1. Chính Kinh
Vào cuối thời Hùng, có Triệu Đà mang quân xâm lấn nước ta. V́ vậy An Dương Vương xây thành để pḥng thủ. Nhưng thành cứ sập đổ măi. Sau nhờ thần Kim Qui tới giúp, mới xây được Loa Thành. Thần Kim Qui c̣n để lại cái móng làm lăy nỏ, bắn một phát là giết cả vạn người.
Thấy vậy, Triệu Đà cho con là Trọng Thủy kết hôn với công chúa Mỵ Châu. Trong thời gian ở tại Loa Thành, Trọng Thủy được Mỵ Châu cho coi chiếc nỏ thần, và chàng đă tráo cái lăy nỏ.
Lấy được lăy nỏ thần, Trọng Thủy liền về nước và cùng Triệu Đà mang quân qua đánh Loa Thành. Khi biết nỏ thần hết linh nghiệm, An Dương Vương đem Mỵ Châu lên ngựa chạy trốn.
Dọc đường Mỵ Châu nhổ lông ngỗng nơi chiếc áo đang mặc để làm dấu cho Trọng Thủy t́m theo. Thấy thế, An Dương Vương rút gươm chém Mỵ Châu. Máu nàng chảy xuống biển hóa thành ngọc trai.
Trọng Thủy chiếm được Loa Thành, nhưng thương nhớ vợ nên nhảy xuống giếng mà chết. Từ đó lấy nước giếng ấy mà rửa th́ ngọc trai thành sáng đẹp hơn.
* * * *
DIỄN KINH
2. Giới Thiệu Việc Giữ Nước
Việc Triệu Đà từ phương Bắc đem quân xâm lấn, và việc An Dương Vương xây Loa Thành, được coi là những sự kiện lịch sử. Từ lâu, di tích của một thành của làng Cổ Loa, cách Hà Nội 15 cây số, luôn được coi là thành của An Dương Vương.
Dầu thành ở Cổ Loa có thực sự là thành của An Dương Vương hay không, việc An Dương Vương xây Loa Thành và làm mất nước, đă là đề tài suy tư của nhiều thế hệ.
Và rồi, với hơn hai ngàn năm tích lũy và truyền đạt, kinh nghiệm trên đă trở thành bài học dạy việc Giữ Nước.
Nh́n dưới khía cạnh Bài Học Làm Người, Kinh Mỵ Châu cũng nói lên diễn tiến của một con người làm mất chính ḿnh, để bị tha hóa.
Tuy nhiên, bài này chỉ bàn về phương diện Giữ Nước. (*1)
* * * *
3. Bài Học Hồn Nước
3. 1 Giặc Xâm Lấn
Trước hết, Kinh đưa ra bối cảnh làm khung cho Bài Học Giữ Nước. Đó là việc Triệu Đà đem quân xâm lấn. Những nhân vật chính trong Kinh là An Dương Vương, Mỵ Châu và Trọng Thủy.
Trong tinh thần văn hóa Việt, An Dương Vương và Mỵ Châu và Mỵ Châu biểu trưng cho Rồng và Tiên trong việc Giữ Nước. Phần Trọng Thủy, chàng là con Triệu Đà, là hiện thân của tham vọng thống trị phương Bắc.
* *
3. 2 Bỏ Hồn Nước
a. Để chống Triệu Đà, An Dương Vương khởi công xây Loa Thành.
Điểm đặc biệt là trong suốt ḍng lịch sử của dân tộc, chưa bao giờ có việc xây thành kiên cố cho vua chúa. Từ ngày lập quốc, trong mấy ngàn năm, nước ta không hề xây thành. Các Vua Hùng luôn sống gần dân và cùng dân chia sẻ mọi trách nhiệm.
V́ vậy, việc xây Loa Thành đánh dấu quan niệm Giữ Nước đặc biệt của An Dương Vương. Quan niệm này đi ngược lại truyền thống từ ngàn xưa của dân tộc, và do đó, xa lạ với nếp sống của người dân đương thời.
*
b. Ngoài ra, sự kiện thành sập nhiều lần lại chứng tỏ hoàn cảnh đất nước lúc đó không đủ cung ứng cho việc xây thành.
Như vậy, chẳng những An Dương Vương đă ĺa xa tinh thần dân, mà c̣n ĺa xa đời sống thực tế, xa thực trạng hiện hữu của đất nước.
*
c. Khi thành sập nhiều lần, đáng lư An Dương Vương phải t́m hiểu và thay đổi kế hoạch, để chẳng những ứng hợp với hiện trạng, mà c̣n tận dụng được sức mạnh thiết thực của dân nước. Nhưng An Dương Vương lại đi cậy nhờ tài trí của thần Kim Qui.
Như thế, Loa Thành c̣n nói lên khuynh hướng vọng ngoại của An Dương Vương.
Nh́n chung Bộ Kinh Việt, việc ĺa bỏ tinh thần dân tộc của An Dương Vương lại càng rơ rệt. Ở các Kinh Tiết Liêu và Phù Đổng, khi cần An Dân và Cứu Nước, Tiết Liêu và Vua Hùng đều khẩn cầu Tổ về chỉ dạy. Ở đây, An Dương Vương không cầu Tổ, mà lại đi cầu người phương xa đến.
*
d. Chẳng những giúp xây được Loa Thành, Kim Qui c̣n cho thêm cái móng chân đề làm lăy nỏ. Với móng chân của Kim Qui, cái nỏ trở thành nỏ thần, bắn một phát giết vạn người.
Với chiếc nỏ thần này, tài thiện nghệ nổi tiếng của dân Lạc Việt chúng ta cũng trở thành vô dụng. Từ nay, cả tài năng xuất chúng của dân nước cũng không c̣n cần thiết cho việc giữ nước.
Thế là, với hai vũ khí an toàn, với thành vững để thủ và với nỏ thần để công, từ nay việc giữ nước chỉ c̣n tùy thuộc vào một ḿnh Kim Qui. (*2)
* *
3. 3 Nhận Hồn Giặc
a. Đă xa nếp sống người dân, đă chỉ cậy nhờ người ngoài, An Dương Vương lại đem công chúa Mỵ Châu gả cho Trọng Thủy. Mỵ Châu là biểu tượng của tinh thần Việt. Trọng Thủy con của của giặc Triệu Đà.
Đang là một tên xâm lăng, khiến An Dương Vương phải xây thành để chống cự. Trọng Thủy bỗng ngang nhiên bước vào tung hoành tận thâm cung Loa Thành. Đang là một tên giặc nguy hiểm, Trọng Thủy trở thành người đầu gối tay ấp của nàng tiên Mỵ Châu.
