Khoảng 2 giờ sáng ghe ngừng, cặp vào một ghe khác nhỏ hơn. Họ nói đó là tàu đi biển.
Tên chỉ huy lên cò súng, ra lệnh tất cả bỏ hành lý tại chỗ kể cả giày dép đang mang, xếp hàng một, lần lượt sang tàu.
Tàu dài khoảng 14m, rộng 4m. Họ ghép thêm một căn gác lửng để chứa cho được nhiều người. Họ bắt chúng tôi ngồi xổm sát vào nhau. Một lớp trên gác, một lóp trên sàn tàu, hỏ đầy ba trăm người chúng tôi ra biển trên con tàu mong manh đó, không lương khô, không nước uống.
Trên tàu có số thanh niên đi theo phân làm 3 tốp, chia nhau án ngữ lối ra mũi tàu. Tất cả chúng tôi thật sự đã bị nhốt kín trong khoảng tàu.
Nhìn ra bên ngoài, chiếc ghe chài lớn gấp bốn lần chiếc ghe vượt biên, đèn điện sáng choang, đang quay mũi vào bờ. Thuyền chúng tôi nổ máy ra khơi, bắt đầu chuyến hải hành mà biên giới sanh tử mong manh như tơ tóc.
Đất mũi lùi xa dần, những gì thân thiết nhất đã bỏ lại sau lưng. Tàu đi với tốc độ 20 dặm giờ.
Cửa biển rộng thênh thang, trời nước mênh mông, tiếng máy tàu nổ nghe nhỏ mà vang thật xa. Cả tàu im lặng như nín thở.
Tôi chợt bắt gặp cái cảm giác trong một đêm khuya khoắt của 5 năm về trước khi tôi cùng cả ngàn sĩ quan bạn ngồi trên những chiếc Molotova bít bùngm có bộ đội ghìm súng canh chừng, rời trường Nguyễn Bá Tòng (nơi tập trung) lên Trảng Lớn để cải tạo!
Tiếng máy nổ trên biển, trong rừng, đồng vọng trong đêm nghe thật giống nhay, rờn rợn như đi vào cõi chết.
Tàu đi vài giờ thì mắc cạn. Trai tráng nhảy xuống đẩy rồi đi tiếp.
Bỗng: “Rầm!” một tiếng! Căn gác lửng chứa cả trăm người sập xuống làm bị thương một số và đè chết 2 em bé.
Máu đã chảy. Nhiếu tiếng la thất thanh.
Khủng khiếp quá! Tai nạn, chết chóc, thật sự đã đổ ập lên đầu chúng tôi rồi.
Hoàn cảnh bắt mọi người phải xử trí nhanh. Không dừng lại để than khóc. Phải vượt sóng dành sự sống. Những tấm ván từ căn gác đó được dựng vào hai bên hông tàu thành hình chữ V như hai sườn núi. Giải quyết được một số chỗ ngồi nhưng lại gây khó thở cho số người ngồi bên dưới trên sàn tàu.
Số phận chúng tôi đã bị kẻ cướp an bài. Phải ngồi yên tại chỗ. Nếu xê dịch tạo hỗn loạn tàu sẽ chìm xuống biển sâu. Nỗi hốt hoảng lắng xuống. Con tàu dập dềnh đi, với tốc độ lười biếng, mỏi mệt, ngược với sự nôn nóng của mọi người.
“Đi thế này thì bao giờ mới tới hải phận quốc tế?” Người ta nhìn nhau chán nản.
Đã gần trưa rồi, từ khi đi chưa có chút gì lót lòng. Nhiều người khát nước lả ra.
Bỗng đàng xa có tàu đi tới. Tưởng là tàu ngoại quốc, nhiều người vẫy tay kêu cứu.
Tàu lạ phăng phăng chạy về hướng chúng tôi. Hy vọng được cứu tắt ngấm khi một loạt đại liên nổ giòn thị uy, đảo một vòng quanh tàu chúng tôi rồi quăng dây kéo giữ lại.
Mọi người kêu trời sửng sót. Đó là tàu tuần duyên của Việt Cộng. Tháp buồng lái được sơn lá cờ đỏ sao vàng thật lớn. Đỉnh tháp đặt một khẩu đại liên. Có khoảng bảy, tám quân nhân sắc phục võ trang. Dưới vành nón cối, vẻ mặt họ lạnh lùng.
Một vài người nhanh trí liền nhảy qua tàu họ để thương lượng. Trong lúc đó mọi giấy tờ mang theo chúng tôi đều vo tròn ném xuống biển.
Cái thủ tục “đầu tiên” đã được đặt ra. Hai cái nón lật ngửa được chuyền tay nhau. Vàng bạc, đôla góp vào rồi đem nạp.
Chưa đủ! Một vòng góp thứ hai được mang sang. Hai người đại diện đã quay về. Tất cả chúng tôi hồi hộp đợi. Thình lình con tau đỏ nổ máy chạy xa bỏ chúng tôi lại trong nỗi mừng vừa trải cơn ác mộng. Niềm hy vọng lúc ra đi vẫn còn.
Còn tiếp...
Bookmarks