Bản tin video sáng 04-07-2014
Thành lập Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam
Cập nhật: 07:54 GMT - thứ sáu, 4 tháng 7, 2014
Lễ ra mắt Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam tại Sài Gòn 4/7
Hội Nhà báo Độc lập, một tổ chức dân sự mới, vừa tuyên bố thành lập hôm thứ Sáu 4/7 tại TP HCM "nhằm thực hiện quyền tự do biểu đạt và tự do báo chí".
Lễ ra mắt được tiến hành vào buổi sáng tại Nhà thờ Chúa Cứu Thế tại Sài Gòn.
Chủ tịch Hội, nhà báo tự do Phạm Chí Dũng, nói với BBC rằng việc thành lập hội là "hoàn toàn phù hợp với xu thế hoạt động dân sự" trong nước.
Hội Nhà báo Độc lập là "tổ chức xă hội dân sự nằm trong xă hội dân sự Việt Nam", có tôn chỉ "v́ một Việt Nam tiến bộ xă hội, dân chủ và đa nguyên, văn minh và giàu mạnh", theo tuyên bố thành lập.
Tổ chức này ban đầu có 42 thành viên, với ban lãnh đạo gồm 5 người là các cây viết Phạm Chí Dũng, Anton Lê Ngọc Thanh, Nguyễn Tường Thụy, Bùi Minh Quốc và Ngô Nhật Đăng.
Trong giai đoạn đầu, Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam có bốn chi hội ở cả ba miền đất nước và ở hải ngoại.
Ông Phạm Chí Dũng nói với BBC: "Chúng tôi thành lập với mục tiêu phản ánh trung thực sự thật trong nước, giúp nhà nước điều chỉnh các chính sách và phản biện chính sách chứ không phải cái gọi là thế lực phản động".
Hiện chưa có phản ứng gì từ phía giới chức về sự kiện này.
'Phản biện xã hội'
Mục đích của Hội Nhà báo Độc lập được tuyên bố trước hết là:
*"Phản ánh trung thực và sâu sắc những vấn đề nóng bỏng của xă hội và đất nước;
* Phản biện đối với những chính sách bất hợp lư của nhà nước liên quan đến quản lư xă hội và tự do báo chí và
* Tổ chức trao đổi, đối thoại với các cấp chính quyền về tự do báo chí và quản lư xă hội khi có điều kiện, đồng thuận với những chính sách, giải pháp hợp ḷng dân và có lợi cho đất nước".
Tổ chức này cũng cam kết "Lên tiếng và có hành động cần thiết để bảo vệ những người làm báo v́ tiến bộ xă hội, nhưng bị sách nhiễu, bắt bớ, tù đày, khủng bố… Đấu tranh yêu cầu Nhà nước Việt Nam hủy bỏ những điều luật mơ hồ của Bộ Luật H́nh sự được dùng để áp chế tự do báo chí như Điều 258, 88…"
Hội Nhà báo Độc lập sẽ sinh hoạt định kỳ với các tọa đàm và hội thảo về các chủ đề thời sự, đồng thời cho ra một tờ báo mạng dành cho các nhà báo và cộng tác viên độc lập.
Trước đó, một tổ chức tập hợp các cây viết với mục tiêu phản biện xã hội có tên gọi 'Văn đoàn Độc lập' đã được tuyên bố thành lập nhưng cho tới nay chưa có hoạt động gì đáng kể.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/viet...ts_assoc.shtml
Tin mới xảy ra :.
'TQ nhiều lần bắt tàu cá của chúng tôi'
Cập nhật: 08:37 GMT - thứ sáu, 4 tháng 7, 2014
Ông Phạm Minh Hải, cán bộ chuyên trách về nông lâm ngư tại xă Phổ Thạnh, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngăi nói tàu QNg 94912 chỉ là một trong các tàu cá của ngư dân xă bị Trung Quốc bắt giữ trong thời gian qua.
"Năm kia họ bắt ba tàu, họ trả lao động về nhưng tàu th́ vẫn bị tịch thu", ông nói với BBC trong cuộc phỏng vấn ngày 4/7.
"Thiệt hại mỗi tàu là từ 1 tỷ - 1,4 tỷ đồng".
"Các chủ tàu sau đó được quỹ Tấm lưới Nghĩa t́nh của Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam hỗ trợ 200 triệu đồng. Hai trong ba tàu đă tiếp tục ra khơi bám biển".
Ông Hải cho biết chính quyền địa phương "vẫn khuyến khích ngư dân ra khơi bám biển bảo vệ chủ quyền".
