Ăn cơm Quốc Gia Thờ ma Cộng Sản
Nhật kư của im lặng
NGUYỄN VĂN LỤC *
P2
Phải nói lại, miền Nam có hai lần giải phóng cờ: 30-4, giải phóng cờ Quốc Gia, cờ mầu vàng ba sọc đỏ. Sau một tháng, giải phóng cờ một lần nữa. Lá cờ mầu xanh đỏ thay thế bằng lá cờ đỏ sao vàng. Cùng với sự biến mất lá cờ mầu xanh cũng dần biến mất những nhân vật đă từng nhân danh chiến đấu dưới nhăn hiệu lá cờ xanh, đỏ đó.
Cũng qua cuốn Hồi Kư, mặc dầu chỉ trong vài ḍng, ông cũng lột mặt nạ một số trí thức theo đuôi, không khỏi có những nhố nhăng khó tránh khỏi. Ta hăy nghe ông kể: "Ông Minh và ông Mẫu được đưa đến đài phát thanh Sài G̣n trên chiếc xe Jeep của bộ đội. C̣n tôi đi theo trên một chiếc xe jeep khác của các nhà báo Đức. Khi tôi đến đài phát thanh th́ hai ông Minh và Mẫu đă vào bên trong. Tôi vừa bước vào sân th́ anh Nguyễn Hữu Thái và một hai thanh niên khác đứng ở cổng nói với tôi: "Anh về đi, khi nào có bộ phận chính trị vào sẽ liên lạc lại." Lúc này thật khó biết ai là ai, ai có đủ thẩm quyền quyết định chuyện này chuyện nọ. Ai cứ bảo là Lư Quí Chung ra đ̣n không thâm?
Cũng qua cuốn hồi kư, tôi nhận ra một điều là trí thức miền Nam như những Lư Quí Chung chủ trương chống Mỹ và chống Thiệu. Chống Thiệu th́ rơ ràng rồi, không có ǵ để phải nói. Chống Mỹ th́ có hai mặt: Chống đường lối, chính sách của Mỹ chung chung. Nhưng mặt khác lại giao du khá thân mật với các kư giả, nhà chính trị Mỹ. Và coi những người này như những người bạn tâm giao, nếu không nói là hănh diện về những mối liên lạc này. Trong suốt hồi kư, tác giả đă không quên nhắc đến người này, người kia trong sự trân trọng và quư mến. Họ như thể nằm trong cái vốn chính trị của tác giả như một thành quả trong những năm hoạt động chính trị của ḿnh. Chống Mỹ mà vẫn yêu Mỹ, tin Mỹ, mà vẫn chơi với họ..Chống hời hợt. Không có chỗ nào cho thấy trực diện chống Mỹ, nếu không nói là để cho Mỹ giật giây.
Nó có một cái ǵ đấy cho thấy việc chống Mỹ chưa đủ căn cơ, mức độ. Nhiều lúc tự hỏi, ông đă viết được một bài báo hay một cái ǵ đó tương tự trong đường lối chống Mỹ? Chống cái ǵ? Chống chung chung? Từ đó dẫn đưa đến những ngờ vực.
Ông để ra hai chương nói về: Những ngày cuối cùng của Tổng thống Thiệu và cuộc "trốn chạy" của Nguyễn Văn Thiệu. Có những điều thật sự nó không phải là hồi kư của chính ông kể lại hoặc do nghe được, chứng kiến. Có nhiều đọan, ông trích dẫn lại hồi kư của Nguyễn Cao Kỳ hoặc trích dẫn Christian G. Appy trong The Viet Nam war rememberd from all sides hay của Frank Snepp trong Interval Decent (sách đă được dịch ra tiếng Việt), hay của Henry Kissinger trong Ending The War, hoăïc của Tiziano Terzani trong Three days and Three months. Những trích dẫn nhiều như thế làm mất cái đặc sắc của vai tṛ nhân chứng của ông.
Nhưng nói chung, nếu nh́n toàn diện những chương viết về giai đoạn trước 30.4. Cuốn hồi kư của tác giả ít lắm nêu bật được những điểm quan trọng sau đây:
- Vai tṛ của trí thức trẻ miền Nam Việt Nam
- Bộ mặt thật của sinh hoạt chính trị miền Nam dưới thời đệ nhị Cộng Hoà.
- Vai tṛ chủ động không chối căi được của người Mỹ trong những yếu tố quyết định số phận miền Nam.
