[Kính Mừng Phật Đản] Toàn Không: Lược Sử Đức Phật Thích Ca
By HoangHac • May 15th, 2011 • Category: Phật Giáo
(Vường Lâm-Tỳ-Ni, nơi thái tử Tất Đạt Đa ra đời)
I )- TỪ ĐẢN SINH TỚI THÀNH ĐẠO:
1)- Đản Sinh
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tṛn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ. Nay thuộc nước Nepal ở gần chân núi Hi Mă Lạp Sơn (Himalaya) cách thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu) khoảng 15 cây số (gần 10 dặm Anh). Hoàng hậu Ma Da (Maha Maya) của Vua Tịnh Phạn (Suddhodana) thuộc qúy tộc Thích Ca (Sakya) họ Cù Đàm (Gotama) hạ sinh một Hoàng tử.
Sau khi sinh được bảy ngày, Hoàng hậu băng hà, sinh lên cơi trời Đâu Suất. Vua Tịnh Phạn giao Hoàng Tử cho em gái ruột của Hoàng hậu là Ma Ha Bà Xà Ba Đề (Mahă Pajăpati), kế mẫu nuôi dưỡng chăm sóc.
Tin Hoàng tử chào đời được loan truyền trong nhân gian, thần dân vui mừng. Vua mời một số đạo sĩ đến coi tướng, các đạo sĩ đều nói Hoàng tử có 32 tướng tốt, trên đời chưa thấy ai có. Nếu sau này làm vua sẽ là một Hoàng Đế nhân đức anh minh, c̣n nếu xuất gia học đạo sẽ là bậc đại Thánh, một đại vĩ nhân. V́ vậy Vua đặt tên là Sĩ Đạt Ta (Siddhartha) có nghĩa là toại nguyện. Vua cũng phong cho Sĩ Đạt Ta là con trưởng sẽ nối ngôi vua sau này, nên gọi là Thái tử Sĩ Đạt Ta.
2)- Tuổi niên thiếu:
Thái tử mỗi năm mỗi lớn, diện mạo càng thêm khôi ngô tuấn tú, tài năng phát triển vượt bực, Thái tử có một sức khoẻ cường tráng, một trí óc thông minh xuất chúng, từ văn đến vơ, các trai tráng trong hoàng tộc không ai sánh kịp; học thầy nào cũng chỉ trong một thời gian ngắn là học hết quyền thuật chữ nghĩa của thầy. Mặc dù tài sức hơn người, nhưng Thái tử không bao giờ tỏ ra kiêu ngạo khinh người, trái lại có một thái độ nhă nhặn, thương người thương vật, vô tư b́nh đẳng; do đó Thái tử được Vua cha thương yêu qúy mến chiều chuộng; những người chung quanh mến trọng nể v́.
3)- Lễ Hạ Điền:
Một hôm, nhân ngày lễ Hạ Điền (lễ bắt đầu làm ruộng của nhà nông trong một năm) vào ngày đầu xuân, Thái tử theo Vua cha ra đồng. Mọi người vui vẻ với buổi lễ trong cảnh gió xuân nắng ấm hoa lá tốt tươi, muôn chim hót vang trong cảnh êm đẹp thái b́nh; trong khi mọi người mải vui với buổi lễ như thế, Thái tử ngồi một ḿnh bắt chéo hai chân như người ngồi thiền dưới bóng cây. Thái tử nghĩ rằng những cảnh đẹp, chứ thực ra không phải thế, như trâu ḅ khổ cực kéo cày, người nông dân phải làm việc cực khổ, chân lấm tay bùn để có cơm ăn áo mặc. Thái tử ngồi một ḿnh suy nghĩ trầm tư như thế rồi vào định tâm . . .
4)- Thành hôn:
Thấm thoắt Thái tử đă 16 tuổi, các việc học hành tập luyện đều chu toàn đầy đủ, có vóc dáng của người hai chục tuổi, lại khôi ngô tuấn tú. Vua Tịnh Phạn muốn con ḿnh sẽ nối ngôi sau này nên ép Thái tử thành hôn với Công chúa Da Du Đà La (Yasodhara) đẹp đẽ nết na chu toàn cùng tuổi. Vua cho lập cung điện bốn mùa thay đổi, chọn các mỹ nữ trẻ đẹp hầu hạ Thái tử; chung quanh cung điện là ao hồ, vườn cây luôn đẹp đẽ xanh tươi, hoa lá rực rỡ như cảnh thần tiên. Đời sống vương giả thật đầy đủ, cao lương mỹ vị, đàn ca múa hát, ngày đêm có người luân phiên chầu chực hầu hạ, lên xe xuống ngựa trong hoàng thành rộng lớn.
Cuộc đời nhung lụa sung sướng với vợ đẹp hiền ngoan như thế đă trên mười năm, mọi người tưởng rằng Thái tử sẽ tiếp tục sống măi như thế tới ngày Vua cha truyền ngôi để tŕ v́ đất nước. Rồi Công Chúa sinh con trai tên La Hầu La, Vua Tịnh Phạn càng thêm vui mừng, v́ có thêm sự ràng buộc Thái tử hơn nữa. Mặc dù sống đời sung sướng, vợ đẹp, con ngoan, Thái tử vẫn thấy trong ḷng nặng trĩu nỗi băn khoăn thắc mắc đời sống thật sự bên ngoài hoàng thành.
5)- Nhận rơ cảnh khổ:
Một hôm, Thái tử xin Vua cha cho người hướng dẫn đi dạo ra ngoài cửa thành ngắm cảnh; ra đến cửa Đông, Ngài thấy một ông già đầu bạc trắng, lưng c̣ng, răng rụng, lần bước đi một cách khó khăn; đến cửa Nam, Ngài thấy một người nằm co quắp trên cỏ đang kêu la đau đớn, hỏi thăm được biết người này đang bị bệnh; đến cửa Tây, Ngài thấy một người chết nằm bên đường. Thấy ba cảnh tang thương ấy, Thái tử nhận rơ bộ mặt thật của cuộc đời là khổ, những cảnh xa hoa trong hoàng cung chỉ là giả dối; Ngài muốn t́m cách giải quyết làm sao để cứu chúng sanh khỏi khổ đau, bệnh, chết, nhưng Ngài chưa biết phải làm ǵ, nên trong ḷng Ngài nặng nề hơn.
Mấy ngày sau, Thái tử lại xin đi dạo chơi, lần này ra cửa Bắc, Ngài thấy một người ngồi kết già dưới gốc cây, thản nhiên không để ư các người qua lại. Thấy vậy, Ngài có một sự cảm mến với vị ấy, và hé nảy sinh con đường cứu bệnh khổ già chết trong tâm tư, Ngài liền trở về cung thưa với Vua cha xin xuất gia học đạo, nhưng bị từ khước. Thái tử tŕnh Vua bốn sự việc nếu Vua giải quyết được, Ngài sẽ bỏ việc học đạo, đó là:
1- Làm sao mọi người trẻ măi không già,
2- Làm sao mọi người khỏe măi không bệnh,
3- Làm sao mọi người sống măi không chết,
4- Làm sao mọi người hết khổ.
Vua nghe Ngài hỏi như thế, buồn rầu không giải quyết được, và nói: “Những việc đó là thường ở đời, đương nhiên phải già, bệnh, khổ, chết, không có cách nào giải quyết được, đành chịu mà thôi”.
