Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
Sư đoàn Thủy quân Lục chiến
Đến thăm Đại Tá Nguyễn Năng Bảo
P2
“ Tôi nhớ đó là ngày 11/7/72, TĐ1 của Thiếu tá Nguyễn đăng Ḥa, với quân số khoảng 700 người bao gồm những thành phần tăng cường như Đại đội Viễn thám A/TQLC (Đ/U Phan văn Thân ), một trung đội Địa phương quân của Chi khu Triệu Phong, một toán Hải pháo của hạm đội 7 Mỹ do Trung úy Stephen Biddulph hướng dẫn đă sẳn sàng tại khu đất trống nhà thờ hai chuông Điền Môn thuộc quận Hương điền. Trung tướng Trưởng, Chuẩn tướng Lân và tôi đều có mặt tại chỗ. Tướng Lân đă nói với Th/tá Ḥa : “ Vinh dự này Binh chủng giao cho Anh và TĐ1/TQLC.” Tôi cũng nói với Ḥa: “ Phải chấp nhận thương vong, phải bám giữ những vị trí đă chiếm được, TĐ2 sẳn sàng tiếp ứng cho Anh.”Tôi không muốn làm cho Ḥa lo lắng, nhưng tôi nghĩ con số thương vong ít nhất cũng hơn 1 Đại đội khoảng hơn 160 người. Dĩ nhiên trong giao tranh có những sự kiện mà ḿnh phải chấp nhận.
Những chiếc Chinook CH53 và CH46 từ những Mẩu hạm Tripoli và Okinawa ngoài biển đông vào bốc TĐ1 đổ vào hai băi Blue Ray và Crown. TĐ1 đă đổ ngay vào ổ vận động phục kích của trung đoàn 141 thuộc sư đoàn 312 Vc. Trận đánh đẩm máu ngay từ những giây phút đầu tiên nhưng TĐ1 đă làm chủ được trận địa vào buổi chiều. TĐ2 cùng với Chi đoàn 3 của Thiết đoàn 17 Kỵ binh cố vượt qua đoạn đường 6 cây số dày đặt chốt của địch từ Ngô Xá đông qua Ngô Xá tây đến tận cầu Ba Bến. TĐ6 cũng tiến ở phía bắc của TĐ2 băng qua các vị trí của địch ở An Trứ, Đồng Bào để bám lấy bờ đông của sông Vĩnh Định. Cộng quân đă điều động các trung đoàn 141, 165 và 209 thuộc sư đoàn 312 cùng với T54 và PT76 liên tục tấn công vào các Đại đội của TĐ1. Hỏa lực pḥng không trong vùng rất hùng mạnh,chúng đặt những súng pḥng không trên những tháp chuông nhà thờ trong, những chiếc trực thăng khó mà đáp xuống để tiếp tế và tản thương.
.. Những xác chết gói trong poncho 3, 4 ngày dưới ánh nắng gay gắt đă bốc mùi khó chịu. Có người đề nghị cho chôn tại chỗ nhưng tôi không đồng ư. Tôi ra lịnh cho TĐ2 làm những cái bè chuối để đưa những thương binh và tử sỉ về bên này và thiết vận xa M113 sẽ chở về phía sau. TĐ1 đă chịu trận ở đây đúng 10 ngày và TĐ2 đă sang thay thế và những trận đánh đẩm máu xảy ra ở vùng Chợ Săi, Triệu phong, nhưng ta đă hoàn toàn cắt đứt cái yết hầu của địch về phía bắc.”
Tại mặt trận phía nam, tướng Trưởng đă ấn định lại khu vực trách nhiệm : SĐ/Dù tấn công về phía nam và phía tây Quốc lộ I , khống chế các căn cứ Lê Huấn, Sharon ở phía nam và cắt đứt con đường tiếp tế của CSBV tại Tích Tường , Như Lệ ở đầu nguồn của sông Thạch Hản. SĐ/TQLC quét sạch địch trong thành phố Quảng Trị và dựng cờ trên cổ thành Đinh Công Tráng.