- Tính cách con rối của toàn bộ sinh hoạt chính trị ấy.
2. Một Nửa Buồn
Nửa phần bài viết này sẽ được tŕnh bày về chương: Sau ngày 30.4 và chương phụ lục.
Về chương phụ lục, thật ra phải cám ơn Talawas về cái chương phụ lục này. Và đối với tôi, đây là chương quan trọng nhất. Tôi dành phần c̣n lại của bài để nói về chương này và để thấy rằng có nhiều điều Lư Quí Chung đă không dám nói thật, nói hết, nói đủ.
Cuộc đời làm báo, làm chính trị của tác giả chia ra hai giai đoạn. Dứt khoát và rơ rệt. Giai đoạn 13 năm trước 30 tháng Tư mới đúng là con người Lư Quí Chung. Một thanh niên lư tưởng, hăng say, dám nói, dám làm, dấn thân, nhập cuộc. Không ai chối cải điều đó. Rất trân trọng. Và gần 30 năm sau ngày 30 tháng Tư, tác giả dù cố gắng cũng không viết nổi, vỏn vẹn chưa tới 20 chục trang. Với lời thú nhận: Thận trọng lúc này là cần thiết. Đó không phải là Lư Quí Chung. Đó là ai khác. Đúng như tác giả viết: "Nói cách nào đó, tôi có hai cuộc đời. Trước và sau năm 1975. Chỉ không quyện vào nhau như tác giả nghĩ.
Trước hết, hăy nói về những ǵ Lư Quí Chung viết về giai đoạn sau ngày 30.4. Nói chung, đó là những lời lẽ khá nhún nhường, quá bài bản đến không thật như: "Thật là măn nguyện khi được tham gia Hội nghị Hiệp thương Thống nhất.. sự kiện đó có một ư nghĩ lớn.. có mặt trong một hội nghị như thế là một sự thỏa măn tinh thần cực kỳ lớn.. tôi vô cùng thỏa nguyện được sống trọn vẹn với nghề này.. và tôi không thể tưởng tượng được ở đó tôi c̣n cơ hội gặp lại lần lượt tất cả những nhân vật huyền thoại mà tôi cứ ngỡ rằng đă thuộc về lịch văn học xa xôi, chỉ tồn tại trong sách vở như Văn Cao, Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Huy Cận.. Cái nghèo, cái cực khổ của Hà Nội mà tôi chạm mặt lần đầu không hề gây sự thất vọng cho tôi, mà trái lại là sự cảm phục. Những ngày làm báo từ Tin Sáng 75-80 sang Tuổi Trẻ 80-90, tôi vẫn không một ngày nào thiếu hăng hái hay mất niềm tin.. đồng lương th́ chỉ đủ ăn sáng, nhưng cống hiến th́ vẫn hết ḿnh. Vợ con tôi chịu đựng cũng rất giỏi, nhung bán măi rồi cũng không c̣n ǵ để bán nữa.. ngay chỉ c̣n cái đàn piano, niềm vui sau cùng của các con tôi cũng không thể giữ nổi.. để lo cuộc sống hằng ngày, chúng tôi đành phải bán nó đi. Tại ṭa báo vào thời điểm đó, tôi tuyên truyền cho các cuộc cải tạo tư sản mại bản, công thương nghiệp tư sản, tư doanh.. vậy mà chính nhà ba của ông bị đóng chốt để cuối cùng ông cụ bị lên huyết áp và đột qụy, cụ gặp đứa con đă giận dữ nói: "Tao không muốn gặp mày nữa. Gia đ́nh mày đă ra thế này, cha mày đă ra thế này, mà mày c̣n viết báo cho Cộng sản. Cha mày từ mày". C̣n các em trai của tôi th́ không tin vào người anh trai của ḿnh nữa. Chỉ làm thinh để chuẩn bị vượt biên. Như vậy, cùng một lúc, tôi" mất" bảy đứa em.
Không phải là một đảng viên Cộng sản nhưng tôi tin vào những lư tưởng xă hội tốt đẹp cho bất cứ xă hội nào muốn tiến lên công bằng xă hội và nhân bản hơn. Tôi vẫn giữ niềm tin đó ngay cả sau khi chế độ Cộng sản ở Liên Xô và Đông Âu bị xụp đổ… nh́n đất nước nối liền từ Nam chí Bắc hiện nay, đến bây giờ, tôi vẫn tưởng nằm mơ.. Hà Nội bây giờ như một thiếu nữ đẹp, duyên dáng và tràn đầy sức sống. Và Sài G̣n mạnh mẽ hơn nhiều và tự tin hơn nhiều trong cuộc hành tŕnh mới, bởi sự tồn tại của thành phố này không c̣n nhờ vào sự "tiếp máu" của người khác.
