Chiến tranh Đông Dương III
Tác giả: Hoàng Dung
Chương 10
Sơ lược lịch sử Trung hoa và những quan hệ với Việt nam
Theo truyền thuyết, lịch sử Trung hoa bắt đầu từ khoảng bốn ngàn năm trước Tây lịch. Sau thời Bàn Cổ là những vua Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Đế, Nghiêu, Thuẫn, rồi mới đến nhà Hạ, nhà Thương. Nhưng những giả thuyết về lịch sử vào thời thượng cổ này rất hoang đường, chẳng hạn theo đó vua Thần Nông làm vua một trăm bốn mươi năm, các vua Hoàng Đế, vua Nghiêu làm vua đúng một trăm năm. Những tài liệu về khảo cổ đào được ở Bắc kinh cho thấy triều đại quan trọng đầu tiên được xác nhận là nhà Thương, kéo dài từ năm 1766 đến 1027 trước Tây lịch. Chu Văn Vương sau đó diệt được vua Trụ lập ra nhà Chu. Trong thời đại này, chế độ phong kiến được củng cố. Trung hoa bị phân tán ra thành hơn bảy mươi nước nhỏ. Nhà Chu xưng vương, các nước lớn được phong tước bá, các nước nhỏ được phong hầu. Triều đại nhà Chu được chia làm hai thời kỳ. Tây Chu từ 1 122 đến 771 trước Tây lịch, và Đông Chu từ 771 đến 249 trước Tây lịch. Đông Chu lại được chia làm hai giai đoạn, Xuân Thu và Chiến Quốc. Thời Chiến Quốc, tuy Trung hoa vẫn c̣n bị phân tán và loạn lạc, nhưng đó cũng là thời kỳ mà xă hội Trung hoa đă nảy sinh những nhà tư tưởng vĩ đại nhất, cùng thời với Socrate, Plato, Aristotle... Ở Hy Lạp. Đó là Khổng Tử, Lăo Tử, Mạnh Tử, Trang Tử, Tuân Tử, Hàn Phi Tử... những nhà tư tưởng đă góp phần tạo dựng nên nền văn minh Trung hoa. Sau thời Chiến Quốc, Tần Thuỷ Hoàng lần đầu tiên thống nhất được Trung hoa. Đó cũng là thời kỳ mà ở phương nam, An Dương Vương lập ra nước Âu Lạc, nền móng của Việt nam. Lên làm vua không bao lâu, Tần Thuỷ Hoàng sai Đồ Thư đem quân đánh chiếm đất đai của giống dân Bách Việt ở Quảng Đông và Quảng Tây. Muốn được yên, An Dương Vương xin thần phục nhà Tần. Tần Thuỷ Hoàng làm vua được khoảng bốn mươi năm th́ chết, Trung hoa lâm vào cảnh nội chiến Hán Sở tranh hùng. Bốn năm sau, Lưu Bang diệt được Hạng Vơ, lập nên nhà Hán. Lúc đó, Triệu Đà đă chiếm được nước Âu Lạc, đổi tên nước là Nam Việt, tuy độc lập nhưng ngoài mặt vẫn thần phục nhà Hán. Nhà họ Triệu làm vua được gần một trăm năm. Đến năm 111 trước Tây lịch, Hán Vũ Đế sai Lộ Bác Đức đem quân sang đánh Việt nam, quân nhà Triệu bị thua, và Việt nam bắt đầu bị ch́m đắm trong gần một ngàn năm Bắc thuộc.
Trong giai đoạn Bắc thuộc đó, Trung hoa cũng trải qua nhiều triều đại. Hết Hán đến Tam quốc, Tấn, Lương, Trần, Tuỳ, Đường, Ngũ Quư... Trừ một số ít như Tích Quang, Nhâm Diên, đa số các quan lại và thái thú Trung hoa đều tàn ác. Thời đại nào người Việt nam cũng nổi lên chống ngoại xâm. Đầu tiên là hai bà Trưng, sau đó là bà Triệu, Lư Nam Đế, Triệu Quang Phục, Mai Hắc Đế, Phùng Hưng... nhưng tất cả đều bị thất bại, cho đến năm 939, Ngô Quyền đại tướng quân Nam Hán, mở đầu một kỷ nguyên độc lập và tự chủ cho Việt nam.
