Cổ Học Tinh Hoa
Tác giả: Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc & Từ An Trần Lê Nhân
MỤC LỤC
Tiểu tự
1. Không quên được cái cũ
2. Lúc đi trắng, lúc về đen
3. Lợi mê ḷng người
4. Lấy của ban ngày
5. Khổ thân làm việc nghĩa
6. Cách cư xử ở đời
7. Tu thân
8. Ôm cây đợi thỏ
9. Đánh dấu thuyền t́m gươm
10. Ba con rận kiện nhau
11. Hai phải
12. Tăng Sâm giết người
13. Bán mộc, bán giáo
14. Ngọc ở trong đá
15. Bắt chước nhăn mặt
16. Cái được cái mất của người làm quan
17. Can vua bỏ rượu
18. Khéo can được vua
19. Chết mà c̣n răn được vua
20. Yêu nên tốt, ghét nên xấu
21. Hà bá lấy vợ
22. Ghét con không giống ḿnh
23. Lợn mẹ giết lợn con
24. Giáp, Ất tranh luận
25. Mặt trời xa gần
26. Cách phục ḷng người
27. Ḷng cương trực
28. Trí, Trung, Dũng
29. Biết lẽ ngược xuôi
30. Tài nghệ con lừa
31. Đánh đàn
32. Thổi sáo
33. Người nước lỗ sang nước Việt
34. Giữ lấy nghề ḿnh
35. Truyện người A Lưu
36. Mất búa
37. Tường đổ
38. Người con có hiếu
39. Thầy Tăng Sâm
40. Ông quan thanh bạch
41. Không nhận cá
42. Của báu
43. Biết rơ chữ "Nghĩa"
44. Tri kỷ
45. Cảm t́nh
46. V́ nghĩa công, quên thù riêng
47. Dong người được báo
48. Nói thí dụ
49. Con cú mèo và con chim gáy
50. Con c̣ và con trai
51. Hồ mượn oai hổ
52. Mạnh Thường Quân vào nước Tần
53. Thập B́ nói chuyện với Huệ Vương
54. Tham lợi trước mắt, quên hại sau lưng
55. Trước khi đánh người phải biết giữ ḿnh
56. Không nên sát phạt lẫn nhau
57. Diều gỗ
58. Lá dó
59. Chữ tín
60. Tự lấy làm khoan khoái
61. Người khôn sống lâu
62. Vợ răn chồng
63. Bà Huyện can đảm
64. Thế nào là trung thần
65. Báo thù
66. Cách dùng pháp luật
67. Thật giả khó phân
68. Truyện Đười ươi
69. Thuật xem tướng
70. Theo ai phải cẩn thận
71. Say, tỉnh, đục, trong
72. Nhan súc nói chuyện với Tề Vương
73. Khấu Chuẩn thương nhớ mẹ
74. T́nh mẹ con, con vượn
75. Học tṛ biết học
76. Phúc đấy, hoạ đấy
77. Hoạ phúc không lường
78. Vẽ ǵ khó
79. Cách đâm hổ
80. Âm nhạc
81. Trí và nhân
82. Hết ḷng v́ nước
83. Bọ ngựa chống xe
84. Ứng đối linh lợi
85. Thửa giày
86. Cứu người lúc nguy cấp
87. Nghèo mà không oán
88. Thân trọng hơn làm vua
89. Thân trọng hơn thiên hạ
90. Chúc mừng
91. Người bán thịt dê
92. Thành thực
93. Mẹ hiền dạy con
94. Ngọc bích họ Hoà
95. Nuôi gà chọi
96. Dùng chó bắt chuột
97. Lời nói người bán cam
98. Vợ chồng người nước Tề
99. Đầy th́ đổ
100. Ông lăo bán dầu
101. Gặp quỉ
102. Mua nghĩa
103. Ứng đối giỏi
104. Hà chính mănh ư hổ
105. Hang ngu công
106. Trung hiếu lưỡng toàn
107. Mong làm điều phải
108. Kẻ bất chính
109. Nhân trung dài sống lâu
110. Thuốc bất tử
111. Cái lẽ sống chết
112. Nói về sống chết
113. Biết dở sửa ngay
114. Tài và bất tài
115. Quên cả cái thân
116. Đại đồng
117. Cầu ở ḿnh hơn cầu ở người
118. Hoà thuận với mọi người
119. Mất cung
120. Muôn vật một loài
121. Lúc nào được nghỉ
122. Có chịu lo, chịu làm mới sống được
123. Chính danh
124. Nên xử thế nào?
125. Chiếc thuyền đụng chiếc đ̣
126. Rắn dời chỗ ở
127. Nhường thiên hạ
128. Rửa tai
129. Chết đói đầu núi
130. Đời người
131. Ba điều khó học
132. Ba điều vui
133. Thương mẹ già yếu
134. Áo đơn mùa rét
135. Dâng thư cứu cha
136. Nuôi mẹ bằng điều phải
137. Say bắn chết trâu
138. Tên tù nước Sở
139. Bệnh quên
140. Bệnh Mê
141. Vợ lẽ phải đ̣n
142. Khoét mắt
143. Vợ xấu
144. Ghen cũng phải yêu
145. Lời con can cha
146. Một cách để lại cho con cháu
147. Một cách lo xa cho con cháu
148. Thầy tṛ dạy nhau
149. Lưỡi vẫn c̣n
150. Không chịu nhục
151. Câu nói của người đánh cá
152. Vua tôi bàn việc
153. Khó được yết kiến
154. Không phục nước Tần
155. Cậy người không bằng chắc ở ḿnh
156. Phẩm trật ông quan, phẩm giá con người
157. Bài trâm của người làm quan
158. Cười người ta khóc
159. Hiếu tử, trung thần
160. Đọc sách cổ
161. Mất dê
162. Thực học
163. Đây mới thật là thầy
164. Bỏ quên con sinh
165. Chọn người rồi sau hăy gây dựng
166. Cơ tâm
167. Không đợi trông cũng biết
168. Khinh người
169. Hai cô vợ lẽ người nhà trọ
170. Ba điều phải nghĩ
171. Lo, vui
172. Thấy lợi, nghĩ đến hại
173. Thuỷ chung với vợ
174. Đáng sợ ǵ hơn cả
175. Chỉ biết có ḿnh
176. Thở dài
177. Thằng điên
178. Người xuất tục
179. Vợ thầy kiện
180. Ác ngầm
181. Bảy cô vợ lẽ
182. Gơ nhịp mà hát
183. Liêm, sỉ
184. Tiễn người đi làm quan
185. Viếng người đi làm quan
186. Đức uống rượu
187. Làng say
188. Treo kiếm trên mộ
189. Chết v́ lễ nghĩa hay v́ t́nh
190. V́ nghĩa nên t́nh
191. Nghĩa công nặng hơn t́nh riêng
192. Mẹ khôn con giỏi
193. Tu tại gia
194. Người vợ hiền minh
195. Trọng nghĩa khinh tài
196. Mua xương ngựa
197. Lời nói kẻ bắt rắn
198. Hoà vi quư
199. Cách trị dân
200. Can ǵ mà phá đi
201. Hay dở đều do ở ḿnh cả
202. Nguỵ biện
203. Không chịu theo kẻ phản nghịch
204. Cách cư xử ở đời
205. Tự xét lại ḿnh
206. Không nên câu nệ
207. Tri kỷ
208. Trồng khó, nhổ dễ
209. Người kiếm củi được con hươu
210. Hỏi thăm dân
211. Dân quí nhất
212. Nhuộm tơ
213. Kéo lê đuôi mà đi
214. Phải biết pḥng xa
215. Một câu đoán đúng
216. Cùng, đạt bởi số
217. Thư viết răn con
218. Viết thư khuyên bạn
219. Thư viết cho bạn
220. Tham th́ chết
221. V́ tham bị hại
222. Phân tích không rơ
223. Không yêu nhau mới loạn
224. Cũng là ăn trộm
225. Lo trời đổ
226. Dùng rượu say để khiến chồng
227. Tưới dưa cho người
228. Cách biết ḷng người
229. Cách làm cho khỏi tức giận
230. Tiễn một lời nói
231. Quí lời nói phải
232. Tư tưởng Lăo Tử
233. Làm nhà cỏ cũng đủ
234. Thế nào là đại trượng phu
235. Thiên hạ sĩ
236. Dự Nhượng báo thù
237. Quan tài con
238. Lệch thừa không bằng ngay thiếu
239. Bắt thay chiếu
240. Đám ma to
241. Muôn vật một thể
242. Tự tỉnh
243. Ngu Công dọn núi
244. Mă Viện
Danh ngôn danh lư
Bạt
***
Tiểu tự
“Có mới, nới cũ” thường t́nh vẫn thế. Tân học mỗi ngày một tiến, tất Cựu học phải lùi và có khi sợ rồi mai một đi mất. Nhưng, Tân học mà hay, tất là Tân học có một nền tảng vững chắc. Nền tảng ấy tức là tinh hoa của Cựu học. Cựu học nước nhà là một thứ học trải qua bao nhiêu đời, đă làm cho ông cha ta phù thực được cương thường, chấn chỉnh được phong hóa, bảo tồn được quốc thể, duy tŕ được thế đạo nhân tâm, thật không phải là một cái Học không có giá trị đáng khinh rẻ hay quên bỏ được. Vả chăng: "Tri kim, nhi bất tri cổ, vị chi manh cổ; tri cổ, nhi bất tri kim, vị tri lục trầm" ta đă biết truyện đời nay, ta lại cần phải học truyện đời xưa, ta ôn lại việc đời xưa mà ta rơ được việc đời nay, có như thế, th́ cái Học của ta mới không đến nỗi khiếm khuyết. V́, tuy chia làm cổ, kim, nhưng chẳng qua cũng chỉ là buổi sớm, buổi chiều trong một ngày của trời đất, kẻ học giả mà câu nệ chấp nhất, chỉ biết cổ không muốn biết kim, hay chỉ biết kim không muốn biết cổ, th́ sao gọi là "bác cổ thông kim" được!
Cựu học của ta là ǵ? Cựu học của ta tức là Hán học nghĩa là một cái Học chung cho cả mấy dân tộc ở Á Đông đă chịu cái văn hóa của giống người Hán, tức là người Trung Hoa. Cựu học không phải là chỉ có Tứ Thư, Ngũ Kinh, xưa kia đa số quen dùng làm cái học cử nghiệp mà thôi. Ngoại giả, c̣n Bách gia chư tử thật là man mác rộng như bể, học thuyết đủ mọi mặt, lư tưởng rất sâu xa, muốn học cho tới nơi, phải mất bao nhiêu công phu, thời giờ mới được.
Nay, chúng tôi biên tập quyển sách nầy, không phải là muốn chuyên tâm nghiên cứu riêng một phái nào hay một nhà nào. Chúng tôi chỉ góp nhặt một đôi chút lư tưởng trong Cổ học gọi là để cho người đọc thiệp liệp qua được một ít tinh hoa của lối học cũ mà thôi. Nên chúng tôi mới lạm dụng bốn chữ "Cổ Học Tinh Hoa" làm nhan sách.