Như vậy, từ chỗ tùy thuộc vào người ngoài, An Dương Vương bước tới giai đoạn rước giặc vào nhà. Và nàng Tiên Mỵ Châu, biểu tượng cho tâm hồn Việt, cũng đă chấp nhận giặc, ôm ấp giặc.
*
b. Cớ sự đă vậy, mà nàng Mỵ Châu c̣n tiến thêm một bước. Nàng yêu chiều Trọng Thủy đến nỗi đưa nỏ thần cho Trọng Thủy coi.
Tuy không hoàn hảo, nhưng đất nước đang được tạm thời sống trong yên ổn nhờ có thành vững nỏ thần. Thế mà sau khi cho giặc phá thủng thành vững, giờ đây Mỵ Châu c̣n theo ư giặc, trao luôn nỏ thần.
Mỵ Châu đă coi ư giặc hơn sự an toàn của dân nước. Nàng đă yêu qúy giặc hơn đồng bào, hơn quê hương. C̣n ǵ Nước, c̣n là Dân?
*
c. Nhưng nàng vẫn cho là chưa đủ. Trên lưng ngựa cùng cha chạy trốn, Mỵ Châu c̣n nhổ lông ngỗng nơi chiếc áo đang mặc, để ghi dấu cho Trọng Thủy t́m theo.
Thực là chua chát. Nàng tiên Việt đă hoàn toàn quên ḿnh v́ giặc! Giờ đây, người nàng chỉ c̣n chiếc áo lông ngỗng, h́nh ảnh cuối cùng của Tiên, mà nàng cũng nhẫn tâm rứt bỏ để làm dấu dẫn đường cho giặc (*3).
*
d. Lông đă nhổ, lớp áo tiên mỏng manh bên ngoài cũng không c̣n, nên Mỵ Châu gục chết. Lâu nay, tuy tâm hồn đă đổi thay, nhưng nàng vẫn c̣n giữ chiếc áo Tiên. Giờ đây nàng lộ nguyên h́nh. Nàng là giặc.
Mỵ Châu là Tiên, là biểu tượng cho tinh thần, cho ư thức văn hóa trong việc Giữ Nước. Nay đă mất Tiên.
Mất theo nàng, theo An Dương Vương, là cả Nước, cả Dân. Chua chát, đắng cay!
* *
3. 4 Diễn Tiến Mất Hồn Nước
Thế là An Dương Vương và Mỵ Châu đă làm cho Nước mất Nhà tan.
Đó cũng chỉ v́ “Rồng” An Dương Vương đă từ bỏ truyền thống, xa ĺa hiện trạng dân nước, để rồi đi cậy nhờ và lệ thuộc người ngoài.
Từ đó nàng “Tiên” Mỵ Châu lại chấp nhận việc kết thân với giặc, rồi làm theo ư giặc, quên ḿnh v́ giặc, và chết cho giặc!
An Dương Vương và Mỵ Châu đă để Hồn Nước dần dần tiêu hao với những quyến rũ hào nhoáng của những lợi ích hời hợt.
Khi nền tảng dân tộc bị phai lạt nơi bất cứ dạng thức nào của đời sống dân nước, th́ tại phần đó, nước đă bắt đầu mất.
* Dưới khía cạnh Con Người, đây cũng là diễn tiến Con Người đánh mất chính tâm hồn ḿnh. Điều đáng sợ là diễn tiến rất tuần tự, nên nhiều khi ḿnh đă đánh mất chính ḿnh, đă trở thành giặc, đă làm hại ḿnh, mà ḿnh cũng không ngờ.
Hồn Mất Trước, Nước Mất Sau.
* * * *
4. Bài Học Dân Nước
4. 1 Bỏ Dân
a. Việc bỏ mất Hồn Nước luôn luôn kéo theo việc bỏ dân, làm mất dân. Khi giới quyền chức đă tin tưởng và ỷ lại vào người ngoài, th́ người dân trong nước bị rẻ rúng khinh khi và bị coi là phương tiện để phục vụ quyền lợi riêng của nhóm người thống trị.
Sự kiện An Dương Vương quyết định xây thành đă tố cáo việc ông bỏ quên trách nhiệm chăm sóc đời sống cho toàn thể mọi người dân trong nước.
Trước đây, mọi người đều là con dân, đều được ông chăm sóc. Nhưng từ nay, với quyết định xây thành của ông, những kẻ ở ngoài thành sẽ bị phó mặc cho bất trắc.
*
b. Thế mà thành lại hư sập nhiều lần. Gánh nặng lại đổ xuống trên người dân. Dân phải chịu sưu cao thuế nặng, mưa nắng dăi dầu, gia đ́nh ly tán, vợ con nheo nhóc.
Đă hết lo cho dân, An Dương Vương lại hành hạ dân, bắt dân phục vụ ông.
*
c. Khi xây xong thành, An Dương Vương đă thực sự sống xa cách dân.
Trước kia, trong suốt mấy ngàn năm, các vua dân Việt đă không hề xây thành, mà luôn sống với dân, chia sẻ cuộc sống người dân. Nhưng nay, An Dương Vương rút ḿnh vô trong vỏ ốc.
Đối với ông, dân bây giờ chỉ c̣n có nghĩa là nhóm người đang lo phục dịch ông ở trong thành. (*5)
*
d. Thêm vào ṿng thành vỏ ốc, chiếc nỏ thần của Kim Qui càng làm cho An Dương Vương xa dân hơn.
Đă hết gần dân, giờ đây ông lại không cần dân. Một phát nỏ thần có thể giết hàng vạn quân giặc, nên sự góp sức của dân không cần thiết nữa. Trong việc giữ nước, người dân đă trở thành thừa thăi, thành người ngoại cuộc.
Chẳng những vậy, từ nay, ngoài đám phục dịch trong thành, toàn thể dân trong nước đều ở trong tầm sát hại của nỏ thần. An Dương Vương coi dân như giặc (*6).
* *
4. 2 Thành Giặc
a. Từ chỗ đối xử với dân như giặc, An Dương Vương đem Mỵ Châu gả cho Trọng Thủy, hoàng tử của giặc.
Với việc thông gia giữa hai ḍng vua, An Dương Vương đă tạo ra giai cấp đặc quyền. Ông muốn từ nay gia đ́nh ông phải là ḍng họ đặc biệt, không c̣n liên hệ với dân. Ông hoàn toàn tách rời dân, tách rời truyền thống văn hóa đặt nền tảng trên bài học: nàng công chúa lấy người không khố.