Đọc những ḍng chữ trên của ông, tôi cũng tưởng ḿnh đang nằm mơ tự hỏi có phải đó là Lư Quí Chung hay không? Dù sao, cũng rất may, ở vào thời điểm đó, các trí thức miền Nam gặp được một người như ông Vơ Văn Kiệt. Ông là cái dù che chắn cho trí thức miền Nam khỏi phải bị dập vùi thê thảm.. Không có ông, số phận nhiều trí thức trẻ miền Nam đă không được như ngày nay. Họ sẽ phải đi học tập, tệ nữa bị kiểm soát, canh chừng hoặc tù đầy, bắt cóc, hành hạ, tra hỏi, trục xuất khỏi nhà..
V́ thế, không thể không nhắc tới tấm ḷng ưu ái của ông Vơ Văn Kiệt đối với trí thức miền Nam.
Về tờ Tin Sáng.
Đây là một niềm hănh diện của ông và một số bạn bè của ông. "Le Tin Sáng est le seul journal non communisme dans une société communiste. (Tờ Tin Sáng là tờ báo duy nhất không Cộng sản trong một xă hôi Cộng sản). Từ đó ông hết lời tán dương: "Comme la plupart de mes amis ici, J'ai vécu l'experience des deux régimes de presse. Tu connais le mot de Đuc, notre directeur: auparavent, nous étions des bucherons, aujourd'hui, des menuisiers. Le comportement est radicalement différenr. C'est dans la construction que nous nous sommes lancés. Aujourd'hui, je me sens beaucoup plus utile pour la société Vietnamienne, pour mon peuple, plus lié à la vie de la nation, plus responsable, oui, c'est le mot. (cùng sách vừa trích dẫn).
Câu nói trên cho thấy ông phủ nhận toàn bộ gia tài làm báo, làm chính trị dưới thời Đệ nhất Cộng hoà của chính ông. Ông c̣n cho rằng trước đây cùng lắm ông làm thợ bửa củi. Đi biểu t́nh, tranh đấu trước diễn đàn Quốc hội, họp báo, tiếp xúc, diễn thuyết, phân phát truyền đơn, chống luật báo chí, chống tham nhũng, chống đối bầu cử độc diễn, chống độc tài, chống dân biểu gia nô, nghị gật, chống Nguyễn Văn Thiệu, chống Mỹ, nằm trong lực lượng thứ ba đ̣i hỏi chấm dứt chiến tranh. Tất cả công việc vừa nêu trên chỉ là đáng được coi là công việc bửa củi thôi sao? Bẽ bàng thế? Có thể phủ nhận chính ḿnh, tự hạ thành con dun, con dế? Ai dăơ đẩy ông vào tư thế phải nói như vậy? Bây giờ làm thợ nề, thợ nề để tán tụng, để cúi đầu, để vâng phục. Thử hỏi ông đă làm được ǵ trong suốt 30 năm làm thợ nề? Kể là đau xót. Ai đó đă bắt ông phải hạ ḿnh nói như thế ?
Viết như thế, tôi không hề có ư chê trách ông, v́ một lẽ dễ hiểu, ông đang sống trong một xă hội toàn trị, với khủng bố và đe dọa tinh thần. Đúng như ông vẫn nói: Cái ung thư bướu là người của chế độ cũ luôn luôn vẫn c̣n đó, ám ảnh và gây phiền hà cho ông. Chả lúc nào, ông được yên.
Cho đến năm, 1980, lúc mà tờ báo sắp đóng cửa theo 3 cái nguyên tắc đề ra ở thời kỳ đó: để cho làm, phạm sai lầm th́ đóng cửa. Dùng cho đến khi nào thấy không cần thiết th́ vứt kiểu vắt chanh bỏ vỏ. Ba tạo một tương quan tin tưởng tốt vào nhau.
