh đại bàng bay đi khắp bốn phương và sau này đă trở thành những sĩ quan tài giỏi nhất của quân lực, lưu danh quân sử. Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn được thuyên chuyển về Biệt Động Quân Vùng 4 Chiến Thuật Miền Tây, sau một khóa học Rừng Núi Śnh Lầy của binh chủng Mũ Nâu. Lúc đó các đại đội BĐQ biệt lập theo lệnh của TT Diệm, đă được cải tổ và sát nhập thành các tiểu đoàn. Khu 42 Chiến Thuật gồm lănh thổ các tỉnh Phong Dinh, Chương Thiện, Ba Xuyên, Bạc Liêu và An Xuyên, có hai tiểu đoàn BĐQ, mà lại là hai tiểu đoàn lừng lẫy nhất của binh chủng. Đó là Tiểu Đoàn 42 Biệt Động Quân “Cọp Ba Đầu Rằn”, và Tiểu Đoàn 44 Biệt Động Quân “Cọp Xám”. Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn nhận sự vụ lệnh tŕnh diện Tiểu Đoàn 42 BĐQ và làm Trung Đội Trưởng. Khả năng quân sự thiên bẩm, tài chỉ huy và sự chiến đấu hết sức gan dạ của Chuẩn Úy Cẩn, mà đă đem nhiều chiến thắng vang dội về cho TĐ42BĐQ, được thăng cấp đặc cách nhiều lần tại mặt trận, đă nhanh chóng xác nhận Trung Úy tân thăng Hồ Ngọc Cẩn có khả năng chỉ huy tiểu đoàn. Trung Úy Cẩn được bổ nhiệm làm Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 42BĐQ, đặt dưới quyền chỉ huy của một chiến binh lừng lẫy và nhiều huyền thoại không kém ǵ Trung Úy Hồ Ngọc Cẩn. Thiếu Tá Lưu Trọng Kiệt, xuất thân từ Sư Đoàn 21 Bộ Binh, với tác phong chiến đấu dũng cảm làm quân giặc kiêng sợ và thuộc cấp kính phục. Cung cách đánh giặc như vũ băo của Trung Úy Cẩn c̣n được nhân lên thập bội, khi lời yêu cầu của ông lên cấp chỉ huy xin cho các chiến binh gốc Thiếu Sinh Quân được về chiến đấu chung với ông. Lời yêu cầu này được thỏa măn một
    phần, nhưng cũng đủ để cho Trung Úy Cẩn có thêm được sức mạnh cần thiết. Có lần ông tâm sự với một người bạn lư do này: “Một là để dễ sai. Tất cả bọn cựu Thiếu Sinh Quân này đều ra trường sau tôi. Chúng là đàn em, dù tôi không phải là cấp trên của chúng, mà chúng nó lộn xộn, tôi vẫn hèo vào đít chúng nó được. Nay tôi muốn chúng nó về với tôi, để tôi có thể dạy dỗ chúng nó những ǵ mà quân trường không dạy. Hai là truyền thống của tôi khi ra trận là chết th́ chết chứ không lùi. V́ vậy cần phải có một số người giống ḿnh, th́ đánh nhau mới đă. Bọn cựu Thiếu Sinh Quân đều như tôi”.

    Một câu chuyện dũng cảm và cảm động khác kể về Trung Tá Hồ Ngọc Cẩn, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 15 Bộ Binh tại mặt trận An Lộc năm 1972. Trong khi quân của Trung Đoàn 15 thuộc Sư Đoàn 9 Bộ Binh bị pháo địch nă hàng ngàn quả gh́m đầu xuống trong những hố cá nhân bên đường Quốc Lộ 13 gần thị xă An Lộc, th́ binh sĩ trung đoàn ngạc nhiên lẫn cảm kích khi thấy vị Trung Đoàn Trưởng của họ dẫn vài người lính cũng quả cảm như vị chỉ huy điềm tĩnh đi thẳng lưng dưới cơn hỏa pháo cường kích như băo lửa của Sư Đoàn 7 Bắc Việt từ công sự này sang hố chiến đấu kia thăm hỏi chiến sĩ, an ủi các chiến thương và khích lệ tinh thần binh sĩ. Chiến binh Hồ Ngọc Cẩn coi thường cái chết, mà dường như cái chết cũng sợ hăi và tránh xa con người kiệt xuất ấy. Định mệnh sẽ dành cho người một cái chết cao cả nhất, ít nhất cũng chưa phải là trong mùa hè đỏ lửa của năm 1972. Dường như giữa Trung Tá Cẩn và cố Đại Tướng Đỗ Cao Trí có rất nhiều chất hào hùng quả cảm giống như nhau. Đại Tướng Đỗ Cao Trí thường nói với các phóng viên ngoại quốc đi trong cánh quân của người, khi họ tỏ ḷng khâm phục người chiến binh Nhảy Dù ấy đă đứng giơ cao khẩu súng Browning thúc giục binh sĩ tiến lên, giữa những làn đạn đan chéo như vải trấu của địch quân: “Nếu đạn không trúng ḿnh th́ ḿnh được tiếng anh hùng, mà nếu đạn có trúng th́ ḿnh cũng được tiếng anh hùng luôn”!

    Các loại pháo địch từ 122ly đến 130ly, chưa kể đến những loại cối 81 ly và các loại súng đại bác không giật 75 ly và 90 ly dội hàng chục ngàn quả lên vị trí của quân ta. Quân Trung Đoàn 15 đánh lên An Lộc dọc theo QL13 từ Tân Khai tiến rất chậm v́ đạn pháo giặc. Để tránh bị thiệt hại nặng, Trung Tá Hồ Ngọc Cẩn đă lệnh cho binh sĩ mỗi người đào một hố nhỏ như những cái “miệng ve” để ẩn trú. Nếu pháo dội trúng cái “miệng ve” nào, th́ chỉ một chiến sĩ ở chỗ đó bị tử thương mà thôi. Trong một khoảng chiến tuyến mỗi chiều bề dài 300 thước, có hàng mấy trăm cái hố nhỏ, mấy ngàn quả pháo của cộng quân dội xuống, tính trung b́nh mỗi mét vuông lănh vài trái. Nếu tính theo lư thuyết toán học th́ mỗi chiến sĩ Trung Đoàn “ăn” từ hai trái lấy lên, và như vậy toàn bộ trung đoàn coi như chết hết. Nhưng thật kỳ diệu, chiến thuật “c̣ ỉa miệng ve” của quân ta lại cứu sống hàng ngàn sinh mạng chiến sĩ. Dứt cơn pháo địch, chiến sĩ ta nhú đầu lên điểm danh quân số, th́ thấy rằng, nhờ ơn trời, rất ít chiến thương. Tuy nhiên khi quân Trung Đoàn 15 tiến quân trên QL13 và giao chiến với quân địch, th́ con số thương vong lên rất cao. Có nhiều đại đội trên 100 người, khi tàn cuộc chiến trở về Quân Khu IV chỉ c̣n khoảng ba chục chiến sĩ.

    Ở phía Nam Tân Khai, Sư Đoàn 21 Bộ Binh cũng bị thiệt hại nặng v́ pháo, nhiều sĩ quan cao cấp bị tử thương. Trung Đoàn Trưởng của một trung đoàn là Trung Tá Nguyễn Viết Cần và một vị Trung Tá Trung Đoàn Phó của một trung đoàn khác hy sinh v́ pháo địch quá ác liệt. Trung Tá Nguyễn Viết Cần chính là bào đệ của cố Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh. Ông xuất thân từ binh chủng Mũ Đỏ Nhảy Dù, con đường binh nghiệp đang có nhiều triển vọng đi lên th́ ông bị liên can trong vụ thuộc cấp ngộ sát hai Quân Cảnh Mỹ tại Sài G̣n. Thiếu Tá Cần bị thuyên chuyển về SĐ 21 BB, ít lâu sau ông thăng Trung Tá và nắm trung đoàn. Cuối cùng th́ ḍng họ Nguyễn Viết đă cống hiến cho đất nước đến hai người con ưu tú. Theo lời kể lại của Đại Úy Tiến, một vị Tiểu Đoàn Phó của Trung Đoàn 15 Bộ Binh lên An Lộc tham chiến, th́ Trung Tá Cẩn đă lệnh cho ông phải đứng lên điều động binh sĩ giữa lúc đạn pháo giặc dội như băo xuống các vị trí Trung Đoàn. Tất cả các vị chỉ huy cao cấp của Trung Đoàn đều phải nêu gương dũng cảm cho thuộc cấp và chiến sĩ, để cùng xông lên giải cứu An Lộc. V́ những chiến công ngoài chiến trường, tính đến năm 1970 th́ Trung Tá Hồ Ngọc Cẩn là chiến sĩ được tưởng thưởng nhiều huy chương nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, với 78 chiếc của gồm 1 Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương, 25 Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu, 45 Anh Dũng Bội Tinh với các loại Ngôi Sao, 3 Chiến Thương Bội Tinh và 4 Huy Chương Hoa Kỳ.