Chúng tôi có ư chọn những bài ngắn mà nghĩa lư hàm súc dồi dào. Những bài ấy tuy là truyện từ đời xưa bên Tàu, nhưng ứng dụng vào đời nào và ở đâu cũng được. V́ truyện tuy cổ, nhưng cái chân lư th́ bao giờ cũng là một, mà bao giờ cũng như mới. Nào hiếu đệ, nào trung tín, nào lễ nghĩa, nào liêm sĩ, đến cả những việc kỳ quái, sinh tử; bài nầy chính giọng huấn giáo, bài kia rơ thể ngụ ngôn, truyện nầy nghiêm trang khắc khổ, truyện kia khôi hài lư thú; đức Khổng nói "Nhân" hồn nhiên như hóa công; ông Mạnh bàn "Nghĩa" chơm chởm như núi đá, Tuân Tử nói "Lễ" thật là đường bệ, Mặc Tử nói "Ái" thật là rộng răi, h́nh danh như Hàn phi tử thật là nghiêm nghị khiến người mất bụng làm xằng, ngôn luận như Án Tử thật là thâm thiết khiến người dễ đường tỉnh ngộ, đến nói đạo đức như Lăo Tử, bàn khoáng đạt như Trang Tử thật lại biến hóa như rồng, phấp phới như mây... Các lư thuyết mỗi nhà một khác, có khi phản đối hẳn nhau, nhưng thực khiến cho người đọc vừa được vui, vừa phải đem tâm suy nghĩ.
Dịch những bài văn như thế, chúng tôi lấy làm rất khó. Chẳng những chữ Hán dịch ra chữ Nam, lắm câu không hết được nghĩa, nhiều bài, chính nguyên văn cũng mỗi nơi chép một khác không lấy ǵ làm xác định. Nên khi dịch, chúng tôi phải châm chước cân nhắc từng bài, bài th́ dịch thẳng nguyên văn, bài th́ chỉ dịch lấy đại ư, hoặc có bài phải rút bớt, hay thêm ra, hay đúc lại, cốt cho nó xuông tiếng Nam mà không hại đến nghĩa bài th́ thôi. Dịch Hán văn ra quốc văn, tất phải dùng nhiều chữ Hán. Song chữ nào bất đắc dĩ phải dùng, th́ ở dưới chúng tôi đă có "giải nghĩa" rơ ràng. Nghĩa ấy thường chỉ là nghĩa riêng trong bài, chớ không phải hết mọi nghĩa của từng chữ.
Những tên người, tên đất, muốn cho tinh tường, đáng lẽ phải có một cái biểu liệt đủ tên những tác giả cùng những người nói trong chuyện và một bức địa đồ Trung Hoa trải qua các thời đại. Nhưng việc ấy xin để nhường những nhà chuyên về Bắc sử sau nầy, đây chúng tôi chỉ chua qua để cho độc giả đủ biết cái đại cương mà thôi.
Đọc một bài văn hay, mà tư tưởng đă thấm thía vào tâm năo, th́ tất không sao để yên ng̣i bút mà không phê b́nh được. Đó cũng là một cái thông bệnh của những người hâm mộ văn chương hay có cái thú ngâm nga và đưa ng̣i bút khuyên liền, khuyên kín vậy. Chúng tôi cũng không tránh khỏi cái bệnh ấy. Nên dưới mỗi bài chúng tôi cũng góp "Lời Bàn", cốt là để giải rơ các đại ư trong bài hoặc lạm b́nh một, đôi câu ứng với cái thời buổi bây giờ.
Chúng tôi mạo muội biên dịch quyển sách nầy là quyển đầu, có ư bảo tồn tinh hoa của cổ học và mong các bạn thiếu niên ta nhớ đến nguồn gốc từ bao nhiêu ngh́n năm về trước, rơ các điển tích thường dẫn trong văn chương nước nhà, thêm được ít tài liệu có khi làm văn phải dùng đến, rộng được ít tri thức tuy thuộc về Cổ học mà thật khác nào "như thóc gạo, như vải lụa", thường cần đến hàng ngày. Nếu quyển sách này, giúp được một phần trong muôn phần ấy, th́ chúng tôi lấy làm hoan hỷ lắm vậy.
Hà Nội, ngày 21 tháng 10 năm Ất Sửu (1925)
NGƯỜI LÀM SÁCH
Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc
Từ An Trần Lê Nhân
Bookmarks