6)- Xuất gia t́m đạo:
Lúc này, Vua lại t́m đủ cách để giữ chân Thái tử, nhưng từ khi thấy bốn cảnh ở bốn cửa thành, Ngài đă t́m ra được giải đáp: “Ở đời là khổ, tất cả chỉ là tạm bợ, ngay cả cái thân ta mai này cũng sẽ vào cát bụi. Ta phải t́m chân lư để cứu ḿnh và cứu tất cả chúng sinh”. Ngài đă nhất quyết trong ḷng con đường t́m chân lư giải thoát. Cung vàng điện ngọc, địa vị giàu sang, vợ đẹp con ngoan, sống sung sướng v.v…. không thể sánh với sự giải thoát to lớn và cứu độ chúng sanh khỏi khổ đau.
Trong một đêm khuya, mọi người đương giấc ngủ say sưa, Thái tử Sĩ Đạt Ta nh́n vợ con đang an giấc, rồi cùng với người giữ ngựa lặng lẽ rời khỏi hoàng thành trong đêm tối. Lúc đó Ngài 29 tuổi, tuổi tráng niên cường lực, dứt bỏ hết để ra đi t́m đạo với hai bàn tay trắng, để sống một cuộc đời chưa biết sẽ ra sao.
Sáng hôm sau, khi đă vượt qua sông Anoma (Neranjara), Ngài dừng chân trên băi cát. Ngài dùng thanh kiếm sắc bén tự cắt râu tóc xong trao áo măo (mũ) kiếm cho người giữ ngựa đem trở về tŕnh Vua cha. Ngài khoác vào ḿnh tấm vải vàng cam làm áo, Ngài tự nguyện sống đời tu sĩ, và chấp nhận mọi sự thiếu thốn vật chất. Từ một người sống trong nhung lụa giàu sang quyền qúy, bỗng nhiên trở thành người đi lang thang trong nóng nực, lạnh lẽo, như người bất định trong sương gió. Đầu đội trời, chận đạp đất, không giày dép mũ nón, chỉ một mảnh vải che thân, không nhà không cửa. Đạo sĩ Cù Đàm lấy bóng cây hang đá là nhà để tránh nắng che mưa, trú dông băo tố, mang bát đi khất thực để sống qua ngày v.v…
Không v́ thế mà thối chí ngă ḷng, một ḿnh Ngài trong chốn rừng sâu tu tập, rồi Ngài t́m đến học đạo với đạo sĩ Alarama Kalama, Ngài học và hành, đạt những ǵ đạo sĩ ấy đạt; Đạo sĩ Alarama Kalama mời Ngài cộng tác dạy đám đệ tử, nhưng Ngài từ chối v́ không thỏa măn những ǵ đă đạt được. Đạo sĩ Cù Đàm rời vị ấy t́m đến một vị thứ hai, đạo sĩ Uddaka Ramaputta, Ngài học và cũng chứng những ǵ vị ấy chứng; vị thứ hai nhường cho đạo sĩ Cù Đàm làm đạo sư hướng dẫn các đạo sĩ ở đó, nhưng sự chứng không giải quyết được những điều mà Ngài mong muốn, chưa phải là chân lư, chưa phải là Niết Bàn tối thượng, do đó Ngài lại ra đi.
7)- Tu Khổ Hạnh
Đạo sĩ Cù Đàm đi đến vùng ngoại thành Vương Xá nước Ma Kiệt tự tu tập một ḿnh. Lúc ấy có đạo sĩ Kiều Trần Như là người trẻ nhất trong số đạo sĩ được Vua Tịnh Phạn mời xưa kia khi mới sinh Hoàng tử Sĩ Đạt Ta. Ông nghe tin Thái tử đă xuất gia học đạo, nên dẫn bốn người đồng tu t́m đến gặp Ngài để cùng tu.
Thời bấy giờ, nhiều người có quan niệm: “Chỉ có tu khổ hạnh mới giải thoát được”, nên ông Kiều Trần Như đă thuyết phục Ngài nhập chung với năm người cùng tu khổ hạnh. Do đó đạo sĩ Cù Đàm đă khép ḿnh để cùng tu trong thời gian dài trên năm năm khổ hạnh.
Từ một thân h́nh cường tráng khỏe mạnh dần dần cho đến một thân h́nh chỉ c̣n da bọc xương. Dùng vô số phương tiện của khổ hạnh để tu, Ngài chỉ ăn rau cỏ để thiền, nhịn thở để thiền, chỉ ăn một vài hạt đậu và một ít nước mỗi ngày để thiền v.v…
Thân h́nh đạo sĩ Cù Đàm trở nên gầy c̣m đến nỗi xương bàn tọa ngồi như móng con lừa, xương sống như xâu chuỗi hột, lưng c̣ng xuống, xương sườn phơi ra tựa như sườn nhà bị đổ, hai mắt hơm vào như sao dưới đáy giếng sâu thẳm. Khi sờ da bụng lại đụng xương sống, đi lại té tới ngă lui, Ngài cứ phải đập nhè nhẹ vào thân làm cho tỉnh táo, th́ lông từ da không c̣n sức bám rơi xuống lả tả. Nước da trước kia hồng hào tươi mát, lúc đó chỉ c̣n thấy là màu sạm đen như da người chết!
Mặc dù khổ hành đến cùng cực như thế, mặc dù không ai tinh tấn bằng đạo sĩ Cù Đàm, các đạo sĩ vẫn cho là cần phải tiếp tục khổ hạnh để đạt chân lư. Thấy rơ ràng sau khi trải qua thời gian dài khổ hạnh như thế, cái chết đă gần kề, đạo qủa chân lư chẳng thấy đâu, trí thức suy giảm, tinh thần mệt mỏi, Ngài quyết định dứt khoát từ bỏ lối tu khổ hạnh. V́ cần có một thân h́nh khỏe mạnh, một trí óc sáng suốt để suy gẫm đạt chân lư, nên Ngài bắt đầu dùng vật thực thô sơ trở lại.
8)- Tu Trung Đạo
Quyết định từ bỏ lối sống khổ hạnh, nhưng Ngài cũng không quay lại lối sống lợi dưỡng, mà vạch ra đường lối tu Trung đạo; Ngài biết rằng tu bằng đường Trung đạo sẽ tác thành nhẫn, tác thành trí tự tại, tác thành định đưa đến trí, sẽ đưa đến giác ngộ.
Năm vị đạo sĩ đồng tu thấy thế liền chê trách: “Đạo sĩ Cù Đàm không đủ kiên nhẫn”, họ liền bỏ đi.
Bấy giờ, đạo sĩ Cù Đàm nghĩ rằng: “Ta đă đi t́m hết các nơi, không có một ai đủ khả năng dẫn dắt ta thành tựu mục tiêu mà ta mong muốn, v́ chưa ai ra khỏi sự vô minh”. Ngài bèn đi đến vùng ngoại thành Vương Xá nước Ma Kiệt tự tu tập một ḿnh, nơi có ḍng sông trong mát, cây cối xanh thẳm, hoa lá tốt tươi. Đi đến dưới gốc cây Bồ Đề lấy cỏ làm nệm ngồi thiền định, Ngài thề nguyện rằng: “Nếu không đạt chân lư dù thịt nát xương tan ta cũng không rời khỏi chỗ này”. Ngài đă liên tiếp trải qua nhiều gian nan thử thách về nội tâm tham, sân, si, mạn, nghi v.v… Rồi sau lại phải chiến đấu với ngoại cảnh Thiên ma dùng đủ mọi tà pháp ḥng cản trở Ngài việc thiền định, rút cục, Ngài chiến thắng cả nội tâm lẫn ngoại cảnh, tâm trí được yên ổn trong thiền định.