    Sau khi trở về từ An Lộc, Trung Đoàn 15 Bộ Binh c̣n tăng viện cho các trung đoàn bạn và Sư Đoàn 7 Bộ Binh đánh những trận long trời ở miền biên giới Việt-Miên, các tỉnh bờ Bắc
    sông Tiền Giang. Những tổn thất và vết thương c̣n chưa hồi phục từ chiến trường Miền Đông, lại vỡ toác ra từng mảnh lớn khác. Nhưng có sá ǵ chuyện tử sinh, làm thân chiến sĩ th́ người lính của chúng ta chỉ biết tận lực hiến dâng xương máu cho nền tự do của tổ quốc và cho niềm hạnh phúc của dân tộc. Một lần nữa, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn được trao cho một chức vụ trọng yếu và hết sức khó khăn, khó có ai đảm đương nổi. Ông sẽ đi trấn nhậm tỉnh Chương Thiện, một tỉnh có địa h́nh phức tạp nhất vùng đồng lầy Miền Tây, với cái gai nhọn nhức nhối mật khu U Minh Thượng trong lănh thổ, từ đó quân Bắc Việt và Việt Cộng phóng ra những cuộc đánh phá lớn, uy hiếp các quận xă hẻo lánh. Chọn Đại Tá Cẩn về trấn giữ tỉnh Chương Thiện, vị Tư Lệnh Quân Đoàn IV biết chắc Đại Tá Cẩn cùng với lực lượng Địa Phương Quân-Nghĩa Quân thiện chiến của ông sẽ ít nhất hóa giải được áp lực giặc, không cho chúng tiến xuống Cần Thơ. Giữ vững được Chương Thiện tức là bảo đảm an toàn cho lănh thổ Quân Khu IV ở bờ Nam sông Hậu Giang.

    Trong thời gian Đại Tá Cẩn làm tỉnh trưởng Chương Thiện, nhiều huyền thoại khác về ông đă được kể lại. Đại Tá Cẩn chẳng những là một nhà quân sự xuất chúng, mà c̣n là một nhà cai trị và b́nh định tài ba. Một ngày trước khi ông nhận bàn giao tỉnh Chương Thiện, Đại Tá Cẩn đă ăn mặc thường phục, giả dạng thường dân đi thanh tra ngầm một ṿng tỉnh lỵ Vị Thanh. Ông vào các ṣng bài, những nơi nhận tiền đánh số đề và những ổ điếm quan sát.

  7. #17
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Đại Tá HỒ NGỌC CẨN


    Ngày hôm sau, khi đă chính thức là vị Tỉnh Trưởng Chương Thiện, Đại Tá Cẩn cho gọi người Thiếu Tá Trưởng Ty Cảnh Sát tỉnh đến cật vấn nghiêm khắc về những tệ đoan xă hội trong tỉnh, rồi lập tức cách chức ông này. Thay vào đó là Trung Tá Đường, một vị sĩ quan mẫn cán và tài năng. Trung Tá Đường là cánh tay mặt vững chăi của Đại Tá trong lĩnh vực b́nh định, xă hội và truy bắt bọn Việt Cộng hoạt động dầy đặc trong tỉnh. Bọn cộng phỉ rất căm thù Trung Tá Đường, đến nỗi sau ngày 30.4.1975, chúng bắt được Trung Tá Đường, chỉ giam giữ ông một thời gian ngắn rồi đem ông ra xử bắn tại Vị Thanh. Cùng đền ơn tổ quốc với Trung Tá Đường c̣n có Đại Úy Bé, Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Thám Báo Tỉnh. Đại Úy Bé đă làm điêu đứng bọn giặc cộng, với những chiến sĩ Thám Báo nhảy sâu vào hậu cứ địch báo cáo tin tức, địch t́nh, cũng như tọa độ trú quân để Không Quân, Pháo Binh dội những cơn băo lửa lên đầu chúng. Trung Tá Đường và Đại Úy Bé bị giặc tàn nhẫn bắn chết tại chân cầu dẫn vào thành phố Vị Thanh.

    Có một ông Quận Trưởng nọ, muốn cho chi khu của ḿnh được an toàn tối đa, chiều nào cũng xin Pháo Binh tiểu khu yểm trợ hỏa lực, nại lư do Việt Cộng pháo kích hay tấn công. Đại Tá Cẩn thỏa măn tối đa và được báo cáo là quận bị thiệt hại một kho xăng và kho lương thực. Đại Tá tin thật, ông lệnh cho sĩ quan Trưởng Pḥng 3 chuẩn bị xe Jeep đi xuống quận.

    Buổi chiều chạng vạng trên những con đường đất hoang vắng rợn người ở vùng quê Chương Thiện mà vị Tỉnh Trưởng trẻ của chúng ta dám đi xe Jeep cùng với một vài người lính, chỉ có những chiến binh dũng cảm như Đại Tá Cẩn mới làm được. Ông Quận Trưởng đang nằm trên vơng rung đùi uống Martell hoảng kinh ngồi bật dậy mặt mũi tái xanh đứng nghiêm chào vị Tỉnh Trưởng đầy huyền thoại. Đại Tá Cẩn đi thẳng xuống Trung Tâm Hành Quân của Chi Khu xem bản đồ và ra lệnh cho ông Quận: “Tôi muốn những ấp loại C sau ba tháng được nâng lên loại B. Những ấp loại B sau ba tháng phải được nâng lên loại A”. Ngài Quận Trưởng tạm ngưng uống rượu và làm việc trối chết. Đại Tá Cẩn không trừng trị tội xao nhăng nhiệm vụ của ông Quận, nhưng cung cách độ lượng và cương quyết của Đại Tá Cẩn giống như lưỡi gươm trừng phạt treo đung đưa trên đầu.

    Đúng ba tháng sau, nhận được báo cáo khả quan của vị Quận Trưởng, Đại Tá Cẩn lại xuống quận ngủ đêm, sau khi đă trân trọng gắn lon mới tưởng thưởng cho ông này. Nếu tất cả 44 tỉnh của Việt Nam Cộng Ḥa đều có những vị Tỉnh Trưởng can đảm, mẫn cán và tài ba như Đại Tá Cẩn, làm sao giang sơn hoa gấm của tổ tiên của chúng ta có thể lọt vào tay bọn cộng nô tay sai Nga Tàu dễ dàng như vậy được. Chúng ta cũng được biết rằng, Đại Tá Cẩn là vị Tỉnh Trưởng trẻ tuổi nhất của Việt Nam Cộng Ḥa. Ông nhận chức vụ này hồi năm 1973, lúc ông mới có 35 tuổi.

    Những đóng góp và hy sinh của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn lớn lao và nhiều không sao có thể kể được hết, suốt một đời người đă tận tụy với nước non, danh tiếng lừng lẫy và nắm giữ những chức vụ khó khăn, mà người vẫn khiêm nhường hết mực, giữ cuộc sống trong sáng và thanh liêm, tâm tư lúc nào cũng hướng về những thế hệ đàn em. Một người bạn cũ trong một dịp gặp lại Đại Tá Cẩn ở Cần Thơ vào mùa hè 1974, đă hỏi ông: “Anh từng là Trung Đoàn Trưởng, hiện làm Tỉnh Trưởng, anh có nghĩ rằng sau này sẽ làm Tư Lệnh sư đoàn không”? Con người danh tiếng lừng lẫy trên các chiến trường đă khiêm tốn trả lời: “Tôi lặn lội suốt mười bốn năm qua gối chưa mỏi, nhưng kiến thức có hạn. Được chỉ huy trung đoàn là cao rồi, ḿnh phải biết liêm sỉ chớ, coi sư đoàn sao được. Làm Tỉnh Trưởng bất quá một hai năm nữa rồi tôi phải ra đi, cho đàn em họ có chỗ tiến thân. Bấy giờ tôi xin về coi Trường Thiếu Sinh Quân, hoặc coi các lớp huấn luyện Đại Đội Trưởng, Tiểu Đoàn Trưởng, đem những kinh nghiệm thu nhặt được dạy đàn em. Tôi sẽ thuật trước sau hơn ba trăm trận đánh mà tôi đă trải qua”. Ôi cao cả biết ngần nào tấm chân t́nh với nước non và với thế hệ chiến binh đàn em của người. Con người chân chính để lại cho hậu thế những lời khí khái.

    Cuối cùng th́ cái ngày tang thương 30.4.1975 của đất nước cũng đến. Dân tộc Việt Nam được chứng kiến những cái chết bi tráng hào hùng của những vị thần tướng nước Nam, của những sĩ quan các cấp c̣n chưa được biết và nhắc nhở tới. Và của những người chiến sĩ vô danh, một đời tận tụy v́ nước non, những đôi vai nhỏ bé gánh vác cả một sức nặng kinh khiếp của chiến tranh. Sinh mệnh của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn cũng bị cuốn theo cơn lốc ai oán của vận mệnh đất nước. Chu vi pḥng thủ của Tiểu Khu Chương Thiện co cụm dần, quân giặc hung hăng đưa quân tràn vào vây chặt lấy bốn phía. Những chiến sĩ Địa Phương Quân-Nghĩa Quân của Chương Thiện nghiến răng gh́ chặt tay súng, quyết một ḷng liều sinh tử với vị chủ tướng anh hùng của ḿnh. Đại Tá Cẩn nhớ lại lời đanh thép của ông: “Chết th́ chết chứ không lùi”. Ông tự biết những khoảnh khắc của cuộc đời ḿnh cũng co ngắn lại dần theo với chu vi chiến tuyến. Ông nhớ lại những ngày śnh lầy với Biệt Động Quân, những ngày lên An Lộc với chiến sĩ Sư Đoàn 9 Bộ Binh đi trong cơn băo lửa ngửa nghiêng, những lúc cùng chiến sĩ Sư Đoàn 21 Bộ Binh đi lùng giặc trong những vùng rừng U Minh hoang dă, và những chuỗi ngày chung vai chiến đấu với chiến sĩ Địa Phương Quân-Nghĩa Quân thân thiết và dũng mănh của ông trên những cánh đồng Chương Thiện hoang dă. Hơn ba trăm trận chiến đấu, nhưng chưa lần nào ông và chiến sĩ của ông phải đương đầu với một cuộc chiến cuối cùng khó khăn đến như thế này.

