Phải chăng Bà Huyện Thanh Quan đă trau chuốt lại bài thơ "Đèo Ngang" nguyên thủy ?
Tác giả: Tiến sĩ Nguyễn Vĩnh Tráng
-----o0o-----
Bà Huyện Thanh Quan và Bà Hồ Xuân Hương là hai nữ sĩ kiệt xuất trong nữ giới của nền Văn Học Việt Nam vào cuốt thế kỷ thứ 18, đầu thế kỷ thứ 19. Điều đó khó ai phản bác được. Hai nữ sĩ, mỗi người mỗi vẽ, mỗi người mỗi cung cách, nhưng cả hai Bà đều độc đáo.
Rất nhiều nhà phê b́nh văn học đă cho Bà Hồ Xuân Hương có một văn phong "b́nh dân", dùng rặt chữ Nôm, c̣n Bà Huyện Thanh Quan th́ có văn phong "bác học", xen Hán tự nhiều trong tác phẩm của ḿnh.
Thật thế, ta thấy rất nhiều thành ngữ chữ Hán trong tác phẩm của Bà Huyện. Theo văn học th́ ngày nay ta chỉ c̣n 6 bài thơ "thất ngôn bát cú" của Bà, ngoại trừ bài "Cảnh Thu", mà người ta cho rằng có thể là của Bà Hồ Xuân Hương. Trong 6 bài đó có rất nhiều thành ngữ chữ Hán, trừ bài "Qua Đèo Ngang".
"Thành ngữ chữ Hán" tôi muốn nói ở đây, có nghĩa là ta có thành ngữ chữ Việt (Nam, Nôm) tương đương, như Triêu Mộ 朝 暮, ta có Sớm Tối; Tuế Nguyệt 歲 月, ta có Năm Tháng; Đoạn Trường 斷 腸, ta có Đứt Ruột…
Mặt khác, tôi t́m thấy trong Contes et Légendes du Pays d’Annam của Lê Văn Phát, viết năm 1913, in lần thứ 2, tại Imprimerie de l’Union Nguyễn Văn Của, Sàig̣n 1925, có bài "Le Râle d’eau". Trong "Le Râle d’eau" lại có bài "Đèo Ngang", vô danh, rặt chữ Nôm, văn phong rất mộc mạc, c̣n nội dung th́ giống hệt nội dung bài "Qua Đèo Ngang" của Bà Huyện Thanh Quan.
Bài "Le Râle d’eau" kể chuyện ngày xưa. Chuyện vua La Hoa (?) nước Chiêm Thành đem quân đánh Giao Chỉ. Môt cận thần tên Quốc đă hết lời can gián và xin hoăn lại cuộc viễn chinh, nhưng nhà vua không nghe. Biết rằng trận chiến này thế nào cũng đem lại thất bại, Quốc xin theo, hầu quyết tâm bảo vệ an toàn cho chúa.
Cuộc chiến xảy ra ở Đèo Ngang. La Hoa, quá hiếu chiến, quá chủ quan, tiến thẳng đến trận tiền, nên bị trúng tên mà chết. Quá đau đớn, Quốc liều xông ra chém giết giữa muôn tên ngàn giáo để báo thù. Nhưng đơn thương độc mă, nên Quốc đă chết dưới làn sóng của địch quân. Quá uất ức, hồn của Quốc không siêu thoát được, cứ phảng phất quanh Đèo Ngang để t́m xác chủ, nhưng vô hiệu quả. Sau đó Quốc tái sinh dưới dạng con chim Cuốc để đêm đêm rít lên những tiếng kêu bi ai của một vị trung thần khóc quốc vương tử trận: "Quốc Quốc, La Hoa", Quốc ở đây, c̣n La Hoa ở đâu ?
Một văn nhân vô danh, đi qua Đèo Ngang, nhớ lại chuyện xưa, đă làm bài thơ "Đèo Ngang".
Ông Lê Văn Phát chỉ để lại hai tác phẩn La vie intime d’un Annamite et ses croyances vulgaires, (Bulletins de la Société des Etudes Indochinoises, Imprimerie F.H Schneider Sàig̣n 1907), và Contes et Légendes du Pays d’Annam, (Imprimerie de l’Union Nguyễn Văn Của, Sàig̣n 1913), bằng chữ Pháp. Như thế, có thể ông Lê Văn Phát không biết nhiều về các tác phẩm của Bà Huyện Thanh Quan. Những bài của ông Lê Văn Phát viết, toàn là chuyện cổ tích, huyền thoại dân gian cả. Bài "Đèo Ngang" trong Contes et Légendes du Pays d’Annam có thể là một giai thoại dân gian lâu đời, có trước thời Bà Huyện Thanh Quan chăng. Sau đây là bài "Đèo Ngang" theo ông Lê Văn Phát:
Đèo Ngang
Qua ải Đèo Ngang bóng ác tà
Cỏ cây chen đá, lá chen ba
Non cao rải rác tiều vài lăo
Đất rộng lai rai xóm mấy nhà
Nhớ chúa đau ḷng con Quốc-Quốc (tên của trung thần Quốc)
Kêu người mỏi miệng tiếng Hoa-Hoa (tên của vua La Hoa)
Dừng chơn ngóng cổ miền non nước
Một tấm ḷng riêng ta với ta
Vô danh
Vậy phải chăng Bà Huyện đă lấy bài đó, đă có từ lâu, và trau chuốt lại thành một bài thơ bất hủ như ta đă biết:
Qua đèo Ngang
Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, rợ mấy nhà
Nhớ nước đau ḷng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước
Một mảnh t́nh riêng, ta với ta
Bà Huyện Thanh Quan
Ta thử từ từ kiểm xét xem.