Năm chục năm sau khi Việt nam được độc lập, bên Trung hoa, nhà Tống đă kế nghiệp nhà Đường, lại đem quân sang đánh Việt nam, nhưng quân Tống bị Thập Đạo tướng quân Lê Hoàn đánh bại. ít năm sau, tể tướng Vương An Thạch nhà Tống lại định đánh Việt nam để lấy uy tín, nhưng vua nhà Lư đă cử Lư Thường Kiệt đem quân sang “tấn công tự vệ” trước, và chiếm được châu Khâm, châu Liêm trước khi rút quân về. Triều đại nhà Tống của Trung hoa kéo dài được ba trăm năm th́ quân Kim từ quan ngoại kéo vào đánh chiếm bắc Trung hoa. Nhà Tống rút về phía nam lập ra nhà Nam Tống được có năm chục năm th́ quân Mông Cổ vượt Vạn Lư Trường Thành kéo vào chiếm đóng toàn cơi Trung Nguyên. Lúc đó Thành Cát Tư Hăn đă chinh phục được Cao Ly cùng những tiểu quốc vùng Trung á và đă hai lần kéo quân đánh phá các nước châu Âu. Nhưng khi Hốt Tất Liệt sai con là Thoát Hoan hai lần đem quân đánh Việt nam, cả hai lần quân Nguyên đều bị đại bại. V́ quân Mông Cổ cai trị Trung hoa quá hà khắc, năm 1368, Chu Nguyên Chương, một ông sư hồi tục, hưng binh khởi nghĩa, đánh đuổi được quân Mông Cổ lập ra nhà Minh. Minh triều cũng có một thời kỳ cực thịnh, có những đội thương thuyền đi tới tận duyên hải Phi Châu. Năm 1406, nhà Minh lấy cớ Hồ Quư Ly thoán đoạt ngôi vua đem quân sang đánh Việt nam. Hồ Quư Ly bị giết, nhưng dân Việt nam, dưới sự lănh đạo của Lê Lợi, nổi lên đánh đuổi được quân Minh và lập ra nhà Lê.
Năm 1644, triều đại nhà Minh suy tàn, trong nước Lư Tự Thành nổi lên làm loạn, chiếm được Bắc kinh. Vua Sùng Trinh thắt cổ tự tử. Tướng pḥng thủ biên giới phía bắc là Ngô Tam Quế mở cửa Sơn Hải quan cho quân Măn Châu vào dẹp Lư Tự Thành và cai trị Trung hoa. Trước dân số đông đảo của Trung hoa, quân Măn Châu, khác với quân Mông Cổ, không dùng bạo lực để cai trị, mà trái lại dùng người Hoa, giữ nguyên hệ thống hành chính, duy tŕ nếp sống, tôn trọng Nho học. Họ mang quân chinh phục thêm Ngoại Mông, Thanh Hải, Tây Tạng. Lănh thổ Trung hoa, hợp với đất Măn Châu, trở nên to rộng nhất trong lịch sử Trung hoa (Ngoại Mông, sau này với sự giúp đỡ của Liên xô được độc lập và trở nên Cộng hoà nhân dân Mông Cổ) Nhà Thanh, cũng như những triều đại trước, lại đem quân mưu toan xâm lăng Việt nam. Nhưng quân Thanh vừa vào đến Thăng Long th́ đă bị vua Quang Trung đánh tan. Triều đại nhà Thanh, với những vị vua sáng suốt như Khang Hi, Càn Long, đă đem lại sự ổn định và thịnh vượng cho Trung hoa trong một thời gian dài.
Nhưng sự ổn định và thịnh vượng đó càng làm tăng thêm cái định kiến “Đại Hán”, “con trời”, và “trung tâm thế giới” của họ. V́ thế nên khi những thế lực châu Âu tràn vào áp chế Trung hoa, họ đă quá vụng về và chậm chạp để thích ứng với những đổi thay. Cố gắng canh tân của vua Quang Tự chỉ kéo dài được đúng một trăm ngày. Sau đó Quang Tự bị Từ Hi quản thúc, Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi phải trốn qua Nhật. Triều đại nhà Thanh chấm dứt năm 1912 khi Phổ Nghi thoái vị, nhường chức cho Viên Thế Khải.