    Khoảng hơn 9 giờ tối ngày 30.4.1975, gần nửa ngày sau khi Tướng Dương Văn Minh đọc lệnh cho Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa buông súng đầu hàng, Đại Tá Cẩn cố liên lạc về Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn IV xin lệnh của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam. Người trả lời ông lại là phu nhân Thiếu Tướng Lê Văn Hưng. Đại Tá Cẩn ngơ ngác không biết chuyện hệ trọng nào mà đă đưa Bà Hưng lên văn pḥng Bộ Tư Lệnh. Bà Hưng áp sát ống nghe vào tai, bà nghe có nhiều tiếng súng lớn nhỏ nổ ầm ầm từ phía Đại Tá Cẩn. Như vậy là Tiểu Khu Chương Thiện vẫn c̣n đang chiến đấu ác liệt và không tuân lệnh hàng cùa tướng Minh. Trước đó, khoảng 8 G 45 phút tối 30.4.1975 Thiếu Tướng Lê Văn Hưng đă nổ súng tử tiết, Thiếu Tướng Nam đang đi thăm chiến sĩ và thương bệnh binh lần cuối cùng trong Quân Y Viện Phan Thanh Giản Cần Thơ, rồi người tự sát ngay trong đêm. Bà Thiếu Tướng Hưng biết Đại Tá Cẩn kiên quyết chiến đấu đến cùng, thà chết không hàng, v́ đó là tính cách thiên bẩm của người chiến sĩ Hồ Ngọc Cẩn. Nếu có chết th́ Đại Tá Cẩn phải chết hào hùng, trong danh dự của một người chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa công chính. Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn cùng các sĩ quan trong Ban Chỉ Huy Tiểu Khu và các chiến sĩ Tiểu Khu Chương Thiện đă đánh một trận tuyệt vọng nhưng lừng lẫy nhất trong chiến sử Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Đánh tới viên đạn và giọt máu cuối cùng và đành sa cơ giữa ṿng vây của bầy lang sói. Cuộc chiến đấu kéo dài đến 11 giờ trưa ngày 1.5.1975, quân ta không c̣n ǵ để bắn nữa, Đại Tá Cẩn lệnh cho thuộc cấp buông súng. Khi những người lính Cộng chỉa súng vào hầm chỉ huy Tiểu Khu Chương Thiện, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, vị Trung Úy tùy viên và các sĩ quan tham mưu, hạ sĩ quan và binh sĩ tùng sự đều có mặt. Một viên chỉ huy Việt Cộng tên Năm Thanh hùng hổ chỉa khẩu K 54 vào đầu Đại Tá Cẩn dữ dằn gằn giọng:”Anh Cẩn, tội anh đáng chết v́ những ǵ anh đă gây ra cho chúng tôi”. Đại Tá Cẩn cười nhạt không trả lời.

    Nhưng bọn cộng phỉ không giết ông ngay, chúng đă có kế hoạch làm nhục người anh hùng sa cơ nhưng cứng cỏi của chúng ta. Các sĩ quan tham mưu được cho về nhà, nhưng Đại Tá Cẩn th́ không, địch áp giải ông sang giam trong Ty Cảnh Sát Chương Thiện. Vài ngày sau, các sĩ quan Tiểu Khu Chương Thiện cũng bị gọi vào giam chung với Đại Tá Cẩn. Để làm nhục và hành hạ tinh thần người dũng tướng nước Nam, giặc cho phá hủy nhà cầu trong Ty Cảnh Sát và thay vào bằng một cái thùng nhựa. Mỗi buổi sáng, ngày nào chúng cũng bắt Đại Tá Cẩn cùng một người nữa khiêng thùng phân đi đổ. Người ưu tiên được làm nhục thứ hai là vị Phó Tỉnh Trưởng. Dù cho các sĩ quan của ta có đề nghị hăy để cho mọi người làm công tác công bằng, nhưng bọn Cộng vẫn nhất quyết đày đọa Đại Tá Cẩn. Người anh hùng của chúng ta chỉ mỉm cười, ung dung làm công việc của ḿnh. Chúa Jesus đă chẳng từng nói khi lên thập giá: “Lạy Cha ở trên trời, họ không biết việc họ đang làm” đó sao. Bà Đại Tá Cẩn lo sợ bị cộng quân trả thù nên bà đă đem cậu con trai duy nhất của ông bà là Hồ Huỳnh Nguyên, lúc ấy được 5 tuổi, về Cần Thơ ẩn náu và thay đổi lư lịch nhiều lần. Nhớ thương chồng, nhiều lúc bà đă liều lĩnh choàng khăn che mặt xuống Vị Thanh t́m đến Ty Cảnh Sát đứng bên này bờ con rạch nghẹn ngào nh́n vào sang dăy tường rào kín bưng. Một vài sĩ quan ra xách nước trông thấy bà đă t́m cách dẫn Đại Tá Cẩn ra. Những khoảnh khắc cuối cùng đẫm đầy nước mắt ấy sẽ theo kư ức của bà Đại Tá Cẩn đến suốt khoảng đời c̣n lại của bà. Đầu năm 1979 bà Cẩn cùng bé Nguyên liều chết vượt biển. Thượng Đế đă dang tay từ ái bảo vệ giọt máu duy nhất của Đại Tá Cẩn. Bà Cẩn và bé Nguyên đến được đảo Bidong thuộc Mă Lai. Mười tháng sau hai mẹ con bà Đại Tá Cẩn được phái đoàn phỏng vấn Mỹ cho định cư tại Hoa Kỳ theo dạng ưu tiên có chồng và cha bị cộng sản bắn chết tại Việt Nam.

    Bọn phỉ không giết Đại Tá Cẩn ngay, chúng muốn làm nhục người và làm nhục quân dân Miền Tây. Bọn chúng sẽ thiết trí một pháp trường và dành cho người một cái chết thảm khốc hơn. Đại Tá Cẩn không thể tử tiết, v́ là con chiên ngoan đạo, luật Công Giáo không cho phép con cái Chúa được tự tử. Đại Tá Cẩn thường cầu nguyện mỗi buổi sáng và thổ lộ tâm tư với thuộc cấp trước khi ra trận: “Sống chết nằm trong tay Chúa”. V́ vậy viên đạn cuối cùng người bắn vào kẻ thù, để cho chúng biết rằng nước Nam không thiếu anh hùng.

    Quân dân Miền Tây đă tiếc thương cái chết của hai vị thần tướng Nguyễn Khoa Nam và Lê Văn Hưng trong ngày u ám đen tối nhất của lịch sử Việt Nam. Giờ đây, cũng trong bầu không khí ảm đạm đau buồn của ngày 14.8.1975, người dân thủ phủ Cần Thơ sẽ được chứng kiến giây phút ĺa đời cao cả của người anh hùng Hồ Ngọc Cẩn. Bọn sói lang đă áp giải người từ Chương Thiện về Cần Thơ và cho bọn ngưu đầu đi phóng thanh loan báo địa điểm, giờ phút hành h́nh người anh hùng cuối cùng của Quân Lực Việt Cộng Ḥa.

    Bọn tiểu nhân cuồng sát thay v́ nghiêng ḿnh kính phục khí phách của người đối địch, th́ chúng lại lấy ḷng dạ của loài khỉ và loài quỷ để đ̣i máu của người phải chảy. Chúng quyết tâm giết Đại Tá Cẩn để đánh đ̣n tâm lư phủ đầu lên những người yêu nước nào c̣n dám tổ chức kháng cự lại bọn chúng. Thật đau đớn, trong khoảnh khắc cuối cùng này, bà Đại Tá Cẩn và người con trai c̣n phải ẩn trốn một nơi kín đáo theo lời căn dặn của Đại Tá Cẩn trước khi ông bị bắt, v́ sợ bọn chúng bắt bớ tra tấn, nên bà không thể có mặt để chứng kiến giây phút Đại Tá Cẩn đi vào lịch sử.

    Đại Tá Cẩn bị giải lên chỗ hành h́nh, mấy tên khăn rằn hung hăng gh́m súng bao quanh người chiến sĩ. Trước khi bắn người, tên chỉ huy cho phép người được nói. Đại Tá Cẩn trong chiếc áo tù vẫn hiên ngang để lại cho lịch sử lời khẳng khái: “Tôi chỉ có một ḿnh, không mang vũ khí, tôi không đầu hàng, các ông cứ bắn tôi đi. Nhưng trước khi bắn tôi xin được mặc quân phục và chào lá quốc kỳ của tôi lần cuối”. Dĩ nhiên lời yêu cầu không được thỏa măn. Đại Tá Cẩn c̣n muốn nói thêm những lời trối trăn hào hùng nữa, nhưng người đă bị mấy tên khăn rằn nón cối xông lên đè người xuống và bịt miệng lại. Tên chỉ huy ra lệnh hành quyết người anh hùng. Điều duy nhất mà bọn chúng thỏa măn cho người là không bịt mắt, để người nh́n thẳng vào những họng súng thù, nh́n lần cuối quốc dân đồng bào. Rồi người ngạo nghễ ra đi.