*
b. Thế là An Dương Vương đă rước giặc vào cung. Ông hủy bỏ công dụng của Loa Thành, và bỏ quên những người ở trong thành.
Giờ đây ông chỉ c̣n biết có gia đ́nh ông. Quanh ông chỉ c̣n có hai người: một là Mỵ Châu, hai là tên giặc nằm vùng Trọng Thủy.
*
c. An Dương Vương chỉ c̣n Mỵ Châu là con, là dân, người dân cuối cùng. V́ vậy, ông giao cho Mỵ Châu trách nhiệm ǵn giữ chiếc nỏ thần, báu vật bạo lực thần thánh của ông. Ông tập trung quyền lực vào gia đ́nh, vào những người thân cận ông.
Với việc tập trung quyền lực, từ nay người dân trở thành miếng mồi ngon cho tham vọng không đáy của nhóm quyền chức. Ai làm chủ nỏ thần, ai nắm giữ quyền lực, người đó có toàn quyền trên sinh mạng và tài sản của dân.
*
d. V́ vậy, Trọng Thủy đă dùng thủ đoạn đoạt cái lăy nỏ khỏi tay Mỵ Châu một cách dễ dàng. Sau đó nhóm đặc quyền tranh nhau xương máu của dân. Người dân trở thành mối lợi, món hàng, của bọn người chỉ c̣n biết tư lợi và quyền lực.
Kết qủa của tranh chấp quyền lực là tai họa giáng xuống trên người dân. Ách thống trị theo chân Trọng Thủy và Triệu Đà trùm lên toàn thể dân nước.
* *
4. 3 Dân và Việc Giữ Nước
Bài Học Dân Nước thực thấm thía. Bỏ trách nhiệm chăm sóc dân, hành hạ dân, xa lánh dân, coi dân như thù địch, để chỉ dựa vào thành lũy, vào nỏ thần, vào nhóm đặc quyền, vào bạo lực, th́ rồi, việc giữ nước chỉ c̣n là những thủ đoạn tranh quyền đoạt lợi. Người dân trở thành mục tiêu cho bóc lột, cho bạo hành. Giữ nước trở thành cướp nước.
Giữ Nước Là Việc Của Toàn Dân. Dân không giữ nước th́ giặc giữ! Không cho dân giữ nước là cướp nước.
* * * *
5. BÀI HỌC SỨC NƯỚC
5. 1 Sức Do Dân
Dưới khía cạnh Sức Nước, khi An Dương Vương từ bỏ truyền thống và xa ĺa cuộc sống người dân, để quyết định xây thành, chính là lúc ông làm băng họai sức mạnh xă hội của nước.
Việc xây thành làm hao tổn của cải, tài năng và nhân lực của nước. Vậy mà thành c̣n bị hư sập nhiều lần, nên sức mạnh kinh tế lại càng suy sụp thêm.
Khi sống trong thành, xa dân, không c̣n biết đến đời sống người dân, An Dương Vương bỏ mất sức mạnh chính trị.
Khi được nỏ thần, khi không c̣n vận dụng sức dân, khi làm cho dân thấy ḿnh trở thành người ngoại cuộc thừa thăi, chính là lúc An Dương Vương đánh mất sức mạnh tinh thần trong công cuộc Giữ Nước.
* *
5. 2 Sức Chiến Đấu
a. Làm mất dân, An Dương Vương đă bỏ mất những sức mạnh nền tảng của việc Giữ Nước. Nhưng ông cũng chưa thấy nguy cơ v́ ông đặt trọn niềm tin vào Loa Thành và Nỏ Thần. Loa Thành bảo đảm thế thủ an toàn, và Nỏ Thần đang làm mọi người khiếp sợ.
Loa Thành và Nỏ Thần là biểu trưng của sức mạnh quân sự, khả năng giữ nước cuối cùng của An Dương Vương.
*
b. Nhưng rồi ông thua kém trên mặt trận ngoại giao, khi bị rơi vào thủ đoạn của giặc. Sau khi hao tốn biết bao công qũy để xây thành ngăn giặc, ông lại long trọng rước giặc vào tận thâm cung. Chính ông đă loại bỏ công dụng của sức mạnh pḥng thủ của ông.
Thành đă bị phá lũng, An Dương Vương chỉ c̣n chiếc Nỏ Thần. Nhưng ông lại bị thua ở mặt trận gián điệp. Trọng Thủy biến đă biến Mỵ Châu thành nội tuyến, và nàng đă tiết lộ bí mật quốc pḥng.
Khi để Trọng Thủy đánh tráo lăy nỏ, trao vũ khí giữ nước cuối cùng vào tay giặc, An Dương Vương đă để mất luôn sức mạnh kỹ thuật.
Không Sức Mạnh Lấy Ǵ Giữ Nước?
* * * *
6. Bài Học Đất Nước
Công cuộc giữ nước bộc lộ rơ ràng nhất trong việc bảo vệ từng tấc đất của quê hương. Thế mà An Dương Vương dám bỏ mất dần.
Trước kia, chưa xây Loa thành, An Dương Vương đă để tâm chăm sóc toàn thể đất nước.
Nhưng khi xây thành, ông chỉ c̣n giữ lại mảnh đất trong thành. Đối với ông, đất nước ta không c̣n trải rộng ra khắp bờ cơi, mà thu hẹp lại trong hào lũy. Ông chểnh mảng trong việc giữ nước, để chỉ chú tâm tới cái làng mà ông đang ở.
Thế nhưng, khi lo cưới chồng cho Mỵ Châu, rước tên giặc Trọng Thủy vào nội cung, An Dương Vương lại v́ t́nh nhà mà hủy bỏ sự pḥng thủ của thành. Ông chỉ c̣n thấy có cái nhà của ông.
Và rồi, khi để Mỵ Châu trao nỏ thần vào tay giặc, ông đă không giữ nổi mấy chục thước đất cuối cùng. An Dương Vương đă thực sự không c̣n đất sống.
* * * *
7. Ảo Tưởng Giữ Nước
Thế là hết, An Dương Vương đă để mất Hồn Nước, để mất Dân Nước, để mất Sức Nước, và cũng đă mất Đất Nước.
Tuy nhiên, ông vẫn không ngờ, ông vẫn tưởng ông đang giữ nước.
Thực vậy, dầu Hồn Nước có mất, cũng chỉ có nghĩa là ông đă thực hiện quan niệm của riêng ông; dầu người Dân đă bị loại ra khỏi việc giữ nước, nhưng nhờ đó ông lại càng dễ thống trị hơn; dầu Trọng Thủy là con giặc, nhưng đă trở thành con ông; dầu Mỵ Châu nằm trong tay giặc, nhưng nàng vẫn c̣n mặc áo lông ngỗng; dầu giặc có tung hoành ở thâm cung, nhưng ṿng thành bên ngoài vẫn kiên cố vô song; và dầu lẫy thần đă bị tráo, chiếc nỏ vẫn c̣n nguyên h́nh dạng cũ.
Tất cả đều cho An Dương Vương ảo tưởng là đất nước vẫn an toàn, là ông đang hoàn thành nhiệm vụ giữ nước một cách tuyệt hảo.
Nhưng qủa thực, sở dĩ đất nước c̣n, và ông vẫn c̣n như đang giữ nước, không phải là v́ ông pḥng thủ hữu hiệu, mà v́ giặc chưa xua quân tiến chiếm.
V́ vậy, khi Triệu Đà xua quân tới, An Dương Vương chỉ c̣n cách lên ngựa chạy trốn. Ông không c̣n ǵ. Tất cả đă bị giặc chiếm. Cả đứa con ngồi sau lưng cũng đă thuộc về giặc, cũng đă là giặc.
Ôi dân tộc đồng bào! Ôi giang sơn gấm vóc!
* * * *
8. Vấn Đề Giữ Nước
8. 1 Giặc Nước
Tuy Kinh liệt kê nhiều nhân vật góp phần làm mất nước, nhưng mọi nhân vật đều có thể quy về một ḿnh An Dương Vương.
Chính An Dương Vương đă ĺa bỏ truyền thống dân tộc mà quyết định xây thành. Chính ông đă nhờ thần Kim Quy, đă xin nỏ thần. Chính ông đă hành hạ dân, đă từ khước dân. Ông cũng đă đón rước Trọng Thủy, đă đặt nỏ thần trong tay Trọng Thủy. Chính ông đă cho Triệu Đà mọi điều kiện để đặt ách nô lệ lên toàn dân.
Trong diễn tiến đó, chúng ta có thể thấy tất cả đều chỉ là những giai đoạn của con người An Dương Vương.
Từ chỗ là một người chăm lo cho cuộc sống an thịnh của dân nước, như Tiết Liêu, ông đă để tham vọng cho ông ảo tưởng ông là thần thánh. Qua việc ông cấu kết với thần Kim Quy, qua việc xây xong thành và làm chủ chiếc nỏ thần, ông muốn toàn dân suy phục ông như một vị thần. Ông đă bỏ nguyên tắc nền tảng đầu tiên của người làm việc nước, là phải xác tín Thân Phận Là Người của ḿnh (*7).
Từ chỗ coi ḿnh là thần thánh, An Dương Vương khinh rẻ người dân, không c̣n nhớ tới điều kiện thứ hai của người làm việc nước, là ḿnh đang Mang Nặng Trách Nhiệm. Ông dùng thành lũy để bảo vệ ông, và dùng nỏ thần để uy hiếp mọi người. Ông quyết tâm hưởng thụ, và bắt toàn dân phục vụ ông.
Thay v́ cùng với toàn dân chia sẻ gánh nặng giữ nước, An Dương Vương chỉ c̣n chuyên dùng bạo lực của thành Ốc và nỏ thần.
Từ đó, ông tạo ra giai cấp đặc quyền. Ông chọn một hoàng tử để làm pḥ mă, dầu đó là con của giặc. Ông c̣n tập trung quyền lực vào gia đ́nh của riêng ông. Ông giao trọn việc giữ nước, giờ đây chỉ c̣n cái nỏ thần, vào tay đứa con gái ngờ nghệch của ông.
Từ đây, đối với ông, dân chỉ là một lũ nô lệ phải luôn luôn cúi đầu khuất phục.
Thế là, đối với nước, đối với dân, ông không c̣n là người giữ nước, mà đă trở thành tên giặc cướp nước. Ông trở thành Triệu Đà.
*
b. Như vậy, làm vua, làm việc nước, nhiều khi c̣n có nghĩa là giặc nước.
* Người giữ nước tuyệt hảo là người cùng với toàn dân chia sẻ cuộc sống. Mọi người đều chung phần trách nhiệm giữ nước. Tuy ở tầm độ khác nhau, nhưng mọi chức vụ đều là trách nhiệm.
Nếp sống này đă được thể hiện trong nhiều giai đoạn của lịch sử Việt, và được kết tinh trong Kinh Tiết Liêu, Chữ Đồng, An Tiêm, và Vọng Phu.
* Là thời suy thoái khi An Dương Vương xây thành và đặt dân dưới sự ḱm tỏa của nỏ thần. Đó là chế độ, dầu dưới bất cứ danh xưng cao quư nào, mà xây dựng trên vơ lực, trên lư của kẻ mạnh, trên mạnh được yếu thua.
* Khi An Dương Vương tiếp nhận hoàng tử ngoại bang và trao nỏ thần cho con gái, chính là lúc thành lập chế độ gồm giai cấp đặc quyền, nắm giữ mọi quyền hành, và hưởng thụ trên xương máu người dân (*8).
* An Dương Vương thành Triệu Đà là h́nh thức lộ liễu nhất của thống trị, chuyên chế, đế quốc, thực dân, đảng trị, thủ đoạn, mị dân.
* *
8. 2 Yếu Tố Giữ Nước
a. Muốn giữ Nước th́ phải giữ Hồn Nước, giữ Dân Nước, giữ Sức Nước, và giữ Đất Nước.
Hồn nước được giữ bằng việc sống thực và phát huy truyền thống cao quư của dân tộc. Dân Nước có được là nhờ chăm sóc đời sống người dân và để dân chia sẽ trách nhiệm giữ nước. Sức Nước mạnh được là nhờ các cơ cấu xă hội, chính trị, kinh tế, và tổ chức quân sự thích đáng và hữu hiệu. Đất nước chỉ c̣n, khi thực sự được các yếu tố trên bảo vệ một cách trọn vẹn.
Có được cả bốn, giữ được cả bốn, th́ quê hương thanh b́nh thịnh vượng, đồng bào hạnh phúc yên vui.
*
b. Nếu mất Đất, v́ quân xâm lăng tràn ngập, nhưng vẫn c̣n Hồn, c̣n Dân, c̣n Sức, th́ ngày quật khởi ở trong tầm tay (*9a).
Nếu mất Đất, mất Sức, mà c̣n Dân, c̣n Hồn, th́ lo ǵ không có ngày vùng dậy (*9b).
Nếu mất Đất, Sức tan và Dân bị phân tán, mà c̣n Hồn Nước, th́ tuy cần thời gian, vẫn c̣n cơ hội có lại Dân, có lại Sức và có lại Đất (*9c).
Nếu mất Hồn Nước, dầu c̣n Đất, c̣n Sức, c̣n Dân, th́ cũng đă khô cạn sức sống, cái xác không hồn, ma giặc sắp ám (*9d).
Nếu mất Hồn, mất Dân, th́ Sức và Đất trở thành những khí cụ đầy bất trắc, cực kỳ nguy hiểm (*9e).
Nếu mất Hồn, mất Da6n, mất cả Sức, th́ giang sơn gấm vóc của Tổ Tiên đang là miếng mồi ngon nằm bên miệng giặc.
Và nếu giặc đă ra tay, như thảm trạng quê hương đồng bào ta hiện nay, th́ Tổ minh hiển đă dạy cách có lại, cách Cứu Nước, ở KINH PHÙ ĐỔNG (*10).
* * * *
9. Bài Học Nước Và Nhà
9. 1 Đền Tội Hại Nước
Bi kịch Loa Thành thất thủ đưa tới việc Mỵ Châu bị chết dưới lữa gươm của An Dương Vương.
Mỵ Châu đă đền tội v́ trách nhiệm trong việc làm mất nước. Nhưng sự thể ra nông nỗi đó cũng chỉ v́ nàng quá yêu thương và tin tưởng chồng.
Tổ Tiên ta thưởng phạt phân minh. Có tội làm hại nước th́ phải chết. Nhưng nàng đă trọn t́nh nhà, th́ thưởng phần t́nh nhà.
T́nh nhà của Mỵ Châu đă được Tổ Tiên phong thưởng bằng cách cho máu nàng chảy xuống biển và được giống trai nuốt vào mà hóa thành ngọc.
Cách phong thưởng này chẳng những không kỳ lạ, mà lại nằm trong hệ thống giá trị của văn hóa Việt. Những kẻ trọn t́nh nhà như người em trong Kinh Trầu Cau, người vợ trong Kinh Vọng Phu, trái tim của Trương Chi, và ở đây, máu của Mỵ Châu, tất cả đều hóa thành đá ngọc, nghĩa là đă trở thành trường tồn với thời gian, được qúy chuộng, và được làm nền tảng xây dựng lâu dài.
* *
9. 3 Đền Tội Hại Nhà
Về phần Trọng Thủy, dầu thành công trong mưu đồ xâm chiếm, nhưng chàng nhớ vợ và nhảy xuống giếng mà chết.
Chàng đă v́ ư đồ xâm lăng, mà phụ nghĩa vợ chồng, th́ chàng cũng phải chết. V́ danh lợi mà không trọn T́nh Nhà, th́ cuộc đời cũng không đáng sống, th́ không có quyền sống.
* *
9. 4 Vừa Nhà Vừa Nước
V́ t́nh nhà mà hại nước th́ phải chết. V́ quyền lực mà hại nhà, th́ cũng phải chết.
Đây là tuyệt đỉnh bài học làm người của văn hóa Việt. Bài học này đi ngược hẳn chủ trương của nhiều văn hóa khác.
Với cái chết của Mỵ Châu, Tổ Tiên ta đă xử tử h́nh các chủ thuyết cá nhân vị kỷ. Với việc Trọng Thủy nhảy xuống giếng, các chủ thuyết tập thể bá quyền cũng bị nhận chết theo.
Con người chỉ có thể sống xứng đáng, trọn vẹn và hạnh phúc khi thể hiện đầy đủ các đặc tính bẩm sinh vừa cá thể vừa xă hội của ḿnh.
Có Nhà Mà Cũng Có Nước, Có Nước Mà Cũng Có Nhà. Tiên Rồng Song Hiệp hoàn chỉnh.
* * * *
10. 1 T́nh Nghĩa
Mỵ Châu và Trọng Thủy đều đă chết. Nhưng thực cảm động khi những viên ngọc do máu Mỵ Châu lại trở thành sáng đẹp hơn, nhờ rửa trong nước giếng chôn xác chồng.
Nàng đă yêu thương và tin tưởng chồng đến nỗi giao phó cả nước non, đă đưa nỏ thần cho chàng xem. Nàng đă yêu chàng trong tuyệt vọng đến liều lĩnh, khi nhổ lông ngỗng làm dấu hiệu trên đường chạy trốn chàng. Và giờ đây, cả những giọt máu của nàng cũng tươi sáng lên khi được tắm trong nước tẩm xác chàng.
Ôi t́nh nghĩa nàng Tiên Việt! Nàng đă sống trọn T́nh Yêu của Văn Hóa Việt. Nàng đă thể hiện những nguyên tắc của Thân Thương Tột Cùng: Quyết chẳng ĺa nhau, Sẵn sàng chết cho nhau, và Măi măi có nhau.
Chỉ tiếc là nàng đă không ứng dụng nguyên tắc tắc đầu tiên, là hai người phải Giống nhau như đúc, tức là phải t́m hiểu nhau, phải gặp nhau trọn vẹn, nên nàng đă không nhận ra Trọng Thủy, và bị giặc lừa gạt.
* *
10. 2 Hệ Thống Làng Thôn
Với truyền thống ngàn năm của nếp sống Việt, với kinh nghiệm đau đớn của Loa Thành, Tổ Tiên ta quyết không xây thành cho vua chúa, không tập trung bạo lực.
Sống đúng nguyên tắc Giữ nước là việc của toàn dân, các Ngài lập hệ thống pḥng thủ nơi toàn dân. Làng thôn của dân trở thành một mạng lưới thành lũy và lực lượng trải rộng khắp đất nước (*11).
Với thể chế Làng Nước, làng Việt chính là trung tâm sinh hoạt tự lập tự chủ của người dân, mà cũng là sức mạnh của dân tộc.
Trước mọi cuộc xâm lăng thuộc mọi lănh vực, trước mọi mưu đồ làm tổn hại cuộc sống hạnh phúc của người dân, hệ thống làng thôn đă luôn luôn là cơ cấu chính yếu giúp dân ta bảo toàn lực lượng, phục hồi sức mạnh, và vùng lên phá giặc (*12).
Mỗi làng là một chiến lũy, toàn dân là chiến sĩ.
* * * *
Ghi Chú:
(*1) Về Triệu Đà, An Dương Vương, và Loa Thành
a. Triệu Đà – Sử Trung Hoa, mà sau này sử nước ta chép lại, đă nói nhiều về Triệu Đà.
Một số người đă cố gắng coi Triệu Đà, sau khi chiếm nước ta, như là một ân nhân của dân tộc ta.
Một số khác lại cho rằng từ khi Triệu Đà xâm lấn th́ ta bị đồng hóa thành người Hoa. Họ làm như thể là hễ một người ngọai tộc làm vua là ṭan thể dân bị trị đương nhiên thay đổi dân tộc tính của vua đó!
Với Kinh Mỵ Châu, Tổ Tiên luôn coi Triệu Đà là tên giặc cướp nước.
b. Tiểu sử An Dương Vương được bàn căi nhiều, đặc biệt với việc sử Trung Hoa gọi ông là Thục Phán. Dầu sao ông cũng thuộc ḍng Tộc Việt.
Lại nữa, theo Thần phả ở đền thờ tại Cổ Loa, th́ An Dương Vương là Hùng gia chi phái, tức thuộc ḍng Họ Hùng.
Tuy nhiên, v́ không làm ích cho dân, mà c̣n làm mất nước, nên An Dương Vương, cũng như nhiều vị vua trước đó, không được kể vào số Mười Tám Vị Quốc Tổ được ṭan dân thờ kính.
Đọc bài Mười Tám Quốc Tổ, đọan 33.
c. Về Di Tích Loa Thành. Di tích tại Cổ Loa xây h́nh trôn ốc – Loa nghĩa là con ốc – chu vi gần 8 cây số. Chân thành dày từ 20 đến 30 thước, có thể cao đến 4, 5 thước, mặt thành rộng 12 thước, ngoài thành có hào sâu và ăn thông với các sông.
Trong thành nay c̣n có đền thờ An Dương Vương, mộ Mỵ Châu, giếng Ngọc (nơi Trọng Thủy trầm ḿnh, lấy nước rửa ngọc trai), g̣ diễn binh…
(*2) Về Thần Kim Quy. Theo chuyện kể th́ Thần Kim Quy, Rùa Vàng, tự xưng là Thanh Giang Sứ Giả, từ Biển Đông tới.
Ông là Rùa chớ không phải là Rồng. Ông là sứ giả, không phải tự ḿnh có uy quyền. Ông là sứ của Sông Xanh (Thanh Giang), là vàng và xanh chớ không phải đỏ. Tất cả những điểm ấy đều không mang dấu tích của Tộc Việt.
Ng̣ai ra, ông c̣n giúp An Dương Vương đi xa truyền thống văn hóa Việt. H́nh như ông cũng không thực sự giúp An Dương Vương giữ nước. Ông chờ cho tới khi An Dương Vương mất nước xong, mới hiện ra chỉ nội tuyến.
Về Tổ Tộc Việt, đọc Kinh Phù Đổng, đoạn 3.3
(*3) Hiện biểu của Tiên là phụng, ngỗng, chim.
(*4) Vấn đề Hồn Nước
a. Hồn Nước và Kỹ Thuật. Không nên lẫn lộn Hồn Nước, tinh thần bên trong, với những tiến bộ văn minh kỹ thuật.
Phân biệt những tiến bộ truyền thông, như phát thanh, truyền h́nh, ghi âm, ghi ảnh, điện thọai, điện tóan, sách báo, kịch nghệ, phim ảnh, phương pháp gíao dục, huấn luyện… với nội dung những phương tiện đó truyền đạt.
b. Hồn Nước và Hồn Dân Tộc
Hồn Nước là tinh thần dân tộc, là truyền thống dân tộc, hướng dẫn mọi người trong nước hành động hữu hiệu cho lợi ích chung của ṭan dân.
Hồn Dân Tộc là Hồn Thiêng của Ông Bà Tổ Tiên. Các Ngài đă qua đi, nhưng Hồn Thiêng các Ngài vẫn vĩnh tồn ở Thế Giới Bên Kia và có thể phù trợ cho con cháu.
c. Hồn Nước và Đạo Nước
Hồn Nước bao gồm ṭan thể lịch sử, tinh hoa văn hoá… tạo nên tinh thần sống của một Dân Tộc.
Đạo Nước là tổng hợp những tiêu chuẩn sống được đại đa số dân chúng noi theo trong một giai đọan lịch sử. (Đạo Nước không có nghĩa là tôn giáo chính thức của một nước, quốc giáo).
Thường thường, Hồn Nước được thể hiện thành Đạo Nước. Nhưng ở thời suy thóai, Đạo Nước lại không ḥan ṭan ứng hợp với Hồn Nước.
(*5) Cả ngàn năm sau An Dương Vương, sứ giả Trung Hoa đă ngạc nhiên v́ vua dân Việt, Đức Lê Đại Hành, đi chân không ra bờ sông ngồi câu cá. Nhiều người bu quanh và vỗ tay reo ḥ khi cá cắn câu.
(*6) Một chế độ, dầu quân chủ hay dân chủ, trở thành băng họai khi không c̣n phục vụ ṭan dân, mà là phương tiện của nhóm đặc quyền.
(*7) Đọc Kinh Tiết Liêu, đọan 3.1
(*8) Dưới mọi h́nh thức và mọi thời. Thành tŕ thời nay có thể là những thể chế, những điều luật, những cơ cấu của một xă hội do nhóm đặc quyền tạo ra và bảo vệ.
Giai cấp qúy tộc chính là nhóm hưởng đặc quyền, ở mọi thời đại, trên mọi phương diện.
(*9) : *9a. Trường hợp nước ta thời quân Nguyên xâm lấn. Thời Đức Hưng Đạo Vương, Hội Nghị Diên Hồng… dầu quân Mông Cổ đang chiến thắng ở khắp nơi… trong cả ba lần, năm 1257, 1284 và 1288 dl, không lần nào có thể ở nước ta quá sáu tháng.
*9b. Thời giặc Minh chủ trương đồng hóa dân ta, từ 1407 dl. Đức Lê Thái Tổ, với Quốc Sư Nguyễn Trăi và Tướng Quốc Trần Nguyên Hăn, đă hướng dẫn toàn dân đuổi sạch quân giặc năm 1427 dl.
*9c. Trường hợp dân Do Thái. Dầu bị phân tán khắp thế giới, Do Thái vẫn giữ được niềm tin và phong tục qua loại làng biệt lập và cuốn Thánh Kinh. Sau gần 1900 năm mất nước, họ có lại tổ chức Sion… Năm 1948 họ khởi sự trở về Đất Tổ.
Trường hợp Việt Nam hiện nay không giống Do Thái, v́ chúng ta có bao chục triệu đồng bào tại quê nhà… Do Thái mất gần hai ngàn năm mới được như ngày nay… Vậy th́, có nên bắt chước họ, chờ thêm hai ngàn năm sau?
*9d. Có thể nói một phần v́ t́nh trạng dân ta vào đầu thế kỷ hai mươi… Để rồi bị đầu độc bởi các phong trào thân nếp sống phương Tây… như sự đả phá nông nổi của các nhóm văn học, sự ứng dụng hời hợt các chủ nghĩa, sự khuôn rập xuẩn động của Cộng Sản, sự ồ ạt phách lối của văn minh vật chất Tư Bản… Để khiến cho bao người bị vong thân và tha hóa, lạc gốc xa nguồn! Đọc bài Mă Viện: Đồng Trụ Chiết, Giao Chỉ Diệt.
*9e. Trường hợp Cộng Sản Việt Nam. Hồ Chí Minh và tập đ̣an Việt Cộng chỉ là bọn nô lệ cho chủ nghĩa Cộng Sản. Hồn của Việt Cộng là con Ác Thú Đấu Tranh, mạnh được yếu thua… Đất và Sức lọt vào trong tay chúng, càng độc hại thêm cho Dân Nước, cho Hồn Nước. Đọc bài Thử T́m Giải Pháp Cứu Nước.
* Việt Nam Cộng Ḥa, Đệ Nhị đă không thực sự lo cho dân, nhưng lại là nơi ẩn náu cuối cùng của dân tộc chúng ta trước hiểm họa của Ác Thú Cộng Sản… Chỉ tiếc thay, thời đó đă chưa có Kinh Việt, chưa có người và thể chế đủ tiêu chuẩn để vận dụng sức mạnh của cả một dân tộc trong tiến tŕnh Phục Hưng Quê Hương và Đồng Bào!
(*10) Về Sơ Đồ Nội Dung Kinh Mỵ Châu, đọc bài Nội Dung Cuộc Sống Con Người, các sơ đồ 14D và 14G.
(*11) Thành và Làng
Để thấy rơ hậu quả khủng khiếp của thành tŕ trên người dân, nên t́m hiểu các lâu đài ở Châu Âu… Tất cả đều bắt nguồn đưa tới đàn áp, bóc lột, nô lệ… Kẻ có gươm, có súng, có lính, có quyền… lại có thêm thành lũy che chở… Người dân tay không, đơn độc, và không cả nơi trú ẩn.
Các đời sau, vua chúa Việt cũng xây thành, nhưng không phải là nơi tập trung bạo lực. Thủ đô và thủ phủ chỉ là những cái làng lớn, với một số cơ sở thích ứng với nhu cầu hành chính, ngọai giao, nghi lễ… Khi nguy cấp, vua sẵn sàng bỏ thủ đô chạy qua làng khác, mà vẫn tiếp tục chỉ đạo… Mất thủ đô không có nghĩa là mất nước… Khác với phương Tây và Việt Nam Cộng Ḥa năm 1975 vừa qua.
* * * *
Huấn Ca:
Kinh Giữ Nước
Dương Vương muốn dựng Cổ Loa
Ước mong chống giặc Triệu Đà xâm lăng
Nhưng thành luôn mất thăng bằng
Xây xong lại xập… bởi rằng yêu tinh
Vương liền cầu khẩn thần linh
Kim Quy – đế quốc nể t́nh giúp cho
Từ đây – thành ốc khỏi lo
Thần c̣n tặng móng – làm c̣ cung tên
Bắn ra một phát – sướng rên
Giết ngay vạn giặc lền khên ngoài thành
Triệu Đà – mưu chước khôn ranh
Cầu ḥa – xin tặng thêm cành thiên hương
Mỵ Châu Trọng Thủy – uyên ương
Thương chồng – nàng lộ hiến chương quốc pḥng
Giúp chàng nội gián nằm trong
Tráo ngay lăy nỏ – việc xong là về
Cùng cha – qua đánh nhạc thê
Cổ Loa thất thủ ê chề đắng cay
Vương cùng con gái cao bay
Ôm lưng tuấn mă mơ ngày an thân
Dặm trường đào thoát tảo tần
Đối phương lại cứ rần rần rượt theo
Bởi nàng lông ngỗng rắc gieo
Vâng lời Trọng Thủy – mà đeo giặc ngoài
“Triệu Đà, Trọng Thủy” – cả hai
Biểu trưng “đế quốc”: chuỗi dài xâm lăng
Tiên Rồng – v́ mất quân bằng
Bởi không “song hiệp” – nên tăng đối thù
Ta nh́n lịch sử ngh́n thu
Là lần duy nhất trùng tu vương thành
Tuyên truyền chống giặc đă đành
Nhưng v́ thành ốc chỉ dành cho vua
Nguyên nhân công cuộc thắng thua
Tốn hao công quỹ – theo hùa ngọai bang
Chẳng màng cải tiến Nước – Làng
Đă không chăm sóc, lại càng hại dân
Rồi thành sập đổ nhiều lần
Sưu cao thuế nặng – muôn phần tốn hao
Bắt dân đắp lũy vét hào
Ruộng nương hoang phế – tăng cao đói nghèo
Tạo ra xă hội cheo leo
Ḷng dân than oán – rắc gieo tương tàn
Người người cơ cực lầm than
Tham quan nhũng đọan lan tràn khắp nơi
Nước – Dân thành chuyện xa vời
C̣n chi lư tưởng với lời nói suông
Tướng binh dù có bổng lương
Nhưng “hồn chiến sĩ” đă ruồng bỏ đi
Dân th́ “hồn giặc” ám ghi
Mong thay chế độ – thị phi bất cần
An Dương – lại sống xa dân
Chui vào thành ốc vinh thân lợi nhà
Kết bè – nhận giặc xui gia
Môn đăng hộ đối – để mà khinh dân
Hôn nhân đ́nh đám rần rần
Xe bao trăm cỗ tỏ phần xa hoa
Tiệc tùng quà cáp lụa là
Vui trên xương máu nước nhà mà thôi
Nỏ thần thành ốc – đủ rồi
Tăng tàu phi pháo – yên ngôi trị v́
Mặc dân, ai khổ can chi
Chỉ tin vũ khí – cậy v́ đồng minh
Giặc kia mà ngỡ thâm t́nh
Rước tên nội gían rập ŕnh săn tin
C̣n đâu quân sự giữ ǵn
C̣n chi bảo mật – thiếu nh́n thanh tra
Việc công – vua đă lơ là
Quên Kinh Dựng Nước để mà An Dân
Xa ĺa truyền thống tiên nhân
Chạy theo Duy Lợi – vong thân cầu ngoài
Mộng mơ khoa bảng làm “tài”
Cam tâm nô lệ – Chẳng ḥai “nước non”
Nuôi thân trả nợ chưa ṃn
Sơm khuya hia măo bon chen sở làm
Lâu lâu có buổi họp quan
Vua ngồi vua phán.. lam nham ích ǵ
Con dân – xa lánh khinh khi
Nên vua chờ phút sinh th́ “mất ngôi”
Việc vua việc nước – đơn côi
Có người con gái – thành đôi nghịch thù
Gả nàng cho giặc – đền bù
Biến con thành giặc cho dù giữ ngai
Hỡi ơi! Tham lợi háo tài
Bán buôn máu huyết h́nh hài Tổ Tiên
Nhận làm phương tiện – ngang nhiên
Giúp cho giặc chiếm trọn miền quê hương
“Ngây thơ chính trị” – sai đường
Lộ điều tối mật – v́ thương “ông chồng”…
Thế rồi vào buổi chiều đông
Người chồng gián điệp – đă “giông” về nhà
Cùng cha – qua đánh nhạc gia
Phép công là trọng – lọ là niềm riêng
Đất bằng dội tiếng binh khiên
Dân cư tan tác – xóm giềng điêu linh
Vua nay mới rơ t́nh h́nh
Nỏ thần hết nghiệm – tướng binh đầu hàng
Phi cơ, thiết giáp… bẽ bàng
Lọt về tay giặc… phũ phàng hận căm
“Ba mươi tháng bốn bảy lăm”
Mặc dân sống chết – vua nhằm thoát thân
Ẵm con ôm bạc – nhanh chân
T́m đường tỵ nạn – cầu ân xứ người
Nhưng nào có được vui cười
Mỵ Châu – địch vận là người ngu ngơ
Lệnh trên từ “cục e – rờ!”