9)- Thành Đạo:
Trong đêm thứ 49, vào khoảng 10 giờ lúc canh hai, Ngài chứng “Túc mệnh minh”, thấy rơ tất cả các đời qúa khứ một đời, hai đời, ba đời, mười đời, trăm đời, ngh́n đời. Sinh chỗ này, tên là ǵ, cuộc sống ra sao, chết sinh vào đâu v.v…, tất cả đều biết hết. Tiếp tục thiền định, tới khoảng nửa đêm lúc canh ba, Ngài chứng “Thiên nhăn minh”, thấy được tất cả bản thể vũ trụ, biết cấu tạo thế giới vũ trụ thành trụ hoại diệt (thành lập, sống c̣n, tiêu hủy, chết mất) như thế nào, đều biết hết thảy. Vẫn kiên cố hành thiền tam muội (thiền định), đến khoảng 2 giờ sáng lúc canh tư, Ngài chứng “Lậu tận minh”, vô lậu, sạch hết trần cấu (sạch hết ô nhiễm). Biết rơ Khổ, nguồn gốc của đau khổ, cách trừ đau khổ, và con đường đạo qủa viên măn. Ngài tự biết: “Ta đă giải thoát, không c̣n tái sinh nữa, tu hành viên măn, việc làm đă xong, không c̣n trở lại trạng thái khi xưa nữa”.
Ngài từ từ mở mắt to ra chợt thấy sao Mai lấp lánh, hốt nhiên “Toàn Ngộ”, thấu triệt cùng khắp chân lư vũ trụ, thần thông quảng đại, Ngài đạt Đạo Vô Thượng, thành bậc “Chính Đẳng Chính Giác” nên được gọi là bậc Toàn Giác, Như Lai, hiệu Phật Thích Ca Mâu Ni.
II )- TỪ THÀNH ĐẠO TỚI NHẬP NIẾT BÀN:
1)- ĐỨC PHẬT HÀNH ĐẠO.
Sau khi thành Đạo, đức Phật quán khắp Vũ trụ, Ngài thấy có vô lượng thế giới, quán chúng sinh Ngài biết mỗi chúng sanh đều có Phật tính (tánh); v́ chúng sinh ngụp lặn trong si mê tối tăm nên phải trầm luân trong biển sinh tử luân hồi không có ngày ra khỏi. Ngài quán và biết rằng con người hiểu được giáo lư nếu Ngài nói ra, và có người kham nhận được sự tu hành. Do đó, đức Phật quyết định sẽ giáo hóa chúng sinh cho dù có khó khăn như thế nào đi nữa. Ngài cũng phải làm nhiệm vụ của bậc Phật như tất cả chư Phật trong Vũ trụ đă làm, đang làm và sẽ làm để dẫn dắt chúng sanh ra khỏi khổ đau và được giải thoát. Sự hoằng pháp của đức Phật trên ba nguyên tắc:
a)- Hành Đạo theo thứ lớp.
Bắt đầu đức Phật nghĩ đến việc độ cho các bậc thiện tri thức là những người không c̣n nhiều trần cấu nhiễm ô. Nghĩ đến đạo sĩ Alamara Kalama là vị đạo sư mà lần đầu tiên Ngài t́m đến tham học, Ngài dùng tuệ nhăn được biết vị này mới từ trần bảy ngày, Đức Phật lại nghĩ đến Uddaka Ramaputta là vị thứ hai, dùng mắt Phật nh́n, Ngài thấy vị này cũng vừa qua đời mới có một ngày!
1- Ba tháng đầu: Đức Phật nghĩ đến năm vị đồng tu khổ hạnh, Ngài bèn đi đến vườn Lộc Uyển xứ Benares gặp năm vị này là Kiều trần Như (Kondana), Bạc Đề (Bhaddiya), Thập Lực (Vappa), Ma ha Nam (Mahănăma), và Ác Bệ (Assaji).
Lúc đầu, năm vị thấy đức Phật đến đều tỏ ra nghi ngờ và chỉ trích lối sống của Ngài, Đức Phật phải giải thích đến lần thứ ba rằng: “Không có vấn đề sống xa hoa trở về đời sống lợi dưỡng, Ta chỉ làm sao cho thân thể đủ sức chịu đựng để hành thiền kiên cố mà thôi. Đó là con đường trung đạo cần phải theo, và bây giờ Ta đă thành Đạo, đạt qủa vô sinh bất diệt, nếu người nào hành đúng như lời Như Lai dạy cũng sẽ chứng ngộ. Hơn nữa, nếu Như Lai không biết các ông ở đâu, làm sao t́m đến đây được? Vả lại, Ta chưa bao giờ nói những lời này với các ông, như vậy các ông đủ hiểu rồi”, bấy giờ năm vị mới tin, bỏ lối tu khổ hạnh và nghe Giáo pháp của Ngài.
Bài giảng đầu tiên là “Bốn Diệu đế”, do “Sinh, già, bệnh, chết” nên khổ, muốn khỏi khổ phải t́m nguyên nhân của khổ là do “Tham, sân, si …”, và phải diệt khổ bằng “Tám Chính đạo” là “Chính Kiến, Chính tư duy, Chính ngữ, Chính mệnh, Chính nghiệp, Chính tinh tấn, Chính niệm, và Chính định”. Cả năm vị học và hành tŕ dần dần đều đắc quả Thánh, nhưng vị đắc qủa A La Hán (Quả Ariya là quả A La Hán, Ariya có nghĩa là cao qúy) đầu tiên là Ngài Kiều Trần Như.
Thời ấy, tại Ấn Độ, ngoài quan điểm sống theo lối khổ hạnh để giác ngộ, c̣n có quan niệm cho rằng con người chết là hết, linh hồn và thân xác tan biến, tất cả chẳng c̣n ǵ. Hăy ăn uống tận hưởng mọi lạc thú ở đời, không cần biết đến đạo đức, khoái lạc là thực tế, không cần phải kiểm soát dục vọng. Không có luân hồi, không có tái sinh, không có qủa báo thiện ác, tất cả chỉ là bản năng tự nhiên mạnh được yếu thua v.v… Do đó, đức Phật đă phải đối phó với các quan điểm sai lầm ấy.
2- Thiết lập Tăng đoàn: Sau khi có năm đệ tử, đức Phật giáo hóa 55 Bà la môn mà ông Da xá (Yasa) là người dẫn đầu; số người này cùng với năm vị đầu tiên hợp lại là 60 và kể như thiết lập Tăng đoàn từ đây, Ngài dạy về “Bốn Diệu Đế” và “Tám Chính Đạo”. Cha mẹ và vợ của ông Da Xá là Phật tử tại gia đầu tiên của đức Phật. Sau ba tháng 60 vị đệ tử Phật đầu tiên này đă hành tŕ vững chắc và giữ giới luật đầy đủ, đều đắc A la Hán, Đức Phật thọ kư và cho các vị ấy đi hành đạo các nơi.
3- Thu nhận hàng loạt đệ tử: C̣n Ngài đi xuống phiá Nam đến xứ Ưu Đầu Tuần La, thu phục Rắn lớn dữ trong pḥng thờ lửa của người đứng đầu Đạo thờ Thần lửa là Uruvela Ca Diếp (Uruvelă Kassapa), vị này đem 500 đệ tử cùng xin xuất gia theo đức Phật tu hành. Vị này có hai người em đều ở mỗi người một nơi, một người tên Nadi Ca Diếp (Nadĩ Kassapa) có 300 đệ tử, và Gaya Ca Diếp (Gayă Kassapa) có 200 đệ tử. Cả hai người cũng thờ Thần lửa, khi thấy người anh đă theo đức Phật tu hành, họ cùng với đệ tử đến theo Ngài tu hành.
Ngài giảng cho 1000 đệ tử này về: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư nằm trong lửa, lửa từ tham ái, sân hận, si mê, sinh già bệnh chết, buồn phiền, đau khổ, tuyệt vọng. Hăy quán nhàm chán h́nh sắc âm thanh, hương vị xúc, chán luyến ái, do sự nhàm chán dứt khoát ấy, được giải thoát. Tất cả hành tŕ dũng mănh nên đều chứng qủa Thánh.