    Cùng ngẩng cao đầu đi vào chiến sử Việt Nam với Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn tại sân vận động Cần Thơ là người anh hùng Thiếu Tá Trịnh Tấn Tiếp, Quận Trưởng quận Kiến Thiện, bạn đồng khóa với Đại Tá Cẩn. Thiếu Tá Tiếp đă cùng các chiến sĩ Địa Phương Quân Chi Khu chiến đấu dũng cảm đến sáng ngày 1.5.1975 th́ ông bị sa vào tay giặc. Thiếu Tá Tiếp là một sĩ quan xuất sắc, trí dũng song toàn. Ông đă từng gây rất nhiều tổn thất nặng nề cho quân địch, nhờ tổ chức thám sát chính xác, có lần ông đă gọi B 52 dội trúng một trung đoàn cộng quân và hầu như xóa sổ trung đoàn này. Cộng quân ghi nhớ mối thù này, người anh hùng của chúng ta sa vào chúng, th́ chúng sẽ giết chết ông không thương tiếc. Hai người anh hùng cuối cùng của miền Tây đă vĩnh viễn ra đi. Đất trời những ngày đầu mùa mưa bỗng tối sầm lại.

    Một nhân chứng đứng ở hàng đầu dân chúng kể lại rằng, trong những giây phút cuối cùng, Đại Tá Cẩn đă dơng dạc hét lớn: “Việt Nam Cộng Ḥa Muôn Năm! Đả Đảo Cộng Sản”! Năm sáu tên bộ đội nhào vào tấn công như lũ lang sói, chúng la hét man rợ và đánh đấm người anh hùng sa cơ tàn nhẫn.

    Người phụ nữ nhân chứng nước mắt ràn rụa, bà nhắm nghiền mắt lại không dám nh́n. Bà nghe trong cơi âm thanh rừng rú có nhiều tiếng súng nổ chát chúa. Khi bà mở mắt ra th́ thấy nhiều tên Việt Cộng quây quanh thi thể của Đại Tá Cẩn và khiêng đem đi.

    Đúng ra, phải vinh danh Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn là Chuẩn Tướng Hồ Ngọc Cẩn, v́ người đă anh dũng chiến đấu trên chiến trường và vị quốc vong thân. Nhưng Tổng Thống Tổng Tư Lệnh, Tổng Tham Mưu Trưởng đă bỏ chạy từ lâu, Tư Lệnh Quân Khu IV đă tử tiết, lấy ai đủ tư cách trao gắn lon và truy thăng Chuẩn Tướng cho người. Anh linh của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đă thăng thiên. Tên tuổi của ông đă đi vào lịch sử đến ngàn đời sau. Xin người hăy thương xót cho dân tộc và đất nước Việt Nam c̣n đang ch́m đắm trong tối tăm và gông xiềng cộng sản, xin hăy ban cho những người c̣n đang sống khắc khoải sức mạnh và quyết tâm. Để cùng nhau đứng dậy lật đổ chúng, hất bọn chúng, tất cả bọn tự nhận là con cháu loài vượn đó vào vực thẳm lạnh lẽo nhất của địa ngục.

    Phạm Phong Dinh
    www.KBCHaiNgoai.net

  8. #18
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Trung Tá NGUYỄN VĂN LONG

    Trung Tá NGUYỄN VĂN LONG



    Trung Tá

    NGUYỄN VĂN LONG

    ::: Lê Xuân Nhuận :::

    CỘNG-SẢN chiếm được Miền Nam đă mười năm rồi mà tôi vẫn c̣n tiếp-tục bị chúng kêu lên, kêu xuống hỏi cung. Tuy thế, nhờ những thời-gian đợi đi “làm việc” như thế tại các trại giam như Thanh-Liệt ở Hà-Nội; Kho-Đạn, Hội-An, và Ḥa-Sơn ở Quảng-Nam; mà tôi có dịp gặp nhiều cán-bộ Việt-Cộng cấp cao bị bắt về tội “kinh-tế” hoặc “tham-ô” và cả “bạo-loạn” nữa, cũng như đồng-bào nhiều giới phạm tội “phản-động hiện-hành”, vượt biên, vượt biển, đưa hối-lộ, xâm-phạm hoặc phá-hoại tài-sản xă-hội chủ-nghĩa, vân vân, nên tôi biết nhiều và biết sớm những biến-cố xảy ra bên ngoài thế-giới “cải-tạo” hơn đa-số anh+chị+em khác trong tù.

    Tôi đă nghe tin Trung Tá Nguyễn Văn Long tự-tử từ lâu. Nhưng v́ có những trường-hợp sự thật khác với tin đồn; vả lại, biết đâu đó không là một người khác mà lại trùng tên với người mà tôi thân+thương; hơn nữa, anh Nguyễn Văn Long của tôi là một tín-đồ Ky-Tô-Giáo, lẽ nào lại tự hủy ḿnh; do đó, tôi vừa âm-thầm đau-khổ về hoàn-cảnh chung, vừa bán-tín bán-nghi về phần anh Long. Đến khi tôi được nghe thêm hai viên “thủ-trưởng” — một thuộc Cục Xuất-Nhập-Khẩu 2 tại “thành phố Hồ Chí Minh”, một thuộc Ban Hậu-Cần Quân-Khu 5 — khẳng-định là họ có nghe đề-cập trong nội-bộ cơ-quan rằng, ngoài một số tướng-lĩnh Miền Nam đă tự-sát chứ không chịu đầu-hàng hay trốn chạy ra nước ngoài, có một Trung Tá Cảnh-Sát tên Nguyễn Văn Long, từ Đà-Nẵng di-tản vào, đă tự-tử chết phía trước trụ-sở Quốc-Hội Việt-Nam Cộng-Ḥa, tôi mới tin chắc đó chính là anh Nguyễn Văn Long.

    Anh Long vĩnh-biệt cơi đời giữa cảnh lửa-bỏng dầu-sôi, bạn-bè nói riêng và đồng-bào nói chung th́ c̣n bận lo tự cứu lấy ḿnh, trong khi kẻ thù th́ càng thù hận anh thêm, lấy đâu có những ṿng hoa và những nén nhang cùng những ḍng lệ thương tiếc tiễn anh về nơi an nghỉ cuối cùng.

    Năm 1982, tại Trại bí-mật Thanh-Liệt, thuộc Huyện Thanh-Tŕ, Hà-Nội, là nơi giam-cứu các phần-tử quan-trọng nhất, mà đa-số là cán-bộ Đảng, Nhà-Nước và Bộ-Đội ở cấp Trung-Ương, do Bộ Nội-Vụ trực-tiếp quản-lư, tôi mới được một “bạn tù” cho biết thêm một chi-tiết quư-báu về cái chết hùng-vinh của Trung Tá Nguyễn Văn Long. Đó là Phạm Trung Linh, một Trung Tá bộ-đội Bắc-Việt, nguyên Trưởng Tiểu Ban Thanh Tra & Xét Khiếu Tố thuộc Trung Ương Cục Miền Nam — tổng-thư-kư của một tổ-chức đảo-chính quân-sự dự-định hành-động vào đêm 24 rạng ngày Nô-En năm 1979 nhưng bất-thành nên bị bắt cùng với một số tướng+tá và cán-bộ cao-cấp khác — xác-nhận rằng gă đă có trông thấy bức ảnh chụp cảnh Trung Tá Nguyễn Văn Long mặc cảnh-phục chỉnh-tề nằm chết trước một tượng-đài Chiến-Sĩ Quốc-Gia phía trước trụ-sở Quốc-Hội Việt-Nam Cộng-Ḥa, in trên b́a trước của một tạp-chí Hoa-Kỳ, trong kho sách+báo ngoại-quốc mà Việt-Cộng ở một số cấp cao đă sưu-tầm để nghiên-cứu những ǵ có liên-quan đến Việt-Nam.

    Thế là từ đó không những tôi nguôi tủi sầu mà trái lại c̣n cảm thấy ḷng ḿnh vui thỏa cho anh Long. Báo Mỹ mà đă đăng lên th́ khắp thế-giới đều biết. Anh, cùng với những vị anh-hùng tuẫn-quốc khác trong biến-cố lịch-sử 30-4-1975, đă nói lên được hùng-hồn và cụ-thể tinh-thần bất-khuất của dân-tộc Việt-Nam yêu chuộng Tự-Do trước quyền-lực của cộng-sản bạo-tàn.

    * * *

    Thuở ấy, vào khoảng 1950, ở Miền Trung có hai hệ-thống an-ninh: một bên là Pháp với cơ-quan Sûreté fédérale (Liêm-Phóng Liên-Bang) và Police française (Cảnh-Sát Pháp), một bên là Việt-Nam với cơ-quan Công-An & Cảnh-Sát Quốc-Gia. Anh Nguyễn Văn Long tùng-sự bên Sûreté Fédérale (chính-trị) của Pháp, trong số vài người phụ-trách nội-ô Thần-Kinh; c̣n tôi th́ bên Cảnh-Sát (h́nh-sự) của Việt-Nam. Tôi kiêm cả việc sáng-tác, ra báo, và dựng kịch cho sở-làm, và cho riêng ḿnh.

    Chúng tôi thường uống cà-phê ở quán Lạc-Sơn, nhà hàng lộ-thiên trên lề đại-lộ Trần Hưng-Đạo, quay lưng vào chợ Đông-Ba. Nhân-viên hai bên không ưa ǵ nhau, nhưng gặp mặt măi cũng thành quen nhau.

    Dạo ấy, tôi viết cuốn truyện “Trai Thời Loạn” chống Pháp xâm-lược và Bảo-Đại bù-nh́n, nên bị bắt giam; sau nhờ phái-đoàn của các nhân-sĩ Cao Văn Tường, Cao Văn Chiểu, cùng với nhà-báo Phạm Bá Nguyên và cả Giám-Đốc Thông-Tin Lê Tảo can-thiệp với Thủ-Hiến Phan Văn Giáo, tôi mới được trả tự-do. Ra tù, tự-nhiên tôi được thiện- cảm của nhiều người hơn.

    Một hôm, anh Long tâm-sự với tôi: “Tôi chống Việt-Minh nên lỡ vào làm với Tây; nay tôi đă quyết sẽ thôi để qua làm với người ḿnh”.