Nhổ theo lông ngỗng – phất phơ chỉ đường
Chạy qua bao ải dặm trường
Địch quân vẫn cứ tinh tường rượt theo
An Dương lâm cảnh hiểm nghèo
Hỏi ra cớ sự: Giặc đèo sau lưng
Đúng là nàng Mỵ – con cưng
“Lông chim” nhổ hết… biểu trưng “Tiên” tàn!
Nhát gươm oan nghiệt – chém tan
Máu nàng – vung văi lan tràn biển khơi
Đau thương khổ lụy chưa vơi
Chết theo vua chúa – chết đời Nước Dân!
Triệu Đà – “đảng trị” xiết dân
Chủ trương vô sản – phi nhân phơi bày
Ṭan dân cùng cực đọa đày
Người người căm phẫn – chờ ngày vùng lên
Giúp Dân Cứu Nước – xứng tên
Học Kinh Phù Đổng là nền dựng xây!
* *
Những bài hàm chứa nơi đây
Trước là Hồn Nước – từ rầy chớ quên
Tổ là biểu tượng nói lên
Tinh hoa Văn Hóa – dựng nên nước nhà
Tinh thần kết hiệp hài ḥa
Ṭan Dân Giữ Nước – chính là việc công
An Dương – phản bội Tổ Tông
Không cầu bầu Tổ, cậy trông người ng̣ai
Kim Quy – biểu tượng “thần tài”
Cho nên công cuộc đă sai từ đầu
“Hồn ĺa trước – Nước mất sau!”
Nỗi đau mất nước – lụy sầu nhà tan
“Nước – Dân”: Đời sống liên can
Mất đi Hồn Nước – lụi tàn Ḷng Dân
Mất Dân – th́ mất mọi phần
Huống chi “thành ốc – nỏ thần” thị uy
Cổ Loa – bài học dễ suy
Chỉ là thành chết – đổ tùy thời gian
Ḷng Dân – Sức Nước tương quan
Quốc pḥng quân sự – bảo an nước nhà
Ta luôn cải tiến, kiểm tra
Là phần cơ mật – để mà pḥng nguy
Lại nh́n vũ khí Kim Quy
An Dương ỷ lại – tiện tùy ngủ quên
Say men chiến thắng – tưởng bền
Quên điều cập nhật – sót tên bảo tŕ!
Nhận “con rể” giặc làm ǵ
Rước vào cung cấm – c̣n chi quốc pḥng
An Dương – dầu hưởng thong dong
Nhưng về tay giặc đă xong mọi phần…
Chỉ chờ khi giặc xuất quân
Nhà tan nước mất – thóat thân chạy dài
Đồng minh – trở mặt ly khai
Quốc gia xụp đổ – như bài học trên
Với Kinh Giữ Nước nêu lên:
“Phát huy truyền thống – giữ bền non sông
Hành theo Đạo Sống Tiên Rồng
Giúp Dân Giữ Nước – thành công sáng ngời!”
Hồn, Dân, Sức, Đất ai ơi
Giữ ṭan vẹn bốn – Nước thời thịnh an
Mỗi khi nạn nước tràn lan
Giữ Hồn, Dân, Sức: phá tan giặc thù
Hồn, Dân – mất Sức cho dù
Muốn mong quật khởi… cần cù có ngay
Mất Dân, Sức, Đất – chờ ngày
Giữ Hồn: tụ điểm tỏ bày thành công
Mất Hồn: mọi sự phiêu bồng
“Nước” thành xác chết – đừng mong phục ḥan
Mất Hồn, Dân: những lo toan
Biến thành “công cụ” – ḥan ṭan gây nguy
Mất Hồn, Dân, Sức: sẽ quy
Thuộc về tay giặc – theo tùy thời gian
Giữ, Hồn, Dân, Sức liên can
Như Kinh Phù Đổng – ta bàn sâu hơn
* *
Mỵ Châu – phá họai giang sơn
Tội đền xử chém – đúng ơn răn đời…
“Nước”: Nàng không sống trọn lời
Nhưng “Nhà” chung thủy: đồng thời thưởng công
Ông Bà – thưởng phạt minh thông
Nàng làm mất nước – thương chồng mà ra
Máu nàng – được hóa ngọc ngà
Chính là “Máu Đá” – T́nh Nhà thăng hoa!
“Ngọc trai – nước giếng” tẩm ḥa
Trở nên sáng đẹp: nhạt nḥa “Thân Thương”
Trầu Cau: Kinh dẫn tỏ tường
Thương nhau trọn vẹn – con đường quang vinh
“Nước – Nhà”: sống thực – trọn t́nh
Tiên Rồng Song Hiệp – Bộ Kinh tuyệt vời!
Bookmarks