UYÊN ƯƠNG GĂY CÁNH
(Broken Wings, nguyên tác của Kahlil Gibran, 1912)
Nguyễn Ước dịch
[/IMG]
Tặng người nh́n thẳng mặt trời với đôi mắt ngây dại, nắm bắt lửa với những ngón tay không chút run rẩy và nghe giai điệu tinh thần của Vĩnh cửu đằng sau tiếng la hét chát chúa của người mù. Tôi tặng M.E.H cuốn sách này.
Gibran
Lời mở đầu
Tôi được t́nh yêu mở mắt năm mười tám tuổi với những tia sáng kỳ diệu của nó, và tinh thần tôi được nó chạm tới lần đầu tiên bằng những ngón tay nồng nàn. Selma Karamy là người nữ đầu tiên đánh thức tinh thần tôi bằng vẻ đẹp của nàng và dẫn tôi vào khu vườn thương cảm cao ngất nơi ngày ngày đi qua như những giấc mộng và đêm đêm như những tối tân hôn.
Selma là người dạy tôi thờ phượng cái đẹp bằng gương mẫu của nhan sắc nàng và vén lộ cho tôi bí mật t́nh yêu bằng ḷng thương cảm của nàng. Nàng là người đầu tiên hát cho tôi nghe những bài thơ của cuộc đời chân chính.
Người tuổi trẻ nào khi nhớ lại mối t́nh đầu của ḿnh và ra sức nắm bắt trở lại giờ khắc lạ thường ấy th́ hồi ức đó làm thay đổi cảm xúc sâu xa nhất của y khiến y cảm thấy quá đổi hạnh phúc, bất chấp mọi đắng cay trong bí nhiệm của nó.
Cuộc đời người tuổi trẻ nào cũng có một “Selma”, kẻ hốt nhiên xuất hiện với y giữa mùa xuân cuộc đời, chuyển biến nỗi cô đơn của y thành những khoảnh khắc hạnh phúc và làm những đêm dài tịch mịch của y chan chứa âm nhạc.
Thuở đó, trong khi tôi đang mê mải với ư nghĩ và miệt mài với trầm tư, t́m cách thấu hiểu ư nghĩa của thiên nhiên cùng sự mặc khải của sách vở và sách thánh th́ nghe tiếng T̀NH YÊU thầm th́ bên tai qua đôi môi của Selma. Cuộc sống của tôi là một cơn hôn mê trống rỗng, như cuộc sống của A-đam trong vườn Địa đàng, và rồi tôi bỗng thấy Selma đứng ngay trước mặt ḿnh như một cột ánh sáng. Nàng là Eva của trái tim tôi, một Eva làm cho tâm hồn tôi tràn ngập những bí ẩn cùng những kỳ diệu và làm cho tinh thần tôi thấu hiểu ư nghĩa của cuộc đời.
Nàng Eva đầu tiên của loài người dẫn A-đam ra khỏi vườn Địa đàng bằng ư muốn của chính nàng, ngược lại Selma, nàng Eva của tôi, khiến cho tôi tự nguyện đi vào vườn địa đàng t́nh yêu thuần khiết và đức hạnh bằng sự dịu ngọt và t́nh yêu của nàng. Tuy thế, điều xảy ra cho người đàn ông đầu tiên cũng đă xảy ra cho tôi, và thanh gươm sáng loé xua đuổi A-đam ra khỏi vườn Địa đàng cũng giống với cái đă làm tôi kinh hăi các cạnh sắc lấp lánh của nó và bức bách tôi phải ra khỏi vườn địa đàng t́nh yêu cho dẫu tôi không bất tuân mệnh lệnh nào và không nếm vị trái cấm nào.
Giờ đây, sau nhiều năm trôi qua, tôi chẳng c̣n lại ǵ của giấc mộng tuyệt diệu ấy ngoài những hồi ức đau đớn dồn dập như những chiếc cánh vô h́nh đang vỗ chung quanh ḿnh, làm mọi chốn sâu thẳm trong tâm hồn tôi tràn ngập khổ năo và mang nước mắt đến trên đôi mắt tôi. Selma xinh đẹp, người tôi thương yêu, đă chết mà không để lại ǵ cho tôi tưởng niệm ngoài con tim tan vỡ của tôi và nấm mồ của nàng với những cây bách bao quanh. Nấm mồ ấy và con tim này là tất cả những ǵ lưu lại để làm chứng về Selma.
Không khí tịch lặng canh gác nấm mồ không vén lộ bí mật của Thượng đế trong chốn áo quan mịt mùng, và âm thanh sột soạt của những cành cây mà rễ chúng hút các thành tố của h́nh hài ấy không kể cho nghe những bí ẩn của huyệt mộ; chỉ có tiếng thở dài áo nảo của con tim tôi báo cho người đang sống biết một thảm kịch thể hiện t́nh yêu, cái đẹp và sự chết.
Hỡi các bằng hữu thời thanh xuân của tôi, những kẻ giờ đây người một nơi trong thành phố Beirut, mỗi khi các bạn đi ngang nghĩa trang gần rừng thông đó, xin hăy thinh lặng ghé vào và đi chầm chậm để tiếng chân bước không làm rộn giấc ngủ của người đă qua đời. Và xin khiêm tốn dừng lại bên mồ của Selma, nghiêng ḿnh chào mặt đất đang khép kín h́nh hài nàng, và hăy nhắc đến tên tôi với tiếng thở rất dài rồi nói với ḿnh rằng:
“Đây là nơi chôn cất mọi hi vọng của Gibran, kẻ đang sống như người tù ở chốn bên kia biển. Tại nơi này, hắn đă đánh mất hạnh phúc, khô cạn nước mắt và quên hết nụ cười.”
Bên nấm mồ ấy, khổ năo của Gibran cùng lớn lên theo với các cây bách. Trên nấm mồ ấy, tinh thần của Gibran hằng đêm lung linh tưởng nhớ Selma, đau đớn hiệp cùng cành bách cất tiếng than khóc thương tiếc sự ra đi của Selma, kẻ hôm qua là giai điệu tuyệt trần trên đôi môi cuộc đời và hôm nay là niềm bí mật thinh lặng trong ḷng đất.
Hỡi các bằng hữu thời thanh xuân của tôi! Nhân danh những trinh nữ được con tim các bạn yêu thương, tôi thỉnh cầu các bạn hăy đặt ṿng hoa lên nấm mồ hoang lạnh của người tôi yêu thương. Ṿng hoa ấy của các bạn sẽ như hạt sương đang rơi từ những con mắt rạng đông trên các cánh hồng đang héo úa.
1
Khổ năo thầm lặng
Hỡi những người từng sống bên cạnh tôi, các bạn hồi tưởng b́nh minh của tuổi trẻ với hoan lạc và nuối tiếc sự trôi qua của nó, c̣n tôi, tôi nhớ tới nó như người tù nhớ lại những chấn song và xiềng xích trong ngục tối của y. Các bạn nói tới những năm tháng thời thơ ấu và thời thanh xuân như một kỷ nguyên bằng vàng, không vướng mắc tù túng và không chút âu lo, c̣n tôi, tôi gọi những năm tháng ấy là kỷ nguyên của khổ năo thầm lặng, như hạt mầm gieo xuống tâm hồn ḿnh. Và cùng với nó tôi lớn lên, không t́m thấy lối ra khỏi thế giới của tri thức và minh triết cho tới khi t́nh yêu đến mở cánh cửa tâm hồn tôi và soi sáng các xó xỉnh của nó.
