Nền Điện ảnh Việt Nam bắt đầu từ năm 1923, khi xuất hiện bộ phim đầu tiên "Kim Vân Kiều" do người Pháp và người Việt cùng thực hiện. Trước đó, điện ảnh đă du nhập vào Việt Nam từ cuối thập niên 1890. Từ năm 1925 xuất hiện những hăng phim Việt Nam, có những bộ phim Việt Nam hợp tác với nước ngoài. Đến thời kỳ Chiến tranh Việt Nam, ở miền Bắc với những diễn viên như Trà Giang, Thế Anh, đạo diễn Hải Ninh, Nguyễn Hồng Sến đă thực hiện những bộ phim "Vĩ tuyến 17 ngày và đêm", "Nổi gió", "Em bé Hà Nội"... ghi dấu ấn cho nền điện ảnh cách mạng.
Miền Nam với Thẩm Thúy Hằng, Kiều Chinh, các đạo diễn Lê Hoàng Hoa, Lê Dân, Lê Mộng Hoàng đă thực hiện "Chân trời tím", "Loan mắt nhung", "Người t́nh không chân dung"... đạt được doanh thu cao và giành những giải thưởng trong các liên hoan phim châu Á.
Sau năm 1975, các đạo diễn Lê Hoàng Hoa, Nguyễn Hồng Sến tiếp tục thực hiện những bộ phim như "Ván bài lật ngửa", "Cánh đồng hoang"... thu hút được nhiều khán giả, giành được giải thưởng trong những liên hoan phim quốc tế. Vượt qua giai đoạn khủng hoảng của thập niên 1990, gần đây điện ảnh Việt Nam lấy lại được khán giả với những bộ phim ăn khách như "Gái nhảy", "Những cô gái chân dài"... Một số bộ phim Việt Nam đă được khán giả nước ngoài biết tới, trong đó nhiều phim của các đạo diễn Việt kiều. "Mùi đu đủ xanh" của đạo diễn người Pháp gốc Việt Trần Anh Hùng đă được đề cử giải Oscar cho phim ngoại ngữ hay nhất năm 1994.
Điện ảnh Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa và CHXHCN Việt Nam c̣n được gọi là Điện ảnh cách mạng Việt Nam, đặc biệt là các dự án điện ảnh do hăng phim nhà nước thực hiện, do nhà nước tài trợ, và nội dung tác phẩm có liên quan đến đề tài chính luận, chiến tranh, lịch sử.
Điện ảnh du nhập vào Việt Nam
Điện ảnh du nhập vào Việt Nam từ rất sớm. Ngày 28 tháng 12 năm 1895, nền điện ảnh được khai sinh với buổi chiếu của hai anh em Auguste và Louis Lumière tại tầng hầm quán Grand Café ở Paris. Đầu năm 1896, anh em nhà Lumière mở một lớp học trong 6 tháng đào tạo quay phim để truyền bá phát minh mới này. Một trong những học viên đầu tiên đó là Gabriel Veyre, sau khi qua Thượng Hải đă đến Hà Nội. Ngày 28 tháng 4 năm 1899 Gabriel Veyre đă tổ chức buổi chiếu phim đầu tiên tại Hà Nội miễn phí cho công chúng vào xem. Báo L'Avenir du Tonkin số ra ngày 29 tháng 4 năm 1899 xuất bản tại Hà Nội có tường thuật đầy đủ về buổi chiếu phim này.
Sau đó, những buổi chiếu tiếp theo được thực hiện ở các khách sạn, nhà hàng lớn nhân những ngày lễ quan trọng hoặc sự kiện chính trị nào đó. Khán giả điện ảnh hầu hết là các quan chức, viên chức, chủ công ty công nghiệp và doanh nghiệp, đơn vị quân đội Pháp chiếm đóng thuộc địa. Dựa theo một số tài liệu, báo chí, hồi kư th́ thỉnh thoảng có một vài buổi chiếu phim ở nơi công cộng cho dân bản xứ mua vé vào xem như các ngày hội, chợ phiên, quay sổ xố. Trên báo chí Việt Nam đă đăng quảng cáo những buổi chiếu phim bán vé tại một số địa điểm công cộng.