4- Thu nhận hai đệ tử quan trọng: Sau khi thu nạp hơn 1000 đệ tử, đức Phật đến nước Ma Kiệt để thực hiện việc hứa với Vua Tần Bà Xa La là “Khi đắc Đạo sẽ trở lại”; khi Vua biết Ngài đă đắc Đạo rồi, mừng rỡ và cúng dường Phật và Đại chúng Đạo tràng “Trúc Lâm”.
Lúc ấy, Xá Lợi Phất (Upatissa) và Mục Kiền Liên (Kolita) cư ngụ gần thành Vương Xá (Răjagaha), là bạn với nhau, có chí học đạo, đă t́m đến nhiều thầy, và học hết chữ thầy rồi cũng chưa thỏa măn. Một hôm, Xá Lợi Phất thấy một Sa Môn đang đi khất thực trong thành Vương Xá với oai nghi của bậc Thánh nhân, nên để ư và đến hỏi. Vị này cho biết tên là Ác Bệ (Assaji) và qua câu chuyện, Xá Lợi Phất được Tôn giả Ác Bệ cho biết giáo pháp vắn tắt đă học là “Tất cả ở đời đều do nhân duyên sinh, Như Lai chỉ rơ nhân duyên ấy và cách diệt, đó là giáo huấn của vị Đại Sa Môn”. Nghe những lời ấy, Xá Lợi Phất thấy trí tuệ bừng sáng, nên hỏi tiếp và được biết vị Đại Sa Môn đang ở “Rừng Trúc”.
Xá Lợi Phất liền đến t́m Mục Kiền Liên nói lại cơ duyên của ḿnh và nói những lời Tôn giả Ác Bệ đă nói. Mục Kiền Liên nghe rồi cũng tỏ sáng vô cùng. Hai người hân hoan đem theo một số bạn đến Trúc Lâm xin xuất gia học đạo, đều được đức Phật thu nhận. Chỉ trong ít ngày cả hai vị đều đắc A La Hán, được đức Phật ấn khả cho hai vị Tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên là thượng thủ bậc nhất.
Sau đó đức Phật gặp Trưởng giả Cấp Cô Độc là người giầu có bậc nhất tại nước Xá Vệ. Trưởng giả đă phát tâm rộng lớn xây cất Đạo tràng Kỳ Hoàn ở phiá Bắc Ấn Độ để cúng dàng Ngài và đại chúng Tăng.
5- Trở về thăm quê hương: Lúc ấy vua Tịnh Phạn (Suddhodana) nghe tin Ngài đă thành Phật, liền sai sứ giả đi mời Ngài về thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavathu), nhưng chín lần cử chín sứ giả đi mà không có người nào trở lại, v́ các vị này đến được đức Phật thuyết pháp nghe rồi ở lại xin xuất gia học Đạo. Tới vị thứ mười tên Tu Đà Di (Kăludăyi), vị này cũng ở lại học đạo, nhưng vẫn nhớ lời Vua, nên sau khi đắc đạo bèn thỉnh Phật về thăm Vua.
Dọc đường trở về nơi sinh thành trong hai tháng, gặp người nào đức Phật cũng giáo hóa độ cho hết thảy, khi về tới thành Ca Tỳ La Vệ, đức Phật chỉ ở lại có bảy ngày, nhưng đă giáo hóa tất cả hoàng gia. Tại đây lúc đầu v́ có sự nghi ngờ của các bậc cao niên, nên Ngài đă dùng thần thông bay ngồi trên không, làm lửa và nước từ toàn thân phát ra. Sau đó có nhiều vị trẻ trong hoàng gia theo Ngài xuất gia tu đạo, như Nan Đà, A Nan Đà, A La Luật, La Hầu La là con ruột của Ngài lúc ấy mới bảy tuổi, v.v…
Không bao lâu sau, đức Phật biết Vua cha bệnh sắp qua đời liền về thăm, thấy Vua buồn rầu, Ngài nói về lư “vô thường, khổ, không, vô ngă”; nghe xong, gương mặt vui tươi, Vua cất tiếng niệm Phật rồi băng hà nhẹ nhàng. Sau khi Vua Băng hà, Hoàng hậu Ma ha Bà Xà Ba Đề (Mahă Pajăpaĩ) có con trai là Nan Đà (Nanda) đă xuất gia, và con gái tên Nan Đề (Nandă) (về sau cũng xuất gia), bà xin xuất gia lấy tên là Đại ái Đạo, Công chúa Da Du Đà La là vợ của Thái tử Sĩ Đạt Ta cũng xin xuất gia. Bà Đại Ái Đạo nhờ Tôn giả A Nan xin giùm đức Phật chấp nhận cho bà được xuất gia và thành lập Ni đoàn với điều kiện phải tuân thủ giới luật do đức Phật đặt ra.
b)- Tùy phương tiện:
Trong suốt đời đức Phật hành đạo, không phải lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió, có những lúc Ngài phải đương đầu với những khó khăn chống đối; sự chống đối này thường là do những đạo sư của những ngoại đạo, tà đạo mê tín, và ngay cả những người muốn tranh giành ảnh hưởng với Ngài, nhưng tất cả đều được Ngài giải quyết êm xuôi.
1- Đối phó với khó khăn: Như có lần bị Bà la môn chửi bới thậm tệ, Ngài làm thinh không trả lời. Chửi bới một lúc thật lâu không thấy đức Phật phản ứng ǵ cả, người ấy hỏi: “Sao ông bị chửi như thế mà không trả lờ́?” Ngài hỏi lại để đáp: “Nếu ông đem tặng qùa cho người khác mà người đó không nhận, qùa ấy thuộc về ai?”. Người ấy trả lời: “Qùa ấy thuộc về tôi”. Ngài bảo: “Lời ông chửi từ năy đến giờ tôi không nghe, không nhận, trả lại cho ông”, lúc đó người ấy mới thôi chửi. Cũng có trường hợp tương tự như thế, nhưng đức Phật trả lời cách khác là : “Những lời chửi rủa cũng như người nhổ nước bọt từ miệng phun ra ngược chiều gió, chỉ làm dơ mặt người nhổ mà thôi”.
Có lần, con gái của ngoại đạo mang cái bụng to tướng đến la lối trước mọi người rằng “Cái bào thai trong bụng mà tác giả là Sa Môn Cù Đàm”, và đ̣i phải giải quyết ổn thỏa; Đức Phật chỉ làm thinh, rồi Ngài dùng thần thông làm rớt cái bụng giả của cô gái ra, mọi người cười ồ, cô gái xấu hổ cúi đầu đi mất, không dám nh́n lại.
Trong hạ thứ 20, đức Phật gặp Angulimala là người đă chặt 999 ngón tay của 999 người. Ngài dùng thần thông khiến kẻ ác không thể đuổi bắt Ngài được đến kiệt sức mà phải thốt lên: “Sa Môn, hăy dừng lại”. Ngài đáp: “Ta đă dừng từ lâu, c̣n ông chưa dừng bước”. Angulimala nói: “Tôi đă dừng rồi, Sa Môn c̣n đi, tại sao ông lại nói rằng tôi không dừng, c̣n ông đă dừng? Tại sao ông nói thế?” Ngài đáp: “Như lai đă dừng luôn và măi măi, Như Lai đă dứt bỏ không c̣n hành hung một sinh vật nào, c̣n ông tiếp tục sát hại đồng loại với bàn tay đẫm máu, v́ vậy Như Lai đă dừng và ông chưa dừng”. Nghe đến đó, Angulimala quăng bỏ hết vũ khí, đi đến gần đức Phật qùy lạy xin Ngài chấp thuận cho được theo học đạo, và đă được Ngài chấp thuận, sau đó Angulimala tinh tấn tu hành không bao lâu đắc qủa A La Hán.