T́nh yêu cho tôi tiếng nói và nước mắt. Các bạn hẳn c̣n nhớ các hoa viên và các cây hoa lan, các nơi họp mặt và các góc phố, tất cả làm chứng cho những tṛ chơi cùng những tiếng th́ thầm hồn nhiên của các bạn, và tôi cũng thế, tôi nhớ chốn xinh đẹp ấy tại Bắc Li-băng. Mỗi lần nhắm mắt, tôi lại thấy các thung lũng ấy, tràn ngập kỳ diệu và đầy phẩm cách, và các ngọn núi ấy, phủ đầy vẻ lộng lẫy và vĩ đại, đang vươn hết sức ḿnh lên bầu trời.
Mỗi lần khép đôi tai trước âm thanh rộn ràng của thành thị, tôi lại nghe tiếng th́ thầm của các con lạch nhỏ ấy, tiếng xào xạc của các cành cây ấy. Tất cả những vẻ đẹp ấy – mà giờ đây tôi khao khát được thấy như trẻ con thèm bầu ngực mẹ – đă gây chấn thương cho tinh thần tôi và bị giam nhốt trong bóng tối thời thanh xuân tôi, như chim ưng khổ sở trong lồng khi thấy có đàn chim đang bay tự do giữa bầu trời cao rộng. Các thung lũng ấy, các ngọn đồi ấy đă chết trong trí tưởng của tôi ngoại trừ các ư nghĩ cay đắng dệt thành tấm lưới vô vọng vây phủ tâm hồn tôi.
Lần nào ra tới cánh đồng tôi cũng thất vọng quay về mà không hiểu rơ tại sao ḿnh thất vọng. Lần nào nh́n lên khung trời xám tôi cũng cảm thấy trái tim quặn thắt. Lần nào nghe tiếng hót của đàn chim và tiếng róc ránh của con suối tôi cũng cảm thấy khổ sở mà không hiểu cái ǵ làm ḿnh khổ sở. Người ta nói rằng biện luận làm con người thành trống rỗng và trống rỗng ấy làm con người ra hồn nhiên. Điều đó có thể đúng với những ai vừa sinh ra đă chết và những ai hiện hữu như những thây ma đông cứng, tuy thế một cậu bé đa cảm mà ít am hiểu là sinh vật bất hạnh nhất dưới ánh mặt trời v́ nó bị xâu xé giữa hai sức mạnh. Sức mạnh này nâng nó lên cao để thấy vẻ đẹp của cuộc hiện sinh qua đám mây trong giấc mộng, c̣n sức mạnh kia cột nó xuống đất, làm mắt nó phủ đầy bụi và chế ngự nó bằng sợ hăi và bóng tối.
Cô đơn có những bàn tay mềm mại và mượt mà như lụa nhưng túm lấy trái tim bằng các ngón tay mạnh bạo, làm nó nhức nhối với khổ năo. Cô đơn là bạn đồng minh của khổ năo và cũng là bạn đồng hành với sự thăng hoa tâm linh.
Linh hồn cậu bé ấy trải qua cơn vùi dập của khổ năo, như đóa huệ trắng mới nở. Nó run rẩy trước gió nhẹ, mở trái tim ra với hừng đông và khép cánh lại khi bóng đêm tới. Nếu cậu bé không có thú tiêu khiển hoặc bạn hữu hoặc đồng đội trong các tṛ chơi chung, cuộc đời đối với nó sẽ giống một nhà tù chật chội trong đó nó hoàn toàn chỉ thấy lưới nhện và chỉ nghe tiếng côn trùng đang ḅ.
Khổ năo ám ảnh tôi suốt thời trai trẻ không do bởi thiếu thú tiêu khiển v́ tôi có thể có chúng. Cũng không do bởi thiếu bạn hữu v́ tôi có thể kiếm ra họ. Khổ năo ấy gây nên bởi trăn trở nội tâm khiến tôi yêu thích cô đơn. Nó giết trong tôi sở thích giải trí hoặc tiêu khiển. Nó gỡ mất đôi cánh thanh xuân trên hai vai tôi và nó làm cho tôi trở nên như một chiếc ao tù đọng với nước yên lặng trên bề mặt, phản chiếu các h́nh bóng, sắc màu của mây trời và cây cối chung quanh nhưng không thể t́m được lối để qua đó vừa hát ca vừa thoát ra biển.
Đó là cuộc sống của tôi trước khi tới năm mười tám tuổi. Năm đó như một đỉnh núi trong đời tôi v́ nó đánh thức trong tôi sự am hiểu và nó làm tôi thấu hiểu cuộc thăng trầm của loài người. Năm đó tôi được tái sinh, và nếu con người không được sinh ra lần nữa, cuộc đời của y sẽ vẫn là một trang trắng trong cuốn sách của cuộc sinh tồn.
Trong năm đó, tôi thấy các thiên thần thiên đàng nh́n tôi qua đôi mắt một người nữ xinh đẹp. Tôi cũng thấy các quỉ dữ hỏa ngục nổi cơn thịnh nộ trong trái tim của một người đàn ông độc ác. Kẻ nào không thấy thiên thần và quỉ dữ trong vẻ đẹp và trong tâm địa ác độc của cuộc đời sẽ c̣n rất lâu mới đạt tới sự am hiểu, và tinh thần của y sẽ trống rỗng ḷng thương cảm.
2
Bàn tay định mệnh
Mùa xuân năm kỳ diệu ấy tôi ở Beirut. Các khu vườn tràn ngập hoa tháng Nisan và cỏ xanh lục trải thảm phủ kín mặt đất, tất cả như thể bí mật của địa cầu được vén lộ cho Thiên đàng. Những cây cam cây táo trỗ lộc trông giống các tiên nga Houri hay các cô dâu trong y trang trắng nơn nà, được thiên nhiên phái tới để truyền cảm hứng cho thi sĩ.
Khắp nơi mùa xuân đều đẹp nhưng đẹp nhất ở Li-băng. Xuân như một thần linh lang thang khắp mặt đất nhưng lơ lửng trên Li-băng, đàm đạo với các vua chúa và các ngôn sứ, ca hát với ḍng sông bài Nhă ca Salomon và lặp lại với những cây Tuyết tùng Thiêng liêng của Li-băng hồi ức về một thời cổ huy hoàng. Beirút không bao giờ bị lầy lội mùa đông và bụi mù mùa hạ. Nó như cô dâu trong mùa xuân hoặc như thiếu nữ ngồi bên bờ suối hong khô làn da mịn màng dưới ánh mặt trời.
Ngày nọ giữa tháng Nisan, tôi ghé thăm một người bạn nhà ở cách thành phố Beirut đẹp say đắm ấy một quăng khá xa. Trong lúc chúng tôi đang tṛ chuyện, có một người cao niên tướng mạo phương phi, khoảng sáu mươi lăm tuổi, đi vào. Khi tôi đứng lên chào, bạn tôi giới thiệu với tôi ông ấy là Farris Effandi Karamy và kế đó nói cho ông biết tên tôi, kèm theo vài lời tán tụng. Ông cụ nh́n tôi một lúc, đưa tay lên bóp bóp trán như cố nhớ ra điều ǵ. Rồi ông mỉm cười bước tới gần tôi và nói:
“Anh là con trai của một người bạn rất thân với tôi. Tôi sung sướng được thấy lại người bạn ấy trong con người của anh.”