Rạp chiếu phim đầu tiên tại Việt Nam là rạp Pathé, do một người Pháp là Aste xây dựng tại Hà Nội, cạnh hồ Hoàn Kiếm, khánh thành ngày 10 tháng 8 năm 1920. Tiếp đó tới rạp Tonkinois bắt đầu từ 1921... Thời ấy, người ta gọi những buổi tŕnh chiếu phim là buổi tŕnh diễn "tṛ chớp bóng".
Để thiết lập độc quyền khai thác mạng lưới chiếu bóng, ngày 11 tháng 9 năm 1923 người Pháp thành lập hăng Phim và Chiếu bóng Đông Dương (Indochine Films et Cinéma, IFEC) và năm 1930 Công ty Chiếu bóng Đông Dương (Societé des cinéthéâtre d’Indochine).
Một số Hoa kiều cũng bỏ vốn xây dựng những rạp nhỏ, chủ yếu chiếu phim thuê của người Pháp và một số ít phim của Hồng Kông, Trung Quốc. Đến năm 1927, tại Việt Nam có 33 rạp chiếu bóng ở các đô thị như Hà Nội 4 rạp, Hải Pḥng 2 rạp, Huế 2 rạp, Chợ Lớn 4 rạp, Sài G̣n 4 rạp, Cần Thơ 2 rạp... Một số người Việt Nam bắt đầu quan tâm đến lĩnh vực kinh doanh mới này. Người đầu tiên là nhà tư sản Vạn Xuân. Năm 1936 ông đă bỏ tiền xây rạp chiếu bóng Olimpia - nay là nhà hát Hồng Hà trên phố Hàng Da ở Hà Nội. Đến năm 1939, số lượng rạp chiếu phim lại Việt Nam lên tới con số 60.
Những năm trước 1930, mỗi rạp chỉ lắp đặt một máy chiếu phim. Khi hết một cuộn phim th́ các đèn trong rạp bật sáng và người thợ máy thay cuộn phim mới để chiếu tiếp. Màn ảnh được làm bằng những mảnh vải trắng may lại, xung quanh viền vải xanh thẫm hoặc đen. Khán giả ngồi trên những ghế tựa hoặc ghế băng có dựa lưng bằng gỗ. Sàn pḥng chiếu bằng phẳng và màn h́nh được đặt trên phía cao khiến khán giả bị mỏi cổ khi xem phim. Một vài rạp không có ghế ngồi.
Trong hồi kư của ḿnh, Phạm Duy viết: "...rạp Family ở phố Hàng Buồm. Rạp này có hai hạng, coi mặt chính th́ phải trả hai xu, coi mặt trái th́ chỉ mất nửa tiền, cả hai hạng đều không có ghế, khán giả ngồi xệp xuống đất mà coi". Từ nửa cuối thập niên 1930, một số rạp mới có ban công và sàn được làm dốc, các hàng ghế được bố trí lệch nhau. Các rạp cũng được trang bị quạt máy và phân cấp thành hai loại: sang và b́nh dân. Những bộ phim đầu tiên được tŕnh triếu ở Việt Nam đều là phim câm. Đến khoảng giữa thập niên 1930, khán giả mới được xem phim nói với bộ phim đầu tiên là Phía Tây không có ǵ lạ được xây dựng theo tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Erich Maria Remarque. Nhưng khi đó, để xem được phim nói, chỉ giới trí thức, sinh viên, học sinh trung học mới nghe được tiếng Pháp và đọc được phụ đề Pháp ngữ.