Sáu bài thơ của Bà Huyện như sau:
1 – Chùa Trấn Bắc
Trấn Bắc hành cung cỏ dăi dầu
Chạnh niềm cố quốc nghĩ mà đau
Mấy ṭa sen tỏa hơi hương ngự
Năm thức mây phong nếp áo chầu
Sóng lớp phế hưng coi đă rộn
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau
Người xưa cảnh cũ nào đâu tá
Ngơ ngẩn ḷng thu khách bạc đầu
Trong 8 câu của bài nầy, ta thấy có 6 câu dùng 5 thành ngữ chữ Hán và 1 chữ Hán. Cộng tất cả 11 chữ Hán:
Hành cung 行 宮
cố quốc 故 國
hương ngự 香 御
phong 封
phế hưng 廢 興
kim cổ 今 古
2 – Đền Trấn Vơ
Êm ái chiều xuân tới Trấn đài
Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai
Ba hồi triêu mộ *, chuông gầm sóng
Một vũng tang thuơng, nước lộn trời
Bể ái ngàn trùng khôn tát cạn
Nguồn ân trăm trượng dễ khơi vơi
Nào nào cực lạc là đâu tá
Cực lạc là đây, chín rơ mười
Trong 8 câu của bài nầy, ta thấy có 6 câu dùng 4 thành ngữ chữ Hán và 4 chữ Hán. Cộng tất cả 12 chữ Hán:
trấn đài 鎮 臺
trần ai 塵 埃
triêu mộ 朝 暮 (sớm tối)*
tang thương 桑 蒼
ái 愛 ; trùng 重
ân 恩 ; trượng 丈
* Ba hồi triêu mộ là ba hồi chuông sớm tối. Có rất nhiều tác giả, ngay cả các tác giả gốc miền Trung và miền Nam là những người phân biệt rơ ràng hai phụ âm đầu tr và ch đă lầm lẫn viết sai hai chữ chiêu mộ thay cho hai chữ triêu mộ, như trên.
3 – Cảnh Chiều Hôm
Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn
Tiếng ốc xa đưa lẫn trống dồn
Gác mái, ngư ông về viễn phố
Gơ sừng, mục tử lại cô thôn
Ngàn mai gió cuốn, chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa, khách buớc dồn
Kẻ chốn chương đài nguời lữ thứ
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn
Trong 8 câu của bài nầy, ta thấy có 5 câu dùng 8 thành ngữ chữ Hán. Cộng tất cả 16 chữ Hán:
Hoàng hôn 黃 昏
ngư ông 漁 翁 ; viễn phố 遠 鋪
mục tử 牧 子 ; cô thôn 孤 村
chương đài 章 臺 ; lữ thứ 旅 次
hàn ôn 寒 溫
4 – Thăng Long thành hoài cổ
Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước c̣n cau mặt với tang thương
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy người đây luốn đoạn trường
Bài nầy đă phá kỷ lục, trong 8 câu, mỗi câu đều có thành ngữ chữ Hán, với 10 thành ngữ. Cộng tất cả là 20 chữ Hán:
tạo hóa 造 化 ; hí trường 戲 場
tinh sương 星 霜 (năm)
thu thảo 秋 草
lâu đài 樓 臺 ; tịch dương 夕 陽
tuế nguyệt 歲 月
tang thương 桑 蒼
kim cổ 今 古
đoạn trường 斷 腸
Chỉ có bài:
5 – Nhớ Nhà
Vàng tỏa non tây, bóng ác tà
Đầm đầm ngọn cỏ, tuyết phun hoa
Ngàn mai lác đác, chim về tổ
Dặm liễu bâng khuâng, khách nhớ nhà
C̣i mục thét trăng miền khoáng dă
Chài ngư tung gió băi b́nh sa
Ḷng quê một bước càng ngao ngán
Mấy kẻ t́nh chung có thấu là
Vỏn vẹn 2 câu với 2 thành ngữ và 2 chữ Hán. Tất cả 6 chữ Hán.
mục 牧 ; khoàng dă 曠 野
ngư 漁 ; b́nh sa 平 沙
6 – Qua đèo Ngang
Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, rợ mấy nhà
Nhớ nước đau ḷng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước
Một mảnh t́nh riêng, ta với ta
Bài nầy không có chữ Hán, hay có chăng là 2 chữ rất thông dụng, chữ quốc 國, chữ gia 家 lập lại 2 lần. Hơn nữa, hai chữ Quốc Quốc, Gia Gia là hai tượng thanh của tiếng kêu của con Cuốc Cuốc (Đỗ Quyên) và con Đa Đa (Gà Gô).
Vậy, phải chăng Bà Huyện Thanh Quan đă lấy bài "Đèo Ngang" của tác giả vô danh đă truyền khẩu trong dân gian từ lâu, rồi trau chuốt lại, chứ không phải Bà làm ra, v́ bài "Qua Đèo Ngang", chẳng những không có văn phong "bác học" của các bài khác của Bà Huyện, mà lại "b́nh dân", tuy đă trau chuốt hơn văn phong rất mộc mạc và rặt tiếng Nam (Nôm) của bài "Đèo Ngang" mà Lê Văn Phát đề cập tới trong Contes et Légendes du Pays d’Annam.
Nguyễn Vĩnh Tráng
Tiết Lập Xuân Canh Dần
Bookmarks