Những lời nói ấy của ông làm tôi rất xúc động và tôi bị cuốn hút vào ông như con chim theo bản năng t́m về tổ trước giờ giông băo đến. Sau khi chúng tôi cùng ngồi xuống, ông cụ kể cho tôi nghe t́nh thân hữu của ông với cha tôi và nhắc lại thời gian cả hai cùng trải qua bên nhau. Người cao niên thích hồi tưởng những ngày thanh niên của ḿnh giống người tha hương khao khát trở về quê cũ. Ông cụ cảm thấy thú vị khi kể những chuyện thời quá khứ chẳng khác nào thi sĩ sảng khoái khi đọc lại bài thơ hay nhất của ḿnh.
Về mặt tinh thần, Farris Effandy Karamy sống với quá khứ v́ hiện tại lướt đi lẹ làng và đối với ông, tương lai càng lúc càng tới gần sự quên lăng. Một giờ đầy ắp những hoài niệm thời cũ trôi qua rất nhanh như những chiếc bóng của hàng cây trên mặt cỏ. Khi sắp sửa ra về, ông cụ đặt bàn tay trái lên vai tôi, tay phải bắt tay tôi và nói:
“Hai chục năm nay, ta không gặp cha của anh. Ta hi vọng anh sẽ thay chỗ của ông ấy để thường xuyên đến thăm ta.”
Với ḷng biết ơn và cảm giác dễ chịu, tôi hứa sẽ thực hiện nghĩa vụ con cháu đối với một người bạn thân thiết của cha tôi.
Khi Farris Effandy ra khỏi nhà, tôi yêu cầu anh bạn kể cho tôi nghe thêm về ông cụ. Bạn tôi nói:
“Tại Beirut này tôi không biết có người đàn ông nào khác mà giàu có khiến cho nhân từ và nhân từ làm cho giàu có. Ông cụ Ferris Effandy là một trong vài kẻ đến với thế giới này rồi từ biệt nó mà không làm thiệt hại ai. Tuy thế, loại người ấy thường khốn khổ và chịu áp bức v́ họ không đủ khôn ngoan để tự cứu ḿnh thoát khỏi móng vuốt nham hiểm của kẻ khác. Ông cụ có một đứa con gái tính nết y như cha, với nhan sắc và duyên đáng không sao tả hết. Và cô ấy cũng sẽ bị khốn khổ v́ sự giàu có của người cha đang đặt con gái bên bờ vực kinh hoàng.”
Khi người bạn thốt ra những lời ấy, tôi để ư thấy vẻ mặt anh ám bóng mây. Và anh nói tiếp:
“Farris Effandi là một ông cụ lương thiện tốt bụng với tâm hồn cao thượng, nhưng ông ấy thiếu sức mạnh ư chí. Ông bị người đời dẫn đi như một người mù. Con gái của ông, dẫu kiêu hănh và thông minh, nhưng hoàn toàn nghe theo lời cha. Và đó là bí mật sâu kín trong cuộc sống của hai cha con. Bí mật này bị một kẻ hiểm độc phát hiện. Kẻ đó là Giám mục Bulos Galib, một con người quỉ quyệt ẩn núp đằng sau cuốn Phúc âm. Ông ta là nhà lănh đạo tôn giáo địa phương này và là kẻ biết cách làm cho người đời tin rằng ḿnh nhân từ và cao thượng. Dân chúng nghe lời ông và bị ông dẫn đi như đàn cừu tới ḷ sát sinh.
“Giám mục ấy có một đứa cháu ḷng đầy hận thù và hư đốn. Trước sau ǵ cũng sẽ tới ngày ông ta dàn dựng cho cháu trai của ḿnh ở bên phải và con gái của Farris Effandi ở bên trái c̣n bàn tay độc dữ của ông cầm ṿng hoa cưới đặt lên trên đầu hai đứa, để cột chặt nàng trinh nữ thuần khiết vào gă bại hoại ô uế kia, và đưa tâm điểm của ngày vào giữa ḷng đêm.
“Tôi chỉ có thể cho anh biết như thế thôi về Farris Effandi và con gái của ông cụ ấy; anh đừng hỏi tôi thêm câu nào nữa.”
Nói xong những lời đó, anh bạn tôi quay mặt về hướng cửa sổ như thể đang dự tính giải quyết vấn đề của cuộc sống con người bằng cách chú mục vào vẻ đẹp của vũ trụ.
Khi rời ngôi nhà của người bạn, tôi nói với anh ấy rằng vài ngày nữa, tôi sẽ tới thăm Farris Effandi để hoàn thành lời hứa và v́ t́nh bằng hữu đă kết hợp ông cụ ấy với thân phụ tôi. Nghe vậy, anh nh́n tôi một chốc. Và tôi để ư thấy vẻ mặt anh bỗng biến sắc như thể mấy lời đơn giản của tôi vén lộ cho anh một ư tưởng mới.
Kế đó, với động thái lạ lùng, anh nh́n thẳng mặt tôi với ánh mắt đầy t́nh yêu, thương cảm và sợ hăi, cái nh́n của một ngôn sứ thấy trước những ǵ không kẻ nào khác có thể dự báo. Rồi môi anh run run nhưng anh vẫn im lặng khi đưa tôi ra cửa. Cái nh́n lạ lùng của anh đi theo tôi và tôi không thể nào hiểu nổi ư nghĩa của nó cho tới khi tôi trưởng thành trong thế giới của trải nghiệm, nơi các con tim hiểu nhau bằng cảm nhận và là nơi tinh thần chín chắn nhờ am hiểu.
3
Đường vào điện thờ
Suốt mấy ngày, tôi bị cô đơn khống chế và thấm mệt với bộ mặt ảm đạm của sách vở. Tôi thuê chiếc xe ngựa và khởi sự đi tới nhà của Farris Effandi. Khi tới rừng thông dân chúng thường ra cắm trại, xa phu quành xe theo một lối đi riêng phủ bóng những hàng cây cao mọc hai bên đường. Trong lúc xe chạy ngang đó, chúng tôi có thể ngắm vẻ đẹp của các băi cỏ xanh thẩm, các vườn nho và nhiều cây hoa tháng Nisan vừa kết nụ.
Vài phút sau, xe dừng bánh trước một toà nhà đơn độc tọa lạc giữa một hoa viên xinh đẹp. Hương thơm hoa hồng, hoa sơn chi và hoa lài tràn ngập không khí. Tôi thấy Farris Effandi bước ra đón tôi. Kế đó, với lời chào mừng nồng nhiệt và chân thật ông dẫn tôi vào nhà. Ngồi bên tôi và nh́n tôi như người cha sung sướng thấy con trai của ḿnh, ông hỏi tôi dồn dập những câu hỏi về đời sống, tương lai và việc học hành của tôi.
Tôi sốt sắng trả lời bằng giọng chứa chan hoài băo v́ tôi nghe âm vang trong tai ḿnh một điệu nhạc vinh quang và thuyền tôi đang dong buồm trên mặt biển lặng chan ḥa những giấc mơ hi vọng. Đúng lúc ấy, từ đằng sau màn cửa bằng nhung, xuất hiện một thiếu nữ xinh đẹp trong áo dài lụa trắng, và bước về phía tôi. Farris và tôi cùng đứng lên.
“Đây là Selma, con gái ta.”