Trong khoảng thời gian Thế chiến thứ hai từ 1939 đến 1945, giao thông đường biển từ Pháp tới Việt Nam bị Đức và Nhật phong tỏa, ảnh hưởng đến việc vận chuyển phim. Năm 1945, Nhật đảo chính Pháp ở Việt Nam, nắm quyền cai trị Đông Dương. Khoảng thời gian này một số chủ người Pháp bán lại các rạp chiếu bóng cho những người Hoa ở Hà Nội, Sài G̣n. Các chủ người Hoa bắt đầu nhập phim từ Hồng Kông, Singapore vào chiếu ở Việt Nam.
Những phim đầu tiên
Những phim đầu tiên được sản xuất ở Việt Nam là do người Pháp thực hiện. Sớm nhất là những đoạn phim được quay để sử dụng trong những cuốn phim giới thiệu sinh hoạt ở các thuộc địa Pháp do hăng Pathé phát hành ngay từ năm 1897. Tiếp đó là những phim tài liệu khai thác phong cảnh (Phong cảnh tại Kinh đô Huế), phong tục, hội hè, đ́nh đám (Hội Kiếp bạc, Đám ma bà Thiếu Hoàng) hoặc các nhân vật thời thượng trong xă hội đương thời (Cô gái Bắc Kỳ).
Năm 1916 Toàn quyền Đông Dương là Albert Saraut đă yêu cầu Bộ Chiến tranh Pháp cử một Đoàn điện ảnh quân đội sang Việt Nam để quay phim giới thiệu về cuộc sống, phong tục, phong cảnh đất nước Việt Nam. Từ 1916 đến 1918 đoàn Điện ảnh quân đội Pháp đă quay được 20 phim phóng sự, tài liệu. Những phim này chủ yếu giới thiệu với công chúng Pháp h́nh ảnh về thuộc địa của ḿnh để kêu gọi các nhà đầu tư, kinh doanh Pháp quan tâm đến việc khai thác thuộc địa. Đoàn Điện ảnh quân đội Pháp c̣n tổ chức các buổi chiếu phim ở các vùng nông thôn, thành thị, biên giới, tuyên truyền cho sức mạnh của người Pháp, vận động dân thuộc địa đi lính sang Pháp, mua công trái đóng góp cho nước Pháp tiến hành chiến tranh.
Phim truyện đầu tiên
Bộ phim truyện đầu tiên là 'Kim Vân Kiều" do Công ty Chiếu bóng Đông Dương thực hiện năm 1923. Tác phẩm của Nguyễn Du được đưa lên màn bạc với diễn viên là các đào kép tuồng của ban Quảng Lạc, Hà Nội. Phim dài 1.500 m với phần ngoại cảnh được quay ở các vùng phụ cận Hà Nội và làm hậu kỳ tại Pháp. Kim Vân Kiều mắc phải nhiều sai lầm về nội dung, phần diễn xuất cũng chẳng có ǵ khác hơn hát trên sân khấu, đào kép th́ ăn mặc và cử chỉ như hát tuồng.
Phim "Kim Vân Kiều" công chiếu lần đầu với một số khán giả hạn chế và bị phần lớn báo chí khi đó chỉ trích. Tờ Hữu Thanh 15 tháng 3 năm 1924, viết: "Hồi 4 giờ rưỡi hôm 14 Mars (tháng 3) này, Hội Indochine Film có đem chớp thử Kim Vân Kiều tại nhà Cinéma Palace phố Tràng Tiền. Hôm ấy là hôm chớp thử nên chỉ mới có mấy nhà văn chương và mấy nhà báo Tây, Nam đến xem mà thôi". Ngày 15 tháng 3 năm 1924, tờ Trung Văn: "Số là lần này là lần thứ nhất mới có một bản chớp bóng dùng một sự tích An Nam, dùng con hát An Nam đóng, lấy những nơi thắng cảnh tự nhiên của An Nam làm cảnh trí, là lần đầu. Cái nghề chớp bóng xưa nay người An Nam chúng ta chưa từng biết; các phương pháp, các lề lối đều là phải tin cấp ở nhà chuyên môn Tây, người ta bảo thế nào là phải th́ cứ thế mà làm. Những lẽ ḿnh bàn góp vào cho hợp với sự tích, hợp với phong tục An Nam ta, th́ cũng phải để tùy nhà chuyên môn người ta lượng nghĩ mà châm chước mà thôi, chứ ḿnh không bắt buộc được người ta phải theo ư ḿnh."