Cũng như ở Việt nam, trong một thời gian dài sau đó, Trung hoa bị ch́m đắm trong chiến tranh chống ngoại xâm rồi nội chiến, và rồi cuối cùng, phe cộng sản chiếm ưu thế. Nh́n lại lịch sử hơn ba ngàn năm của Trung hoa, từ thượng cổ đến hiện đại, từ phong kiến đến cộng sản, ta thấy Trung hoa có hai đặc điểm: ḷng tự cao và kiêu hănh của một quốc gia lớn, có một nền văn minh lâu đời, và mối lo sợ bị những dân tộc lân bang dù nhỏ yếu hơn xâm lăng. Hai đặc điểm đó, thoạt xem có vẻ mâu thuẫn, nhưng đă khiến cho khuynh hướng bành trướng của Trung hoa lúc nào cũng tiềm tàng mạnh mẽ. Ḷng tự cao của Trung hoa là một điều dễ hiểu. Trong khi ở châu Âu, từ buổi b́nh minh của lịch sử, các dân tộc Anh, Pháp, Ư, Đức, Nga... về dân số, văn hoá, kỹ thuật đều gần như tương đương. Trong một thời điểm nào đó, một trong những quốc gia đó có thể trở - nên hùng mạnh hẳn lên, nhưng theo thời gian, họ đều coi nhau như những đối thủ b́nh đẳng. Ngược lại, tại Đông Á, trong suốt hơn hai mươi thế kỷ, Trung hoa lúc nào cũng trội hơn bội phần về dân số, diện tích đất đai, văn hoá. Các dân tộc mà Trung hoa biết đến như Việt nam, Nhật bản, Cao Ly, Lào, Thái, Mông Cổ... đều là những dân tộc nhỏ yếu hơn. Với tŕnh độ khoa học và hiểu biết địa lư hồi đó, họ mặc nhiên coi ḿnh như trung tâm của vũ trụ, tự gọi tên nước là Trung quốc, triều đ́nh gọi là thiên triều, vua là thiên tử, nhận mệnh trời không những để cai trị Trung hoa mà c̣n để nhận sự thần phục của các nước lân bang.
Tuy trong khoảng một trăm năm gần đây, Trung hoa đă trải qua nhiều thăng trầm, có những lúc bị liệt cường châu Âu xâu xé thảm hại, và thế giới cũng đă trải qua nhiều biến chuyển chính trị quan trọng, nhưng Trung hoa, với dân số đông đảo, đất đai to rộng, lịch sử một nền văn minh rực rỡ, có lẽ vẫn c̣n giữ nguyên quan niệm về vai tṛ đàn anh của ḿnh, ít ra là với những nước trong vùng.
Như trên đă nói, tuy là một nước lớn, nhưng quốc gia nào cũng có những thời kỳ hưng thịnh hay suy tàn. Trung hoa đă luôn lo sợ bị các nước lân bang nhỏ yếu hơn xâm lăng. Từ hơn hai ngàn năm trước, mối sợ hăi “rợ Hồ” phương bắc đă trở nên một mối ám ảnh, khiến Tần Thuỷ Hoàng phải xây Vạn Lư Trường Thành dài hơn ba ngh́n cây số để pḥng thủ, nhưng trường thành này cũng không ngăn cản nối quân Kim, quân Mông Cổ, rồi quân Măn Thanh đă tràn vào cai trị Trung hoa tổng cộng khoảng năm trăm năm, trước khi Trung hoa bị các cường quốc châu Âu và Nhật bản đến xâu xé thêm một trăm năm. Trung hoa chỉ có thể cảm thấy yên tâm sau khi đă xâm chiếm, sát nhập hay bất buộc các nước lân bang thần phục. Do t́nh trạng bất an đó, Trung hoa cứ măi măi muốn bành trướng lănh thổ. Từ Trung Nguyên, Trung hoa đă sát nhập Thanh Hải, Tân Cương, Nội Mông, Liêu Đông, Hắc long giang... Diện tích lănh thổ Trung hoa đă tăng gấp gần ba lần trong mười thế kỷ qua. Trong những năm gần đây, đảng cộng sản Trung hoa, trên con đường thực hiện giấc mơ thế giới đại đồng, vẫn không quên vị trí thiên triều cũ. Từ năm 1939, khi viết cuốn “Cách mạng Trung hoa và đảng cộng sản Trung hoa”, Mao Trạch Đông vẫn coi Việt nam như một nước chư hầu và đă viết “Sau khi đánh bại Trung hoa, các thế lực đế quốc xâm chiếm những nước chư hầu: Nhật chiếm Cao Ly, Đài loan, Ryukyu, Rescadores và Porl Arthur, Anh chiếm Miến Điện, Boutan, Hồng kông, Pháp chiếm An Nam...”. Năm 1953, họ tấn công và sát nhập Tây Tạng, trước kia là lănh thổ bảo hộ, vào Trung hoa. Năm sau, họ in bản đồ quốc gia, trong đó lănh thổ Trung hoa không những bao gom tất cả các quốc gia Đông Nam Á, mà c̣n lấn sang cả Ấn độ và Liên xô. Bản đồ năm 1973 của họ giành hết chủ quyền trên hầu hết các đảo trên biển Đông, cho nên ranh giới lănh hải của họ đă chạy dọc theo bờ biển Việt nam xuống tới gần Indonesia và chạy dọc ngược lên gần đảo Lu-xong của Phillipines. Năm 1965, trong một buổi họp của Bộ Chính trị, Mao Trạch Đông đă tuyên bố: “Chúng ta phải lấy lại vùng Đông Nam Á, gồm Nam Việt nam, Thái lan, Miến Điện, Malaysia và Singapore... Gió đông sẽ thổi bạt gió tây khi chúng ta thâu hồi được toàn vùng Đông Nam Á”. Năm 1974, lợi dụng cuộc nội chiến ở Việt nam, họ chiếm quần đảo Hoàng Sa. Thời gian gần đây, họ mưu chiếm nốt Trường Sa.
Việt nam, sau một ngàn năm Bắc thuộc đă chịu nhiều ảnh hưởng của Trung hoa từ chính trị, kinh tế đến văn hoá. Tuy nhiên, dân tộc Việt vẫn duy tŕ được một số đặc điểm riêng, trong đó có tinh thần độc lập. ảnh hưởng của Nho giáo về trung quân ái quốc chỉ làm tinh thần yêu độc lập đó thêm mănh liệt.
Đối với Trung hoa, Việt nam như một miếng mồi khó nuốt. ĐốI với Việt nam, Trung hoa là một thực tế. Đó là một quốc gia đông dân, rộng lớn, đồi dào tài nguyên và luôn luôn có tham vọng đất đai. V́ thế, Việt nam một mặt lúc nào cũng sẵn sàng đấu tranh giữ độc lập, mặt khác luôn chịu nhún ḿnh về h́nh thức để tránh chiến tranh. Sau mỗi lần đánh bại quân xâm lăng Trung hoa, Việt nam đều trả tù binh, cử sứ giả qua cầu hoà và triều cống. Bắt đầu thi hành chính sách này là Thập Đạo Tướng Quân Lê Hoàn người đầu tiên đánh bại quân Trung hoa trong thời tự chủ, sau đó là Lư Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, và được vua Lê Thái Tổ giải thích nếu ḿnh muốn giết tù binh thoả cơn tức giận một lúc, mà chịu cái tiếng muôn đời giết kẻ hàng, th́ sao bằng để cho muôn vạn con người sống mà khỏi được mối lo chinh chiến đời sau. Quan niệm này được thể hiện rơ hơn khi vua Quang Trung nói với Ngô Thời Nhiệm nay nhà Thanh đă bị ta đánh một trận, tất lấy làm xấu hổ, chắc không chịu ở yên. Hai nước đánh nhau th́ chỉ khổ dân. Vậy nên dùng lời nói khéo, để khiến cho khỏi sự binh đao”.
Tuy nhiên, trong khi kiên quyết chống lại mọi mưu toan thống trị của Trung hoa, Việt nam lại t́m cách áp chế các nước nhỏ láng giềng khác. Trong thời b́nh, các vua Việt nam cũng cư xử như thiên tử, bắt các nước nhỏ phải quy thuận và triều cống. Trong thời chiến, các vua Việt nam hưng binh chinh phạt, sát nhập đất đai. Cũng như Trung hoa, các vị vua Việt nam coi những vụ hưng binh chinh phạt đó như những hành động thay trời hành đạo, và việc đô hộ như một hành động khai hoá. Thái độ này được thế hiện trong bài ghi công vào bia đá của ông Nguyễn Trung Ngạn ca tụng việc vua Trần Minh Tông đi đánh Lào năm 1384”... Nước Lào nhỏ bé kia dám ngạnh vương hoá, cuối mùa thu năm Ất Hợi, vua thân đem sáu quân đi tuần cơi tây Thế Tử nước Chiêm Thành, Chân Lạp, Tiêm La và tù trưởng các đạo mán đều mang phương vật tranh nhau đến đón rước...”. Những chi tiết của bài ghi công đó có thể đă được phóng đại thêm, nhưng đă thể hiện thái độ của triều đ́nh Việt nam đối với các dân tộc nhỏ lân bang.
Quan hệ lâu đời như thế giữa Việt nam và Trung hoa tồn tại cho đến thế kỷ thứ mười chín, khi Việt nam và Trung hoa đều bị các cường quốc châu Âu ḍm ngó.
Năm 1882, khi quân Pháp đem quân đi đánh Bắc Hà, vua Dực Tông vẫn thiển cận sai người sang cầu cứu nhà Thanh. Tuy rằng lúc đó nước Trung hoa đang bị Anh, Pháp, Đức, Nhật... xâu xé thảm hại, triều nhà Thanh vẫn c̣n nuôi ư định xâm chiếm Việt nam. Tổng Đốc Lưỡng Quảng Trương Thụ Thanh dâng mật sớ về triều nói rằng “Nước Nam và nước Tàu tiếp giáp với nhau, mà thế lực nước Nam thật là suy hèn, không có thể tự chủ được nữa, vậy ta nên mượn tiếng sang đánh giặc mà đóng giữ các tỉnh thượng du”, triều đ́nh nhà Thanh nghe lời sai quân sang giúp Việt nam đánh nhau với Pháp. Quân hai nước đánh nhau được hai năm th́ hai bên kư hoà ước trong đó Trung hoa chấp thuận rút quân và công nhận quyền bảo hộ của Pháp ở Việt nam. Hoà ước do Fournier và Lư Hồng Chương kư cũng phân định biên giới hai nước. Nhưng biên giới đó phần lớn chạy dọc theo những vùng rừng núi, được đánh dấu bởi những bia đá chôn cách nhau đôi khi đến năm mươi cây số, do đó rất mù mờ và rất dễ gây ra tranh chấp.
Sau khi triều đ́nh nhà Thanh bị lật đổ, các phong trào đấu tranh giành độc lập của Việt nam cũng chịu ảnh hưởng hay có liên hệ với các phong trào cách mạng Trung hoa. Sau cuộc cách mạng Tân Hợi ở Trung hoa, ngoài Quốc dân đảng của Nguyễn Thái Học, các cán bộ đầu tiên của cộng sản Việt nam cũng lợi dụng chủ trương thân Nga của Tôn Dật Tiên để dùng đất Trung hoa làm địa bàn tổ chức và huấn luyện cán bộ. Những lớp học chính trị do Hồ Chí Minh tổ chức được các cán bộ cộng sản cao cấp Trung hoa như Bành Bái, Lưu Thiếu Kỳ đến dạy. Một số cán bộ Việt nam như Nguyễn Sơn, Lê Thiết Hùng, được gửi đi theo học trường vơ bị Hoàng Phố. Các đại hội thành lập đảng, đại hội đảng lần thứ nhất đều được triệu tập ở Trung hoa. Trong những năm mà Quốc dân đảng Trung hoa c̣n mạnh, cộng sản Việt nam ở Trung hoa phải giấu chân tướng, ông Nguyễn Tất Thành ở Liễu Châu giả dạng làm người quốc gia, cặm cụi ngồi dịch cuốn Tam Dân chủ nghĩa, đổi tên Hồ Chí Minh theo tên của cán bộ Quốc dân đảng Hầu Chí Minh, và hết sức lấy ḷng tướng Trương Phát Khuê, tư lệnh Đệ Tứ quân khu. Dưới quyền Trương Phát Khuê, có hai tướng Quốc dân đảng nhưng lại thân Cộng là Tiêu Văn và Ngô Trạch, nên các lănh tụ cộng sản Việt nam được giúp đỡ và tự do hoạt động (Tiêu Văn năm 1949 ở lại lục địa đầu hàng Trung quốc, c̣n Ngô Trạch sau đó bị xử tử ở Đài loan)
Năm 1942, Hồ Chí Minh rời Liễu Châu, ra khỏi vùng trách nhiệm của Trương Phát Khuê th́ bị bắt, Trung ương Đảng cộng sản Việt nam đă gửi một điện văn rất lễ phép và quỵ luỵ cho Tôn Khoa, Viện trưởng Viện Lập pháp Trung hoa như sau: “Đại biểu của chúng tôi là Hồ Chí Minh đi Trùng Khánh để dâng cờ tỏ ḷng kính trọng Tưởng Uỷ viên trưởng, khi đi qua Tịnh Tây th́ bị bắt, kính xin Ngài điện cho địa phương tha ngay”.