Ông cụ mở lời như thế rồi giới thiệu tôi với nàng và nói thêm:
“Con ạ, số phận đă mang trở lại cho cha người bạn cũ thân thiết qua con trai của ông ấy.”
Trong một chốc, Selma nh́n thẳng mặt tôi như thể nghi ngờ việc có một người khách đă có thể vào nhà họ và viếng thăm họ. Bàn tay nàng, khi tôi chạm vào, tựa đóa huệ trắng, và tôi chợt thấy tim ḿnh như bị xuyên thấu bởi một cảm giác đau nhói lạ thường.
Chúng tôi ngồi bên nhau thinh lặng như thể Selma vừa mang theo nàng vào căn pḥng này một tinh thần siêu phàm mà chỉ có sự trang trọng không nói nên lời mới xứng đáng tiếp nhận. Cảm nhận được sự im ĺm ấy, nàng mỉm cười với tôi và nói:
“Cha tôi kể tới kể lui cho tôi nghe hoài câu chuyện thời trai trẻ của ông và những ngày ông cùng phụ thân anh trải qua với nhau. Nếu thân phụ anh từng nói với anh theo cách giống y như của cha tôi th́ đây không phải là lúc chúng ta gặp nhau lần đầu.”
Thấy thái độ của con gái và nghe lời ấy, ông cụ tỏ vẻ hài ḷng. Ông nói:
“Selma t́nh cảm lắm. Nó nh́n mọi sự qua con mắt tinh thần”.
Kế đó, ông tiếp tục cuộc tṛ chuyện với vẻ ân cần và cư xử lịch thiệp như thể ông vừa t́m thấy trong tôi một sức cuốn hút kỳ bí mang ông bay trên đôi cánh kư ức về lại những ngày xưa cũ.
Trong khi tôi suy ngẫm các lời ông nói và mơ màng tới những năm về sau của ḿnh, Farris Effandi nh́n tôi như một cây cổ thụ cao ngất từng chịu đựng băo tố và lúc này ánh mặt trời rủ bóng mát của nó lên một cây non nhỏ bé đang run rẩy trong gió nhẹ hừng đông.
C̣n Selma giữ ḿnh im lặng. Thỉnh thoảng nàng nh́n tôi rồi nh́n sang thân phụ ḿnh, như đang đọc chương đầu tiên rồi chương cuối cùng của vở kịch cuộc đời. Ngày trôi qua nhanh trong vườn hoa. Qua cửa sổ, tôi có thể thấy chiếc hôn ma quái vàng vọt của mặt trời đang lặn trên núi non Li-băng. Farris Effandi tiếp tục kể về các trải nghiệm của ông c̣n tôi lắng nghe và đáp ứng với thiện cảm tới độ nỗi khổ năo của ông biến thành niềm hạnh phúc.
Selma ngồi bên cửa sổ, tiếp tục nh́n với đôi mắt năo nùng và không nói tuy thế, nhan sắc có ngôn ngữ tuyệt trần của chính nó, cao ngất hơn những giọng nói của lưỡi của môi. Nó là thứ ngôn ngữ vượt thời gian, chung cho toàn thể loài người, như mặt hồ yên lặng quyến rũ những con lạch nhỏ đang hát ca t́m tới đáy sâu thẳm của nó và rồi làm cho chúng im tiếng.
Chỉ tinh thần của chúng ta mới có thể thấu hiểu cái đẹp hoặc sống chung và tăng trưởng với nó. Cái đẹp làm tâm trí chúng ta bối rối. Chúng ta không có khả năng diễn đạt nó bằng ngôn từ. Nó là một cảm giác mắt chúng ta không thể thấy; nó phát nguồn từ người ngắm nh́n và kẻ được ngắm nh́n. Cái đẹp chân chính là một tia sáng phát sinh từ chốn cực thiêng liêng của tinh thần; nó soi chiếu thể xác, như sự sống đến từ chốn sâu thẳm của đất và cung cấp hương sắc cho hoa.
Cái đẹp chân chính nằm trong sự ḥa điệu tinh thần, được gọi là t́nh yêu, và nó chỉ có thể hiện hữu giữa người nam và người nữ.
Có phải tinh thần của Selma và của tôi đă vươn tới nhau trong ngày đầu gặp mặt, và có phải ḷng khát khao khiến tôi thấy nàng là người nữ xinh đẹp nhất dưới ánh mặt trời? Hoặc có phải v́ cơn ngất ngây men rượu thanh xuân khiến tôi tưởng tượng ra cái không bao giờ hiện hữu?
Có phải tuổi trẻ đă làm mù quáng con mắt tự nhiên của tôi khiến tôi tưởng tượng ánh rạng rỡ trong đôi mắt nàng, vị dịu ngọt trên đôi môi nàng và vẻ duyên đáng của khuôn mặt nàng? Hoặc có phải rạng rỡ, dịu ngọt và duyên dáng ấy đă mở mắt tôi, cho tôi thấy hạnh phúc và khổ năo của t́nh yêu?
Trả lời các câu hỏi đó không là việc dễ làm nhưng tôi chân thành nói rằng vào giờ khắc ấy, tôi cảm thấy ḷng xúc động như chưa bao giờ cảm thấy trước đây, một nỗi niềm thương cảm mới mẻ an nghỉ tĩnh lặng trong tâm hồn tôi, giống như tinh thần lơ lửng trên mặt nước lúc bắt đầu cuộc sáng thế. Và từ nỗi niềm thương cảm đó ra đời hạnh phúc của tôi cùng khổ năo của tôi. Như thế, kết thúc giờ gặp gỡ đầu tiên giữa Selma với tôi, và như thế, ư muốn của Trời đă giải phóng tôi khỏi t́nh trạng câu thúc của tuổi trẻ và cô đơn, để tôi đi trong đám rước của t́nh yêu.
T́nh yêu là sự tự do độc nhất trên thế giới này v́ nó làm thăng hoa tinh thần tới độ luật lệ của loài người và các hiện tượng thiên nhiên không thể nào làm lệch ḍng chảy của nó.
Khi tôi đứng lên để từ giă, Farris Effandi tới gần tôi và nói nhă nhặn:
“Giờ đây, hỡi con trai của ta, v́ anh đă biết cách tới ngôi nhà này nên anh phải thường xuyên tới đây và xem như đang về nhà của thân phụ anh. Anh cứ xem ta như một người cha và Selma như chị em gái của anh vậy.”
Nói như thế xong, ông quay sang nh́n Selma như yêu cầu xác nhận lời ông vừa phát biểu. Nàng gật đầu tán thưởng và nh́n tôi như nh́n một người quen biết cũ vừa t́m lại được.
Những lời Farris Effandi vừa thốt ra đă đặt tôi vai kề vai với con gái của ông nơi bàn thờ của t́nh yêu. Những lời ấy là khúc hát tuyệt vời, bắt đầu với phơi phới rạng rỡ và kết thúc trong đau thương sầu thăm. Chúng nâng tinh thần chúng tôi lên cao tới cảnh giới của sự sáng và ngọn lửa nồng cháy. Chúng là chiếc ly trong đó chúng tôi cùng uống hạnh phúc và cay đắng.
Tôi rời ṭa nhà. Ông cụ đi với tôi tới cuối hoa viên trong khi con tim tôi đập theo nhịp run rẩy của đôi môi kẻ đang khát.