2- Chấn chỉnh Tăng đoàn: Ngay cả trong Tăng đoàn, cũng có nhiều vấn đề, như lúc đầu Tăng chúng ăn uống không có khuôn khổ chừng mực, ăn sáng, ăn trưa, ăn chiều, ăn tối đủ cả. Đức Phật căn cứ vào những sự phiền hà và sự cần thiết cho việc tu hành, dần dần Ngài lập ra giới cấm càng ngày càng đầy đủ chặt chẽ hơn như chỉ ăn mỗi ngày một bữa trước buổi trưa.
Một việc xảy ra do Đề Bà Đạt Đa là em con cô và là em vợ của Thái tử Sĩ Đạt Ta. V́ muốn giành quyền đứng đầu Tăng đoàn mà Đề Bà đă làm nhiều việc không hay đối với đức Phật, như lăn đá trên sườn núi, dùng voi say, hay bôi thuốc độc vào móng tay để mong hại Ngài, nhưng đều thất bại, đến nỗi bị chết và đọa vào Địa ngục.
Đối với việc tu hành của tu sĩ, đức Phật đă tùy trường hợp để chỉ dạy, chứ không nhất thiết phải theo một đường lối nhất định cho mọi người. Đối với người thông minh hay đần độn, Ngài đều có những cách khác nhau để hướng dẫn. Như Tôn giả Chu Lợi Bàn Dặc Ca đần độn tụng một bài kệ bốn câu trong ba tháng không thuộc, khi sai đầu, khi quên đuôi, đức Phật thấy thế ban cho cách “đếm hơi thở ra vào lần đầu đếm một, hơi thở ra vào lần thứ hai đếm hai, cứ thế đếm đến mười, rồi lại đếm từ một đến mười như thế măi măi”. Sau đó ít lâu Tôn giả thấy tâm thanh tịnh không một gợn sóng, v.v…,được Phật chứng cho đạt bậc Thánh.
Tôn giả Đà La Nan Đà thường hay loạn động v́ nghĩ đến tham dục, đức Phật dạy quán tướng trắng trên đầu chót mũi. Tôn giả La Vân hay buồn phiền lo nghĩ, đươc đức Phật dạy quán biết hơi thở ra dài biết hơi thở ra dài, hơi thở vào dài biết hơi thở vào dài, hơi thở ra ngắn hay lạnh, hay nóng, đều biết hơi thở ra ngắn hay lạnh, hay nóng v.v… Cả hai Tôn giả chỉ trong thời gian ngắn là đắc qủa A La Hán.
Đối với hết thảy các đệ tử trong khi tu hành ở mọi nơi, Ngài quán sát mỗi ngày, rồi dùng thần thông đến chỉ bảo.
c)- Theo tinh thần b́nh đẳng:
Tinh thần b́nh đẳng là một điểm son trong giáo lư của đức Phật. Trong Tăng đoàn có đủ các thành phần trong xă hội, từ người thuộc giai cấp cao nhất như hàng hoàng gia quyền bính, Bà la môn qúy tộc, đến hàng dân giả nghèo nhất đều có mặt tu hành và cùng đạt quả Thánh.
2)- HÀNH ĐẠO HÀNG NGÀY:
Chương tŕnh mỗi ngày của đức Phật thật khít khao không có kẽ hở, từ 5 giờ sáng ra khỏi pḥng thất, làm vệ sinh tắm rửa, xong ngồi quán sát, hoặc đi kinh hành xong quán sát thế gian xem có ai (kể cả các đệ tử ở khắp các nơi) cần độ trong nhân gian, Ngài dùng thần thông đến liền. Tới 9 giờ sáng thuyết pháp cho chúng Tăng. Từ 10 hoặc 11 giờ đi khất thực, đi thụ trai nếu có người thỉnh. Sau khi thọ trai về, Ngài nằm nghiêng bên phải định thần một lúc, tới 1 giờ chiều, Ngài nhập Đại Bi Định quán sát thế gian. Từ 2 hoặc 3 giờ chiều thuyết pháp cho thiện nam tín nữ, Ngài dùng Phật nhăn để nh́n vào tâm tính mỗi người mà tùy căn cơ hóa độ. Từ 7 giờ tối Ngài giảng và giải thích thắc mắc cho đệ tử đề tài thiền, tới 9 giờ tối, Ngài ngồi quán sát thế gian, có khi đi kinh hành xong ngồi nhập Đại Định. Từ 11 giờ đêm đến 4 giờ sáng, Ngài nhập Đại Định, rải tâm Từ khắp chúng sinh. Nhiều đêm các vị Trời từ các tầng Trời thường hay đến chiêm bái và học giáo lư của đức Phật. Tất cả các buổi tham bái ấy đều xảy ra vào từ nửa đêm đến khoảng bốn giờ sáng. Như có lần Vua Trời Đạo Lợi, cũng gọi là Đế Thiên Thích, mà người đời gọi là Ngọc Hoàng Thượng Đế đến tham bái đức Phật trong lúc Ngài đang nhập Định lửa tam muội trong động Nhẫn Đà Bà Là khiến cả vùng núi Tỳ Đà đỏ rực một màu lửa. Như vậy về đêm Ngài thường nhập Đại Định và quán sát thế gian, vũ trụ, hoặc tiếp dạy các vị Trời. Từ 4 giờ sáng Ngài nằm nghiêng bên phải định thần đến 5 giờ sáng.
Mỗi năm đức Phật đi hành đạo giáo hóa suốt chín tháng không mưa, c̣n ba tháng mưa, Ngài an cư tại một đạo tràng trong nước Ấn Độ, gọi là “An cư kiết hạ”.
Suốt 45 năm, dấu chân đức Phật và các đệ tử của Ngài khắp xứ Ấn Độ, ở đâu Ngài và đệ tử cũng được đón nhận chào mừng; từ hàng vua quan đến dân giả, từ người già cả đến các trai trẻ, từ nam tới nữ, từ người giàu đến kẻ nghèo, đều tắm gội trong ánh sáng trí tuệ và gió mát từ bi do Ngài ban rải khắp cùng. Nơi nào có mặt Ngài và đệ tử Ngài, là nơi đó tà giáo, ngoại đạo lui xa, tan biến như bóng tối, sương mai trước ánh mặt trời hiện.
3)- CÁC THỜI NÓI KINH:
Sự nói Kinh được các Phật tử sau này chia ra làm năm thời như sau:
1- Thời thứ nhất: Đức Phật nói Kinh Hoa Nghiêm, khi mới thành đạo. Ngài nói Kinh này để vạch chân tánh, chỉ rơ chỗ cao siêu nhiệm mầu của Đạo Phật
2- Thời thứ hai: Đức Phật nói Kinh A Hàm, thời kỳ này dài 12 năm đầu để dạy về tự tu, tự độ cho ḿnh.
3- Thời thứ ba: Đức Phật dạy Kinh Phương Đẳng, thời này dài 8 năm kế. Đức Phật nói: “Đă tự độ rồi, c̣n phải độ tha”, tức là độ ḿnh và độ cho người, tŕnh độ các đệ tử cao hơn một bậc.
4- Thời thứ tư: Đức Phật nói Kinh Bát Nhă, thời này kéo dài 17 năm; tới thời này, tŕnh độ dạy giáo thuyết cao hơn nữa, tiến tới giáo thuyết chân không, vũ trụ, thật tướng, vô tướng của các pháp.