    Anh ít nói, không văn-hoa, lại lớn tuổi hơn tôi nhiều, mà đă nói thẳng với tôi như thế th́ tôi hiểu rằng anh đă đau-ḷng khổ-trí đến ngần nào trước thời-cuộc bấp-bênh của nước nhà. Trong thời-gian chờ-đợi, anh Long đă nghe theo lời thuyết-phục của tôi, bỏ qua cho nhiều bạn thơ của tôi, thí-dụ Nhất-Hiên, Vân-Sơn PMT, Như-Trị, v.v… mà Sûreté Fédérale đă định bắt giam. Liêm-Phóng Liên-Bang của Pháp mà đă bắt ai th́ người ấy khó về được vẹn toàn.

    Sau đó, anh đă chuyển qua Công-An Việt-Nam; và Vân-Sơn Phan Mỹ Trúc cũng như Như-Trị Bùi Chánh Thời th́ vào Sài-G̣n; kẻ thành kư-giả tên tuổi, người nên luật-sư tài-danh.

    Sau khi gia-nhập vào đúng hàng-ngũ thích-hợp để phụng thờ Chính-Nghĩa Quốc-Gia, trải qua mấy chục năm trời gắn bó với Lực-Lượng Cảnh-Sát & Công-An Việt-Nam Cộng-Ḥa, anh Nguyễn Văn Long tận-tụy phục-vụ, và đă nổi tiếng là một trong số những cấp chỉ-huy tích-cực, cương-trực và liêm-khiết nhất trong Ngành.

    * * *

    TÔI về lại Miền Trung đảm-trách Giám-Đốc Ngành Đặc-Cảnh tại Bộ Tư-Lệnh Cảnh-Lực Vùng I vào ngày 26 tháng 9 năm 1973. T́m gặp lại các bạn cũ, thuộc lứa tuổi trên tứ-tuần, đă từng giữ các chức-vụ Trưởng Ty Công-An, Cảnh-Sát-Trưởng, Trưởng Ty CSQG trở lên, từ thời Bảo-Đại qua thời Đệ-Nhất Cộng-Ḥa đến nay, mà hiện c̣n lại tại Vùng này, tôi thấy chỉ có 6 người, trong đó có anh Nguyễn Văn Long.

    Một số chưa có chức-vụ tương-xứng th́ tôi nâng lên hoặc hợp-thức-hóa cho làm Phó Giám-Đốc, Chánh-Sở. Anh Long th́ đă là một Chánh-Sở nắm Sở Tư-Pháp rồi, nên tôi không giúp ǵ về chức-vụ mà chỉ giúp về công-vụ mà thôi; những tin-tức về h́nh-sự mà tôi có được, thay v́ xếp bỏ th́ tôi chuyển qua cho anh. Tuy nhiên, đáp lại, chính anh giúp tôi nhiều hơn, rất nhiều, cả trong công-tác cụ-thể hằng ngày lẫn về phương-diện tinh-thần.

    Anh Long tự-nguyện làm thêm nhiệm-vụ chính-trị — diệt-Cộng — ngoài phần-vụ chính của anh là truy lùng kẻ phạm- pháp về mặt h́nh. Là một tay cừ trong giới t́nh-báo cũ, anh đă nhân làm công-tác sưu-tầm về h́nh-phạm mà thu-thập thêm tin-tức về quốc-phạm, và đă cung-cấp cho Ngành Đặc-Cảnh của tôi nhiều manh-mối về cộng-sản nằm vùng. Theo anh quan-niệm, đă là Cảnh-Sát Quốc-Gia, với chức-năng an-ninh trật-tự, th́ phải góp phần trực- tiếp hoặc gián-tiếp vào lănh-vực t́nh-báo, để phát-hiện và loại-trừ cộng-sản — mà trong giai-đoạn hiện-tại th́ đối- tượng Việt- Cộng phải là ưu-tiên hàng đầu — để bảo-vệ và duy-tŕ an-ninh & trật-tự chung. Anh không thể chỉ tự bằng ḷng với phận-sự tiễu-trừ tội-phạm xă-hội, mà phải tham-gia phần nào, trong khả-năng ḿnh, vào trách-nhiệm thanh-trừng giặc loạn để giữ nước và cứu dân.

    Qua thái-độ và hành-động chính-đáng của ḿnh, Trung Tá Nguyễn Văn Long đă mặc-nhiên gửi một thông-điệp, một lời nhắn-nhe tâm-huyết, đến những anh+chị+em đồng-nghiệp nào mà v́ lư-do nào đó đă tự cho ḿnh là Cảnh-Sát Sắc-Phục th́ không dính-dấp ǵ về t́nh-báo, nhất là Cộng-Tặc Miền Nam và Cộng-Sản Bắc-Việt Xâm-Lăng.

    Trung-Tâm Huấn-Luyện T́nh-Báo của tôi nằm trên băi biển Sơn-Chà, tuốt bên kia bờ Hàn-Giang. Lần nào khai-giảng hoặc bế-giảng Khóa nào Nhà-Trường cũng đều có mời các cấp chỉ-huy cả Đặc-Cảnh lẫn Sắc-Phục đến dự. Về sau, tôi bỏ bớt tiệc măn-khóa, chấm dứt t́nh-trạng bắt các học-viên góp tiền. Không c̣n tiệc-tùng, th́ phần lớn quan-khách ngớt văng-lai, viện cớ bận việc và đường quá xa; nhưng anh Long vẫn tiếp-tục đến dự — anh nói — để yểm-trợ tinh-thần chung.

    Hồi đó, anh thăng cấp trước tôi, nhưng bao giờ cũng ư-tứ nhường tôi về ngôi thứ đứng+ngồi, nhất là trong các cuộc họp chính-thức có các cấp dưới từ các nơi về, v́ chức-vị anh thấp hơn. Anh nói: ḿnh phải nêu gương kỷ-luật cho thuộc-viên, mà mấu chốt của kỷ-luật là tôn-ti.
    Về mặt tư-pháp, Trung Tá Nguyễn Văn Long đă thực-hiện đúng khẩu-hiệu “pháp bất vị thân”. Ngay đối với chính đồng-nghiệp, bất-cứ nhân-viên Cảnh-Sát nào mà phạm tội h́nh-sự là anh truy-tố ra Ṭa thẳng tay — anh nói — để lành-mạnh-hóa nội-bộ, và nêu gương thượng-tôn luật-pháp cho người dân. Bởi thế, anh bị nhiều người gọi bằng cái tên “Long Lư”, ư nói anh chỉ biết chiếu-lư chứ không vị-t́nh.

    Sau Hiệp-Định Paris 1973, t́nh-h́nh xă-hội Miền Nam thật là rối-ren. Bên ngoài th́ Cộng-Sản Bắc-Việt công-khai ồ-ạt đổ thêm quân và chiến-cụ, vũ-khí vào tấn-công ta; bên trong th́ các tổ-chức xưng-danh đối-lập và lợi-dụng tự-do quá-khích, tiếp tay với các phần-tử nằm vùng, ngày càng gia-tăng mức-độ và cường-độ gây hỗn-loạn trật-tự và làm suy-thoái tinh-thần các lực-lượng Quốc-Gia. Về mặt chính-trị, CSQG vừa phải đối-phó với các bộ-phận Đảng, Mặt-Trận, Nhà-Nước và Nhân-Dân của CSXL và “Việt-Cộng”, vừa phải chống-đỡ các phần-tử, phe nhóm chủ-bại và nội-ứng cho kẻ thù.

    Về mặt tệ-đoan xă-hội, ung nhọt tràn lan khắp nơi. Riêng về nạn dịch nhũng-nhiễu tham-lam, công-tác đương-đầu đă gặp quá nhiều khó-khăn. Hầu như kẻ nào làm bậy cũng đều nấp dưới danh-nghĩa của một chính-đảng, t́m sự che-chở của một đoàn-thể hay một số cấp lănh-đạo nào đó trong Chính-Quyền. Đụng vào họ, dù họ là kẻ phạm-pháp, có thể là tự rước lấy tai-họa vào ḿnh. Thế mà anh Long đă dám xúc-tiến điều-tra, lập hồ-sơ truy-tố nhiều nhân-vật đáng sợ. Nhiều vụ lắm. Và vụ mà tôi thích nhất là vụ “tiền trợ-cấp dân Quảng-Trị tị-nạn”. Đại-khái như sau:

