Tên thật: Tô Văn Tuấn
Sinh ngày 7 tháng 3 năm 1915 (theo giấy tờ khai sinh)
Mất ngày 7 tháng 3 năm 1987.
Sinh quán tại làng Tân Uyên, tổng Chánh Mỹ Trung, tỉnh Biên Ḥa (nay thuộc thị trấn Tân Uyên, huyện Tân Uyên, tỉnh B́nh Dương)
Ngoài ra ông c̣n dùng các bút danh như Phong Ngạn, Hồ Văn Huấn, Tôn Dzật Huân, Phóng Ngang, Phóng Dọc, Diên Quỳnh...
B́nh Nguyên Lộc xuất thân trong một gia đ́nh trung lưu đă có mười đời sống tại Tân Uyên. Cha là ông Tô Phương Sâm (1878-1971) làm nghề buôn gỗ. Mẹ là bà Dương Thị Măo (hay Mẹo) (1876-1972)
Ông học trung học ở trường Pétrus Kư từ niên khóa 1929 đến 1933. Đến năm 1934, ông trở về quê lập gia đ́nh với cô Dương thị Thiệt và sống cuộc đời công chức.
Năm 1936 ông mới bắt đầu viết văn; Truyện ngắn đầu tay của ông với tựa đề Phù sa, đại ư nói về cuộc Nam tiến của người Việt vào miền đất mới Nam Kỳ.
Sau biến cố đau thương 30/4/1975, ngưng cầm bút và sống tại Saigon.
Tháng 10 năm 1985, ông được ra đi đ̣an tụ với gia đ́nh tại Sacramento, California.
Đến ngày 7 tháng 3 năm 1987, trong cơn bạo bệnh, ông từ trần tại Rancho Cordova, Sacramento, California, thọ 74 tuổi, chôn cất tại nghĩa trang Sunset Lawn.
Một năm sau, vợ ông, bà Dương Thị Thiệt, qua đời ngày 9 tháng 10 năm 1988, được chôn cất cùng nơi với ông.
Sự Nghiệp Văn Chương:
B́nh Nguyên Lộc đă mất nhưng tên ông vẫn sống măi trong ḷng người qua rất nhiều tác phẩm nổi tiếng mà ông đă để lại cho đời như:
-Đ̣ Dọc , 1958, nhà xuất bản Bến Nghé, Saigon
-Nhện Chờ Mối Ai, 1962, nhà xuất bản Nam Cường, Sài G̣n
-Bí Mật Của Nàng, 1963, nhà xuất bản Thế Kỷ, Sài G̣n
-Xô ngă bức tường rêu, 1963, nhà xuất bản Sống Vui, Sài G̣n
-Đừng Hỏi Tại Sao, 1965, nhà xuất bản Tia Sáng, Sài G̣n
-Mùa Thu Nhớ Tằm, 1965, nhà xuất bản Phù Sa, Sài G̣n
-Cuống rún chưa ĺa, Tập Truyện 1969, nhà xuất bản Lá Bối, Sài G̣n
-Lương tâm kẻ trộm, 1971, tạp chí Hương Quê, Sài G̣n.
và c̣n nhiều, rất nhiều ...
Phú Yên
-----------------
CUỐN RỐN CHƯA L̀A
Đây là một tập truyện gồm nhiều truyện ngắn:
-Con Tám cù lần
-Chiêu hồn nước
-Bà Mọi hú
-Căn bệnh bí mật của nàng
-Lửa tết
-Thèm mùi đất
-Câu dầm
-Phân nửa con người
-Chiếc khăn kỷ niệm
-Bám níu
-Ma ném đá
-Mấy vụ quật mồ bí mật
-Về làng cũ
-Những đứa con thương của đất mẹ
-Hương hành kho
-Bán ngôi nhà cổ
-Những ngôi mả tổ
Con Tám Cù Lần
Mặc dầu nó cù lần, con tám Cù Lần là hy vọng cuối cùng của tôi (*1).