"Tuy nhiên, chúng tôi cũng phối hợp với Cảnh sát biển Vùng Hai để tuyên truyền về pháp luật biển và tọa độ khai thác cho ngư dân," ông nói.
Ông cũng cho biết gần đây, Chi cục khai thác thủy sản của tỉnh Quảng Ngăi đă có công văn gửi xuống huyện Đức Phổ để thu thập danh sách những ngư dân có nguyện vọng được hỗ trợ để đóng vỏ sắt cho tàu.
"Xă Phổ Thạnh đă có hơn một chục người đăng kư nhưng chưa có phản hồi từ tỉnh", ông nói thêm.
Nghe audio :
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/mult...nterview.shtml
Audio :Việt Nam vẫn 'thiếu sẵn sàng'
Nghe audio : http://www.bbc.co.uk/vietnamese/mult...nterview.shtml
Tiến sỹ Vũ Minh Khương nói Việt Nam không phải thiếu nguồn lực để 'trỗi dậy', mà thiếu "sự sẵn sàng về tâm thế".
"Đài Loan và Hàn Quốc gặp rất nhiều thách thức trong thời Chiến Tranh Lạnh và tài trợ của thế giới vào họ rất hạn chế, chủ yếu là từ Mỹ", ông nói với BBC trong cuộc phỏng vấn ngày 2/7.
"Nhưng tôi quan sát kinh nghiệm của họ th́ thấy các nhà đầu tư giúp đỡ họ đều cảm thấy kinh ngạc v́ nỗ lực của những nước này vượt xa kỳ vọng của nhà viện trợ".
"Trong khi đó, nếu nh́n lại các dự án của Việt Nam th́ phần lớn đều bị đánh giá thấp hơn kỳ vọng hoặc trung b́nh thấp".
"Như vậy vấn đề ở đây là sử dụng nguồn lực thế nào để vượt lên chứ không phải là thiếu nguồn lực".
"Ba chữ C: con người, cơ chế, chiến lược mới là cái Việt Nam đang thiếu."
"Cần phải có quyết tâm lớn từ Đảng, Nhà nước, Chính phủ Việt Nam. Rất nhiều bạn bè quốc tế cũng rất săn sàng tư vấn để giúp Việt Nam phát triển."
"Có điều họ có coi trọng sứ mệnh đưa đất nước trở thành phồn vinh hay không hay vẫn bám lấy thứ ư thức hệ giáo điều, lợi ích cá nhân và những thứ mơ hồ khác?"
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/mult...nterview.shtml
Để lại ǵ cho mai sau?
July 4th, 2014
Liên quan đến vấn đề lấy lại Ḥang Sa – Trường Sa từ Tàu, hiện nay giới lănh đại h́nh như đă đầu hàng. Họ nói nếu đời này không lấy lại được, th́ đời sau, đời sau nữa, và đời sau nữa, v.v. Tôi thấy quan điểm này rất buồn cười v́ nó không đúng đạo lí của người VN.
Đạo lí của người VN là bằng mọi cách tạo điều kiện cho con cháu ḿnh phát triển hơn. Phải làm sao con hơn cha. Đời cha mẹ chẳng có ai có bằng đại học, nên cha mẹ phải “cày” ngày đêm để con được đi học đàng hoàng. Khi cha mẹ đă có nhà cửa, cha mẹ c̣n t́m cách mua nhà hay đầu tư cho con cái. Nói chung người VN luôn t́m cách tạo điều kiện tốt hơn cho con cái đời sau, thậm chí cho cả cháu (nếu có điều kiện).
C̣n đằng này, Nhà nước hiện hành không làm ǵ để thu hồi HS-TS về VN, mà c̣n đùn đẩy cho con cháu đời sau! Nhưng thật ra, cũng chẳng có ǵ để để lại cho đời sau. Chẳng hạn như một thảo luận trên VNN có câu rất đáng chú ư “Như vậy, cái chúng tôi để lại cho thế hệ sau là ǵ? Là hết than, hết dầu, hết cá, hết rừng.” Nhưng tác giả giả bài này rất từ hào điều đó “chúng tôi để lại cho thế hệ trẻ một con đường duy nhất là phải học là không c̣n dựa vào tài nguyên thiên nhiên nữa. Đó là điều mà tôi tự hào để lại cho thế hệ sau”. Tôi th́ không tự hào chút nào cả; v́ đó là một suy nghĩ vô trách nhiệm, nó giống như thế hệ này ăn hết rồi vỗ vai thế hệ sau: cố găng vươn lên bằng chính tài năng của ḿnh. Một câu hỏi như thế cũng rất thích hợp cho những kẻ đang ngày đêm phá nát rừng biển của VN.