4
Ngọn đuốc trắng
Tháng Nisan sắp hết, tôi tiếp tục đến thăm ngôi nhà của Farris Effandi và gặp gỡ Selma trong hoa viên xinh đẹp, ngắm vẻ đẹp của nàng, kinh ngạc về trí thông minh của nàng và lắng nghe sự tịch lặng đầy đau xót. Tôi cảm thấy có bàn tay vô h́nh đang kéo ḿnh tới với nàng.
Mỗi lần đến thăm lại cho tôi một ư nghĩ mới về nhan sắc của Selma và một cái nh́n thấu suốt mới về tinh thần dịu dàng của nàng cho tới khi nàng thành một cuốn sách với những trang tôi có thể thấu hiểu cùng những lời ngợi ca tôi có thể hát lên mà không bao giờ có thể thôi đọc. Một người nữ mà Thiên ư quan pḥng đă ban cho vẻ đẹp của tinh thần và thể xác, là một chân lư vừa phơi mở vừa ẩn mật, chúng ta chỉ có thể am hiểu bằng t́nh yêu và chỉ có thể chạm tới bằng đức hạnh. Và khi chúng ta t́m cách mô tả một người nữ như thế, nàng biến mất như làn hơi.
Salma có vẻ đẹp thể xác và tinh thần nhưng làm sao tôi có thể mô tả nàng cho kẻ không bao giờ quen biết nàng? Làm sao một người đă chết có thể nhớ tiếng hót của chim sơn ca, hương của hoa hồng và tiếng thở dài của con suối nhỏ? Làm sao một người tù mang xiềng xích nặng nề có thể đi theo ngọn gió hiu hiu thổi lúc rạng đông? Phải chăng im lặng không đau đớn hơn cái chết? Phải chăng ḷng kiêu hănh ngăn không cho tôi mô tả Selma bằng ngôn ngữ trần trụi v́ tôi không thể diễn đạt trung thực nàng bằng những sắc màu rực rỡ? Người đói trong sa mạc sẽ không từ chối ăn bánh ḿ khô nếu Trời không mưa xuống man-na và chim cút.
Trong áo dài luạ trắng, Selma mỏng manh như ánh trăng xuyên qua khung cửa sổ. Nàng bước đi duyên dáng và nhịp nhàng. Giọng nàng trầm lắng và ngọt ngào; lời rơi trên môi như giọt sương rơi trên cánh hoa khi bị gió khua động.
C̣n khuôn mặt của Selma! Không lời nào có thể diễn tả vẻ mặt ấy; nó phản ánh trước tiên cơn ray rứt cực độ trong ḷng và rồi thanh thoát tuyệt trần.
Khuôn mặt Selma không mang vẻ đẹp cổ điển; nó như giấc mơ mặc khải không thể đo lường hoặc giới hạn hoặc sao chép bằng ngọn bút lông của họa sĩ hay đục chàng của người tạc tượng. Nhan sắc của Selma không cư ngụ trên mái tóc vàng của nàng nhưng trong đức hạnh và sự thuần khiết bao phủ mái tóc ấy. Không ở trong đôi mắt to của nàng nhưng trong ánh sáng tỏa ra từ chúng. Không ở trên đôi môi hồng của nàng nhưng trong vị dịu ngọt các lời nàng nói. Không ở trong chiếc cổ màu ngà của nàng nhưng trong vẻ thanh tú nghiêng ḿnh tới trước. Cũng không ở trong vóc dáng hoàn hảo của nàng nhưng trong cao nhă của tinh thần nàng, bừng cháy như ngọn đuốc trắng giữa mặt đất và bầu trời. Sắc đẹp của Selma như một tặng phẩm bằng thơ. Nhưng thi sĩ không là kẻ hạnh phúc cho dẫu tinh thần họ có vươn lên cao vút tới mấy đi nữa v́ họ sẽ vẫn bị phong kín trong ṿng nước mắt bao phủ.
Selma ít nói và nghĩ ngợi sâu lắng. Im lặng của nàng là một loại âm nhạc mang con người tới thế giới các giấc mộng, làm ta lắng nghe nhịp đập trái tim ḿnh, thấy các h́nh bóng của ư nghĩ và cảm xúc đang đứng trước mặt và đang nh́n vào mắt ta.
Selma mặc chiếc áo choàng khổ năo thăm thẳm một đời; chiếc áo ấy làm tăng thêm một cách lạ thường nhan sắc và phẩm cách của nàng, như cây trổ lộc yêu kiều khi ta nh́n qua sương sớm.
Khổ năo ấy nối kết tinh thần của Selma và của tôi như thể kẻ này thấy trên khuôn mặt kẻ kia những ǵ con tim ḿnh đang cảm nhận và nghe vọng lại từ kẻ kia tiếng nói bị ẩn giấu trong đáy ḷng ḿnh. Thượng đế đă làm cho hai h́nh hài nên một mà chia ĺa sẽ không để lại ǵ ngoài thống khổ.
Tinh thần khổ năo t́m thấy nơi nghỉ ngơi khi được hiệp nhất với một tinh thần tượng tự. Chúng kết hiệp với ḷng đầy thương cảm, như người xa lạ này mừng rỡ khi gặp người xa lạ khác trên miền đất xa lạ. Các tâm hồn được hiệp nhất qua trung gian của khổ năo sẽ không bị tách rời v́ sự lộng lẫy của hạnh phúc. T́nh yêu được rửa sạch bởi nước mắt sẽ vẫn thanh khiết và măi măi đẹp tuyệt trần.
5
Băo tố
Một hôm, Farris Effandi mời tôi tới nhà ông dùng bữa tối. Tôi nhận lời; tinh thần tôi đang đói bánh ḿ thiêng liêng được trời đặt vào ḷng bàn tay Selma, và đó là loại bánh tâm linh làm tâm hồn ta càng ăn vào càng thấy đói. Đó cũng chính là loại bánh Kais, thi sĩ A -rập, Dante và Sappho từng nếm trải khiến con tim họ bừng cháy; bánh được Thần nữ dọn ra với vị dịu ngọt của nụ hôn và cay đắng của nước mắt.
Khi tới toà nhà của ông cụ, tôi thấy Selma đang ngồi nơi băng ghế trong hoa viên, đầu dựa vào thân cây. Trông nàng như cô dâu mặc áo dài lụa trắng hoặc một lính gác đang canh giữ khu vườn.
Chầm chậm và cẩn trọng tôi bước tới gần, ngồi xuống bên nàng. Tôi không thể nói bằng lời nên chỉ c̣n cách giữ im lặng v́ đó là ngôn ngữ độc nhất của tâm hồn. Tuy thế, tôi cảm thấy Selma đang lắng nghe tiếng gọi vô ngôn ấy và đang ngắm h́nh bóng của linh hồn tôi trong đôi mắt tôi.
Mấy phút sau, thân phụ nàngï bước ra, chào hỏi tôi như thường lệ. Khi ông cụ đưa bàn tay về hướng tôi, tôi có cảm giác ông chúc lành cho những bí ẩn đang hiệp nhất con gái của ông với tôi. Kế đó, ông nói:
“Các con ơi, bữa ăn đă dọn, chúng ta vào ăn!”
Selma và tôi đứng lên đi theo ông. Đôi mắt Selma sáng rỡ v́ một t́nh cảm mới mẻ vừa thêm vào t́nh yêu của nàng qua việc thân phụ nàng gọi hai chúng tôi là các con của ông.
Chúng tôi ngồi vào bàn, thưởng thức món ăn ngon và uống loại rượu nho để dành lâu năm nhưng linh hồn chúng tôi đang sống trong một thế giới xa xăm. Chúng tôi đang mơ tới một tương lai cùng những gian nan của nó.
Mỗi người tách biệt trong ư nghĩ của riêng ḿnh nhưng cả ba chúng tôi hiệp nhất trong t́nh yêu. Ba con người vô tội, nhiều cảm xúc nhưng ít am hiểu. Chúng tôi đang trong một tấn kịch được thể hiện bởi một người cao niên yêu thương và chăm lo cho hạnh phúc của con gái, một thiếu nữ đôi mươi đang nh́n tương lai với tâm trạng khắc khoải, và một thanh niên mơ mộng và âu lo, kẻ chưa từng nếm rượu nho lẫn giấm chua của cuộc đời và đang ra sức với tới cực điểm của t́nh yêu và am hiểu nhưng không có khả năng nâng ḿnh lên. Ba chúng tôi ngồi trong trời sẩm tối, ăn và uống trong ngôi nhà đơn độc được canh giữ bằng những con mắt của Trời nhưng dưới đáy ly của chúng tôi vẫn ẩn giấu vị đắng cay và thống khổ.
Khi chúng tôi vừa dùng xong bữa, một người hầu gái vào báo cho biết có người mong muốn được gặp Farris Effandi, hiện đang có mặt và chờ trước cửa. Ông cụ hỏi:
“Ai vậy?”
Người hầu gái thưa:
“Một sứ giả của Đức giám mục.”
Im lặng trong một chốc và Farris Effandi nh́n con gái chằm chặp, như một ngôn sứ đăm đăm nh́n lên Trời để tiên đoán bí mật của nó. Rồi ông cụ nói với người hầu gái:
“Cho người ấy vào.”
Người hầu gái đi ra, và một người đàn ông mặc trang phục phương Đông với hàng ria quặp ở hai đầu bước vào chào ông cụ và nói:
“Đức giám mục sai tôi tới đây với xe riêng của ngài. Ngài muốn thảo luận với ông một vấn đề quan trọng.”
Vẻ mặt của ông cụ bỗng ảm đạm và nụ cười biến mất. Sau một phút ch́m ḿnh trong suy nghĩ, ông tới gần tôi và nói với giọng thân ái:
“Ta hi vọng con sẽ c̣n ở đây cho tới lúc ta về v́ Selma sẽ vui sướng khi có con làm bạn trong ngôi nhà quạnh vắng này.”
Nói xong lời ấy, ông quay sang Selma và mỉm cười, hỏi con gái có đồng ư không. Nàng gật đầu, hai má ửng hồng. Với giọng dịu ngọt hơn tiếng nhạc đàn lia, nàng nói:
“Thưa cha, con sẽ cố hết sức ḿnh để vị khách của chúng ta được hạnh phúc.”
Selma nh́n theo cổ xe ngựa chở cha ḿnh và sứ giả của Giám mục cho tới khi nó khuất dạng, rồi nàng tới ngồi đối diện với tôi, trên chiếc đi-văng phủ lụa màu lục. Trông nàng như một đóa hoa huệ nghiêng cánh trên thảm cỏ xanh thẩm trong gió nhẹ ban mai. Do ư muốn của Trời mà tối nay tôi được ở một ḿnh với Selma trong ngôi nhà xinh đẹp của nàng, bao quanh bởi cây cối và là nơi sự tịch lặng, t́nh yêu, cái đẹp và đức hạnh cùng nương náu.
Hai chúng tôi đều im lặng, người này chờ đợi người kia cất tiếng, nhưng lời nói không là phương tiện độc nhất để hai linh hồn cảm thông nhau. Không phải chỉ những âm tiết đến từ môi và lưỡi mới mang hai tâm hồn tới với nhau.
Có điều ǵ đó lớn lao hơn và thanh khiết hơn những lời thốt ra từ miệng lưỡi. Im lặng chiếu sáng hai linh hồn chúng tôi, th́ thầm với hai tâm hồn và mang chúng lại với nhau. Im lặng làm chúng tôi tách khỏi bản thân ḿnh, cùng nhau dong buồm giữa bầu trời của tinh thần và mang chúng tôi tới gần Thiên đàng hơn. Nó làm chúng tôi cảm thấy thân xác không c̣n là nhà ngục và thế giới này không chỉ là chốn lưu đày.
Selma nh́n tôi, đôi mắt ấy vén lộ bí ẩn của trái tim nàng. Kế đó, nàng nói trầm lặng:
“Chúng ta hăy ra ngoài vườn, ngồi bên gốc cây và ngắm trăng lên sau dăy núi.”
Vâng lời nàng, tôi đứng lên, nhưng rồi tôi ngần ngại:
“Em có nghĩ là chúng ta nên ở lại đây chờ cho tới khi trăng lên chiếu sáng khắp vườn hoa?”
Ngừng một chút, tôi nói tiếp:
“Bóng tối đang che giấu cây cối và các đóa hoa, có thể chúng ta sẽ chẳng thấy ǵ cả.”
Nghe thế, nàng đáp:
“Giả dụ bóng tối có che giấu cây cối và làm các đóa hoa khuất mắt chúng ta đi nữa, nó cũng không thể nào che giấu t́nh yêu khuất tâm hồn của chúng ta.”
Sau khi thốt lên những lời ấy với một âm điệu lạ thường, Selma đưa mắt nh́n qua khung cửa sổ. Tôi vẫn giữ ḿnh im lặng, ngẫm nghĩ lời vừa nói của nàng, thẩm định ư nghĩa đích thực của từng âm tiết. Rồi Selma nh́n tôi như thể hối tiếc lời vừa nói và cố thu hồi nó ra khỏi hai tai tôi bằøng tia nh́n kỳ diệu từ đôi mắt nàng. Nhưng thay v́ làm cho tôi quên những lời đó, đôi mắt ấy lặp lại khắp những chốn sâu thẳm của tâm hồn tôi, minh bạch hơn và hiệu quả hơn, những âm tiết dịu ngọt của chúng và ghi khắc rất sâu vào trí nhớ tôi cho đến muôn đời.
Mỗi vẻ đẹp và sự vĩ đại trong thế gian này đều được tạo ra từ một ư nghĩ hoặc một cảm xúc đơn chiếc bên trong con người. Mỗi cái được làm bởi các thế hệ đă qua mà chúng ta thấy hôm nay, trước khi xuất hiện, đều là ư nghĩ trong trong tâm trí của một người nam hay cơn bốc đồng trong tâm hồn của một người nữ. Những cuộc cách mạng làm đổ nhiều máu và hướng tâm trí đàn ông tới tự do là của một người sống giữa hàng ngàn đàn ông khác. Những cuộc chiến tranh tàn khốc, hủy diệt các đế quốc đều là ư tưởng từng hiện hữu trong tâm trí của một cá thể. Những lời giảng tối thượng biến đổi ḍng chảy của loài người là ư tưởng của một con người mà thiên tài đă tách rời kẻ ấy khỏi môi trường của y. Ư tưởng đơn chiếc ấy đă dựng lên Kim tự tháp, đă được t́m thấy trong vinh quang của đạo Islam và đă gây nên hành động thiêu rụi đại thư viện Alexandria.
Một ư nghĩ đến với bạn vào ban đêm sẽ làm bạn lên đến vinh quang hoặc dẫn bạn tới chốn lánh nạn. Một tia nh́n từ đôi mắt một người nữ sẽ làm bạn thành người đàn ông hạnh phúc nhất thế giới. Một lời nói từ đôi môi của một người sẽ làm bạn trở nên kẻ giàu có hoặc người nghèo khổ.
Những lời Selma thốt ra đêm đó đă túm bắt tôi giữa quá khứ và tương lai ḿnh, như con tàu buông neo giữa biển khơi. Những lời ấy đánh thức tôi ra khỏi giấc ngủ của tuổi trẻ và cô đơn, đồng thời đặt tôi lên một sân khấu ở đó sự sống và sự chết đóng vai tṛ của chúng.
Hương của hoa quyện với gió nhẹ khi chúng tôi đặt chân vào hoa viên và thinh lặng ngồi bên nhau trên chiếc ghế dài đặt cạnh cây hoa lài, cùng lắng nghe hơi thở của thiên nhiên đang thiu thiu ngủ, trong khi đó, giữa bầu trời xanh, những con mắt thiên đàng làm chứng cho tấn kịch của Selma và tôi.
Mặt trăng dần dần hiện lên đằng sau rặng núi Sunnin, tỏa sáng khắp bờ biển, các ngọn đồi, núi non, và chúng tôi có thể thấy những thôn làng nằm quanh ŕa thung lũng như những bóng ma được triệu lên từ hư không. Dưới ánh trăng bàng bạc, chúng tôi có thể thấy vẻ đẹp của toàn xứ Li-băng.
Các thi sĩ phương Tây nghĩ về Li-băng như một chốn truyền thuyết, bị quên lăng kể từ thời qua đi của David, Salomon và các ngôn sứ, giống như vườn Điạ đàng bị thất lạc sau cuộc sa ngă của A-đam và Eva. Đối với các thi sĩ phương Tây, từ ngữ “Li-băng” là một diễn tả thi vị gắn liền với một ngọn núi có các sườn thấm đẫm hương trầm của những cây Tuyết tùng Thiêng liêng. Nó làm họ nhớ tới các ngôi đền bằng đồng và đá cẩm thạch trắng đứng trang nghiêm vững chắc và tới đàn nai đang gặm cỏ trong các thung lũng. C̣n tôi, đêm đó, tôi thấy Li-băng như giấc mơ với đôi mắt của kẻ làm thơ.
Như thế, vẻ ngoài của vạn vật biến đổi theo cảm xúc, và như thế, chúng ta thấy sự kỳ diệu và cái đẹp ở nơi chúng trong khi thật sự, sự kỳ diệu và cái đẹp ở bên trong chúng ta.
Khi ánh trăng chiếu lên khuôn mặt, lên cổ và lên hai cánh tay của Selma, nàng trông như thể một pho tượng bằng ngà được tạc nên bởi một tín đồ nào đó thờ phượng Ishtar, nữ thần của cái đẹp và t́nh yêu. Vừa nh́n tôi nàng vừa nói:
“Tại sao anh im lặng? Tại sao anh không nói với em điều ǵ đó về thời đă qua của anh?”
Và khi tôi nh́n thẳng vào mặt nàng, cơn câm nín của tôi tan biến. Tôi mở môi ḿnh ra và nói:
“Em có nghe những ǵ anh đă nói khi chúng ta tới vườn cây trái này? Tinh thần từng nghe tiếng th́ thầm của hoa và tiếng hát của thinh lặng cũng có thể nghe tiếng la hét của linh hồn anh và tiếng gào thét của tâm hồn anh.”
Nàng đưa hai bàn tay lên ôm mặt và nói với giọng run rẩy:
“Có, em có nghe. Em đă nghe một giọng nói đến từ lồng ngực của ban đêm và tiếng gào thét thịnh nộ trong trái tim của ban ngày.”
Tôi trả lời nàng, trong lăng quên quá khứ, quên cả hiện hữu của tôi, quên hết mọi sự, chỉ c̣n biết tới Selma:
“Selma ạ, anh cũng đă nghe em. Anh đă nghe tiếng nhạc hưng phấn đang đánh nhịp rộn ràng trong không khí và đang làm khắp vũ trụ run rẩy.”
Vừa nghe những lời ấy, Selma khép mắt và trên môi nàng tôi thấy một nụ cười sung sướng pha với buồn bă. Nàng th́ thầm dịu dàng:
“Giờ đây, em đă biết có cái ǵ đó cao hơn trời, sâu hơn biển và lạ thường hơn sự sống, cái chết và thời gian. Giờ đây em đă biết cái trước đây ḿnh không biết.”
Vào khoảnh khắc đó, Selma trở nên thân thiết hơn một bằng hữu, gần gũi hơn một cô em gái và yêu thương hơn một người t́nh. Nàng trở thành một ư nghĩ tối thượng, một giấc mộng tuyệt vời, một cảm xúc áp đảo đang sống động trong tinh thần tôi.
Thật lầm lạc khi nghĩ rằng t́nh yêu đến từ một cuộc kết bạn dài ngày và kiên tŕ theo đuổi. T́nh yêu là kết quả của mối quan hệ tinh thần, và nếu mối quan hệ ấy không phát sinh trong khoảnh khắc, nó sẽ không thể được tạo ra theo năm tháng hoặc thậm chí qua nhiều thế hệ.
Kế đó, Selma ngẩng đầu lên, đăm đăm nh́n chân trời nơi núi Sunmin gặp bầu trời, và nói:
“Hôm qua, đối với em, anh như người anh em, một kẻ sống gần gũi với em, cùng ngồi tĩnh lặng bên em trong sự chăm sóc của cha em. Lúc này, em cảm thấy có sự hiện diện của cái ǵ đó rất lạ lùng, ngọt ngào hơn t́nh cảm anh em, một sự ḥa trộn đầy ngỡ ngàng của yêu thương và sợ hăi, làm tâm hồn em tràn ngập xót xa và hạnh phúc.”
Tôi đáp lại:
“Cảm xúc này, làm chúng ta sợ hăi và run rẩy khi nó đi qua tâm hồn ḿnh, là định luật của thiên nhiên dẫn đường cho mặt trăng đi quanh quả đất và mặt trời đi quanh Thượng đế.”
Selma đặt tay lên đầu tôi, đan các ngón tay trong tóc tôi. Vẻ mặt nàng rạng rỡ. Từ đôi mắt nàng, những giọt nước mắt ứa ra và chảy xuống như những gịot sương rơi trên cánh lá hoa huệ. Và nàng nói:
“Kẻ nào tin câu chuyện của anh với em – kẻ nào tin rằng vào giờ này chúng ta đă vượt qua những chướng ngại của nghi hoặc? Kẻ nào tin rằng tháng Nisan đă mang chúng ta tới với nhau lần đầu tiên và là tháng bắt chúng ta đứng lại ở chốn Cực thiêng liêng của cuộc đời?”
Trong khi nói những lời ấy, bàn tay của Selma vẫn để yên trên đầu tôi và tôi không muốn một vương miện hay một ṿng hoa lộng lẫy nào khác thay cho bàn tay dịu êm ấy, với những ngón tay đang đan trong tóc tôi.