Sau thất bại của "Kim Vân Kiều", năm 1925 IFEC tiếp tục thực hiện cuốn phim hài ngắn là Toufou có độ dài 600 m. Vai chính Toufou do một diễn viên người Việt lai Trung Quốc tên Léon Chang đóng. Phim nhại theo cách diễn xuất của Vua hề Charlie Chaplin và bị báo chí lẫn khán giả chỉ trích.
Không nản ḷng, IFEC cố gắng làm một bộ phim dài về Việt Nam. Đó là phim "Huyền thoại bà Để" năm 1927 dài 1.000 m. Phim do Paul Numier viết kịch bản dựa theo một câu chuyện dân gian nói về một cô gái bị cha mẹ, họ hàng nghi ngờ là hư hỏng nên buộc phải chết, sau đó được giải oan và dân làng lập miếu thời gọi là Bà Đế. Đạo diễn bộ phim là Georges Specht[4], c̣n vai chính một cô gái Pháp lai đảm nhiệm, các diễn viên Việt chỉ đóng vai phụ. Bộ phim này tiếp tục thất bại, vai chính bị chê là lố lăng, nội dung nhiều sai lạc ngớ ngẩn. Dù được gửi sang tŕnh chiếu ở Pháp, Huyền thoại bà Đế vẫn thua lỗ về doanh thu.
Sau thất bại của ba phim liên tiếp, Công ty Phim và Chiếu bóng Đông Dương thôi không nghĩ đến chuyện làm phim nữa.
Bộ phim đầu tiên của người Việt
Năm 1924, ông Nguyễn Lan Hương, chủ tiệm ảnh Hương Kư ở Hà Nội, mời một chuyên viên người Pháp về dạy cho ḿnh rồi thực hiện bộ phim hài Đồng tiền kẽm tậu được ngựa. Bộ phim dài 6 phút, phỏng theo tác phẩm La laitière et le pot au lait (Cô gái và b́nh sữa), truyện ngụ ngôn của La Fontaine. Phim thứ hai của Hương Kư cũng là phim hài với tựa phim là "Cả Lố". Nhưng phim đang quay dở dang lại phải bỏ, v́ có sự bất đồng giữa Hương Kư và diễn viên đóng phim. Sau đó, Hương Kư c̣n quay phim tài liệu "Ninh Lăng" dài 2.000 m về đám tang vua Khải Định. Tiếp đó là phim "Tấn tôn đức Bảo Đại", dài 800 m, về lễ đăng quang Hoàng đế Bảo Đại. Tuy được hoan nghênh, nhưng v́ không có thị trường nên không đủ bù đắp vào số vốn đă bỏ ra thực hiện phim. Phim chiếu ở Hà Nội được 27 ngày, doanh thu khoảng 5.000 đồng tiền Đông Dương, trong khi chi phí sản xuất gần 30.000 đồng.
Nhờ gây được tiếng vang, Nguyễn Lan Hương được Tỉnh trưởng tỉnh Vân Nam, Trung Quốc đặt hàng làm hai phim phóng sự quay tại Trung Quốc. Một trong hai phim là "Đám tang tướng Đường Kế Nghiêu", năm 1929. Nhưng sau đó không thấy ông Nguyễn Lan Hương làm phim tiếp, mà trở về với nghề nhiếp ảnh của ḿnh. Có những ư kiến cho rằng lư do là v́ tác động của người Pháp, họ không muốn một hăng phim Việt Nam thành công trong khi họ liên tục gặp thất bại. Hăng phim Hương Kư biến mất sau vài năm tồn tại. Từ đó, hoạt động sản xuất phim của người Việt Nam ngưng hoạt động suốt 7 năm liền từ 1930 đến 1936.
(C̣n tiếp)
Bookmarks