Từ hôm đầu năm tới bây giờ, tôi đă thay đổi người làm năm lần rồi. Tôi nghe nói bên Âu Mỹ, công ăn việc làm nhiều lắm, nên người đi ở lấy rất mắc và chỉ có bực triệu phú mới dám thuê người thôi, nên tôi cũng không khổ lắm mà phải làm một ḿnh đủ thứ việc trong nhà, ngặt trẻ con đông, tôi không làm sao mà quán xuyến cho hết công việc.
Con Tám Cù Lần là đứa độc nhất không biết rằng ngoài gia đ́nh tôi, c̣n rất nhiều người hoạt động trong đủ thứ ngành, ngành nào cũng cần nhân công, cho đến mấy ông thầu khoán mà cũng tuyển mộ phụ nữ để phụ với thợ nề, tuy họ trả lương không cao hơn tôi, trên hai ngàn đồng mỗi tháng mà không cho ăn, ở, áo quần như tôi, nhưng phụ nữ họ vẫn thích đi làm phu lương thấp hơn là đi ở. Họ không đá động tới nhân phẩm, tới ǵ hết ráo, nhưng tôi biết rằng ai cũng sợ nội trợ cả, chính các bà nội trợ là tôi đây mà c̣n sợ, huống hồ ǵ là người chưa có gia đ́nh: làm nội trợ rất tối tăm và rất buồn, chưa kể nhọc không tưởng tượng được.
Nếu như mấy năm trước th́ tôi không thể nào nhận con Tám Cù Lần cả.
Các cháu cho nó cái tục danh ấy, và tục danh được trường sanh, v́ tả rất đúng con Tám.
Các bạn có bao giờ thấy con Cù Lần chưa? Tôi không có gặp nó trong rừng sâu như đàn ông đă gặp mà chỉ thấy một con Cù Lần người ta bắt về nuôi mà thôi. Nó nhỏ cỡ bằng con mèo, nhưng lông màu giống màu lông chó phèn. Đôi mắt nó lờ đờ và như lim dim ngủ suốt ngày, có xô đuổi nó, nó cũng không buồn biết tới. Khi nào cần xê dịch lắm, nó mới dời chỗ, mà nó phải bỏ ra một tiếng đồng hồ để đi lối một thước tây. Ấy, con Tám là h́nh ảnh trung thành của con Cù Lần, có kêu gọi nó th́ phải đợi mười phút sau mới nghe nó lên tiếng, và đợi thêm mười lăm phút nữa mới thấy mặt nó, mặc dầu nhà tôi, từ trước ra tới sau bếp chỉ dài có 15 thước tây thôi.
Nó cũng chẳng biết làm ǵ hết ráo, trừ lặt rau và rửa chén. Vậy mà tôi quí nó lắm, v́ dù sao nó cũng đỡ tay cho tôi phần nào. Chẳng hạn, tôi dạy nó lau gạch trong một tuần lễ th́ nó đă lau sạch được nền nhà, một ḿnh nó, khỏi phải kiểm soát nữa. Giặt giụa th́ hơi khó thật đó Nhưng chắc dở lắm nó cũng làm được sau một tháng học tập. Sáu tháng nữa là tôi có thể nghỉ ngơi một ngày vài tiếng đồng hồ.
Người ḿnh cứ tin rằng đi rừng mà gặp con Cù Lần th́ ba năm làm ăn ngóc đầu không lên, nhưng ngày mà một người bà con đưa con Cù Lần nầy tới đây, tôi sung sướng vô cùng. Dĩ nhiên là ngày đó nó chưa mang tên Cù Lần nhưng tôi đă nghĩ ngay đến danh từ Cù Lần lúc thấy mặt con bé thôn nữ quá chậm chạp này.
Bỗng dưng đùng một cái, cái hy vọng cuối cùng của tôi, một đêm kia, xin nghỉ việc.
Tôi choáng váng gần như là nghe ba các cháu tỏ ư muốn đoạn tuyệt với tôi. Năm đứa con thơ, mà đứa lớn hơn hết mới có bảy tuổi, đứa bé hơn hết mới được có sáu tháng th́ các bạn tính coi.