5- Thời thứ năm: Đức Phật nói Kinh Pháp Hoa, Niết Bàn, thời kỳ này dài 8 năm. Khi ấy các đệ tử Phật đă thuần thục, có thể gánh vác việc đạo, nên Ngài giảng việc thị hiện v́ bản nguyện “Khai thị chúng sinh nhập tri kiến Phật”; Ngài thụ kư cho 1250 đệ tử sẽ thành Phật tùy căn cơ mỗi người mà thọ kư mau hay lâu, và việc thuyết pháp độ sinh của Đức Phật đă đầy đủ viên măn.
4)- ĐỨC PHẬT NHẬP NIẾT BÀN:
1- Đức Phật tuyên bố nhập Niết Bàn trước ba tháng: Việc độ chúng sanh đă viên măn, Ngài chứng tỏ cho mọi người: “Xác thân vô thường”, v́ xác thân do bốn đại: “đất, nước, gió, lửa” tạo thành trở về với bốn đại, cũng như chiếc xe lâu ngày phải cũ hư; đó là lư vô thường đương nhiên phải như thế, cái c̣n lại là giáo lư chân thật, bất hư mà đức Phật đă giảng dạy trong suốt 45 năm. Giáo lư chân thật đầy đủ cho mọi người theo đó học hỏi hành tŕ để đạt được chân lư giải thoát khỏi luân hồi sinh tử.
2- Đức Phật nói Kinh Di Giáo: Ngài dặn Tôn giả A Nan là Thị giả của Ngài rằng: “Sau khi Ta Nhập Niết Bàn, hăy tự thắp đuốc lên mà đi, thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với giáo pháp nào khác. Hăy nương tựa nơi chính ḿnh, đừng nương tựa với một pháp nào khác”, Ngài nói tiếp: “Ái ân là vô thường, nếu có xum hợp, phải có chia lià; nhất là thân này không phải ta, mạng sống không tồn tại măi măi được”.
3- Đức Phật nhập Niết Bàn: Ngài nhập Niết Bàn tại rừng Ta La nước Câu Thi La giữa hai cây Long Thọ vào nửa đêm ngày mồng 8 tháng hai âm lịch, năm 543 trước Dương lịch. Sau đó được dân chúng Mạt La thành Câu Thi cùng các đệ tử Phật cúng dàng thân Phật, rồi trà tỳ (thiêu) và chia Xá Lợi Phật cho 8 (tám) nước rước về xây tháp để mọi người chiêm bái, cúng dường.
III )- TRÍ TUỆ SIÊU VIỆT CỦA ĐỨC PHẬT.
Để biết về trí huệ của đức Phật Thích Ca, chúng ta nên lược trích Kinh Hoan hỷ trong Trường A Hàm, quyển 1 trang 607. Tôn Giả Xá Lợi Phất nói ra một số trong muôn sự tuyệt vời vô thượng của đức Phật như sau:
Một thời, đức Phật ngự tại rừng Ba bà lợi am bà, xứ Na lan đà, có đầy đủ 1250 vị Tỳ kheo. Khi ấy, Tôn giả Xá lợi Phất bạch Phật:
- Khi con ở trong tinh thất một ḿnh nghĩ rằng “các Sa môn, Bà la môn trong qúa khứ, hiện tại, vị lai, về phương diện trí huệ, thần thông, công đức, đạo lực, không một ai bằng đức Thế Tôn, chứ đừng nói là hơn”.
Đức Phật bảo Tôn giả Xá lợi Phất:
- Lành thay, lành thay, Ông ở trước Như Lai nói lên lời như vậy, đồng thời thụ tŕ, chính Ông đă rống tiếng rống sư tử. Thế nên Sa môn, Bà la môn không ai bằng Ông.
Nhưng này Xá lợi Phất, Ông có biết được tâm niệm chư Phật qúa khứ, chư Phật hiện tại trong mười phương có giới, có pháp, có trí huệ, giải thoát, an trú giải thoát như thế nào không?
- Bạch Thế Tôn, con không biết.
- Tâm niệm chư Phật qúa khứ hiện tại vị lai trong mười phương Ông chẳng thể biết, tại sao Ông khởi lên ư nghĩ như vậy? Do nguyên nhân nào khiến Ông sinh ư nghĩ ấy? Liệu các Sa môn, Bà la Môn có tin lời Ông nói không?
- Thưa Thế Tôn, con ở trong qúa khứ hiện tại vị lai, tuy về tâm niệm chư Phật con không biết được, nhưng về pháp (giáo lư) tổng tướng của Như Lai con có thể biết được. Thế Tôn v́ con nói pháp hắc bạch (trắng đen), pháp nhân duyên, pháp đối chiếu, pháp cao xa vi diệu. Con nghe xong biết mỗi pháp đều ở trong pháp cứu cánh, đồng thời con tin đức Như lai là bậc chí chân Đẳng Chính Giác khéo phân biệt các pháp là tối thượng.
Đức Thế Tôn nói pháp “chế ngự vô thượng” như Bốn Niệm Xứ, Bốn Chính Cần, Bốn Thần Túc, Bốn Thiền, Năm Căn, Năm Lực, Bảy Giác Chi, Tám Thánh Đạo. V́ thế cho nên trí huệ của Thế Tôn thật tuyệt vời, thần thông tuyệt vời, từ hàng Sa Môn Bà la môn không ai bằng đức Như Lai, huống là muốn hơn.
Ba là Đức Thế Tôn nói pháp vô thượng về “thức nhập thai”. Có bốn hạng nhập thai: Một là hạng không biết ḿnh nhập thai, không biết ḿnh ở trong thai, không biết ḿnh ra khỏi thai; hầu hết mọi người ở hạng này. Hai là hạng biết ḿnh nhập thai, nhưng không biết ḿnh ở trong thai và không biết ḿnh ra khỏi thai. Ba là hạng biết ḿnh nhập thai, biết ḿnh ở trong thai, nhưng không biết ḿnh ra khỏi thai. Bốn là hạng biết ḿnh nhập thai, biết ḿnh ở trong thai, và biết ḿnh ra khỏi thai; v́ thế, đức Thế Tôn có trí huệ tuyệt vời, có thần thông tuyệt vời, không một ai ngang bằng huống là muốn hơn.
Đức Thế Tôn nói pháp “tha tâm thông” vô thượng, có người chẳng suy nghĩ, chẳng nghe phi nhân mách bảo, chẳng tự nghiệm thân ḿnh, cũng chẳng nghe người khác nói, mà quán sát thẳng người khác, quán sát và nói: “Tâm người này thế này, tâm người kia thế kia”. Quán sát như thế mới là chân thật; thế nên pháp này là tối thượng, trí huệ tuyệt vời, thần thông diệu dụng, không ai bằng đức Thế Tôn, chứ đừng nói là muốn hơn.
Đức Thế Tôn nói pháp “giải thoát trí” vô thượng, do nhân duyên, đức Thế Tôn nói “người này đắc quả Tu đà hoàn, người kia đắc quả Tư đà hàm, A na hàm, A la hán”; thế nên pháp này là vô thượng, trí huệ tuyệt vời, thần thông diệu dụng, không một ai bằng đức Thế Tôn, huống là muốn hơn.
Đức Thế Tôn nói pháp “túc mệnh thông” vô thượng, khiến người thực hành nhập định ư tam muội; Họ nhớ một đời, hai đời, ba đời, mười đời, trăm đời, ngh́n đời, vô số đời. Đời nào tên ǵ, bố mẹ ra sao, sống như thế nào, làm nghề ǵ, vợ con ra sao, tuổi thọ thế nào v.v… đều nhớ biết tất cả; thế nên, pháp này là vô thượng, không có ai bằng đức Thế Tôn, đừng nói là muốn hơn.