    Đầu năm 1975, đồng-bào từ Tỉnh Quảng-Trị bắt đầu di-tản. Chính-Quyền Trung-Ương tổ-chức đón tiếp và cứu-trợ họ tại Trại Tạm-Cư Đà-Nẵng. Trên thực-tế, có người đă vào, có người vẫn c̣n ở lại ngoài kia. Do đó, có một tổ-chức quy-mô đứng ra lập hồ-sơ ma để lănh các món cứu-trợ di-tản nhiều hơn bội-phần: tiền mặt, thực-phẩm, thuốc-men, áo+quần, giường+mùng chăn+chiếu, xi-măng, tôn, v.v…, cấp cho cả đồng-bào ở Trại lẫn đồng-bào vẫn c̣n ở Tỉnh cũ mà được chứng-nhận là đă nhập Trại Tạm-Cư, do ngân-sách của Bộ Xă-Hội đài-thọ. Thậm chí, họ c̣n lập thêm hồ-sơ theo diện tị-nạn, dành cho đồng-bào dời-cư từ các xă bất-an và “xôi-đậu” đến định-cư tại các xă an-ninh, để lănh thêm loại trợ-cấp này vốn áp-dụng chung cho bất-cứ vùng quê nào. Chưa thỏa, họ c̣n chứng-nhận cho cũng những đồng-bào ấy là nguyên cơ-sở của Việt-Cộng ở vùng địch kiểm-soát, nay bỏ kẻ thù về với Quốc-Gia, để hưởng các khoản trợ-cấp loại này do Bộ Chiêu-Hồi cung-cấp định-kỳ, v.v… Ngoài ra, người dân di-tản cũng bị lôi-cuốn vào t́nh-trạng hỗn-tạp chung bên ngoài Trại, lẫn-lộn giữa hợp-pháp và bất-hợp-pháp. Một số trở thành nhân-viên Chương-Tŕnh Áo Xanh, do một tổ-chức xă-hội Hoa-Kỳ tài-trợ, cung-cấp việc làm cho người lao-động thất-nghiệp. Một số cũng là hội-viên Hội Cựu-Chiến-Binh và Dân-Phế, quy-tụ lính cũ đâu từ thời Pháp-thuộc, thời Nhật chiếm, thời kháng-Pháp, thời Bảo-Đại, và nạn-nhân các vụ tai-nạn lưu-thông, ẩu-đả, hủy-hoại thân-thể, tàn-tật bẩm-sinh, vân vân, nhưng cũng được lập hồ-sơ và lănh đều đều từ một tổ-chức nhân-đạo Hoa-Kỳ những món viện-trợ tiền mặt, thực-phẩm, thuốc-men, đồ dùng, v.v… Hơn nữa, một số giả-danh là Thương-Phế-Binh, cưỡng-thu “hụi chết” tại các hàng quán, bến xe. Phanh-phui vụ này ḷi ra vụ kia. Tóm lại, một người lănh nhiều trợ-cấp với nhiều tư-cách trong nhiều hoàn-cảnh khác nhau; nhưng chỉ lănh được một ít, c̣n th́ nạp vào túi riêng của bọn gian+tham.

    Vụ án đă làm chấn-động dư-luận, v́ dính đến nhiều cấp+chức thuộc nhiều giới, ngành, từ cấp Tổ, Toán, Khóm, Thôn, Xă, Phường, lên đến Quận, Tỉnh, vào thấu Sài-G̣n, là những phần-tử chứng-nhận láo, chấp-thuận bừa, do đó, đă phí-phạm công-quỹ và phá-hoại chính-sách của Trung-Ương.

  9. #19
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Trung Tá NGUYỄN VĂN LONG

    TRONG việc móc-nối đầu mối, nuôi-dưỡng đường dây, lắm lúc nhân-viên Đặc-Cảnh phải giao-tiếp với những kẻ bất-lương. Bởi thế, đă có một số Trưởng Mối bị trừng-phạt oan, v́ phía H́nh-Cảnh nghi là đồng-lơa hay đỡ đầu. Sau khi có thêm bộ-phận An-Ninh Cảnh-Lực, Đặc-Cảnh càng gặp nhiều khó-khăn hơn, đến nỗi Tư-Lệnh Đặc-Cảnh Trung-Ương hồi đó là Đại Tá Nguyễn Mâu đă phải lên tiếng phản-đối công-khai trước một đại-hội toàn-quốc, do Tổng Giám-Đốc chủ-tọa, nhưng chưa ngă-ngũ ra sao.

    Với tôi, anh Long đă chịu nhượng-bộ: nếu gặp nhân-viên Đặc-Cảnh liên-can đến các vụ h́nh, anh để tùy tôi xét trước, để tránh oan-ức, trở-ngại cho công-tác ch́m. Ấy là nhờ anh hiểu rơ phương-thức t́nh-báo và đặt nhu-cầu chống Cộng lên hàng ưu-tiên. Đó là quyết-định linh-động duy-nhất trong cương-vị Chánh Sở Pháp-Cảnh của anh Long.

    * * *

    KỶ-NIỆM đậm nét nhất trong đời tôi về anh Long là vụ rút lui ra khỏi Đà-Nẵng, thành-lũy cuối cùng của Quân-Khu I Việt-Nam Cộng-Ḥa.

    Lúc ấy vào khoảng 10 giờ tối ngày 28-3-1975.

    Trên máy vô-tuyến truyền-tin thuộc hệ Cảnh-Sát Sắc-Phục nội-thành Đà-Nẵng, tôi nghe một đài gọi đài trung-ương, nhưng không có ai trả lời. Lát sau, có một đài khác cất tiếng: “Đừng gọi vô-ích, bọn chúng chạy hết cả rồi!” Tôi bèn hỏi đài hồi năy, th́ được báo-cáo là có nhiều người ăn mặc lộn-xộn, vũ-khí cầm tay, đang nép hai bên lề đường từ hướng Ḥa-Cường tiến vào.

    Tôi dùng làn sóng của hệ Đặc-Cảnh ra lệnh cho Sở Tác-Vụ Vùng và Sở Đặc-Cảnh sở-tại đối-phó, đồng-thời gọi máy điện-thoại cho Đại Tá Nguyễn Xuân Lộc, Tư-Lệnh Cảnh-Lực Vùng I, lúc ấy đang cùng có mặt với các Chánh-Sở Vùng và một số Chỉ-Huy Cảnh-Lực Tỉnh tập-trung tại đây.

    Lát sau, anh Long đến ngồi tại pḥng truyền-tin của Ngành Đặc-Cảnh Vùng — nơi đây có máy âm-thoại của cả 2 hệ nổi+ch́m địa-phương lẫn hệ toàn-quốc, và máy điện-thoại bưu-điện, điện-thoại quân-sự — cách dăm mười phút lại gọi hỏi tôi t́nh-h́nh thế nào.

    V́ máy quá bận, tôi khuyên anh vào pḥng-giấy của Đại Tá Lộc để cùng theo-dơi diễn-biến t́nh-h́nh chung.

    Khoảng sau 11 giờ đêm, từ đài Đặc-Cảnh Vùng I Trung Tá Long gọi tôi. Lần nầy tôi nghe giọng anh run lên, lời-lẽ trịnh-trọng khác thường: “Tôi xin mời ông Phụ-Tá đến ngay để tổ-chức pḥng-tuyến và chỉ-huy đội-ngũ tử-thủ cùng với anh+em chúng tôi!” (Tử-thủ là lời cam-kết của trung-tướng Ngô Quang Trưởng đọc trên Đài Phát-Thanh Đà-Nẵng suốt chiều hôm nay).

    Tôi hỏi về Đại Tá Lộc th́ anh đáp gọn với giọng bực-tức và chán-chường: “Các ngài đào-ngũ hết rồi!”

    Anh Long kể lại với tôi là anh được lệnh, cùng với mọi người có mặt tại trụ-sở Vùng — Chánh-Sở các Sở, Chỉ-Huy của một số Tỉnh, có cả mấy viên Đại Tá quân-đội — theo Đại Tá Lộc xuống bến Giang-Cảnh, lên tàu Giang-Cảnh, rời bến hướng ra biển Đông.

    Anh hỏi đi đâu th́ Đại Tá Lộc trả lời: “Chúng ta di-tản vào Nam!” Anh thấy máu uất xông lên đỉnh đầu, la lên: “Giặc chưa tấn-công, thuộc-viên vẫn c̣n ở lại, mà cấp chỉ-huy đă lén-lút bỏ đi như thế này là hèn!” Lộc cố giải-thích: “Bộ Tư-Lệnh Quân-Đoàn đă rút đi rồi. Trong t́nh-huống này chúng ta đành phải phụ ḷng anh+em mà thôi!” Long bèn rút súng, nh́n thẳng vào mặt từng người với vẻ khinh thường, và bảo tàu ghé vào bờ cho anh trở lui.

    Và anh đă về trụ-sở, để cùng chiến-đấu, sống chết có nhau với anh+em.

    Tôi tin-tưởng và kính-phục anh Long vô cùng; nhưng tôi thấy rơ là nếu đến sở th́ sẽ dính kẹt ở đó, khó ḷng điều-động hoạt-động bên ngoài, nên nói là tôi bận họp. Anh xin mượn tôi một máy vô-tuyến cầm tay, và đ̣i đến họp với tôi.

    Tôi kéo thiếu-tá Ngô Phi Đạm, Chánh Sở Tác-Vụ, ra xe. Đến bến Bạch-Đằng quả thấy xe Jeep xanh+trắng và ô-liu bỏ đậu nghênh-ngang; gọi máy vô-tuyến trên hệ Sắc-Phục đến Đại Tá Lộc ở sở, ở nhà, không ai trả lời; tôi bèn chỉ-thị Trung-Tâm Hành-Quân Đặc-Cảnh báo-cáo sự-việc lên Trung-Ương.

    Anh Long đă đến nhà tôi, hỏi tôi ở đâu, tôi đáp là đến Đặc-Khu, nhưng tôi đến Bộ Tư-Lệnh Quân-Đoàn; nơi đây vắng hoe. Anh hỏi, tôi đáp là vào phi-trường, nhưng tôi đến Sở An-Ninh Quân-Đội; nơi đây cũng chẳng c̣n ai. Anh không gặp tôi, lại hỏi; và tôi lại dối, tránh anh. Cứ thế mà tôi đến khắp các nơi vốn là chỗ dựa cho niềm tin của dân-nhân.

    Đến sau nửa đêm th́ cả thành-phố đổ dồn qua cầu Trịnh Minh Thế để qua bến cảng, băi biển Quận III, để mong chạy vào Sài-G̣n. Tôi cùng Tác-Vụ, Thám-Sát Đặc-Biệt, quan-sát xong t́nh-h́nh bên đó, len lách trở về th́ thoáng dưới ánh đèn pha thấy rơ h́nh-dáng của anh, mặc cảnh-chiến-phục, gác khẩu M-16 ngang đùi, mặt-mày đỏ gay, tức uất nhưng đầy cương-nghị, lái xe vụt qua.