Thật là tin sét đánh v́ con tám Cù Lần không có tánh ngồi lê đôi mách, không ưa đánh đôi đánh đọ với bạn đồng nghiệp của nó cùng khu phố - vả lại cũng c̣n leo heo vài đứa thôi, đứa nào cũng tật nguyền cả - th́ làm sao mà nó biết tin tức về sinh kế ở đô thành hiện giờ mà muốn "thoát ly". Các bà nội trợ ở xóm nầy, chắc không ai dụ dỗ nó làm ǵ, trái hẳn với thói phần đông của các bà, v́ ai thấy cái tướng Cù Lần của nó cũng phát ngán, đâu có chuyện quyến rủ một người làm giỏi, hoặc kha khá.
- Mầy xin thôi thiệt sao Tám? Tôi gạn hỏi nó một cách ngớ ngẩn như vậy, và nó thật thà đáp:
- Dạ thiệt cô à!
- Ai nặng nhẹ mầy, ai ăn hiếp ăn đáp mầy?
- Dạ, không có ai cô à.
Tôi nghĩ tới các cháu, khi hỏi câu trên. Chúng nó không ác, nhưng chúng nó có thể vô t́nh làm phật ḷng con bé hiền lành nầy.
- Mầy thôi để đi làm cho Huê kỳ hả?
Con Tám ngơ ngác nh́n tôi mà không đáp, và tôi hiểu ngay rằng không phải thế. Không, nó không hề hay biết ǵ hết về sự đổi thay mấy tháng nay: công việc nhiều, người làm ít. Nó thật thà, dốt nát, và không có đi đâu cả, trừ theo tôi đi chợ rồi về.
- Chớ mầy thôi rồi đi đâu, làm ǵ?
- Dạ, cháu nhớ ốc gạo.
- Nhớ ốc gạo?
Bây giờ tới phiên tôi ngẩn ngơ nh́n nó. Con bé nầy nó trêu tôi sao mà? Ai lại nhớ ốc gạo!
Kể về thú vật th́ chính mắt tôi đă thấy những thằng bé chăn trâu, chăn ḅ, nhớ trâu ḅ, khi chủ chúng nó bán những con vật ấy. Chính mắt tôi lại đă thấy những bà cụ ở thôn quê sa nước mắt mỗi lần chú chệt mua heo xách cây cần ṿng bằng mây đến bắt chơn cho heo của các cụ té rồi trói gô lại khiêng đi. Người da trắng xem chó là bạn thân, nhưng xứ ta, chó chỉ đứng vào hàng thứ ba trong nỗi nhớ niềm thương của thiên hạ thôi. Và những loài vật được loài người thương nhớ, chỉ có bốn loại ấy, trong xă hội ta. Tôi có nghe vài người nói nhớ gà, nhưng họ nói nghe ra không tha thiết lắm. Nhưng ai lại nhớ ốc gạo bao giờ. Loài ốc gạo ở dưới nước, nội cái đặc tính ấy của giống vật đó đủ chỉ rơ rằng ta không có lư do mà nhớ nó. Nó có gần gũi như mèo, hay tệ lắm như chuột đâu. Con dơi coi vậy mà thỉnh thoảng c̣n vào nhà thăm ta, chớ ốc gạo th́ lạnh như nước rạch mà chúng sống trong ấy!
- Theo pháp luật th́ mầy với tao, cả hai phải báo với người kia hay trước mười lăm ngày, nếu muốn thôi nhau, mầy có biết không? Tôi hỏi.
- Dạ không.
- Không th́ nên biết đi. Tao có quyền cho mầy thôi việc ngay bây giờ, miễn là phải trả công không cho mầy cái mười lăm ngày mà mầy được biết số phận, để đi t́m việc khác, c̣n mầy th́ không, bởi mầy có thể không có việc mà vẫn khỏi đói nhờ 15 ngày lương đó, c̣n tao th́ cỡ tao được nhận tiền bồi thường của mầy, tao cũng bị thiệt hại bởi công việc bị ngưng trệ th́nh ĺnh. Mầy hiểu không?
- Dạ hiểu.
- Vậy th́ mười lăm ngày nữa mầy mới nghỉ việc được.
Tôi không thích giữ một người buồn, nhưng chưa t́m được người, biết sao!
Con Tám Cù Lần nhẫn nại chiu số phận, nhưng nó giống hệt một đứa con gái đau tương tư.