Đức Thế Tôn nói pháp “sinh tử thông” vô thượng, có người tu tập dùng định ư tam muội, do tâm nhập định, vị ấy quán sát các chúng sinh, thấy rơ sự chết sinh của họ đều theo nghiệp đă tạo, nên có kẻ xấu người đẹp, có kẻ sinh vào chỗ khốn nạn, có người sinh vào chỗ sung sướng. Thấy rơ tất cả đều do thân làm, miệng nói, ư nghĩ lành ác mà vào chỗ tốt hay chỗ xấu; thế nên, pháp này là vô thượng, trí huệ tuyệt vời, thần thông diệu dụng, không một ai có thể ngang bằng đức Thế Tôn, huống nói là muốn hơn.
Lại nữa, đức Thế Tôn nói pháp “Như ư túc thông” vô thượng, có đệ tử học, dùng phương tiện nhập định tam muội, do tâm nhập định, nên tạo vô số thần lực. Vị ấy có thể biến một thân thành vô số thân, vô số thân hợp lại một thân. Đi qua tường vách núi sắt đá không trở ngại, đi trên mặt nước như đi trên đất, đi trong đất như lặn xuống nước, đi trên không như chim bay; vị ấy có thể phát ra khói, ra nước như mưa, ra lửa cháy hừng hực, lại có thể biến thân h́nh cao lớn tới trời Phạm, dơ tay sờ mặt trăng mặt trời; thế nên, tất cả trời người trong quá khứ, hiện tại, vị lai, không ai bằng đức Thế Tôn, huống là muốn hơn. Chỉ có chư Phật qúa khứ, chư Phật hiện tại, chư Phật tương lai trong mười phương là bằng đức Như Lai mà thôi…
IV )- SỰ CUNG KÍNH ĐỨC PHẬT:
Từ hàng vua quan đến dân giả đối với đức Phật thế nào? Chúng ta tóm luợc Kinh Trang nghiêm trong Trung A Hàm quyển 4 từ trang 667 đến 680 về sự cung kính của hàng vua quan dân giả đối với đức Phật như sau:
Khi đức Phật du hóa tại Di Lũ Ly nơi ḍng họ Thích, có Vua Ba Tư Nặc nước Câu Tát La cùng đoàn tùy tùng đông đảo đến viếng đức Phật. Khi tới nơi, Vua ba lần xưng tên họ, rồi đến qùy lễ lạy sát chân Phật một cách cung kính, xong ngồi qua một bên Phật. Bấy giờ đức Phật hỏi Vua:
- Này Đại Vương, Đại Vương là Vua nước Câu Tát La, Đại Vương thấy biết ǵ nghĩ ǵ mà tự hạ ḿnh cung kính lễ dưới chân Ta như vậy?
Vua Ba Tư Nặc thưa:
- Con có pháp tịnh đối với Thế Tôn nên con cung kính. Con nghĩ rằng: “Như Lai, bậc Chính Đẳng Giác giảng dạy thật là toàn Thiện”.
Bạch Thế Tôn, khi con ngồi trên ngôi Vua tại Thủ đô, con nh́n thấy cảnh: mẹ con, cha con, vợ chồng, anh chị em, họ hàng quyến thuộc căi cọ, nói xấu, tranh chấp, giành giật, gây thương tổn, giết hại nhau v́ đủ thứ chuyện. Những người thân với nhau mà c̣n như thế, huống là người ngoài, không thể nói hết được sự phiền khổ; c̣n ở đây, con thấy đệ tử của Thế Tôn gồm đủ các thành phần trong xă hội, lại đông đảo như thế, đều theo Thế Tôn tu hành, không tranh căi, không thù oán nhau. Nếu có người xả giới bỏ đạo, người ấy cũng không nói xấu Phật Pháp Tỳ Kheo (Tăng), mà chỉ tự trách ḿnh rằng: “Tôi xấu xa thiếu đức hạnh, v́ tôi không thể theo trọn đời tu phạm hạnh (khuôn phép)”. Đó là pháp tịnh mà con cung kính đối với Thế Tôn.
Con thấy một số Sa môn, Phạm chí, Dị học đă ít nhiều học phạm hạnh năm mười tháng, nhưng lại xả bỏ, bị ô nhiễm bởi dục, bị dục trói buộc, dính chặt dục, sống trong dục lạc. C̣n đệ tử của Thế Tôn tự nguyện trọn đời tu đạo, con không thấy có một Tôn sư nào có được các đệ tử cùng sống tu hành bền vững như dưới mái nhà của Thế Tôn, đó là pháp tịnh mà con cung kính đối với Thế Tôn.
Con thấy một số Sa môn, Phạm chí, Ni Kiền thân thể gầy c̣m tiều tụy xấu xí, thân nổi vẩy trắng, không ai muốn nh́n. Con tự nghĩ: “Các Tôn giả này v́ sao thân thể như thế? hoặc v́ bệnh hoạn, hoặc v́ lén lút làm việc xấu, cho nên thân h́nh ốm o tiều tụy xấu xí, thân nổi vảy trắng, không ai muốn nh́n.” Con hỏi họ: “Tại sao như thế?”, họ trả lời: “Đại Vương, đây là ốm yếu gầy c̣m tiều tụy vảy trắng!”. Ngược lại, con thấy đệ tử của Thế Tôn ăn uống mỗi ngày chỉ một bữa, vô cầu không sợ, b́nh thản đoan chính, sắc mặt tươi vui, h́nh thể tinh khiết, tu hành nghiêm chỉnh. Con tự nghĩ: “Nếu ăn uống, dục lạc đầy đủ mà được hân hoan đoan chính, sắc mặt tươi vui, th́ con phải được như thế trước nhất, nhưng không phải”. Đó là pháp tịnh mà con cung kính đối với Thế Tôn.
Lại nữa, con thấy một số Sa môn, Phạm chí, Dị học tự xưng thông minh trí tuệ, thuộc làu Kinh điển, chế phục cường địch,, đàm luận thông suốt, danh tiếng đồn khắp, phá tông chỉ của người khác dễ dàng. Họ nói rằng: “Chúng ta hăy đến chỗ Sa môn Cù Đàm hỏi những điều thế này, nếu Ông ta trả lời được, ta hỏi vặn thế kia. Nếu không trả lời được ta bỏ đi”. Họ nghe Thế Tôn du hóa tại làng nọ, rừng kia, bèn t́m đến, nhưng khi gặp mặt, họ lại không dám mở miệng nói, huống là dám hỏi vặn ư?
Có người dám hỏi được Thế Tôn trả lời rơ ràng, nghe xong họ rất vui mừng phấn khởi, cúi đầu lễ sát chân Thế Tôn, đi nhiễu quanh ba ṿng rồi lui.
Có người sau khi nghe Thế Tôn giảng, vui mừng phấn khởi, liền lễ lạy sát chân rồi tự xin quy y Thế Tôn (Phật) Giáo lư (Pháp) và Tỳ Kheo (Tăng).
Có người sau khi nghe Thế Tôn giảng dạy, vui mừng phấn khởi xin xuất gia được làm Tỳ Kheo học đạo tu hành, tinh cần tu tập, ngay trong đời hiện tại tự thân chứng ngộ, đạt Vô thượng phạm hạnh. Khi Tôn giả ấy biết pháp, chứng qủa A La Hán rồi, liền nói rằng: “Này chư Hiền, trước kia khi chưa gặp Thế Tôn, tôi gần suy vong hủy diệt, v́ sao vậy? V́ trước kia tôi không phải là Sa môn, lại tư xưng là Sa môn, không phải là Phạm hạnh lại tư xưng là phạm hạnh (khuôn phép). Bây giờ tôi mới thật sự là Sa môn phạm hạnh”, đó là pháp tịnh mà con cung kính đối với Thê Tôn.