Hồ Chí Minh bị giam gần hai năm. Người can thiệp với chính phủ Trùng Khánh để xin tha cho Hồ Chí Minh là Nghiêm Kế Tổ, một cán bộ của Việt nam Quốc dân đảng, nhân can thiệp xin tha cho Nguyễn Tường Tam, đă nhân tiện xin luôn cho Hồ Chí Minh, nhưng thiện ư của Nghiêm Kế Tổ cũng không ngăn cản được việc cộng sản Việt nam t́m cách thanh toán hết những cán bộ Quốc dân đảng sau này.
Một năm sau, sau khi Hồ Chí Minh thành lập chính phủ ở Hà nội, quân Trung hoa kéo vào giải giới quân đội Nhật ở Bắc Việt. Để lấy ḷng quân Trung hoa, Hồ Chí Minh một mặt tuyên bố giải tán đảng cộng sản Đông dương, thành lập chính phủ liên hiệp, bèn trong hối lộ Lư Hán và Tiêu Văn để chèn ép các đảng phái quốc gia. Những năm về sau Trung hoa ch́m trong nội chiến Quốc Cộng, cộng sản Việt nam giành được chiêu bài kháng chiến, đă phải chiến đấu độc lập, v́ lúc đó Liên xô đă đối xử với cộng sản Việt nam một cách thờ ơ, coi như không có.
Quan hệ giữa hai phong trào cộng sản Việt nam và Trung hoa bắt đầu gắn bó ngay sau khi cộng sản Trung hoa chiếm được toàn lục địa Trung hoa năm 1949. Việt nam muốn được sự giúp đỡ của Trung hoa, c̣n Trung hoa cũng muốn có một vùng trái độn an toàn ở biên giới phía nam, đồng thời cũng muốn tiếp tục giữ vị thế thiên triều và đàn anh cũ, nên đă hết ḷng giúp đỡ cộng sản Việt nam về mọi mặt. Chỉ hai tháng sau khi cộng sản Trung hoa chiến thắng, Hồ Chí Minh đă cùng Trần Đăng Ninh đi Bắc kinh gặp Mao Trạch Đông xin giúp đỡ. Hồ Chí Minh được Mao hứa sẽ giúp đỡ toàn lực về mọi mặt chính trị, quân sự, ngoại giao.
Người đứng ra công khai phản đối đường lối cầu viện Trung hoa lại là tướng Nguyễn Sơn, tư lệnh Liên khu 4. Nguyễn Sơn từng theo học trường Hoàng Phố, là một trong mười tám tướng Hồng quân theo Mao chạy thoát tới Diên An. Năm 1945, Nguyễn Sơn bỏ Hồng quân Trung hoa về Việt nam, được bổ nhiệm tư lệnh Liên Khu Tư, thay Lê Thiết Hùng. Có lẽ dựa vào tư thế quân hàm tướng Hồng quân, ông là người duy nhất dám công khai bài bác Hồ Chí Minh, coi thường Vơ Nguyên Giáp. Ông ta phản đối việc xin viện trợ của cộng sản Trung hoa có lẽ v́ ông biết rơ về tham vọng bá chủ của Trung hoa. Nguyễn Sơn sau đó bị Hồ Chí Minh dèm pha và gửi trả về Trung hoa rồi chết ở đó.
Bookmarks