Tiếp đó, tôi trả lời nàng:
“Người đời sẽ không tin câu chuyện của em với anh v́ họ không biết rằng t́nh yêu là đóa hoa duy nhất đâm chồi và kết nụ mà không cần sự hỗ trợ của các mùa, nhưng có phải tháng Nisan mang chúng ta tới với nhau lần đầu tiên và có phải giờ khắc này đă túm bắt chúng ta tại chốn Cực thiêng liêng của cuộc đời? Không phải bàn tay của Thượng đế đă mang linh hồn của hai chúng ta tới gần nhau từ trước ngày chào đời và biến chúng ta thành tù nhân của nhau suốt ngày ngày đêm đêm sao? Cuộc đời con người không bắt đầu từ trong cung ḷng của người mẹ và không bao giờ kết thúc dưới huyệt mộ. Và bầu trời đầy ánh trăng này cùng các ngôi sao kia không bị bỏ hoang phế bởi những linh hồn đang yêu và những tinh thần trực cảm.”
Khi Selma rút bàn tay ra khỏi tóc tôi, tôi cảm thấy có sự rung động như luồng điện ở chân tóc ḿnh, quyện với gió nhẹ ban đêm. Như một tín đồ ngoan đạo tiếp nhận ân sủng bằng cách hôn bàn thờ trong thánh điện, tôi cầm bàn tay của Selma và đặt lên trên đó đôi môi nóng bỏng của ḿnh, cho nó một chiếc hôn thật lâu mà tới hôm nay, hồi ức về nó vẫn làm tan chảy trái tim tôi và sự dịu ngọt của nó đánh thức toàn bộ đức hạnh của tinh thần tôi.
Một giờ đi qua với mỗi phút dài bằng một năm yêu thương. Trời đêm thanh vắng, ánh trăng, các đoá hoa và cỏ cây làm chúng tôi lăng quên thực tại, chỉ c̣n nhớ tới t́nh yêu. Rồi bỗng nhiên tôi nghe có tiếng vó ngựa và tiếng bánh xe nghiến xào xạc. Bị đánh thức khỏi cơn mê lịm thú vị và bị lao ḿnh từ thế giới mộng mơ xuống thế giới đa đoan và khốn khổ, chúng tôi thấy ông cụ đang trở về nhà sau khi làm xong một nhiệm vụ. Chúng tôi đứng lên, đi qua vườn cây ăn quả để tới đón ông.
Khi chiếc xe ngựa tới lối vào hoa viên, Farris Effandi bước xuống. Ông cụ đi rất chậm về phía chúng tôi, oằn người tới trước như thể trên vai đang vác một gánh rất nặng. Ông tới gần Selma, đặt cả hai bàn tay lên vai con gái và nh́n nàng chằm chặp. Trên hai g̣ má nhăn nheo của người già, nước mắt tuôn xuống thành ḍng, và trên đôi môi ông run rẩy một nụ cười khổ sở. Ông cụ nói với giọng đứt quăng trong cổ họng:
“Selma thương yêu của cha, con sẽ rất sớm bị lấy đi khỏi ṿng tay của người cha này để tới hai cánh tay của một người đàn ông khác. Số phận sẽ rất sớm mang con từ ngôi nhà quạnh quẽ này tới chiếc sân mênh mông của thế giới, vườn hoa này sẽ nhớ măi tiếng bước chân con và cha sẽ trở thành người lạ đối với con. Tất cả đă định; xin Thiên Chúa ban ơn phước cho con”
Nghe những lời ấy, vẻ mặt của Selma tối sầm, hai mắt nàng lạnh lẽo như thể cảm giác điềm báo trước cái chết. Rồi nàng thét lên như chim bị bắn rớt, đau đớn run lẩy bẩy, và nàng hỏi với giọng uất nghẹn:
“Cha nói cái ǵ? Cha có ư nói ǵ? Cha định đưa con đi đâu?”
Dứt câu hỏi, nàng nh́n cha với tia mắt xuyên suốt, cố gắng khám phá cho ra bí mật của ông. Lát sau, nàng nói:
“Con hiểu, con hiểu hết mọi sự. Giám mục đ̣i hỏi con ở nơi cha và đă chuẩn bị xong chiếc lồng cho con chim găy cánh này. Thưa cha, có phải đó là ư muốn của cha?”
Câu trả lời của Farris Effandi là một tiếng thở ra rất dài. Ông dịu dàng dẫn Selma vào nhà trong khi tôi vẫn đứng nơi hoa viên với các đợt sóng bối rối vỗ ào ạt lên ḿnh như cơn băo đánh tan tác lá mùa thu. Kế đó, tôi đi theo họ vào pḥng khách. Và để tránh t́nh cảnh lúng túng, tôi bắt tay ông cụ rồi nh́n Selma ngôi sao xinh đẹp của tôi, và ra khỏi nhà.
Khi tới cuối hoa viên, tôi nghe tiếng ông cụ gọi ḿnh. Tôi quay lại gặp ông. Ông cầm tay tôi và nói với vẻ xin lỗi:
“Con trai ơi, hăy tha thứ cho ta. Ta đă phá hỏng buổi tối của con khi để cho ḍng nước mắt này chảy. Nhưng xin con vui ḷng tới gặp ta khi ngôi nhà này thành nơi vắng vẻ và ta cô độc tuyệt vọng. Tuổi trẻ, con trai của ta ơi, không sóng đôi với tuổi già như ban mai không gặp ban đêm, nhưng con hăy đến với ta để gợi cho ta nhớ lại những ngày tươi trẻ đă trải qua với cha của con. Và con sẽ kể cho ta nghe tin tức về cuộc đời mà giờ đây không c̣n tính ta vào trong số con cái của nó nữa. Con có sẽ đến thăm ta khi Selma đă ra đi và ta bị bỏ lại đây trong quạnh quẽ không?”
Trong khi ông nói ra những lời đau đớn ấy tôi im lặng bắt tay ông và cảm thấy những giọt nước mắt ấm rơi từ mắt ông xuống bàn tay tôi. Run rẩy với xót xa và t́nh hiếu thảo, tôi cảm thấy tim ḿnh thắt lại với sầu khổ. Khi tôi ngẩng đầu lên và ông cụ thấy những giọt lệ trong mắt tôi, ông chúi người tới trước, chạm lên trán tôi bằng đôi môi của ông:
“Tạm biệt, con trai, tạm biệt.”
Nước mắt của người già hiệu nghiệm hơn nước mắt của người trẻ v́ nó là phần c̣n lại trong h́nh hài đang yếu dần của họ. Nước mắt của người trẻ như giọt sương trên cánh hoa hồng trong khi nước mắt người già như lá vàng rơi theo gió lúc trời sắp sang đông.
Khi tôi rời ṭa nhà của Farris Effandi Karamy, tiếng nói của Selma vẫn rung động trong tai tôi, nhan sắc của nàng đi theo tôi như một hồn ma và những giọt nước mắt của thân phụ nàng khô chầm chậm trên bàn tay tôi.
Lần ra đi này của tôi như cuộc xuất hành của A-đam từ vườn Địa đàng, nhưng nàng Eva của trái tim tôi không cùng đi với tôi để làm cho toàn bộ thế giới trở thành một chốn thần tiên. Đêm đó, trong khi được sinh ra thêm lần nữa, tôi cảm thấy ḿnh vừa thấy bộ mặt của thần chết lần đầu tiên.
Như thế mặt trời vừa làm sống động vừa giết chết các đồng ruộng bằng sức nóng của nó.
Bookmarks