Tôi chợt nhớ đến luật môi trường ở Úc. Ở Úc họ rất nghiêm ngặt với môi trường, tất cả các hăng sửa xe hơi phải có hầm chứa nhớt và dầu riêng. Bất cứ một ai chỉ cần đổ 1 lít nhớt xuống cống là Hội đồng thành phố đến ngay v́ họ có thể truy t́m nguồn gốc rất dễ dàng. Một người VN bị tội đổ nhớt vào ống cống (v́ nghĩ chẳng ai biết), và cảnh sát môi trường đến phạt và phải đem ra ṭa, tổng chi phí lên đến gần 5000 AUD! Họ lí giải rằng nếu ai cũng đổ nhớt như thế th́ cá sẽ chết, và ḿnh chẳng c̣n ǵ để cho thế hệ mai sau. Xứ tư bản bóc lột mà sao chúng suy nghĩ nhân văn thế?!
C̣n ở VN, không để lại cơ sở vật chất và tài nguyên, cũng chẳng có tiền bạc (v́ đang thiếu nợ chồng chất) mà nói là thế hệ sau sẽ thu hồi HS-TS! Đó là một cách buôn bán hi vọng không có thật.
FB Nguyễn Văn Tuấn
http://www.basam.info/2014/07/04/241...u/#more-133176
Trung Quốc không cần đồng minh, họ chỉ muốn chư hầu!
Lịch sử ngoại giao thế giới đang chứng kiến một “ca” rất lạ: thay v́ xây dựng đồng minh và lôi kéo đồng minh kẻ địch về phe ḿnh, Trung Quốc lại đẩy ra tất cả để đứng riêng một góc! Bắc Kinh đă đánh mất rất nhiều cơ hội để biến họ thành một cường quốc châu Á thật sự, thay vào đó, họ đă tự dâng khu vực cho Mỹ.
VỚI NHẬT
Năm 2009, cử tri Nhật đẩy đảng Dân chủ Tự do (LDP) ra khỏi cuộc chơi, lần đầu tiên trong 50 năm, và đưa đảng Dân chủ (DPJ) lên nắm quyền. Tân Thủ tướng Yukio Hatoyama công khai nói về ư tưởng thành lập một liên minh Đông Á mới và bày tỏ sự gần gũi với Bắc Kinh. Đầu năm 2010, chính trị gia Ichiro Ozawa dẫn một phái đoàn hùng hậu 143 nghị sĩ Nhật sang Bắc Kinh. Ozawa là một chính khách sừng sỏ của Nhật, được mệnh danh “tướng quân trong bóng tối” bởi ảnh hưởng hậu trường của ông lên sân khấu chính trị nước này.
Chỉ vài tháng sau, tháng 8-2010, quan hệ Nhật-Trung trở nên căng thẳng, bắt đầu từ vụ tuần duyên Nhật bắt một thuyền trưởng Trung Quốc khi đoàn tàu cá Trung Quốc thâm nhập Senkaku. Phản ứng Bắc Kinh là rất hung hăng. Họ yêu cầu Nhật thả thuyền trưởng Trung Quốc ngay lập tức, và bật đèn xanh cho loạt cuộc biểu t́nh dữ dội chống Nhật. Cùng lúc, Trung Quốc ngăn một số mặt hàng xuất khẩu đến Nhật trong đó có đất hiếm. Đây là một trong những lần đầu tiên Bắc Kinh áp dụng đ̣n trừng phạt kinh tế trong một xung đột lẽ ra không đáng làm to chuyện. Yoichi Funabashi, tổng biên tập tờ Asahi Shimbun, gọi phản ứng Trung Quốc là một “chiến dịch gây sốc và kinh ngạc”. Funabashi chính là người từng hoạt động tích cực việc khuyến khích trao đổi du học sinh hai nước và là một trong những người mạnh mẽ kêu gọi Nhật hàn gắn vết thương chiến tranh với Trung Quốc. Chỉ vài ngày sau vụ trên, Funabashi buộc phải thốt lên: “Nhật và Trung Quốc đang ở hiện trường một vụ đổ nát toàn diện và quanh cảnh trông ảm đạm trơ trọi trống vắng”. Trong cuộc phỏng vấn sau đó, Funabashi cảnh báo rằng châu Á đang đối mặt với một thứ luật rừng! Cuối cùng, chính thái độ của Trung Quốc đă trở thành nguyên nhân một phần khiến chính trường Nhật thay đổi: cánh chính trị thân Trung, DPJ, bị hất cẳng; và đảng LDP, thân Mỹ, trở lại, vào cuối năm 2012.