Buổi sáng ngày 27/7/1972, hai người bạn cùng khóa Cương Quyết Vơ bị Đà lạt (1954 ) là Đ/tá Trần Quốc Lịch (LĐ2 Dù) và Đ/tá Ngô Văn Định (LĐ258/TQLC) bàn giao vùng trách nhiệm. Đă có sự chuẩn bị từ trước nên TĐ3/TQLC tiến vào xóm đạo Tri Bưu thay thế TĐ5 Dù, TĐ9/TQLC thay thế TĐ7 trên đường Hồ Đắc Khanh và TĐ5/TQLC từ ngă ba Long Hưng theo đường Lê Huấn tiến về phía bắc thay thế TĐ6 Dù.
Trong giai đoạn I và II ( 27/7 – 9/9/1972 ) LĐ258 đă điều động lần lượt các TĐ 3, 5, 9, 7, 8, 1, 2, 6 và 1/PB, quân số có lúc lên tới 5.000 người , liên tục tấn công, tiến chiếm từng con đường, từng vị trí địch trong thành phố. Truyền thống của TQLC là “đánh chắc, giữ chắc”. Địch chống trả rất mảnh liệt và có lợi thế về pḥng thủ. Trung đoàn 48 thuộc sư đoàn 320B và tiểu đoàn K8 Quảng Trị thề quyết tử với cổ thành. Hằng ngày những trận mưa pháo và bom đạn đổ xuống không ngừng, mặt đất rung lên từng cơn , bao nhiêu thân xác con người ngă xuống.
Ngày 9/9 , SĐ/TQLC bước qua Giai đoạn III cũng là giai đoạn quyết định. Phóng đồ hành quân đă được vẽ lại. “ Cái bánh chưng” Cổ thành được cắt đôi với nửa phía bắc giành cho LĐ147 với các TĐ3,7, 8, nửa phía nam với LĐ258 gồm TĐ1, 2, 6. Tiểu đoàn 3 từ góc đông bắc và TĐ6 từ góc đông nam, băng qua những hào nước sâu và tràn ngập cổ thành . Các TĐ7 và TĐ 8 khóa chặt mặt bắc. TĐ2 và TĐ1 chiếm dinh Tỉnh trưởng, nơi đặt BCH của trung đoàn 48 thuộc sư đoàn thép Điện biên 320B . ĐĐ2/TĐ8 của Đ/U Bùi phúc Lộc thuộc LĐ147 từ phía bắc tràn xuống theo đường Gia Long bắt tay với ĐĐ4/TĐ2 của Đ/U Lê quang Liễn thuộc LĐ258. Như vậy SĐ/TQLC đă khóa chặt cộng quân từ 4 mặt. TĐ3 và TĐ 6 đă làm chủ hoàn toàn Cổ thành . Ngọn cờ vàng 3 sọc đỏ đă được dựng lên trong ngày 15/9/1972 sau 81 ngày đêm.
Đúng 12giờ 45 ngày 16/9/1972, một buổi lễ dựng cờ đầy sự trang nghiêm và cũng đầy nước mắt của những người lính TQLC : “ Cờ bay, cờ bay oai hùng trên thành phố thân yêu vừa chiếm lại đêm qua bằng máu..”
Cái tin “ TQLC đă dựng cờ trên cổ thành Quảng trị” đă làm nức ḷng toàn quân, toàn dân miền Nam VN. TT Thiệu đă yêu cầu Đ/tướng Cao Văn Viên gởi ngay một bức điện văn khen ngợi đến toàn thể quân nhân SĐ/TQLC. Vài ngày sau TT Thiệu cùng các thành viên Quốc hội và Chính phủ đă đến thăm TQLC ngay tại Cổ thành. Đ/tá Ngô Văn Định đă lái xe đưa TT đến thành phố đổ nát Quảng trị. Nhân dịp này ông đă ân thưởng huy chương và thăng cấp cho nhiều quân nhân đă tham gia cuộc tổng phản công tái chiếm như SĐ/Dù, SĐ1/BB, SĐ/TQLC, Liên đoàn BĐQ, Liên đoàn 81 Biệt kích, Lữ đoàn 1 Kỵ binh và nhiều thành phần yểm trợ khác. Riêng hai vị Lử đoàn trưởng LĐ 147 và 258 được ân thưởng Bảo quốc Huân chương đệ tam đẳng, nhưng theo lời Đ/tá Phạm Văn Chung th́ :
“ TT Thiệu đến Quảng Trị gắn đệ tam đẳng Bảo quốc Huân chương cho hai ông Định và ông Bảo nhưng lại không có sẳn huy chương nên TT phải mượn BQHC của ông Tư lịnh Lạng Sơn gắn cho ông Định đứng trước, c̣n ông Bảo đứng sau th́ không có ǵ dù đă có nghị định đàng hoàng. Tấm huy chương gắn cho ông Định sau đó phải trả lại cho Ban tổ chức.”