Rơ ràng việc đóng cửa là dựa vào nguyên tắc thứ hai. Đă không có quư ông nào dám lên tiếng. Trong khi đó, tôi đọc được như sau: "Cinq années se sont passés. Le Tin Sáng de Ngô Công Đức et de ses amis parait toujours. Le test est il positif?" (Trích dẫn như trên) Hỏi là trả lời. Cái test cho thấy một thất bại ê chề của trí thức cũ làm việc dưới chế độ mới. Chả nhẽ nói bị lừa, bị bội phản. Dù sao, 5 năm cũng là thời gian khá dài so với tờ Đứng Dâïy của Nguyễn Ngọc Lan. Số phận nó chỉ thoi thóp chưa tới một năm. Sau 5 năm. Tất cả trí thức cũ chỉ c̣n là những quả chanh chắt đă vắt vỏ. Quả chanh Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Huỳnh Tấn Mẫm (sau Huỳnh Tấn Mẫm bị quản chế cùng với những người như Nguyễn Hộ, Tạ Bá Ṭng, v́ cái tội dă tiếp xúc với báo chí ngoại quốc, hay phê b́nh và đ̣i hỏi cải tổ nhanh guồng máy kinh tế và chính trị. Những vụ quản chế này không được loan báo công khai và nơi quản chế cũng vậy). Quả cóc Nguyễn Hữu Thái. Quả bưởi Nguyễn Ngọc Loan, Chân Tín. Quả đu đủ Lư Chánh Trung. Quả dừa Huỳnh Công Minh, Trương Đ́nh Hoè, Phan Khắc Từ. Quả ổi Dương Văn Ba.
Các ông chẵng c̣n ǵ để vắt nữa. Rồi cuối cùng phải nh́n nhận như Ngô Công Đức thôi: "Nous avons surmontés les difficultés, mais non sang certains dégats. Quelque-uns, parmi nous, sont partis à mi chemin, d'autres ont vacillé". Và đây cũng là yếu tố góp thành sự đóng cửa tờ Tin Sáng, v́ có nhiều người trong đám trí thức thành phần thứ ba thất vọng, chao đảo hay bỏ ra đi.
Nhưng v́ lư do ǵ nó phải ngừng bản và chuyển một số bộ phận sang tờ Tuổi Trẻ. Ông đă cố dấu kín. Ông đă viết một cách úp mở như sau: "Với các anh em trong Tin Sáng cũng có nhiều quan điểm, thái độ khác nhau đối với hướng đi và cách quản lư tờ báo". Oâng buộc ḷng không dám nói thẳng ra là có sự bất đồng quan điểm về hướng đi tờ báo kể từ khi có biến cố Đông Aâu cũng nhu sự xụp đổ bức tường Bá Linh.
Về lá thư Lettre aux amis d'occident.
Trong lá thư này, có hai điểm gửi cho giới trí thức Âu châu mà tôi không đồng ư: Đó là việc học tập cải tạo và vấn đề thuyền nhân.
Về các trại học tập: Trong lá thư mà không biết ai là người thảo lá thư đó, một số trí thức miền Nam đă phủ nhận đó không phải là nhà tù, không phải trại tập trung th́ nó là ǵ? Là trung tâm cải tạo? Người đi tù cải tạo không phải người tù chính trị, cũng không phải kẻ bị khổ sai (Forcats). Đó chỉ là những lư lẽ tiểu xảo chơi chữ, trốn tránh và biện hộ cho chế độ. Các ông đă che đậy cho những chính sách của Hànội. Thực tế họ là những người tù khổ sai, không có ngày về. Nhiều người đă chết v́ bệnh tật, đói ăn ở đó? Các ông biết rất rơ. Vậy mà vẫn phải nhắm mắt bênh vực chế độ.
Về người di tản: Cũng lá thư đó đă đổ lỗi cho chế độ cũ, đổ cho sự tuyên truyền của Mỹ, đổ cho chính sách người Hoa của Trung Quốc. "En fin, comme il a été dit plus haut, ce sont les dirigeants de Pékin qui ont provoqué l'exode massif des résidents Chinois pour pouvoir nous accuser ensuite de 'terroriser et de chasser les Hoa', justifie ainsi leur polique inamicale (cessation de L!aide économique) puis ouvertement agressive à l'égard du Viet Nam". (sách trích dẫn ở trên)
Đây là một biện hộ không chấp nhận được. Tất cả những người Việt Nam vượt biển (chánh thức và bán chánh thức) th́ đều biết rơ là phải đóng tiền cho chính quyền địa phương để được phép rời Việt Nam.
Một số tên tuổi trí thức miền Nam đă kư trong danh sách này. Thật khá thất vọng.
Nhưng nói cho cùng th́ những trí thức miền Nam ở lại, theo chế độ mới làm ǵ được? Kết án họ ư? Kết án th́ cũng dễ, nhất là ngồi ở ngoại quốc mà chửi vọng về. Phải là người trong cuộc, phải sống dưới chế đó toàn trị đó. Nào ai có thể nói hay được.
Nhà văn Nguyễn Tuân, nổi tiếng ngang bướng cao ngạo, sau mấy chục năm sống nín thở qua sông, vào đến miền Nam đă phát ra một câu nói để đời. Phải nhịn mấy chục năm nay mới dám nói : « Tao c̣n sống đến ngày nay là nhờ biết SỢ. » Nói xong chiêu một ngụm rượu, ngửa mặt, vuốt râu, nh́n lên trời cười ha hả.
Phải chăng các trí thức miền Nam cũng đă học qua bài học triết lư biết sợ đó?
Nghĩ như thế mà thương cho họ, thương cho ḿnh, thương cho dân tộc ḿnh . Và hiểu cho Nguyễn Tuân, hiểu cho trí thức miền Nam. Phải biết sợ, mới sống được.
C̣n lại phần bài viết sau đây sẽ được tŕnh bày về Chương Phụ Lục. Thật ra phải cám ơn Talawas về cái Chương phụ lục này.
Và đối với tôi, đây là chương quan trọng nhất.
Tôi dành phần c̣n lại để chỉ nói về chương này và để thấy rằng có nhiều điều Lư Quí Chung đă không nói thật, nói hết, nói đủ chỉ v́ nó.
Về 13 trang phụ lục:
Đây là 13 trang bị cắt ra khỏi bản thảo. Chẳng khác khối ung thư của Lư Quí Chung được Đảng Cộng sản cắt dùm. Nó nói lên nhiều điều lắm. Ta muốn biết sự thật th́ phải t́m đọc từng ḍng của những điều bị cắt bỏ, những điều non-dits. Chỉ cần đọc13 trang này, ta mới hiểu thấu được chế độ và thương xót cho những người như Lư Quí Chung.
Trước hết:
- Chương về: phần lời giới thiệu của nhà xuất đă bị sửa, bị cắt kể như toàn bộ. Trong đó có đoạn sau đây khá ư nghĩa đă bị cắt:
"Ngày toàn thắng của năm 1975, với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử: thần tốc-táo bạo-bất ngờ-chắc thắng, qua 55 ngày đêm chiến đấu (từ 9.3 đến 30.4.1975), quân và dân ta đă tiêu diệt và làm tan ră hoàn toàn quân đội ngụy, đập tan bộ máy chính quyền tay sai của đế quốc Mỹ… Là hồi kư cá nhân, không phải một biên niên xử, tất nhiên, nên không tránh khỏi cách nh́n, cách phân tích chủ quan..
Trong phần mở đầu cuốn sách, cho thấy họ vẫn huyênh hoang đến nhàm chán, không biết ngượng. Vẫn giọng điệu mạ lỵ miền Nam Việt Nam. Rồi cũng bài bản chê nhẹ tác giả không khỏi cách nh́n chủ quan. Cũng v́ phần giới thiệu quá huyênh hoang trống rỗng, họ đă viết lại cho chừng mực hơn.
Bản lời giới thiệu mới bớt huyênh hoang, nhưng vẫn cái bệnh phải dạy đời một tư: "Hồi kư là một góc nh́n…, đánh giá mang tính chủ quan cũng là điều có thế chấp nhận. Xét cho cùng cũng là việc mà người đọc nên "rộng răi" khi đọc.
Phần lời giới thiệu của Trần Bạch Đằng bị cắt bỏ v́ nói sai: Cách mạng Việt Nam đa dạng. Góp phần vào bức tranh đa dạng ấy những đường nét riêng.. Làm ǵ có đa dạng được, chỉ có một đường lối cách mạng thôi, v́ thế, cũng cắt kiểm duyệt phần nói về các hồi kư của Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Nhuận.
Chương 14 đă bị cắt khá nhiều, khá dài về việc trích dẫn hồi kư của Hồ Ngọc Nhuận và bà Ngô Bá Thành. Vấn đề t́m hiểu xem các nhân vật đó có c̣n có trong mắt đảng hay không?