Tôi đưa nó đi Thảo Cầm Viên, đi coi Cải lương, đi xem đèn màu Sài g̣n ban đêm. Không ăn thua ǵ cả. Nó mê những thứ ấy th́ quả có mê thật đó, nhưng không nguôi được mối t́nh ốc gạo của nó, khiến tôi đâm nghi rằng nó nói láo, chớ thật ra là nó sầu t́nh, thằng nhơn t́nh của nó có lẽ nhắn nó về.
Hồi nó vô làm với tôi, nó nói rằng ở dưới không yên. Tôi tin rằng nó nói thật, và vẫn c̣n tin. Như vậy sao nó lại cứ nằng nặc đ̣i về chỗ thiếu an ninh?
- Tại sao chị lại đ̣i về dưới ấy chi Tám? Thằng Công, thằng con lớn nhất của tôi hỏi con Cù Lần như vậy.
- V́ tới mùa ốc gạo rồi.
- Tới mùa th́ sao?
- Chị phải về đi xúc ốc gạo.
- Ốc gạo sống ở đâu chị?
- Ở dưới rạch.
- Làm sao mà xúc chị?
- Th́ đợi nước ṛng lấy rổ xuống dưới ấy mà xúc chớ.
- Xúc chi vậy chị?
- Xúc để bán.
- Bán bao nhiêu một con chị?
Tới đây, tôi sực nhớ ra là bà bán rượu lậu ngoài đầu ngơ tôi, bả bán ốc gạo luộc làm đồ nhắm cho bợm nhậu, một đồng bạc có ba bốn con ǵ đó. Ba bốn con ốc gạo với lại một chén nước mắm chanh nhỏ bằng cái vú cau, mà những một đồng bạc th́ kể ra cũng khá được tiền.
Tôi đợi nghe tới, xem con Cù Lần cho biết giá cả và số ốc gạo mà nó xúc được. Nhưng nó chỉ bật cười mà không đáp.
Con tôi không hỏi lại, hỏi câu khác:
- Chị xúc một ngày được mấy con?
- Mấy con th́ lấy ǵ mà ăn. Mỗi ngày chị xúc hàng chục rổ.
- Dữ vậy lận? Mà chị bán bao nhiêu một con chớ?
- Đâu có bán con, bán con ǵ được. Chị bán rổ.
- Bao nhiêu một rổ?
- Chừng ba đồng bạc.
Tôi ngạc nhiên quá. Như vậy, công nó làm,bọn trung gian ăn hết và nó chỉ kiếm được khoảng ba bốn chục bạc mỗi ngày, đâu có bằng lương tháng có ăn ở và áo quần của tôi.
Hơn thế, mùa ốc gạo kéo dài cao tay lắm là hai tháng mà thôi. Có đáng ǵ cho nó bỏ một chỗ làm, một nơi tạm trú tốt trong lúc nó đi t́m an ninh?
- Hễ tới mùa ốc gạo là chị phải về hả? con tôi lại hỏi.
- Ừ.
- Sao vậy?
- Để bắt ốc.
Con Cù Lần trả lời sai v́ nó đần, chớ không phải muốn đánh trống lấp đâu. Nó không phân biệt được hai nghĩa khác nhau của hai câu hỏi: "Về chi vậy" và "Tại sao tới mùa th́ phải về".
Nhưng con tôi cũng khờ không kém, nên nó thỏa măn được với câu trả lời ăn trớt đó, và hỏi câu khác:
- Chị về đâu chị Tám?
- Về chợ Bưng.
- Chợ Bưng có vui không chị?
- Vui lắm !
- Vui bằng Sài g̣n không chị?
- Vui hơn.
- Có xi-nê không chị?
Con Cù Lần không biết xi-nê là ǵ, nhưng đáp bừa:
- Có
- Chợ Bưng ở đâu chị?
Tôi nín thở, để nghe nó trả lời. Đó là cái chợ xép ở xó quê nào, làm ǵ mà có xi-nê. Nhưng con Cù Lần không bao giờ nói láo, nên tôi tin rằng ở quê hương nó có xi-nê, và đợi nghe coi nó cho biết ở đâu, để ḿnh bớt dốt địa lư nước nhà, bởi cái chợ có xi-nê ấy hẳn phải quan trọng lắm, tôi không có quyền không biết.