Lại nữa, con tư do trong nước con, muốn làm ǵ cũng được. Dù quyền lớn như thế, nhưng con ngồi chủ tọa việc nước vẫn không được tự do nói: “Các Khanh hăy im, không ai hỏi các Khanh, mà chính là hỏi nơi ta; các Khanh không thể quyết đoán việc này, chỉ có ta mới quyết đoán được việc này”, nhưng vẫn có người bàn căi việc khác không đợi người khác nói xong. C̣n Thế Tôn trong khi thuyết pháp có đại chúng vây quanh, con đă thấy có lần có người ngủ gục phát tiếng ngáy, người bên cạnh nói: “Ngài chớ có ngáy gây tiếng động, Ngài không muốn nghe Thế Tôn thuyết pháp như nước cam lộ chăng?” Người kia nghe tức th́ tỉnh táo. Con nghĩ Thế Tôn thật là kỳ diệu, là bậc Điều Ngự đại chúng, thật là hy hữu kỳ diệu. V́ sao? V́ Thế Tôn không dùng dao gậy, tất cả đều đúng như pháp mà được an ổn khoái lạc. Đó là pháp tịnh mà con cung kính đối với Thế Tôn.
Lại nữa, Đại thần Tiên Như , và Túc Cựu, là hai Đại thần đứng đầu triều đ́nh, phụ tá cho con. Con rất qúy mến, tin cẩn, cung cấp đầy đủ cho họ, nhưng con không thể khiến họ cung kính con như họ cung kính Thế Tôn. Có một lần xuất chinh cùng bốn quân binh, đêm đến hai Đại thần cùng ở chung nhà với con tại một làng nọ. Tối đến, con thấy hai vị này đầu đêm ngồi Thiền định tĩnh tâm, tới lúc ngủ, họ nằm đầu hướng về phiá nơi Thế Tôn ngự, c̣n chân th́ quay về phiá con. Thấy thế, con nghĩ: “Hai Đại thần này không cung kính ta như cung kính Thế Tôn”. Đó là pháp tịnh mà con có thể trọn đời hạ ư cung kính, tôn trọng cúng dàng, phụng sự Thế Tôn, v́ được gần gũi bậc Chính Đẳng Giác giảng dạy giáo pháp toàn chân, toàn thiện, toàn mỹ, không ǵ hơn được nữa.
V )- KẾT LUẬN VỀ ĐỨC PHẬT.
1)- Đức Phật có đủ sáu Đại:
1- Đại Hùng, Đại Lực: Sau 6 năm chịu đựng biết bao gian khổ thử thách, đức Phật đă chiến thắng vẻ vang. Những vị anh hùng trong nhân loại, đă có ai chiến thắng được nội tâm ḿnh? Có ai chiến thắng được ḷng ái dục của chính ḿnh? Cho nên, chiến thắng người đă khó, mà thắng ḿnh lại càng khó hơn, Ngài xứng danh là bậc Đại Hùng, Đại Lực.
2- Đại Từ, Đại Bi: Đức Phật không v́ ḿnh, bỏ hết tất cả, mà v́ chúng sanh, v́ t́nh thương nhân loại, muốn cho chúng sinh thoát khổ được vui, nên đă đi t́m chân lư, Ngài xứng với danh hiệu Đại Từ, Đại Bi.
3- Đại Hỷ, Đại Xả: Đức Phật bỏ hết để dấn thân vào cảnh cùng cực khổ sở, nhưng không thấy khổ, chẳng hề hối tiếc muốn quay lại đời sống vương giả, Ngài xứng với danh hiệu Đại hỷ, Đại Xả.
2)- Các điều Phật dạy cần ghi nhớ:
Đức Phật như hoa sen thơm, từ bùn nhơ lên không nhiễm mùi bùn, Ngài không bao giờ tự gọi hay cho người khác gọi Ngài là “Đấng Cứu Thế”, Ngài kêu gọi mọi người tự giải thoát lấy ḿnh, v́ mỗi người đều có trong sạch và bùn nhơ, nếu diệt hết bùn dơ rồi, chỉ c̣n trong sạch, tức là giải thoát vậy.
Là người phủ nhận Thần linh, nhưng không có ai có đặc tính Thần linh hơn đức Phật. Biết bao sự việc xảy ra từ khi thành đạo tới lúc nhập Niết Bàn đă chứng tỏ Thần linh của Ngài thật quảng đại, tuyệt vời, không thể nghĩ bàn, nhưng chẳng bao giờ Ngài tự xưng là Thần linh.
Thay v́ đặt ḿnh vào Thần linh vạn năng để cho Trời Người khép nép sợ sệt, đức Phật đă chứng tỏ cho tất cả Trời Người đều có thể đạt qủa tối thượng như Ngài bằng sự cố gắng của ḿnh.
Đức Phật chống đối sự phân chia giai cấp v́ sẽ làm cản trở bước tiến của loài người, Ngài chủ trương b́nh đẳng, chê bai chế độ nô lệ, lên án phong tục cổ hủ, giết súc vật cúng Thần linh, Ngài chủ trương cứu giúp tất cả chúng sinh.
Đức Phật khuyên mọi người không nên tin mù quáng, dù đó là do niềm tin của cha ông truyền lại, dù đó là do phong tục, sách vở, dù đó là lời của đại sư nói, mà phải suy xét thực hư, nghiên cứu, suy niệm bởi chính ḿnh.
Mỗi lời dạy của đức Phật là một bài học vô cùng qúy giá, chúng ta nên học và hành; những ai trên thế giới này không biết đến những lời dạy của Ngài, thật là thiệt tḥi, đáng thương thay, v́ được làm người thật là khó.
Trải qua đă trên 2500 năm rồi, nhưng gương sạch của đức Phật vẫn như mặt trời chiếu sáng cho tới khi đức Phật Di Lặc ra đời. Hiện tại, không có một ánh sáng nào của một ai trội hơn hay bằng Ngài được. Đức Phật đă nói ra giáo lư chân thật, trong sáng, dễ hiểu. Thực hành đạt được kết qủa, và đă có biết bao nhiêu người đă làm theo đạt tới đích chân lư ấy. Ngài đă sống cuộc đời gương mẫu, cao cả, không quản ngại gian nan vất vả trên mọi nẻo đường tại xứ Ấn Độ để giáo hóa chúng sanh và độ cho được giải thoát khỏi khổ đau. Ḷng thương của đức Phật là vô lượng, ân đức ấy là vô biên. Bởi vậy, để trả ân ấy một phần nào, chúng ta phải làm ǵ? Chúng ta phải:
1- Nên theo gương sáng của đức Phật:
Sự hy sinh cao cả, từ bi rộng lớn, trí tuệ sáng suốt của đức Phật không những là gương sáng cho Phật tử, mà c̣n cho tất cả mọi người dù không phải là Phật tử. Nếu quan niệm đức Phật là siêu nhân, th́ Ngài là một siêu nhân cao hơn tất cả các siêu nhân của nhân loại, cho nên Ngài phải được mọi người kính nể, tôn sùng và chiêm ngưỡng.
2- Tín đồ nên nhớ những lời di chúc:
Là Phật tử, ai cũng biết các lời dạy của đức Phật là qúy báu, nhưng nếu chúng ta không học hỏi và thực hành th́ cũng vô ích, Ngài dặn: “Tất cả đều tan ră, chỉ có chân lư là bất di bất dịch, là qúy. Hăy tinh tấn lên để giải thoát”.,.
Bookmarks