    Đó là h́nh-ảnh cuối cùng của Trung Tá Nguyễn Văn Long, măi măi hằn sâu trong kư-ức tôi.

    * * *

    Gần sáng, ngày 29-3-1975, Việt-Cộng pháo-kích hải-cảng, phi-trường. Mờ sáng, đặc-công từ hướng Núi Non-Nước bắt đầu tấn-công vào. Đến trưa, tôi gọi máy về cho đại-úy Nguyễn Văn Tuyên, Chánh Sở Nghiên+Kế, lúc đó c̣n ngồi tại chỗ, ra lệnh giải-tán Trung-Tâm Hành-Quân của Đặc-Cảnh Vùng I, là bộ-phận sau rốt của Chính- Quyền VNCH c̣n hoạt-động đến phút cuối cùng, và cho phép thuộc-viên tự t́m phương-tiện thoát thân. Xế chiều, tôi mới kiếm được chiếc thúng, rời bờ, liều-lĩnh trước các làn đạn pháo-kích của địch và trực-xạ của chính bạn ḿnh.

    Và tôi không c̣n gặp lại anh Long.

    * * *

    Cái chết của Trung Tá Cảnh-Sát Nguyễn Văn Long làm tôi suy-nghĩ rất nhiều.

    Anh đă phục-vụ dưới nhiều chế-độ khác nhau, đảm-trách công-tác ở nhiều lĩnh-vực khác nhau, nhưng vẫn giữ ḿnh trung-chính khiết-liêm. Anh tuy lớn tuổi nhưng vẫn trẻ-trung trong lối sống và trong công việc, không bị lứa trẻ sau này vượt qua.

    Trong lúc nước nhà đang bị cộng-sản xâm-lăng, anh ư-thức được chúng là kẻ thù số một của toàn-dân, sự-nghiệp chống Cộng phải là ưu-tiên số một của mọi người yêu quư Tự-Do, nên anh phải góp phần vàọ Thành-quả chống Cộng của CSQG nói chung, là đă có lúc hạ được nhiều tên cộng-tặc hơn cả con số chúng bị thiệt-hại trên chiến- trường, do đó, anh tự nhận lănh vào bản-thân ḿnh một phần trách-nhiệm đối với đối-phương về những tổn-thất mà chúng hứng chịu nặng-nề; nhưng trên tất cả là sự sụp đổ thảm-khốc của Việt-Nam Cộng-Ḥa, mà đối với Tổ-Quốc, Dân-Tộc, Lịch-Sử, và Thế-Giới, th́ cái trách-nhiệm vô cùng lớn-lao ấy nhất-định là của mọi người, trong đó có anh; nên anh tự xử — cũng như các anh-hùng Nguyễn Khoa Nam, Phạm Văn Phú, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai, Hồ Ngọc Cẩn, vân vân — để tạ tội với Tiền- Nhân và Quốc-Dân, và để nói lên tinh-thần bất-khuất của người chiến-sĩ Tự-Do, không chịu hạ ḿnh đầu-hàng kẻ thù.

    Cái chết của anh Long làm tôi hănh-diện vô cùng. Tuy người chết không mong được đời nhắc đến, nhưng bổn-phận của người sống là phải phát-huy những tấm gương trí-dũng ngời sáng ấy, để nhờ đó mà ḿnh tin-tưởng và phấn-khởi tiếp-tục lo toan sự-nghiệp chung.

    Bây giờ, đối với toàn-dân, Nguyễn Văn Long không c̣n là một Trung Tá, là một Chánh-Sở Tư-Pháp, là một viên- chức An-Ninh, là những ǵ ǵ khác nữa… mà anh đă là và vẫn c̣n là đại-diện cho bất-cứ chiến-hữu ưu-tú nào, không phân-biệt cấp/bậc, chức-vụ, ngành/nghề, h́nh-sự hay phản-gián, phái mạnh hay phái đẹp; mà anh đă vinh- quang đi vào Lịch-Sử với tư-cách một anh-hùng của Dân-Tộc Việt-Nam nói chung và Lực-Lượng Cảnh-Sát Quốc-Gia nói riêng.

    Lê Xuân Nhuận
    (trong cuốn hồi-kư “Cảnh-Sát-Hóa”)

    nguồn : www.freewebs.com/quochan/TrungtaLong.htm

  10. #20
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Trung Tá Đặng Sỹ Vinh

    Trung Tá Đặng Sỹ Vinh



    (nguồn:http://www.vietnamdaily.com/)


    Cuối tháng Tư năm nay, ba mươi năm sau ngày Saigon sụp đổ.

    Đối với tôi, ở tuổi 11 vào năm bảy lăm, tôi c̣n nhỏ. Xă hội quanh tôi cũng nhỏ: gia đ́nh, vài đứa bạn tiểu học, hàng quán quanh nhà, chợ Ông Tạ, nhà thờ An Lạc, nhà thờ Nam Thái, trường Bắc Hải… Vậy thôi! Thế nhưng cái xă hội nhỏ và đơn giản của tôi phải mang một dấu ấn sắc, nhọn, lầy lụa, dă man. Ba mươi năm sau “ngày ấy,” tôi viết lại câu chuyện này để một lần nh́n vào dấu sẹo trong tâm hồn ḿnh. Viết để lư luận về nó một cách b́nh tĩnh và trưởng thành hơn. Viết để nói với những người đă đem đến cho tôi kinh nghiệm kinh khủng đó. Nói chung, viết là lối giải tỏa tâm lư ẩn ức của người viết.

    Ngày 30/4/1975, lời tuyên bố đầu hàng đă truyền đi. Lá cờ tai họa đă bay trên Dinh Độc Lập. Bố tôi từ Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị về nhà. Mắt ông đỏ tia máu. Trước nhà tôi, những người lính cởi trần ngồi trên lề đường khóc. Họ chửi rủa rằng họ bị phản bội, bị bỏ rơi. Họ nói đến chuyện tự tử để không thẹn với hồn thiêng sông núi. Có ǵ đó khủng khiếp khi những người đàn ông khóc. Hàng xóm xúm lại an ủi họ.

    Trời chang chang nắng đổ, súng ống quân phục đầy đường từ Ngă Tư Bẩy Hiền vào Lê Văn Duyệt. Tiếng súng do bọn thanh thiếu niên hoang loạn bắn từ vũ khí vương văi trên hè phố nổ rền suốt mấy giờ liền. Đến khoảng 2 giờ chiều chỉ c̣n lác đác tiếng súng ở xa. Nỗi hoang mang tiếp tục gia tăng khi người ta bắt đầu nh́n thấy những người lính miền Bắc đeo ba lô, đi dép râu, mặt mũi lơ láo, lạ lẫm bắt đầu đi vào con đường hẻm. Bất th́nh ĺnh, trong cái oi bức, ngột ngạt của không gian, trong cái căng thẳng kinh hoàng của đầu óc, có những tiếng súng nhỏ vang lên trong một căn nhà.

    Những tiếng súng ấy nhỏ và không vội vă như người ta bắn qua lại khi giao tranh. Những tiếng súng ấy b́nh tĩnh, cách nhau đều đặn. Chúng vang lên một cách chắc chắn, chắc chắn như quyết định của người nổ súng. Đó chính là tiếng súng mà Trung Tá Đặng Sỹ Vĩnh đă nổ để kết liễu mạng sống của ông và cả gia đ́nh gồm vợ và bảy người con.

    Khoảng đâu đó cuối năm 1974, Trung Tá Đặng Sỹ Vĩnh bán căn nhà trong Cư Xá Sĩ Quan Bắc Hải và dọn về ngôi nhà nhỏ xinh cách nhà tôi khoảng 10 căn. Ngôi nhà màu xanh lá cây, cổng gạch trắng, không có garage đậu xe, mang số 98/39 đường Phạm Hồng Thái, Gia Định, thuộc Ấp Hoà B́nh, quận Tân B́nh. Đường hẻm lớn này thường được gọi là Hẻm Con Mắt, Khu Ông Tạ. Ngôi nhà nay là 98/39 Cách Mạng Tháng Tám, phường 5, Tân B́nh.

    Trung Tá Vĩnh thường mang xe sang gửi tại sân nhà ông Năm Châu xế cửa. Đó cũng là nơi tôi nh́n thấy Trung Tá lần cuối khi ông c̣n sống.

    Bà Trung Tá Vĩnh tên tục là Trần Ánh Nguyệt, chị kế của phu nhân lăo thi sĩ Hà Thượng Nhân. Đám cưới hai ông bà diễn ra vào khoảng năm 1944-1945. Ông bà từng làm chủ một nhà in. Ông tốt nghiệp Khóa 3 trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức năm 1953. Năm 1954, theo vận nước, ông bà Vĩnh vào Saigon.

    Ông bà có tất cả bảy người con. Người con cả, anh Đặng Trần Vinh, sinh năm 1948. Hai cô con gái út là một cặp sinh đôi, khoảng 15 tuổi năm 1975.

    Trung Tá Vĩnh từng phục vụ tại Pḥng Nh́ bộ Tổng Tham Mưu và sang làm việc tại Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia từ cuối thập niên 1960. Theo lăo thi sĩ Hà Thượng Nhân, ông Vĩnh là người rất hiền từ. Một số quí vị đă có dịp làm việc với ông Vĩnh đồng ư như vậy. Theo các vị này, ông Vĩnh không cau có, căi cọ với ai bao giờ. Ông điềm tĩnh và nhân hậu.