Con Cù Lần mù chữ. Nhưng tôi lại h́nh dung được rơ ràng cái chợ Bưng, qua lời tả của nó, như là nó đă thấu đáo khoa tác văn, chương miêu tả. Nghe xong, tôi mới hiểu v́ sao mà nó nhớ ốc gạo.
- Nè, em biểu xe đ̣ nó ngừng lại ga Tân hiệp nha.
- Ừ !
Thẳng Công không hề biết ga Tân hiệp ở đâu cả, nó cũng không hay rằng nhà ga ấy đă được phá hủy rồi v́ đường thiết lộ Sài g̣n-Mỹ tho đă bị bỏ từ lâu, nay nhà ga biến thành một địa danh. Nó cũng chẳng định đi chợ Bưng, nhưng nó nghe lời chỉ nẻo như là nó muốn xuống dưới ấy một chuyến.
- Ừ!
- Đó, con đường đi chợ Bưng ở trước mặt ga Tân hiệp.
- Xuống xe ở đó rồi đi bộ sao?
- Chớ đâu có xe mà đi, mà có, đi cũng hổng được, v́ là đường đất.
- Đi mỏi chân hôn chị?
- Hồi đó th́ không, bây giờ th́ mỏi.
- Bây giờ chị già rồi, như bà ngoại vậy hả?
Con Cù Lần cười ngất rồi đính chánh:
- Hổng phải. Hồi đó có xe lửa, họ đi buôn bán đông, đi đường chung với nhau vui nên hổng biết mỏi. Bây giờ đường vắng đi ngán lắm. Mà có cái nầy, c̣n ngán hơn.
- Ǵ ?
- Ma!
- Ư, ẹ, ghê quá! Ma trong rừng hả?
- Đâu có. Xứ chị hổng có rừng. Chỉ có bưng mà thôi.
- Bưng là cái ǵ?
- Là đồng lầy.
- Ma ngoài đồng?
- Ừ, ma ngoài đồng, ma trên g̣ é. Con đường đất ấy đi ngang qua một cái g̣, g̣ cao, nên họ chôn người chết ở g̣ cho khỏi bị nước ngập.
- Ma nhiều hôn chị?
- Bao nhiêu cái mả th́ bao nhiêu ma.
- Mà có mấy cái mả?
- Có cả trăm cái.
- Ư, ẹ !
- Đi ngang qua đó giấc hừng đông, giấc chạng vạng, và nhất là vào giờ đứng bóng th́ ai cũng phải chạy, và ai cũng bị nó rượt theo sau, nó rượt nà, tiếng chơn của nó ḿnh nghe đùi đụi.
Quả đúng như tôi đoán. Cứ theo lời con Cù Lần th́ chợ Bưng chỉ là một cái chợ xép, mười giờ đúng là tan chợ. Chợ cất bằng gỗ, lợp lá. Hai bên chợ leo heo vài tiệm tạp hóa. Rồi th́ nhà dân.
Nhưng con Cù Lần không ở tại chợ đâu. Nhà nó cất trong xóm trong, phải qua ba con rạch mới tới xóm.
Thằng Công không đồng ư:
- Vậy mà chị nói vui bằng Sài g̣n !
- Ừ, vui bằng.
- Em có thấy ǵ vui đâu?
- Em hổng biết chớ đi chợ vui lắm, đi ga cũng vui lắm.
- Vui cái khỉ khô.
- Vui chớ. Đi chợ hồi ba giờ khuya, đi qua nhà chị em bạn, hú họ, họ ra vầy đoàn với ḿnh, chín, mười chị, lại hổng vui sao?
- Sao lại phải đi chợ khuya?
- Đi chợ ngoài đường lộ, chớ có phải đi chợ Bưng đâu.
- Sao lại có chợ Bưng mà hổng đi?
- Ở đó thiếu đồ. Mỗi tháng phải đi chợ lớn ngoài đường lộ một lần. Khuya hai giờ, thức dậy nấu cơm ăn, lại hổng vui sao?
- Ăn cơm sao lại vui?
- Nấu cơm vui. Muốn nấu cơm, phải nhúm lửa, mà lửa th́ vui.
- Lửa vui?
- Ừ, ở dưới tối, nên hễ sáng là vui. Ở dưới lạnh, có lửa ấm th́ vui. Em mà thấy lửa chiều mưa thử coi.
- Lửa chiều mưa làm sao?
- Chiều mùa mưa, ai làm ngoài ruộng, hay đi đâu cũng về nhà hết rồi ăn cơm ở nhà bếp, quanh ḷ lửa, đông đủ cả nhà, vui lắm.
- Đă ăn cơm mà c̣n nấu cái ǵ nữa?
- Ừ, ở dưới nhà quê luôn luôn nhúm lửa chớ không để tắt bếp như trên nầy. Mà hễ lửa có là phải nấu cái ǵ, thí dụ luộc khoai.
C̣n sang mùa Bấc th́ lửa ngủ rơm cũng vui.
- Lại một thứ lửa nữa! Nhưng em hổng thấy ǵ vui hết.
- Vui lắm chớ. Nè, gặt rồi th́ phơi rơm ngoài ruộng. Có khi phơi lúa nữa. Phải ngủ ngoài ấy giữ lúa, giữ rơm. Gió Bấc lạnh, năm bảy chị em đốt rơm lên,vui chơi, ḥ hát, vui lắm mà.
- Hông, lửa đâu có vui, thằng Công nhất đinh không nhận quan điểm của con Cù Lần.
- Vậy hả? Em hổng thấy là lửa vui sao?Vậy th́ nước vui.
- Nước làm ǵ mà vui?
- Nó không có làm ǵ hết. Nó chỉ dâng lên tới thềm là vui, thấy như là ḿnh sung túc.
- Nước ở đâu mà dâng lên tới thềm?
- Ngoài đồng. Bờ nước cũng vui. Em hổng thấy cây bần mọc dựa rạch lúc chạng vạng tối. Đôm đốm nó đậu nghẹt các lá cây, các nhánh cây, nó chớp cháy rồi tắt, buồn ghê lắm!
- Buồn, sao chị nói là vui?
- Ừ buồn mà vui. Chị nghe vui mà được buồn.
- Chị nầy điên.
- Em hổng biết đâu.
Phải có nghe giọng con Cù Lần nói, mới thấy được ḷng thương mến làng mạc của nó, giọng nói c̣n quan trọng hơn là lời nói nhiều lắm. Lại c̣n những lúc im lặng nữa. Ta học nhạc Tây phương, đă thấy những sự quan trọng của những chỗ im lặng, th́ những lúc con Cù Lần im lặng cũng quan trọng lắm. Tôi nghe và h́nh dung nó đang nh́n xa về làng nó.
Th́ ra nó chỉ nhớ nhà mà thôi, chớ không có nhớ ốc gạo khỉ khô ǵ hết. Nỗi nhớ nhà nầy được mùa ốc gạo gợi lên, thành ray rứt quá, nó chịu không thấu, khi nó thấy ốc gạo bán đầy các vỉa hè cho bợm nhậu nhắm rượu. Chắc không thể nào nó trở lên đây nữa, sau mùa ốc gạo.
Tôi thấy trước rằng tôi sẽ bùi ngùi nhớ nó, nhớ cái vùng quê mà nó tả, bởi tôi có ở thôn quê, tôi hiểu được nó và niềm thương nỗi nhớ của nó cũng cùng một loại với niềm thương nỗi nhớ của tôi, thuở tôi rời làng lên đây. Con tôi không làm sao mà hiểu được hết, v́ chúng nó không biết cái t́nh nhớ xứ là ǵ. Đô thị không phải là nơi mà người ta có thể nhớ được, huống chi đô thành Sài g̣n thật kém thơ mộng. Ngày mai, tôi phải cho gia đ́nh ăn ốc gạo một bữa mới được, mặc dầu món ăn ấy rất kém vệ sinh. Con Tám Cù Lần có thể nhớ nhiều kỷ niệm nữa, do ốc gạo gợi ra, sẽ nói thêm cái ǵ. Mà tôi th́ rất ưa nghe nó thật thà kể lể những chuyện không đâu mà có ḿnh nó với tôi là hiểu thôi.
-------------------------
(*1) Lời một người nội trợ
Bookmarks