Riêng tướng Lân cũng được ân thưởng huy chương Legion of Merit ( Degree of Commander ). Huy chương này chỉ dành cho cấp tướng có những hoạt động phối hợp với quân đội Hoa kỳ tại chiến trường. Tướng Lân được Tổng thống Mỹ trao tặng do SĐ/TQLC mà ông chỉ huy đă đánh tan nhiều sư đoàn quân Vc tại chiến trường Quảng Trị năm 1972. Hồi đó là thời kỳ hành quân nên ṭa Đại sứ Mỹ chỉ tổ chức đơn giản với sự hiện diện của Tr/tướng Lê Nguyên Khang, Tổng tham mưu phó hành quân QL/VNCH, Tr/tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lịnh Quân đoàn I và Th/tướng John E. Murray, đại diện ṭa Đại sứ Mỹ . Tướng Lân là người đầu tiên và duy nhất được trao tặng huy chương này trong QL/VNCH. Và một buổi lễ Tuyên dương chính thức được tổ chức 37 năm sau, vào ngày 7/3/2009 tại Houston , Texas. Bản Tuyên dương do chính Bộ trưởng Quốc pḥng Mỹ hiện tại là ông Robert M. Gates ấn kư.
Chiến thắng Quảng Trị của SĐ/TQLC cũng đưa đến một hệ quả rất lớn về mặt chính trị. Cái loa tuyên truyền của CSBV ở bàn hội nghị Paris đă hết âm lượng và những phái đoàn thương thuyết cs phải đàm phán nghiêm chỉnh hơn và đă đưa đến bản văn Ngưng bắn 27/1/73, mặc dầu chính bản văn này là một lời báo động rơ ràng nhất về sự sụp đổ của miền Nam VN sau này.
Vào khoảng tháng 4/1974 Anh bàn giao LĐ147 cho Đ/tá Nguyễn Thế Lương và về Sài g̣n tham dự khóa học Chỉ huy Tham mưu cao cấp tại Long B́nh. Mản khóa học Anh được nghĩ ngơi một tháng trong chức vụ Chỉ huy trưởng căn cứ Sóng thần tại Dĩ An. Đến ngày 31/12/1974 Anh nhận LĐ258 để Đ/tá Định về Sài G̣n thành lập LĐ 468 tân lập.
“ Có thể nói Tôi và Anh Định (Đồ Sơn ) là đôi bạn chiến đấu gắn bó nhất trong Binh chủng TQLC. Chúng tôi cùng ở TĐ2 trong thời gian lâu nhất, cùng làm Đại đội trưởng sát cánh bên nhau trong những trận đánh dữ dội nhất như Đầm Dơi, Phụng Dư. Sau đó trong năm 1966, Anh Định đi làm Tiểu đoàn trưởng TĐ2 ( 29/6/1966 ) c̣n tôi về TĐ3 ( 10/1966). Tháng 11/1969 Anh đi thành lập Lữ đoàn 369, c̣n tôi được chỉ định Lữ đoàn trưởng 147 ( 3/1971).Cùng được ân thưởng các Bảo quốc Huân chương trong cùng một trận đánh : Đệ ngũ đẳng ( trận Đầm Dơi), đệ tứ đẳng ( trận Phụng Dư ) và Đệ tam đẳng ( trận tái chiếm Quảng trị). Cùng chung thủy với một người bạn đời. Tuy nhiên tôi có gia đ́nh trước, nhiều con hơn; chưa một lần bị thương c̣n Anh Định lảnh đạn 4 lần; Tôi đi tù 13 năm c̣n Anh Định qua Mỹ từ năm 1975. Nhưng lần này chắc tôi “ lái xe” lên Thiên Đàng trước Anh ấy là cái chắc ( cười nhẹ ). Anh Định có đến thăm tôi cùng nhiều Anh em khác, Anh có có mang theo Huy chương Đệ tam đẳng, thú thật đây là lần đầu tiên tôi cầm được huy chương này dù đă có quyết định từ lâu. Anh nâng tôi dậy ngay ngắn, choàng tấm huy chương qua cổ tôi, rồi Anh nói trong nghẹn ngào, tôi cũng không cầm được nước mắt. Anh Chung, chị Huy lễ, anh B́nh, Cấp, Đuông, Lâm..cũng xúc động :
_ “ Anh Bảo ..Anh và Tôi đă cùng bên nhau trên chiến trường và nay th́ chúng ta sắp xa nhau ( anh Định khóc, tôi cũng thế). Tháng 9/1972 tại Quảng Trị, Anh và Tôi được TT Thiệu ân thưởng Đệ tam đẳng BQHC, nhưng cho đến nay Anh chưa một lần thấy và choàng vào cổ huy chương này. Hôm nay tôi mang đến và xin được quàng lên cổ Anh để nhắc rằng chúng ta được hănh diện mang tấm huy chương cao quí này là nhờ công lao và sự hy sinh của biết bao anh em chiến sĩ, chúng ta phải trân trọng và biết ơn các chiến hửu TQLC đă nằm xuống hay trở thành phế nhân và những Anh em c̣n lại..”
Theo lịnh của Bộ TTM, SĐ/Dù sẽ rút về Sài g̣n và SĐ/TQLC sẽ bảo vệ thành phố Đà Nẳng. Theo kế hoạch thay quân sẽ dự trù như sau :
_ BTL/SĐ/TQLC sẽ đóng tại căn cứ Non Nước.
_ LĐ147 (Đ/tá Nguyễn Thế Lương) với các TĐ3,TĐ4, TĐ5 và TĐ7 cùng TĐ2/PB sẽ pḥng thủ tuyến ngăn chận Sông Bồ ( Quảng trị ), một BCH /SĐ nhẹ (Đ/tá Nguyễn Thành Trí ) ở Hương Điền.
_ LĐ 258 (Đ/tá Nguyễn Năng Bảo ) sẽ thay LĐ2 Dù tại đèo Phước Tường, phía bắc đèo Hải vân thuộc tỉnh Thừa Thiên.
_ LĐ369 ( Trung tá Nguyễn Xuân Phúc ) với các TĐ 2, TĐ6 và TĐ9 sẽ thay LĐ3 Dù tại vùng Đại Lộc.
_ LĐ468 tân lập (Đ/tá Ngô Văn Định ) với các TĐ 14, TĐ16, TĐ8, từ Sài g̣n không vận ra Đà Nẳng và sẽ thay cho LĐ1 Dù tại đèo Hải Vân.
T́nh h́nh thay đổi quá nhanh, nhất là sau cuộc họp của TT Thiệu với Tướng Phú tại Cam Ranh ( 14/3/1975 ) quyết định rút bỏ Cao nguyên để đem quân về vùng đồng bằng và vùng Duyên hải. Quân đoàn II đă bị khai tử và Quân đoàn I cũng ở trong một số phận tương tự .
“ Ngày 28/3/75 Đ/tá Lê Đ́nh Quế, Tham mưu trưởng SĐ/TQLC , trên chuyến trực thăng bay ra phía bắc, đă ra lịnh cho tôi đưa LĐ258 vượt qua đèo Hải Vân và tập trung tại căn cứ Non Nước. Trước đó một ngày mất liên lạc với LĐ147. Đêm hôm đó, tôi ngủ lại trong TOC của Sư đoàn với tướng Ngô Quang Trưởng và Đ/tá Nguyễn Thành Trí. Buổi sáng hôm sau, dân chúng bắt đầu tràn vào băi biển Non Nước, Trung tá Nguyễn Văn Phán đă điều động Đại đội Quân cảnh 202 làm thành một tuyến cản để tướng Trưởng, Đ/tá Trí và Tôi cùng anh em BTL/SĐ bơi ra tàu HQ 404 đang đậu ngoài khơi. Cái ngày mà biển nổi cơn sóng lớn và chúng tôi cũng phải đành ḷng bỏ Đà Nẳng, bỏ Quân đoàn I mà ra đi.Tướng Trưởng đă nghẹn ngào mà nói : “Đây là một cuộc tự sát.” Một số anh em của LĐ258, LĐ369 cũng đă bơi ra tàu trong đó có Trung tá Huỳnh Văn Lượm, Lữ đoàn phó, Đ/U Mai Văn Tấn, Trưởng ban 3/LĐ. Làm sao mà tôi quên được những ngày tháng bi thăm đó.”
Ngày 1/4/1975, cơ xưởng hạm 802 của Hải quân VN đă chở những thành phần c̣n lại của SĐ/TQLC ( khoảng 4.000 người ) về Băi Sau, Vũng Tàu. Tất cả được đưa vào một khu doanh trại của quân đội Úc đại lợi trước đây. Tướng Lân nhận lịnh của Bộ TTM phải gấp rút trang bị và sẽ nhận nhiệm vụ sau một tuần lễ. Những tân binh đang huấn luyện tại TTHL/TQLC tại Rừng Cấm Thủ Đức được đưa qua Khối bổ sung, sẳn sàng phân phối cho các Tiểu đoàn. Sĩ quan các khóa Đà Lạt và Thủ Đức được làm lễ mản khóa sớm và đưa ra các đơn vị. Các quân nhân tản lạc từ Quảng Trị, Đà Nẳng cũng đă t́m về tŕnh diện tại các Hậu cứ TĐ. Quân nhân từ các Quân đoàn I và II chạy về Sài g̣n đă được tập trung thành đơn vị và đưa ra các tuyến pḥng thủ. Mọi người quyết tâm chống giặc nhưng cũng có nhiều người bỏ ngũ, bỏ nước ra đi.
Ngày 8/ 4/75, LĐ468 (Đ/tá Ngô Văn Định ) với TĐ 1 ( Thiếu tá Dương Văn Hưng ), TĐ8 ( Trung tá Nguyễn Đăng Ḥa ), TĐ16 ( Thiếu tá Đinh Xuân Lăm ), và 1 Pháo đội ( khoảng 2.500 người ) lên đường tăng cường cho Quân đoàn III ( Trung tướng Nguyễn Văn Toàn ).
Ngày 21/4/75, LĐ258 (Đ/tá Nguyễn Năng Bảo ) với TĐ2 ( Thiếu tá Trần Văn Hợp), TĐ4 ( Thiếu tá Trần Ngọc Toàn ), TĐ6 ( Trung tá Lê Bá B́nh ), và 1 Pháo đội tiếp tục tăng cường cho Quân đoàn III. Một BCH nhẹ của SĐ/TQLC cũng được Đ/tá Tư lịnh phó Nguyễn Thành Trí thành lập và đóng tại căn cứ Long B́nh. Ngày 24/4, Đ/tá Định bàn giao LĐ468 cho Trung tá Nguyễn Đằng Tống để ra Vũng Tàu nhận nhiệm vụ tái tổ chức LĐ147.
SĐ/TQLC tiếp tục tái bổ sung và trang bị và sẳn sàng nhận lịnh. Nhưng số phận miền Nam đă được định đoạt. Việt Nam Cộng ḥa son trẻ đă bị xóa tên . Cả một Quân lực VNCH hùng mạnh đă sụp đổ. Cả một Sư đoàn TQLC bách chiến chỉ c̣n lại những âm vang..
“ Ngày 30/4/1975, Tôi trở về nhà và chấp nhận tất cả những ǵ sẽ xảy ra với ḿnh là những người thua cuộc. Tôi đă làm hết sức ḿnh trong trách nhiệm giao phó. Định mệnh của toàn quân toàn dân miền Nam đă được an bài, Cho nên tôi đă khuyên cả nhà tôi và con cái đừng hoang mang, hăy b́nh tĩnh và phải biết chấp nhận rồi tùy cơ ứng biến. Có lẽ bản tánh của tôi là thế. Tôi đă qua 21 năm trong Quân đội, thuần túy là một người lính tác chiến, luôn luôn hiện diện tại chiến trường, kề cận với bao hiểm nguy và cái chết. Tôi đă chiến thắng và tôi cũng đă thua trận. Tôi đă ngă xuống và tôi cũng đă đứng dậy. Luôn luôn kiên tŕ, trung thực và chiến đấu với một tấm ḷng nhân hậu và không hiếu sát.
Tôi cũng qua 13 năm trong các trại tù CS, cùng với các Chiến hửu của tôi: Nguyễn Thành Trí, Hoàng Tích Thông, Tôn Thất Soạn, Nguyễn Thế Lương, Nguyễn Văn Hay, Nguyễn Văn Châu, Lê Văn Hiền. Lê Bá B́nh, Trần Vệ, Mai Văn Tấn..và c̣n nhiều nữa. Chúng tôi đi từ nam ra bắc với bao nỗi thống khổ nhục nhằn, tủi hổ..
Đúng như lời của MX Mai Văn Tấn đă ghi lại: “ ..khoảng đời cực khổ và xót xa nhất của một kiếp người trong giai đoạn đau thương cùng cực của chiều dài lịch sử dân tộc. Lúc đó nh́n h́nh hài của các “Đại bàng” Bắc Ninh, Tango, Long Mỹ, Thăng Long,..quá thê thăm, lê lết trong chuỗi ngày vô vọng..H́nh ảnh ấy đă ăn sâu vào tiềm thức tôi cho đến ngày nay và sẽ vĩnh viễn ở trong tôi cho đến ngày xuôi tay nhắm mắt..Tôi với Bắc Ninh ở trại tù Nam Hà khá lâu, Tango, Thăng Long.. được đưa về Nam rồi được thả, c̣n chúng tôi vẫn c̣n bám trụ tại đây..Bắc Ninh là người đă cho tôi những t́nh nghĩa rất quí hiếm , những cung cách đối xử đầy ắp t́nh người, nhất là những ngày tôi từ trại kỷ luật Mễ về lại trại Nam Hà A. Tôi biết rất rơ Bắc Ninh là người ít nói, tánh t́nh đằm thắm, nhưng ông cũng nóng giận và bất b́nh đối với những người mất tư cách và có những hành động xấu hổ. Đối với tôi, hồi ở đơn vị chiến đấu hay trong trại tù cs, Bắc Ninh là một cấp chỉ huy đạo đức nhất, đầy ắp t́nh người..”
Người con gái mang đến cho Anh ly sửa với cái ống hút. Anh cầm lấy và làm công việc đó một cách nhẹ nhàng và cẩn thận. Tôi thấy Anh vẫn b́nh tĩnh, thoải mái..nhưng tôi nghĩ đă đến lúc ḿnh phải xin phép ra về. Và đây là những lời nói của Anh trong những ḍng cuối cùng mà tôi được ghi lại về Anh :
..Nhưng tôi đă c̣n Tất cả với Tinh thần Quốc gia, Lư tưởng Tự do, với người vợ mà chúng tôi đă cưới nhau khi c̣n rất trẻ và 6 đứa con và giữa những con người đầy ḷng bao dung và nhân ái này. Tôi vẫn c̣n những người bạn, những Chiến hửu đă đến với tôi trong những giây phút này, mang theo những tấm ḷng thương yêu và những ngôn từ thân ái. Tôi đă rất măn nguyện và cho rằng Ḿnh là người thật sự Hạnh phúc và May mắn.
Ít nhất tôi cũng đă làm tṛn nhiệm vụ của một người lính đối với Quân đội, chu toàn bổn phận của một người dân của chế độ VNCH, làm một người chồng chung thủy và một người Cha biết thương yêu và đùm bọc các Con. Như thế cũng đủ rồi. Bây giờ nếu có ra đi, th́ tôi cũng đă chuẩn bị sẳn sàng hành trang của ḿnh để lên đường..như đă bao lần tôi đă làm như thế.
Nam California ngày 9/3/2009.
Bookmarks