VỚI ÚC
Là một trong những nước đầu tiên nhận ra sự trỗi dậy Trung Quốc, Úc bắt đầu thắt chặt quan hệ kinh tế với Bắc Kinh từ thập niên 1980. Mùa xuân mới trong cuộc t́nh Canberra-Bắc Kinh đă bắt đầu bằng sự kiện “xông đất” của Hồ Diệu Bang năm 1985. Thủ tướng Úc Bob Hawke háo hức đến mức phá vỡ nguyên tắc thông thường trong ngoại giao tiếp đón nguyên thủ quốc gia và xem Hồ Diệu Bang như một người bạn khi đưa họ Hồ đến vùng đất giàu khoáng sản Pilbara xa xôi ở phía Tây nước Úc cách Canberra hơn 3.000 km.
Bức ảnh chụp hai người, đều vận sơmi trắng và không mang cà vạt, đứng trên một ngọn núi hướng mắt về nơi xa xa, nơi có một trong những quặng sắt lớn nhất thế giới, đă trở nên nổi tiếng như một dấu ấn lịch sử quan hệ hai nước. Năm 2007, Kevin Rudd, người mà báo chí Trung Quốc gọi thân mật bằng cái tên tiếng Hoa là Lục Khắc Văn (Lu Kewen), đă trở thành lănh đạo một nước phương Tây đầu tiên biết nói thông thạo tiếng Hoa. Tương tự Hàn Quốc, Đài Loan và một số nước châu Á, Úc hưởng lợi đáng kể từ sự phát triển kinh tế Trung Quốc. Quan hệ kinh tế song phương đến nay vẫn tăng đều. Hiện tại, ¼ xuất khẩu Úc đang đổ vào thị trường Trung Quốc. Trong chuyến công du Trung Quốc tháng 4-2014, Thủ tướng Úc Tony Abbott đă dẫn theo phái đoàn đông chưa từng có (hai nước dự kiến kư Hiệp định Tự do thương mại vào cuối năm 2014).
Từng có một thời điểm rộ lên nguồn tin cho biết, một số viên chức cấp cao Trung Quốc đă thẳng thắn đề nghị Canberra “chơi” theo “kiểu Pháp”: vẫn là một phần của liên minh phương Tây nhưng tách khỏi Mỹ để đi theo con đường riêng. Khuynh hướng “bỏ Mỹ-thân Trung” c̣n được ủng hộ từ một số nhân vật tên tuổi của Úc. Cựu Thủ tướng Malcolm Fraser nói rằng cách tiếp cận của Mỹ đối với Trung Quốc là một phiên bản thời Chiến tranh lạnh. Chỉ trích của cựu cố vấn chính phủ Hugh White thậm chí c̣n gay gắt hơn. Trong bài b́nh luận “Power Shift”, Hugh White viết: “Nếu không rút khỏi châu Á và không chịu chia sẻ quyền lực với Trung Quốc, Mỹ phải chấp nhận đấu với thách thức Trung Quốc về khả năng ai mới là kẻ xứng đáng lănh đạo”. Greg Sheridan, biên tập viên đối ngoại tờ The Australian, gọi bài b́nh luận của White là “tài liệu chiến lược độc nhất và ngu xuẩn nhất từng được soạn cho lịch sử Úc”!
Thế nhưng Bắc Kinh lại làm vuột mất bàn tay người t́nh Canberra. Một lần nữa, cũng chỉ bắt nguồn từ một sự kiện không mấy nghiêm trọng. Năm 2009, Hồ Sĩ Thái (Stern Hu), công dân Úc gốc Hoa làm việc cho tập đoàn khai thác khoáng sản Rio Tinto tại Thượng Hải, bị Trung Quốc bắt với cáo buộc đánh cắp bí mật quốc gia. Lúc đó, Rio Tinto đang dính vào cuộc tranh căi căng thẳng với Bắc Kinh quanh vấn đề giá sắt. Cáo buộc dành cho Hồ Sĩ Thái sau đó được làm nhẹ bớt, với tội đánh cắp bí mật thương mại. Hồ Sĩ Thái bị kết án 10 năm tù. Báo chí Úc tin rằng chính vụ tranh căi với Bắc Kinh mới là nguyên nhân khiến Rio Tinto bị “xử” và Hồ Sĩ Thái chỉ là một nạn nhân vạ lây. Dù vậy, chính sự hung hăng trong chính sách đối ngoại khu vực của Trung Quốc mới là nguyên nhân khiến Úc nh́n Bắc Kinh bằng cặp mắt lo ngại.
Cuối năm 2011, Tổng thống Mỹ Barack Obama đến Úc, tuyên bố đưa 2.500 thủy quân lục chiến đến nước này. “Lợi ích lâu dài của chúng tôi trong khu vực đ̣i hỏi sự hiện diện lâu dài của chúng tôi trong khu vực. Hoa Kỳ là một cường quốc Thái B́nh Dương, và chúng tôi đến đây để ở lại” – Obama phát biểu tại Quốc hội Úc. Sự hiện diện của 2.500 thủy quân lục chiến Mỹ đă thể hiện một “chính sách bảo hiểm” cho một tương lai không chắc chắn trước sự đe dọa an ninh từ Trung Quốc mà Úc bắt đầu nhận ra. Và trong chuyến công du Hoa Kỳ vào giữa tháng 6-2014, Thủ tướng Tony Abbott đă đứng tên chung với Tổng thống Obama trong bài xă luận đăng trên Los Angeles Times. Bài có đoạn: “Cả Úc và Hoa Kỳ đều quan ngại rằng hành vi gây hấn tăng dần trong các cuộc tranh chấp biển đảo tại châu Á đang tạo ra một nguy cơ ngày càng tăng của tính toán sai lầm và, trong trường hợp xấu nhất, dẫn đến xung đột… Cả hai nước chúng tôi đều phản đối việc sử dụng hăm dọa, ép buộc hoặc xâm lược trong vấn đề tranh chấp của bất kỳ quốc gia nào”.
VỚI PHILIPPINES
Có lúc tưởng chừng Trung Quốc đă “mua” được Philippines. Dưới thời Tổng thống Gloria Macapagal Arroyo, Trung Quốc từng dứ ra đĩa mồi thơm phức: 2,8 tỉ USD (chưa kể 330 triệu USD cung cấp hệ thống băng thông rộng kết nối 25.000 văn pḥng chính quyền). Năm 2005 là thời điểm quan hệ Manila-Bắc Kinh ở đỉnh cao. Đó là lúc “Joint Marine Seismic Undertaking” (JMSU; kư năm 2004) bắt đầu có hiệu lực. JMSU là thỏa ước giữa Philippines, Việt Nam và Trung Quốc về việc thăm ḍ một khu vực 142.886 km2 phía Tây Palawan nằm hoàn toàn trong chủ quyền Philippines. Dư luận Philippines phản ứng gay gắt, cho rằng Arroyo bán đứng đất nước. Quốc hội Phi tin rằng đây là một điều kiện mà Bắc Kinh đặt ra để đổi lấy khoản vay 2,8 tỉ USD… Quan điểm đối ngoại của Arroyo rất rơ: anh em xa không bằng láng giềng gần. Tuy nhiên, tay láng giềng này, với một quan hệ mà Arroyo từng nói rằng “bắt đầu bước sang thời hoàng kim” khi tiếp Hồ Cẩm Đào trong chuyến công du Manila tháng 4-2005, đă gây ra liên tiếp va chạm căng thẳng từ các vụ xâm nhập đánh cá. Cuối cùng, thái độ ngang ngược của Trung Quốc khiến thay đổi diện mạo chính trị Philippines, với cuộc thắng cử của Benigno Aquino III vào tháng 5-2010, đưa Manila chuyển hẳn sang trục Mỹ.
***
Kết quả chính sách đối ngoại đưa ḿnh lên vị trí trung tâm khu vực của Bắc Kinh: Càng cố đẩy Mỹ ra xa, Trung Quốc càng khiến Mỹ gắn chặt quyền lợi hơn với châu Á. Càng cố lôi kéo các nước châu Á, Trung Quốc càng khiến họ nhảy về phía Mỹ. Bắc Kinh không thể không nhận ra điều này nhưng họ tin rằng đây là thời khắc chín mùi để thể hiện sức mạnh. Một vài phép thử rải rác từ năm 2009 cho thấy phản ứng yếu ớt của khu vực trong khi Mỹ vẫn chưa thực hiện xong kế hoạch “cắm cọc” đă khiến Bắc Kinh tự tin đẩy cực nhanh tốc độ “xử lư dứt điểm” vấn đề biển Đông. Ở đây có lẽ không cần thiết nói về cái được cái mất trong chính sách đối ngoại của Bắc Kinh, v́ nó quá rơ – như lời chính Thời Ân Hoằng (Shi Yinhong), học giả có sức ảnh hưởng mạnh tại Trung Quốc, rằng: “Chúng tôi đă giành được những điều hoàn toàn trái ngược với những ǵ mà chúng tôi hy vọng muốn có” – mà cần nhấn mạnh vấn đề ở một khía cạnh khác:
Trung Quốc, bất chấp hậu quả nhăn tiền, vẫn đang đi theo một chủ trương đối ngoại, vượt ngoài chuẩn tắc bang giao chính trị hiện đại, trong đó không có khái niệm của sự tử tế, thành thật và tôn trọng. Họ không cần đồng minh, họ chỉ muốn chư hầu! Họ không cần cam kết quan hệ bền vững mà chỉ muốn có sự qui phục lâu dài! Thật chua xót đối với bất kỳ nước nhỏ nào vẫn c̣n ngây thơ tin rằng ḿnh đang được Trung Quốc đối xử ngang bằng và tôn trọng như một quốc gia với một quốc gia!
http://www.basam.info/2014/07/03/241...-muon-chu-hau/
VN lên án Trung Cộng tại LHQ
Cập nhật: 13:18 GMT - thứ sáu, 4 tháng 7, 2014
Việt Nam đề nghị Liên Hiệp Quốc (LHQ) lưu hành hai văn bản về lập trường của Việt Nam về vụ giàn khoan Hải Dương – 981 và chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa.
Diễn biến mới nhất xảy ra hôm 3/7, khi Đại sứ Lê Hoài Trung, Trưởng Phái đoàn Việt Nam tại LHQ, một lần nữa gửi thư cho Tổng thư kư Ban Ki-moon.
Đại sứ Trung đề nghị lưu hành hai văn bản “như là những tài liệu chính thức của Đại hội đồng LHQ”, theo thông cáo của Bộ Ngoại giao Việt Nam.
Văn bản thứ nhất “bác bỏ toàn bộ, cả trên thực tế cũng như pháp lư” hai văn bản của Trung Quốc gửi cho Tổng thư kư Ban Ki-moon ngày 22/5 và 9/6.
Theo thông cáo của Việt Nam, văn bản gửi LHQ nói Trung Quốc “làm gia tăng căng thẳng ở Biển Đông bằng các hành động vi phạm luật pháp quốc tế”.
“T́nh h́nh căng thẳng hiện nay xuất phát từ việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương-981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam,” Việt Nam nói.
Việt Nam cáo buộc Trung Quốc đă tấn công cả tàu thực thi pháp luật và tàu của ngư dân.
Hành động của Trung Quốc “không chỉ vi phạm quy định cấm sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực trong luật pháp quốc tế mà c̣n là hành động vô nhân đạo đối với những người đi biển”.
Việt Nam cũng nói với LHQ rằng Trung Quốc “khước từ” các “nỗ lực và thiện chí của Việt Nam để giải quyết t́nh h́nh căng thẳng”.
Theo phía Việt Nam, từ ngày 2/5, Việt Nam đă “gửi công hàm, giao thiệp trên 30 lần ở nhiều cấp khác nhau” để phản đối Trung Quốc.
Chủ quyền Hoàng SaVăn bản thứ hai của Việt Nam nói Việt Nam “hoàn toàn bác bỏ” yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa.
Việt Nam cho biết trong các trao đổi gần đây, Trung Quốc dẫn ra một số “bằng chứng lịch sử”, nhưng Việt Nam nói chúng “không có nguồn gốc rơ ràng, không chính xác và được Trung Quốc diễn giải một cách tùy tiện”.
“Các ghi chép lịch sử cho thấy Trung Quốc hiểu rằng chủ quyền của họ chưa bao giờ có quần đảo Hoàng Sa,” phía Việt Nam nhấn mạnh.
"Công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng hoàn toàn không nhắc ǵ đến chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa hay Trường Sa"
Văn bản của Việt Nam cũng bác bỏ những tư liệu gần đây được Trung Quốc dẫn ra để nói Việt Nam từng công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với Hoàng Sa.
Việt Nam nói Trung Quốc “cố t́nh xuyên tạc lịch sử và diễn giải sai lịch sử khi viện dẫn Công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958 và một số tài liệu, ấn phẩm được xuất bản ở Việt Nam trước năm 1975”.
“Công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng hoàn toàn không nhắc ǵ đến chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa hay Trường Sa,” văn bản nói.
Việt Nam cũng nhấn mạnh vào tháng 9 năm 1975, lănh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu B́nh nói với lănh đạo Việt Nam Lê Duẩn tại Bắc Kinh rằng “với nguyên tắc thông qua Hiệp thương hữu nghị để giải quyết bất đồng, sau này hai nước sẽ bàn bạc giải quyết”.
Việt Nam cho rằng đây là bằng chứng Trung Quốc nhận thức được “vấn đề chủ quyền không được dàn xếp có lợi cho phía Trung Quốc qua các phát biểu hay thỏa thuận trước đây”.
Gần đây các lănh đạo cao cấp của Việt Nam, từ Tổng Bí thư đến Thủ tướng, đều đề cập khả năng kiện Trung Quốc ra ṭa quốc tế v́ vụ giàn khoan.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/viet..._tension.shtml
Trả lời email của một thân hữu :
" Diễn đàn Viêtland thật đa dạng "
Đúng vậy , nhất là đang lúc này , Vietland thật là đa...dạng !!!
Thời sự Việt Nam: chai ĺ cảm xúc
Dạo này theo dơi t́nh h́nh thời sự ở VN liên quan đến vụ Biển Đông tôi chẳng có cảm giác ǵ.
Nếu có một ông lớn nào mới lên tiếng th́ người dân có thể đoán được vị đó nói ǵ, bởi v́ họ chỉ sắp xếp những khẩu hiệu.
Nói chung là những phát biểu của họ chẳng có ǵ phải đáng quan tâm, v́ lời lẽ th́ chán ngắt (do thiếu tính sáng tạo) và nội dung th́ chẳng có liên quan hay ảnh hưởng ǵ đến vận mệnh đất nước này, hay dân tộc này. C̣n bên Tàu th́ họ cũng chẳng quan tâm, họ chỉ để cho báo chí mắng vài câu rồi tiếp tục việc làm của họ.
Giới quan chức VN có phát biểu hay không phát biểu th́ t́nh h́nh Biển Đông vẫn thế, vẫn xấu hơn từng ngày.
Thật vậy, Tàu cộng tuyên bố đem thêm giàn khoan vào Biển Đông; họ điều thêm tàu chiến, máy bay chiến đấu, và đủ thứ các tàu ngụy h́nh hải cảnh hay kiểm ngư. Họ có nói ǵ th́ tàu của VN vẫn bị uy hiếp HÀNG NGÀY, tàu của VN bị đâm va hàng ngày, tàu của VN vẫn chạy trốn ḷng ṿng tránh những cú tấn công của Tàu cộng. Vậy th́ có họ phát biểu hay không phát biểu chẳng có tác động thực tế nào cả.
Mà, làm sao gây tác động khi những câu đại khái như “chúng ta sẽ đấu tranh lấy lại Hoàng Sa”, “không ai chọn láng giềng”, “phải giữ bằng được chủ quyền”, “không chấp nhận nhượng bộ chủ quyền thiêng liêng”, v.v.
* Câu đầu tiên thể hiện một sự đầu hàng, thế hệ này không lấy lại được HS, vậy th́ làm sao mong chờ thế hệ sau lấy được khi thế hệ hiện nay chẳng để lại cho thế hệ sau cái ǵ cả (ngoại trừ nợ nần).
* C̣n những câu c̣n lại th́ chẳng có ư nghĩa ǵ, v́ đó chỉ là những rhetoric tiêu biểu và đường ṃn chữ nghĩa. Chỉ có bao nhiêu chữ được lặp đi lặp lại nhiều lần.
Trong khi VN đang rất cô đơn trên trường quốc tế th́ VN lại đưa ra nhiều tín hiệu mâu thuẫn nhau.
Trong Đối thoại Shangri-La, MỸ và Nhật lên tiếng mạnh mẽ chỉ trích Tàu (và ngầm ủng hộ VN), vậy mà phía VN lên nói ví von đó như là một xung đột trong gia đ́nh! Một miệng th́ kêu gọi người ta ủng hộ, c̣n một miệng khác th́ nói “chuyện của gia đ́nh chúng tôi”!
* Mâu thuẫn thứ nhất. Hễ thấy người Việt ở nước ngoài biểu t́nh chống Tàu là báo chí VN hăng hái đưa tin, nhưng sinh viên ở VN mà biểu t́nh chống Tàu th́ bị cấm đoán xách nhiễu thậm chí hành hung.
* Mâu thuẫn thứ hai. Mới hôm nay, báo VN đưa tin rằng Tàu nhận một “vố đau” từ Chủ tịch ASEAN, v́ ông này từ chối đề nghị của Tập Cận B́nh về Biển Đông. Bài báo ca ngợi ngài chủ Chủ tịch ASEAN là “nhà lănh đạo Myanmar thể hiện thái độ quyết đoán, không chấp nhận đứng về phía Trung Quốc.”
Tôi tự hỏi tại sao VN không có một lănh đạo nào quyết đoán như ngài Chủ tịch ASEAN?
Tại sao không một nhà lănh đạo VN không dám nói KHÔNG với Tàu?
* Mâu thuẫn thứ ba. ;Ca ngợi người ta anh hùng th́ ok, nhưng phải nh́n lại ḿnh ra sao chứ.
Hiện nay chẳng ai biết giới lănh đạo VN sẽ giải quyết vấn đề Biển Đông ra sao. Thoạt đầu th́ tuyên bố là sẽ kiện Tàu ra ṭa án quốc tế, nhưng nay th́ chẳng ai nhắc đến ư tưởng đó nữa.
Có người nói thẳng ra là họ sợ sau khi kiện Tàu th́ kinh tế VN sẽ bị ảnh hưởng nặng nề. Sự thú nhận đó cho thấy một bộ phận không nhỏ trong giới chóp bu vẫn không muốn “thoát Tàu”.
Không kiện cũng là một cách nói cho Tàu biết rằng VN vẫn xem Tàu là cái bóng che chở — một cách tự nguyện đưa ḿnh vào quĩ đạo của kẻ thù.
Nhưng hễ ai hỏi ǵ th́ họ nói “Oh, t́nh h́nh phức tạp lắm”. Hai chữ “phức tạp” nó trở thành một thứ bùa chú để tránh đối đầu với sự thật. Nếu là người có trách nhiệm với dân, với cộng đồng, lănh đạo không thể nào chỉ dừng ở “phức tạp” mà phải giải thích nó có nghĩa ǵ trong thực tế. Chứ nói phức tạp th́ ai cũng nói được v́ nó vô nghĩa?!
Trong khi đó th́ các thủy thủ và nhân viên kiểm ngư VN ở đầu sóng ngọn gió vẫn phải đương đầu với hiểm nguy mỗi ngày. Tôi không c̣n đếm được bao nhiêu tàu VN đă bị đâm va, không c̣n nhớ bao nhiêu thủy thủ bị thương.
H́nh như “chiến lược” của lănh đạo VN là mua cảm tính quốc tế. Họ để cho những chiếc tàu cũ rích, rĩ sét, mỗi lần bị đụng là bẹp dúm lại, trông rất thảm hại.
Để làm ǵ? Để các kư giả nước ngoài quay phim. Mà, ngay cả kư giả Úc quay phim và chiếu trên tv Úc cũng chẳng gây được cảm t́nh nào từ người dân địa phương. Khúc phim chỉ nói lên điều mà mọi người đă biết. Khúc phim đó quả là tốn kém! Đâu phải cần đến những khúc phim đó để mếu máo “mét” với thế giới là “Thằng Tàu to con kia nó đánh tôi”.
Người ta sẽ hỏi rồi mày làm ǵ để đối đầu với nó, chẳng lẽ cứ đưa mặt ra cho nó đánh hoài?
Một số người th́ nhớ đến câu “đó chỉ là xung đột trong gia đ́nh”, vậy th́ để họ giải quyết với nhau!
Có người nói rằng sự kiên nhẫn của VN là lựa chọn đúng v́ không muốn gây chiến tranh và VN chẳng sợ ai cả. Người khác th́ cho đó là một lựa chọn hèn. Cái biên giới giữa nhẫn nhịn và hèn th́ chẳng bao xa.
Nói ǵ th́ nói, tôi thấy chỉ có một số ít người ở VN quan tâm đến t́nh h́nh Biển Đông, tuyệt đại đa số chẳng ai quan tâm. Họ quá bận rộn bươn chăi với cuộc sống mỗi ngày th́ th́ giờ đâu mà nghĩ chuyện xa xôi. Một số người th́ không làm ǵ cả v́ họ nghĩ là hoài công do VN chỉ là một phiên bản của Tàu và tự ḿnh làm nô lệ cho Tàu, vậy th́ nói làm ǵ cho mất công.
Một số nhỏ th́ nghĩ đă có Đảng và Nhà nước lo, nên họ thoải mái nhậu nhẹt. Nói chung, tôi gọi đó t́nh trạng emotional fatigue – mỏi mệt cảm xúc. Người ta đă chai ĺ cảm xúc trước những thông tin về Biển Đông và h́nh ảnh tàu VN bị đâm va, người ta hờ hững với những phát biểu mà có cũng như không v́ chẳng có ư nghĩa ǵ, và sự chai ĺ đó cực kỳ nguy hiểm cho đất nước và dân tộc này.
http://anhbasam.wordpress.com/2014/0...ai-li-cam-xuc/
There are currently 2 users browsing this thread. (0 members and 2 guests)
Bookmarks