Chương 17. Ông Lư Quí Chung nhắc tới thành phần thứ ba, hay lực lượng thứ ba. Thế là phạm giới, phạm quy rồi.. Đối với nhà nước Cộng sản, chỉ có lực lượng của phong trào đô thị là lực lượng ṇng cốt trong sự sụp đổ của nền Đệ nhị Cộng ḥa. Cựu Thủ tướng Vơ Văn Kiệt cũng mắc phải sai lầm này khi đề cao và đánh giá lực lượng thứ ba trong vai tṛ dứt điểm miền Nam. Ông Nguyễn Khoa Điềm đă kiểm duyệt và cắt bỏ những lời tuyên bố của cựu Thủ tướng Vơ Văn Kiệt. Đề cao vai tṛ của thành phần thứ ba là đặt lại vai tṛ của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam trong công cuộc chấm dứt chiến tranh ngaỳ 30.4.
Chương 19. Sang đến chương 19, Ông Lư Quí Chung lại vướng mắc vào cái bướu ung thư thành phần thứ ba, mà đảng muốn cắt bỏ. Khi ông viết: "Từ 1973, đâu đâu cũng thấy những cá nhân tự xưng ḿnh là thành phần thứ ba. Với Hiệïp định Paris, t́nh h́nh miền Nam mở ra nhiều khả năng khác nhau. Khi ấy, tôi nghĩ, lạc quan nhất lúc này là giải pháp một chính phủ ḥa giải, hoà hợp gồm ba thành phần. Nhưng không ai mường tượng cái chính phủ vận hành thế nào.. c̣n thành phần thứ ba th́ không biết sẽ lựa chọn như thế nào"
Ông vẫn c̣n ngây thơ quá, chưa nắm được ư đồ của đảng muốn ǵ. Thành phần thứ ba là một quả chanh đă vắt vỏ, đă vắt kiệt.. Riêng các ông trong tờ Tin Sáng th́ được vắt thêm 5 năm nữa. Đă quá đủ, quá nhiều. Đóng cửa tờ Tin Sáng là phải. Đă đến giờ rồi.
Chương: Phần sau ngày 30.4.1975.
Cái hớ hênh của một Lư Quí Chung sau 30 năm sống dưới chế độ mới vẫn chưa đủ. Thận trong, gạn lọc, ngó trước ḍm sau mới viết mà vẫn có kẽ hở. Ông vẫn muốn nhắc đến ngày Đại hội Hiệp thương Thống nhất. Đây cũng là điều đảng không muốn nói tới nữa. Có hội nghị hay không th́ Việt Nam cũng đă thống nhất rồi. Muốn thống nhất th́ phải xoá tan những chiêu bài trước đó đă đặt ra như Mặt trận Giải Phóng Miền Nam v.v.. Thật là không có ǵ là khó hiểu.
Đảng cũng kiểm duyệt những t́nh cảm sau giải phóng trong gia đ́nh ông như: "Những chuyện trong gia đ́nh tôi đă biến cha tôi từ một người hồ hởi đón nhận chào cách mạng, biến thành một người ác cảm với Cộng sản."
Một đoạn văn như thế th́ cắt là phải rồi. C̣n kêu ca nỗi ǵ nữa.
Phần gia đ́nh thân yêu.
Trong phần này nhẽ ra không cần đọc, v́ có ǵ đụng chạm đến chính trị. Nhưng dù thế, nó cũng bị cắt đi ngót nghét một trang. Trong đó có một câu vài chữ không đáng ǵ. Nhưng nếu suy ra th́ viết một cuốn sách cũng không đủ. "Các em tôi đều thành đạt tại Mỹ Canada.." Thế là cả đoạn văn sau đành cắt hết, đục bỏ hết chỉ v́ cái chữ thành đạt. Nói thành đạt là nói ngược lại Nhà nước Việt Nam thất bại. Cẩn thận lắm mới được. Viết thật cẩn thận.
Ng̣i bút của Lư Quư Chung có lệch cũng chỉ v́ 13 trang cắt bỏ này. Điều mà Lư Quư Chung không dám nói, điều mà Lư Quư Chung bị cắt trong 13 trang một cách không ngờ trở thành lời tố cáo chế độ ngoài cả ư muốn của người viết cuốn hồi kư. Không ngờ đến cuối đời, cuốn Hồi Kư không tên trở thành một chúc thư gửi lại cho đời mà tôi xin được phép đổi lại tên cuốn Hồi kư không tên: NHẬT KƯ CỦA IM LẶNG, v́ im lặng cũng là một cách nói.
NGUYỄN VĂN LỤC
Bookmarks