    Trong kư ức trẻ thơ của tôi, ông Vĩnh lúc ấy 56 tuổi mà c̣n phong độ. Gặp bố tôi, ông trao đổi một vài câu chuyện với giọng thật hiền ḥa, thân thiện. Anh Vinh con ông lúc ấy 27 tuổi. Anh hỏi tôi học lớp mấy, trường nào. Hai cô em gái sinh đôi của anh đùa nghịch cười rúc rích. Họ đồng tuổi với chị Trang tôi. Da họ trắng, tóc dài đen nhánh buộc bằng nơ đỏ và xanh dương.

    Âm thanh và h́nh ảnh của gia đ́nh Trung Tá Đặng Sỹ Vĩnh, nếu chỉ có thế trong tôi, đă không trở thành kư ức dễ sợ. Kư ức đó chỉ một thời gian ngắn sau, đă bằng những tiếng súng chuyển thành kinh khủng.

    Bố tôi nói buổi trưa ngày 30/4 khi nghe tiếng súng: “Chắc bác Vĩnh tự tử rồi!” Mắt ông vẫn đỏ tia máu. Tôi dư biết ông có khẩu súng lục và một trái lựu đạn trong ngăn kéo trên lầu. Bố tôi không nói ǵ nữa. Ông ngồi đó mà không ăn trưa, hai mắt lừ lừ.

    Tôi không tin lời bố tôi nói. Một đứa trẻ 11 tuổi chưa đủ khả năng để lượng định những áp lực tinh thần đang đè nặng trên vai kẻ sĩ ở lúc đất nước rơi vào tay giặc. Thực sự, dù có tin, tôi cũng không nghĩ đến cái chết của người khác vào lúc đó. Nhưng tôi sợ cái chết của bác Vĩnh và cả nhà sẽ khiến bố tôi quyết định cùng gia đ́nh chọn cái chết hơn là sống với chế độ miền Bắc.

    Mẹ tôi lo ngại, lén lấy súng lục và lựu đạn của bố gói trong bao vải ném xuống kinh Nhiêu Lộc. Mẹ tôi chỉ nói ngắn gọn với bố: “Anh muốn làm ǵ cũng phải bàn với cả nhà, nhất là với mẹ, người sinh ra anh trên đời này..”. Bà tôi thấy vậy cũng sợ, bắt chúng tôi 4 đứa âm thầm thay phiên nhau canh chừng bố. May thay sau đó bố tôi đă thoát được những ám ảnh từ gia đ́nh bác Vĩnh.

    Những tiếng súng của gia đ́nh Trung Tá Vĩnh vang lên như vậy, rồi lặng đi. Phải đến ngày hôm sau, hàng xóm mới phá cửa vào trong. Tôi chạy theo, hối hả chen vào, để rồi chết lặng khi thấy ḿnh đứng cách những xác chết không đầy một thước. Bố tôi nói không sai. Gia đ́nh bác Vĩnh tự tử thật. Ngoài pḥng khách, bác treo bộ quân phục đại lễ oai nghi. Nơi pḥng trong, quạt máy trên trần vẫn chạy. Những tấm nệm lấy từ trên lầu xuống được xếp ngay ngắn. Xác của bảy người con bác Vĩnh cũng ngay ngắn. Họ nằm cạnh nhau trên nệm, đầu quay ra cửa. Anh Vinh lớn nhất nằm phía ngoài cùng, bên phải. Hai cô con gái sinh đôi nằm ngoài cùng bên trái. Bác Vĩnh gái nằm quay ngang dưới chân các con. Mỗi người có một vết đạn duy nhất ở thái dương. Những vũng máu đông đặc. Bác Vĩnh trai nằm trong tư thế như không được ai sắp xếp cho.

    Từ nơi tôi đứng có thể nh́n thấy bàn ăn. Thức ăn c̣n đầy trong đĩa, trong bát. Những ly nước trên bàn c̣n một nửa. Mỗi ly đều có một lớp dầy cặn màu trắng. Bác Vĩnh có để lại một lá thư cho ông Đặng Sỹ Toản, anh trai của bác. Trong một thư ngắn khác, bác có lời xin lỗi hàng xóm v́ quyết định của gia đ́nh bác có thể làm phiền ḷng họ. Bác c̣n xin họ giúp báo tin cho thân nhân của bác để lo chôn cất. Bác cho biết bác c̣n một ít tiền để trong ngăn kéo.

    Ngay buổi tối hôm bác Vĩnh ra đi cùng gia đ́nh, bọn du thủ du thực trong ấp đă cạy cửa vào lục lọi khắp trong nhà bác và lấy hết tiền bạc cùng những ǵ chúng t́m thấy trước khi thân nhân đến nơi.

    Hàng xóm đă làm theo lời bác khẩn cầu. Họ báo với ông Đặng Sỹ Toản. Ông Toản báo với bà Hà Thượng Nhân. Chính bà Hà Thượng Nhân đă cùng chị là bà Chấn, chị dâu là bà Tâm, em gái là bà Viên, làm tang lễ vội vàng tiễn đưa gia đ́nh bác Vĩnh tại nghĩa trang Chí Ḥa ngày hôm sau.

    Quanh xóm tôi, người ta đoán gia đ́nh bác Vĩnh đă uống thuốc ngủ hoặc một chất độc v́ nh́n thấy nhiều cặn mầu trắng trong những ly nước. Người ta đoán bác Vĩnh là người cuối cùng ra khỏi cuộc đời v́ xác bác nằm không ngay ngắn.

    C̣n tôi, tôi lạnh người trong nhiều năm mường tượng về giây phút cuối cùng của gia đ́nh bác Vĩnh. Tôi thắc mắc đủ điều. Ai là người xướng ra đề nghị đó? Tôi cứ cho rằng chỉ có thể là bác Vĩnh hay anh Vinh. Nhưng Bác Vĩnh hay anh Vinh? Người hiền như bác Vĩnh sao đi đến quyết định như vậy? Bác Vĩnh hay anh Vinh có bàn thảo với bác Vĩnh gái trước không? Có nói ǵ với những người c̣n lại trong gia đ́nh không? Nói thế nào? Nếu có nói, làm sao có thể thuyết phục người khác cùng chết với ḿnh? Thuyết phục bằng nỗi sợ Cộng Sản? Thuyết phục bằng t́nh gia đ́nh sống chết có nhau? Thuyết phục bằng lư tưởng không đội trời chung với Cộng Sản? Nếu bác Vĩnh là người cuối cùng ra đi, bác nghĩ ǵ vào giây phút ấy?

    Sau này, người ta lấy nhà bác Vĩnh làm hợp tác xă, rồi phường đội, v.v.. .Những ai ngủ tại đó không bao giờ dám tắt đèn. Tôi nghĩ bác Vĩnh hiền thế, dọa họ làm chi. Tôi lại ước bác Vĩnh hay các anh chị con bác trở lại thế gian này khóc lóc như những vong hồn chết oan. Với riêng tôi, nếu có thế, h́nh ảnh gia đ́nh bác không ám ảnh tôi. Th́ ít nhất họ cũng thường t́nh: chết mà không muốn chết nên hiện về phá phách. Nhưng không, chẳng có ai hiện về. Chín thành viên gia đ́nh bác Vĩnh tự tử mà như bằng ḷng với chọn lựa của ḿnh. Họ chết cái chết can đảm và chính trực.

    Nhưng tại sao người chính trực phải chết thảm cả gia đ́nh? Tiếng súng của gia đ́nh bác Vĩnh từ đó cho tôi cái nh́n trần tục hơn về xă hội chung quanh. Lư giải về người hiền người ác không chỉ c̣n trong cổ tích Trời giúp kẻ hiền lương. Nếu Trời luôn giúp kẻ hiền, sao cả gia đ́nh bác Vĩnh chỉ c̣n một đường chết? Niềm tin của tôi không có chỗ dựa vững chăi: Thượng Đế tạo con gà, con thỏ xinh xinh, rồi lại tạo con cọp con cáo làm ǵ? Tôi xét đoán về người đối diện một cách dè dặt hơn, bởi có ai đoán nổi quyết định của bác Vĩnh? Bác Vĩnh hiền c̣n dám thế, người hung hăn sẽ bán cả trời khi uất hận!

    Tôi gơ cửa ông bà Hà Thượng Nhân t́m một giải tỏa cho nỗi ám ảnh của ḿnh. Tôi viết như viết tâm sự của ḿnh khi kể lại chuyện thương tâm của gia đ́nh Trung Tá Đặng Sỹ Vĩnh. H́nh ảnh anh Vinh và hai chị sinh đôi cùng 4 anh chị em c̣n lại, mặt trắng bệch, mắt nhắm nghiền, máu chảy thành vũng từ thái dương, tóc bay lơ thơ dưới quạt trần, từ nay xin là những đau thương của quá khứ. Chính từ những đau thương ấy, xin cho hiện tại được chăm chút trân trọng hơn. Xin cho tương lai được coi là quan trọng hơn hết khi kính mến những hy sinh, khổ sầu của người đă chết v́ vận nước.

    Xin thắp một nén nhang cho mỗi người trong gia đ́nh Trung Tá Đặng Sỹ Vĩnh. Xin gửi lời người đă khuất cầu nguyện cho đất nước, và cho chính tôi được nhẹ nhàng.

    Nguyễn Hà Tường Anh

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 2 users browsing this thread. (0 members and 2 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 29
    Last Post: 19-03-2012, 02:26 AM
  2. Replies: 0
    Last Post: 18-03-2011, 11:49 AM
  3. Replies: 4
    Last Post: 02-03-2011, 12:46 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •