Results 1 to 2 of 2

Thread: Nguyễn Sơn: Thầy hay Đối thủ Hồ Chí Minh

  1. #1
    Member
    Join Date
    24-05-2016
    Posts
    6,466

    Nguyễn Sơn: Thầy hay Đối thủ Hồ Chí Minh

    Nguyễn Sơn: Thầy hay Đối thủ Hồ Chí Minh
    Nghi vấn lịch sử về quan hệ giữa chủ tịch đảng CSVN Hồ Chí Minh và “Lưỡng quốc tướng quân” Nguyễn Sơn: Thầy tṛ hay đối thủ chính trị?
    P1


    Bài 1: Về một người cộng sản “không giống ai”

    Cao Tuấn (Danlambao) - Chủ Tịch đảng Cộng Sản Việt Nam Hồ Chí Minh (1890-1969) và “Lưỡng Quốc Tướng Quân” Nguyễn Sơn (1908-1956) là hai nhân vật lịch sử quan trọng của một thời đại và họ có mối quan hệ đặc biệt với nhau. T́m hiểu thực chất mối quan hệ này không nhằm mục đích phê phán mà là ư hướng muốn tiếp cận sự thực lịch sử, cái sự thực lịch sử rắc rối, phức tạp không giống như những huyền thoại lưu truyền.

    Hành tŕnh đi t́m sự thực bắt đầu bằng sự phân tích, đăi lọc, lượng giá và tổng hợp những tài liệu bán chính thức và chính thức có nguồn gốc từ nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam đă được t́m thấy trên trên một số websites (1).
    ...

    Và nguồn tài liệu đáng kể nhất là quyển sách “Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương” mang khá nhiều thông tin mới mẻ rất có ư nghĩa.

    Đây là quyển sách dịch được nhà xuất bản Văn Học, Hà Nội in và lưu hành rộng răi từ năm 2001 từ nguyên bản chữ Hán “Hoàng Hà luyến, Hồng Hà t́nh” do nhà xuất bản Thế Giới Đương Đại, Bắc Kinh ấn hành năm 2000. Dịch giả là thiếu tướng Nguyễn Đồng Thoại của Bộ Quốc Pḥng Việt Nam. Tác giả là Trần Kiếm Qua, 86 tuổi, đảng viên trung kiên của đảng Cộng Sản Tàu, người vợ Trung Hoa, nay đă mất, của Lưỡng Quốc Tướng Quân. Tuy nhiên nội dung sách gồm cả những tài liệu “bí mật quốc gia” mới được giải mật lần đầu tiên cho thấy thực ra tác phẩm là một công tŕnh tổng hợp của 3 tác giả chính: Trần Kiếm Qua kể lại cuộc đời vợ chồng 7 năm với Nguyễn Sơn, hai tác giả c̣n lại là cơ quan Tuyên Giáo của đảng Cộng Sản Tàu và cơ quan Tuyên Giáo của đảng Cộng Sản Việt. Mục đích và đối tượng của sách hiện rơ ngay trong lá thư trang trọng ngày 22 tháng 9 năm 2001 nói là của Trần Kiếm Qua, kèm cả thủ bút và chân dung. Bản dịch của lá thư được in ngay ở phần đầu sách “Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương” có nội dung chính như sau:

    “Thư gửi nhà xuất bản Văn Học và bạn đọc Việt Nam:

    ...Hoàng Hà là ḍng sông mẹ của Trung Quốc. Hồng Hà là ḍng sông mẹ của Việt Nam. Cuốn sách nói về một câu chuyện có thực, ghi lại những thực tế về cuộc chiến đấu kề vai sát cánh giữa hai quân đội, hai Đảng, hai nước Trung Quốc và Việt Nam, phản ảnh thực tế nhất về t́nh hữu nghị truyền thống của nhân dân hai nước Trung-Việt. Gia đ́nh chúng tôi chính là tượng trưng cho t́nh hữu nghị đó. Hoàng Hà và Hồng Hà sẽ măi măi chảy xuôi, t́nh hữu nghị giữa nhân dân hai nước Trung-Việt cũng sẽ măi bền vững với thời gian...

    Kính thư!

    Phu nhân tướng Nguyễn Sơn

    Trần Kiếm Qua”.

    Có tên như một truyện t́nh lăng mạn nhưng lại là sách có bản chất và mục đích chính trị, “Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương” như thế phải được hiểu là một cố gắng bài bản của cả 2 đảng Cộng Sản Việt và Tàu nhằm lật ngược tinh thần bài Hoa, chống Tàu trong xă hội Việt từ Nam ra Bắc, hậu quả của những hành động bá quyền lấn hiếp lân bang đang diễn ra trên biển Đông của nhà cầm quyền Trung Cộng và quan trọng hơn nữa, hậu quả của hơn một thập niên Trung-Việt thù nghịch vừa mới “chính thức chấm dứt” trong hội nghị Thành Đô tháng 9/1990.

    Độ tận kiếp ba huynh đệ tại
    Tương phùng nhất tiếu mẫn ân cừu
    (Qua cơn sóng gió anh em c̣n đó
    Gặp nhau cười một tiếng quên hết oán thù).

    Các lănh tụ đảng CSVN Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng, theo hồi kư của Thủ Tướng Trung Cộng Lư Bằng kể lại, đă rất vui mừng được Tổng Bí Thư đảng Cộng Sản Tàu Giang Trạch Dân đọc tặng 2 câu thơ trên sau khi đặt bút kư biên bản gọi là “hoà giải”.

    Các lănh tụ Cộng Sản Việt Nam rất có lư do để vui mừng.

    Trước Hội Nghị Thành Đô chừng một năm, họ đă kinh hăi trông thấy trận băo “diễn biến hoà b́nh” có thể sắp ập tới Việt Nam chính là trận băo 1989-1990 đang càn quét và làm tan tành các chế độ Cộng Sản ở Ba Lan, Hung, Tiệp, Đông Đức, Albania, Bulgaria, Romania, Nam Tư với cao điểm là vợ chồng bạo chúa Ceaucescu bị xử tử trong khi đó th́ lănh tụ Sô Viết Gorbachev không những khoanh tay đứng nh́n mà c̣n cắt các khoản viện trợ thiết yếu dành cho các nước Cộng Sản đàn em, kể cả Việt Nam.

    Họ cũng nh́n thấy chế độ Cộng Sản Trung Hoa sẽ sụp đổ về vụ Thiên An Môn nếu Đặng Tiểu B́nh không nghiến răng ra lệnh tàn sát dù máu có chảy thành sông. Trong bối cảnh nguy nan, bất trắc và tâm trạng lo lắng ấy họ đă nhận chân rằng Đảng cộng Sản Tàu là chỗ dựa duy nhất, chỗ nương tựa duy nhất của đảng Cộng Sản Việt. Hội nghị Thành Đô được mô tả là hội nghị của “hoà giải” Việt-Trung, thực chất là đàn em t́m đến đàn anh xin tha thứ “lỗi lầm” cũ và xin được bao bọc, che chở - trước khi chính thức kư cái biên bản bị chính trong nội bộ coi là bắt đầu một thời kỳ “Bắc thuộc” mới.



    Nhưng làm sao chiến tranh với bao nhiêu tàn phá, chết chóc, làm sao thù nghịch ṛng ră cả một thập niên (1980’s), bao nhiêu tuyên truyền, giáo dục vo tṛn bóp méo trong nhân dân hai nước, thậm chí ra cả bạch thư, ghi trong hiến pháp CHXHCN Việt Nam chỉ đích danh “kẻ thù truyền kiếp” mà nay có thể chỉ “cười một tiếng quên hết oán thù”?!

    Rất thất sách và phản tác dụng nếu Bộ Chính Trị của đảng CSVN ra lệnh hay ra nghị quyết “v́ quyền lợi sinh tồn tối thượng của... Đảng kể từ ngày hôm nay trở đi cụm từ “kẻ thù truyền kiếp của dân tộc ta” phải được thay bằng “t́nh hữu nghị truyền thống của nhân dân hai nước Trung Việt” và bất cứ ai nói hay làm ngược lại sẽ bị trừng phạt đích đáng”.

    Đảng Cộng Sản Việt và cả đảng Cộng Sản Tàu đă không “vô chính trị” như thế.

    Gieo Độc cần “nghệ thuật tuyên giáo” th́ Giải Độc c̣n cần “nghệ thuật tuyên giáo” nhiều hơn nữa! Phải có kế hoạch khôn khéo, phải mở những chiến dịch “tâm công”, tích cực nhưng từ tốn như “mưa dầm thấm đất” và rất tự nhiên như chuyện giải trí, văn chương, học hỏi nghiên cứu b́nh thường, có nghĩa... như là “Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương”!

    “Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương” nói riêng và các “chiến dịch” tưởng niệm - nhằm, nói chung, “làm sống lại” nhân vật Nguyễn Sơn liên tục từ nhiều năm nay, mặt khác, vô h́nh trung lại là cơ hội “đốt ḷ hương cũ” để biết Nguyễn Sơn đến thế nào, đi thế nào, đă viết ǵ, nói ǵ, làm ǵ, đă sống thế nào, chết thế nào trong những năm tháng sôi động ấy... Một khi đă hiểu Lưỡng Quốc Tướng Quân thực sự là ai th́ sẽ hiểu được thực chất mối quan hệ giữa hai nhân vật lịch sử Hồ Chí Minh và Nguyễn Sơn cũng như ư nghĩa và hậu quả của mối quan hệ ấy đối với chính lịch sử của nước Việt Nam.

    Bối cảnh một cuộc hồi hương

    Đầu tháng 8/1945 Mỹ thả 2 quả bom nguyên tử trên thành phố Hiroshima và Nagasaki cùng lúc với đội quân Quan Đông hơn một triệu người của Nhật Bản ở Măn Châu bị gần 100 sư đoàn cơ giới của Liên Sô đánh tan một cách bất ngờ trong ṿng 2 tuần lễ.

    Ngày 15/08/1945 Nhật đầu hàng Đồng Minh.

    Ngày 19/08/1945 Việt Minh tổ chức biểu t́nh cướp chính quyền tại Hà Nội trước sự bất lực và mất tinh thần của chính quyền thân Nhật Trần Trọng Kim. Quốc vương Bảo Đại thoái vị, chấm dứt triều đại nhà Nguyễn.

    Hồ Chí Minh tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà nhưng không được cường quốc nào công nhận. Riêng Tổng Thống Mỹ Harry Truman hoàn toàn làm ngơ trước những công hàm liên tiếp và khẩn thiết của Hồ Chí Minh yêu cầu Mỹ công nhận nền độc lập của Việt Nam và công nhận chính quyền Việt Minh. Lư do chính là Truman đă biết cá nhân Hồ Chí Minh và chính quyền do ông Hồ đứng đầu là Cộng Sản, có liên lạc mật thiết với đảng Cộng Sản Nga và đảng Cộng Sản Tàu. Mặt khác, có thể Mỹ cũng không muốn gặp khó khăn rắc rối với đồng minh Pháp và Trung Hoa Dân Quốc một cách không cần thiết.

    Vào lúc Nhật đầu hàng Đồng Minh, Mao đă có trong tay 1 triệu quân, 100 triệu dân, kiểm soát một lănh thổ rộng lớn ở vùng Hoa Bắc, lại có Liên Sô, cường quốc đang tập trung đạo lục quân mạnh nhất thế giới ngay sau lưng tại Măn Châu. Nếu Mỹ không có bom nguyên tử, Mao và Stalin có thể phối hợp đánh bại Tưởng Giới Thạch trong ṿng 6 tháng mà Mỹ không kịp trở tay. Trong trường hợp này, chính quyền Hồ Chí Minh không cần nài nỉ Mỹ công nhận, chỉ cần chạy vào rừng cố gắng cầm cự cho qua 6 tháng ấy là thoát nạn. Nhưng thực tế Mỹ đang độc quyền vũ khí nguyên tử, không quân, hải quân mạnh nhất thế giới, căn cứ khắp nơi, kinh tế không bị tàn phá lại đang hết sức phát triển... Được Mỹ công nhận là chính quyền hợp hiến, hợp pháp của nước Việt Nam độc lập có hiệu quả hoá giải ngay mối đe doạ từ Trung Hoa Dân Quốc và từ đế quốc Pháp đối với Hồ Chí Minh và đảng CSVN. Tuy nhiên việc này đă không xảy ra.



    Hoàng Văn Hoan trong hồi kư “Giọt Nước Trong Biển Cả” tả t́nh cảnh chính quyền Hồ Chí Minh cuối năm 1945 là “ngàn cân treo sợi tóc”. Hồ Chí Minh tuyên bố độc lập th́ 3 tuần sau Pháp đă đổ bộ mấy chục ngàn quân tinh nhuệ, tái lập chế độ bảo hộ ở Lào, Miên và miền Nam VN một cách dễ dàng. Chính quyền Việt Minh địa phương chống cự yếu ớt. Thêm 2 tuần nữa th́ 200,000 quân Tàu Quốc Dân Đảng tràn vào miền Bắc, vừa giải giới quân Nhật, vừa hăm he “diệt Cộng, cầm Hồ” mưu đồ lập một chính quyền phiên thuộc, ít nhất ở Bắc Việt Nam.

    Cả nước mới chỉ có 5000 tay súng, không có kinh nghiệm chiến trận, trấn áp đám quốc gia “phản động” như Việt Quốc, Việt Cách, Đại Việt, Duy Dân... th́ tạm đủ nhưng đánh nhau với Pháp hay với Tàu Quốc Dân Đảng là “trứng chọi đá”. Ông Hồ Chí Minh dĩ nhiên phải cân nhắc, tính toán đủ đường. Không dám chống cự quân Tàu Tưởng. Làm “tuần lễ vàng” để quyên vàng hối lộ Tiêu Văn, Lư Hán, rất nhún nhường trước các “thượng quan“. Giả vờ giải tán đảng Cộng Sản, tổ chức bầu cử quốc hội, sao chép Hiến Pháp Mỹ để làm Hiến Pháp Việt Nam, lập chính phủ Liên Hiệp... Bí mật cầu cứu Mao, nhưng Mao đang đứng bên bờ cuộc nội chiến sắp bùng nổ toàn diện ở Tàu, lực lượng chỉ tập trung ở vùng Hoa Bắc lại phải đối phó với hơn 3 triệu quân của Tưởng đang h́nh thành một thế bao vây. Trong hoàn cảnh ấy, Mao chỉ có thể phái người tin cẩn đến đến Việt Nam, giúp đảng Cộng Sản Việt triển khai thế trận “chiến tranh nhân dân kiểu Mao” để đối phó với đế quốc Pháp và có thể cả Tàu Quốc Dân Đảng.

    Ông Hồ và đảng Cộng Sản Việt có lẽ đủ thực tế để biết không thể tự ḿnh thắng Pháp mà chỉ mong kéo dài cuộc chiến cho đến ngày Mao thắng Tưởng. Mối lo trước mắt là làm sao sống sót, làm sao thoát khỏi t́nh trạng nguy ngập “một cổ 2 tṛng”, “tứ bề thọ địch”!?

    Đúng lúc ấy, tháng 11/1945 Nguyễn Sơn xuất hiện tại Hà Nội - mang dáng dấp của một cứu tinh.

    Đúng người, đúng việc

    Ở bên Tàu tên ông là Hồng Thuỷ, khi bí mật trở về Việt Nam hoạt động để che giấu bớt thân thế, nhất là đối với t́nh báo Trung Hoa Dân Quốc, t́nh báo Pháp và t́nh báo Mỹ, đổi tên là Nguyễn Sơn.

    Nguyễn Sơn, tên thật là Vũ Nguyên Bác sinh năm 1908 tại Hà Nội, gia đ́nh tư sản, nguyên học viên trường sư phạm tức là được giáo dục theo lối Pháp, kém ông Hồ Chí Minh 18 tuổi nên thuộc thế hệ cùng trang lứa với các nhân vật Cộng Sản Việt nổi tiếng làm việc bên cạnh ông Hồ trong thời kỳ đầu như Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Vơ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Hoan, Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Quốc Việt, Chu Văn Tấn, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Trần Tử B́nh, Lê Thiết Hùng, Trần Đăng Ninh, Phùng Chí Kiên, Hoàng Sâm, Nguyễn Chí Thanh... Chẳng hạn Nguyễn Sơn cùng tuổi với Lê Thiết Hùng nhưng kém Hoàng Văn Hoan 3 tuổi, kém Phạm Văn Đồng 2 tuổi, kém Trường Chinh và Lê Duẩn một tuổi, hơn Chu Văn Tấn 1 tuổi, hơn Trần Tử B́nh 2 tuổi, hơn Vơ Nguyên Giáp và Lê Đức Thọ 3 tuổi. Tuy nhiên Nguyễn Sơn độc đáo, khác biệt hẳn những người này:

    1. Kể từ 1925 đến 1945, Nguyễn Sơn đi làm Cách Mạng Cộng Sản nhưng Cách Mạng Cộng Sản Tàu chứ không phải là Cách Mạng Cộng Sản Việt. Chỉ hoạt động với đảng Cộng Sản Tàu, không hoạt động với đảng Cộng Sản Việt.

    2. Nguyễn Sơn về Việt Nam, sau 20 năm hoàn toàn vắng bóng, với tư cách là một đảng viên đảng Cộng Sản Tàu, do Mao Trạch Đông đích thân chọn để giúp đảng Cộng Sản Việt đối phó với t́nh trạng dầu sôi, lửa bỏng lúc bấy giờ. Trước khi lên đường nhận nhiệm vụ Hồng Thuỷ/ Nguyễn Sơn đă được Mao tiếp kiến dặn ḍ trước sự hiện diện của cả Chu Ân Lai và Diệp Kiếm Anh tại thủ phủ Diên An (sách Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương, trang 225). Sau 5 năm làm nhiệm vụ ở Việt Nam, trở lại Trung Cộng năm 1950 Hồng Thuỷ/Nguyễn Sơn được bố trí cư trú ngay ở Trung Nam Hải là một thứ “Tử Cấm Thành” của đảng Cộng Sản Tàu tại thủ đô Bắc Kinh.



    Mao Trạch Đông biệt phái Hồng Thuỷ/ Nguyễn Sơn giúp đảng CSVN đánh Pháp trong thời gian 1945-1950, không khác ǵ biệt phái Vi Quốc Thanh, La Quy Ba làm công tác tương tự trong thời gian 1950-1954, hay biệt phái Trần Canh đến Việt Nam làm một công tác đặc biệt có tầm quan trọng chiến lược là thiết kế và hướng dẫn một lực lượng Việt Minh - vừa được Trung Cộng bí mật huấn luyện và trang bị trên đất Tàu - mở chiến dịch Biên Giới tháng 9/ 1950 nối liền thành một giải “đại hậu phương Trung Quốc” với “khu Giải Phóng” ở miền Bắc Việt Nam sau khi đă tiêu diệt quân Pháp ở Đông Khê và Thất Khê. Dĩ nhiên Mao căn cứ vào mỗi t́nh thế cụ thể để chọn người thích hợp theo nguyên tắc “đúng người, đúng việc”.

    3. Theo lời của Trung Tướng Trần Độ trong bài hồi kư “Tướng Nguyễn Sơn và tôi” th́ ông Hồ Chí Minh trong buổi đầu đă giới thiệu Nguyễn Sơn với các đồng chí Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt là một người “thân kinh bách chiến” và hiển nhiên vào thời điểm lịch sử đó chính ông Hồ không thấy có cộng sự viên nào khác có thể b́ kịp với người vừa mới trở về. Không ai có bề dầy kinh nghiệm về các hoạt động chính trị và quân sự của Nguyễn Sơn. Người có ít nhiều kinh nghiệm về hoạt động chính trị như Tổng Bí Thư Trường Chinh th́ lại không có kinh nghiệm về quân sự, người có ít nhiều kinh nghiệm quân sự như Bộ Trưởng Quốc Pḥng Chu Văn Tấn lại không có kinh nghiệm về hoạt động chính trị. Nguyễn Sơn, vào thời điểm lịch sử 1945-1950, là con người Cộng Sản Việt Nam “văn vơ song toàn”.

    Một người Việt Nam khác dưới trướng của ông Hồ cũng được coi là “văn vơ song toàn” nhưng là về sau này chứ không phải trong giai đoạn 5 năm đầu khó khăn ấy và người đó là Vơ Nguyên Giáp. Ông Giáp có bằng cấp đại học, có kiến thức kinh điển nhưng đối chiếu với Nguyễn Sơn th́ kinh nghiệm chính trị của ông chỉ giới hạn trong giới học thức và hơn 1 năm tù Thực Dân Pháp. Thành tích quân sự của Vơ Nguyên Giáp c̣n mỏng manh hơn nữa - ông Giáp chuẩn bị nhưng chưa kịp đi thụ huấn quân chính ở Diên An th́ đă được gọi về để chỉ huy đội quân du kích vơ trang tuyên truyền năm 1944. Kinh nghiệm chiến đấu gọi là chống Pháp, chống Nhật vào thời điểm lịch sử đặc biệt ấy của ông Giáp thực ra chỉ gồm trên dưới một năm “đánh vơ” trong cái cái “khoảng trống” ngẫu nhiên được tạo ra trong buổi giao thời (1944-1945) do các thế lực đối nghịch triệt hạ lẫn nhau, trung hoà lẫn nhau trên đất nước Việt Nam - Nhật lật đổ Pháp nhưng chưa kịp làm chủ hẳn Đông Dương th́ đă phải buông súng đầu hàng Đồng Minh.

    Vơ Nguyên Giáp chỉ kém Nguyễn Sơn 3 tuổi nhưng kinh nghiệm làm cách mạng Cộng Sản, nhất là kinh nghiệm thực tiễn về các khía cạnh của “chiến tranh nhân dân” th́ kém hơn Nguyễn Sơn gần 20 năm!

    4. Ông Hồ Chí Minh lúc về sau có thể thấy lời ca ngợi “thân kinh bách chiến” dành cho Nguyễn Sơn có hậu quả bất lợi nhưng “thân kinh bách chiến” đúng ra vẫn chỉ phản ảnh một phần cuộc đời tranh đấu của Nguyễn Sơn trên đất Trung Hoa.

    Nguyễn Sơn đến Trung Hoa năm 1925 lúc 17 tuổi. Tốt nghiệp khoá 4 trường quân sự nổi tiếng Hoàng Phố năm 1926 và là một trong 15 tướng lănh của Trung Cộng xuất thân từ ngôi trường này như Lâm Bưu, Từ Hướng Tiền, Trần Canh, Lưu Chí Đan... Trường Hoàng Phố là biểu tượng 2 đảng Quốc-Cộng Trung Hoa hợp tác lần đầu theo chủ trương “Liên Nga, dung Cộng” của lănh tụ Trung Hoa Quốc Dân Đảng Tôn Dật Tiên. Hoàng Phố là nơi Tưởng Giới Thạch làm Hiệu Trưởng/ Tư lệnh, Liêu Trung Khải làm chính uỷ, Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ làm giảng viên, Chu Ân Lai làm giám đốc học vụ, Mikhail Borodin phái viên cao cấp của Stalin làm cố vấn.



    Năm 1927 bùng nổ tranh chấp Quốc-Cộng ở Trung Hoa, Nguyễn Sơn gia nhập đảng Cộng Sản Tàu và tham gia cuộc khởi nghĩa Quảng Châu dưới sự chỉ huy trực tiếp của Diệp Kiếm Anh. Đảng Cộng Sản Tàu, ở thế yếu hơn, bị chính quyền Trung Hoa Dân Quốc của Tưởng Giới Thạch đặt ra ngoài ṿng pháp luật và bị đàn áp khốc liệt, phải bỏ thành thị chạy về các vùng rừng núi, nông thôn, phát động chiến tranh nhân dân theo sách lược của Mao, kết hợp du kích chiến với vận động chiến, rồi tuyên bố thành lập Cộng Hoà Sô Viết Trung Hoa năm 1931, tạo t́nh trạng một quốc gia trong một quốc gia.

    Thời kỳ 1929-1931 Nguyễn Sơn, nằm gai nếm mật, chiến đấu trong hàng ngũ Hồng Quân Công Nông ở vùng Sô Viết Trung Ương thuộc tỉnh Giang Tây và Phúc Kiến, lần lượt trải qua các chức vụ chính trị viên đại đội, chính uỷ trung đoàn, chủ nhiệm chính trị sư đoàn, góp phần đẩy lui nhiều cuộc tấn công vây quét quan trọng của chính quyền Trung Hoa Dân Quốc.

    1932: Nguyễn Sơn làm giảng viên chính trị trường quân chính Trung Ương cùng lúc với La Quy Ba. Hoàn toàn hoà nhập vào môi trường Trung Hoa về mọi khía cạnh kể cả văn hoá, ngôn ngữ như ứng khẩu diễn thuyết trước các đám đông, làm báo, viết văn, làm thơ, sinh hoạt, chiến đấu không khác ǵ một cán bộ Cộng Sản bản lĩnh người Tàu chính hiệu. Năm 1933 Nguyễn Sơn sáng lập đoàn kinh kịch đầu tiên của đảng Cộng Sản Tàu phục vụ cổ vũ chiến đấu, tự ḿnh viết kịch, làm đạo diễn và diễn xuất.
    Last edited by dtkcamau; 22-02-2020 at 01:14 PM.

  2. #2
    Member
    Join Date
    24-05-2016
    Posts
    6,466

    Nguyễn Sơn: Thầy hay Đối thủ Hồ Chí Minh

    Nguyễn Sơn: Thầy hay Đối thủ Hồ Chí Minh
    Nghi vấn lịch sử về quan hệ giữa chủ tịch đảng CSVN Hồ Chí Minh và “Lưỡng quốc tướng quân” Nguyễn Sơn: Thầy tṛ hay đối thủ chính trị?
    P2
    [IMG][/IMG]
    Nhiệt t́nh, trung thành, tận tuỵ, xông xáo, nóng tính nhưng phóng khoáng, vui nhộn, tŕnh độ trí thức ngang bằng hay c̣n cao hơn các cán bộ lănh đạo Cộng Sản Tàu khác, lại thông minh, hiếu học, ham đọc sách, có tư duy chiến lược, thích nghi dễ dàng với mọi hoàn cảnh cộng với các tài năng thiên phú đă khiến Hồng Thuỷ sớm lọt vào mắt xanh và trở nên gần gũi, thân thiết với các lănh tụ cao cấp nhất như Mao Trạch Đông, Chu Đức, Chu Ân Lai, Diệp Kiếm Anh, Nhiếp Vĩnh Trản, Trần Nghị, Lưu Bá Thừa, Đặng Tiểu B́nh, Bành Đức Hoài, Nhậm Bật Thời, Lư Phú Xuân, Thái Xương... Những người này thường gọi Nguyễn Sơn là “Tiểu Hồng” một cách thân mật, tự nhiên. Không một người Cộng Sản Việt Nam nào khác lại có quan hệ “người nhà” đối với đảng Cộng Sản Tàu như trường hợp của Hồng Thuỷ/Nguyễn Sơn.

    Tháng 1/1934 Hồng Thuỷ/Nguyễn Sơn được bầu làm Uỷ Viên Trung Ương của Hội Nghị Đại Biểu Toàn Quốc lần thứ hai của Cộng Hoà Sô Viết Trung Hoa với tư cách là đại biểu của “dân tộc thiểu số” (dân tộc Việt!). Cùng với Hồng Thuỷ/Nguyễn Sơn có thêm một người thứ hai gốc Triều Tiên cũng được chọn và cũng với tư cách là đại biểu của dân tộc thiểu số (dân tộc Triều Tiên!). Đây là một tiết lộ quan trọng của đảng Cộng Sản Tàu được t́m thấy ở trang số 113-114 sách “Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương”, rất cần lưu ư!

    Cuối năm 1934 Hồng Thuỷ/ Nguyễn Sơn tham gia cuộc Trường Chinh hay Vạn Lư Trường Chinh nổi tiếng của đảng Cộng Sản Tàu, trực tiếp dưới quyền Chu Đức lănh tụ số 1 của Hồng Quân lúc ấy đang điều khiển một trong 2 cánh quân chính. Trước đó, Hồng Thuỷ chiến đấu trong đoàn cán bộ Trung Ương do Trần Canh chỉ huy và cũng phải luôn luôn xung trận như các đơn vị khác (Trần Canh sau này là danh tướng từng đánh nhau với đại quân của Nhật trong cuộc chiến Trung-Nhật, từng thống lănh mấy chục vạn quân trong nội chiến Quốc-Cộng trước khi bí mật sang Việt Nam điều khiển chiến dịch khai thông biên giới, rồi làm phó Tổng Tư Lệnh quân đội Cộng Sản Tàu đánh nhau với Mỹ tại chiến trường Triều Tiên, cuối cùng là Bộ Trưởng Quốc Pḥng của Trung Cộng).



    Trường Chinh là cái tên văn vẻ của cuộc hành quân triệt thoái khỏi căn cứ chính ở Giang Tây v́ không chịu nổi áp lực “vây và diệt” của chính quyền Trung Hoa Dân Quốc. Cuộc Trường Chinh kéo dài hơn một năm trời (1934-1935), theo lộ tŕnh hơn 12 ngàn cây số quanh co rất khó định trước, lúc rẽ về Tây, lúc phải đi ṿng quanh như kiến ḅ trong miệng chén, lúc Bắc tiến, lúc tấn công các đồn bốt, thành tŕ để lấy đường đi, lúc chạy trốn, lúc bị phục kích, đánh chặn, bị săn đuổi từ trên trời, dưới đất, lúc ngày nghỉ, đêm di hành, vượt bao sông lớn, sông nhỏ, rừng rậm, núi tuyết, đầm lầy, thảo nguyên, các địa h́nh hiểm trở... xuyên qua 11 tỉnh của nước Tàu mênh mông như Quảng Đông, Quảng Tây, Quư Châu, Vân Nam, Tứ Xuyên, Cam Túc, Ninh Hạ... Khởi đầu, quân số khoảng 100 ngàn, khi đến được căn cứ Diên An của Lưu Chí Đan trong vùng cao nguyên hoàng thổ phía bắc của tỉnh Thiểm Tây, gần với lănh thổ Nội Mông th́ chỉ c̣n khoảng 5 ngàn. Đại đa số đă chết trận, chết bệnh, chết đói, chết khát, mất tích, đào ngũ... Những người sống sót sau những gian khổ tận cùng đă trở nên thành phần kiên định nhất, bản lĩnh nhất, cố kết với nhau nhất trong đảng Cộng Sản Tàu và nhờ thế họ chiếm được toàn cơi nước Tàu 15 năm sau. Hồng Thuỷ/Nguyễn Sơn là một trong chiến sĩ làm nên “kỳ tích” thiên “anh hùng ca” này của đảng Cộng Sản Tàu, tức là thuộc “một giai cấp quư tộc đỏ” trong nước Trung Hoa mới - giai cấp của những người Trường Chinh (The Long Marchers)!

    (Tổng Bí Thư của đảng Cộng Sản Việt - tên thật Đặng Xuân Khu nhưng được biết đến nhiều hơn bằng tên hiệu Trường Chinh, cái tên biểu lộ sự khâm phục, ngưỡng mộ cuộc Trường Chinh “made in China” này - chắc phải có một cảm giác rất đặc biệt, khi lần đầu giáp mặt người Việt Nam duy nhất, bằng xương bằng thịt, đă tham dự, chiến đấu và sống sót sau cuộc Trường Chinh thay đổi lịch sử. Rất tiếc không ai được biết cái cảm giác đặc biệt ấy của “đồng chí Trường Chinh” thực sự thế nào bởi v́ giống như hầu hết các cộng sự viên thân cận nói trên của ông Hồ, Trường Chinh cũng tránh né việc công khai đề cập đến nhân vật Hồng Thuỷ/ Nguyễn Sơn trong suốt cuộc đời. Người ta tất nhiên không khỏi thắc mắc tại sao Trường Chinh lại phải “kín tiếng” như thế?)

    Năm 1936 Hồng Thuỷ/Nguyễn Sơn là một trong 40 học viên khoa đầu tiên của trường đại học Hồng Quân Công Nông Trung Quốc vừa chính thức khai giảng. Các học viên là cán bộ cấp trung đoàn và sư đoàn. Mao Trạch Đông đích thân làm chính uỷ kiêm thầy giáo, Lâm Bưu làm hiệu trưởng kiêm học viên. Mao dạy về “các vấn đề chiến lược của chiến tranh cách mạng Trung Quốc”, Hồng Thuỷ và các học viên khác tiếp thu, nghiên cứu, thảo luận, phát biểu sôi nổi, cùng trao đổi các bài học kinh nghiệm đấu tranh chính trị, quân sự trong 10 năm qua. Hoạt động ngoại khoá c̣n có diễn kịch (Hồng Thuỷ dĩ nhiên có lúc là kịch sĩ) và chơi thể thao. Vợ chồng Chu Đức, Tổng Tư Lệnh hồng quân, xếp cũ của Hồng Thuỷ cũng thường đến trường chơi bóng rổ cùng đội Hồng Thuỷ và các học viên khác, rất là “huynh đệ chi binh”. (Hồng Thuỷ thân với Chu Đức đến độ thời gian làm việc và cư trú ở Bắc Kinh từ mùa hè 1954 trở đi, buổi tối ăn cơm xong Hồng Thuỷ thường đi bách bộ rẽ vào nhà Chu Đức hàn huyên chuyện cũ v́ hai gia đ́nh ở chung trong một khu phố (trang 358, sách “Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương”))

    Tháng 1/1937 Hồng Thuỷ tốt nghiệp đại học Hồng Quân và về làm việc ở Tổng Bộ Chính Trị Hồng Quân Công Nông, giữ chức Chủ nhiệm hội đồng động viên khu 4 thuộc quân khu Tấn Sát Kư gồm 3 tỉnh Sơn Tây, Sát Cáp Nhĩ, Hà Bắc (mỗi tỉnh ở bên Tàu thường lớn suưt soát với cả nước Việt Nam). Hồng Thuỷ cũng làm chủ nhiệm nhật báo Tấn Sát Kư, cơ quan ngôn luận chính thức của Đảng uỷ biên khu. Lúc này hai đảng Cộng Sản và Quốc Dân Đảng Trung Hoa, sau sự biến Tây An (Tưởng Giới Thạch bị tướng thuộc hạ bắt cóc, được trả tự do nhưng bị ép phải ngưng nội chiến để “đoàn kết kháng Nhật”). Mao cũng đành phải chấp nhận trên nguyên tắc sự lănh đạo của Tưởng, băi bỏ cái gọi là “Cộng Hoà Sô Viết Trung Hoa”, đổi tên Hồng Quân Công Nông thành Bát Lộ Quân và đoàn quân Cộng Sản này đă phát triển cực kỳ nhanh chóng trong những năm “đoàn kết kháng Nhật”. Dưới cờ của Bát Lộ Quân, Hồng Thuỷ viết chính luận trên báo, viết văn, thơ, kịch thơ, trường thi... tích cực tuyên truyền “Kháng Nhật... cứu quốc”... gây được ảnh hưởng lớn, nâng cao tinh thần quân dân trong suốt 8 năm chiến tranh Trung-Nhật (1937-1945). Cũng trong thời gian này Hồng Thuỷ đảm nhiệm cả việc giảng dạy tại Đại Học Kháng Nhật (là tên mới của Đại Học Hồng Quân Công Nông Trung Quốc đă nói ở trên) trong quân khu Tấn Sát Kư để bồi dưỡng nhân tài chỉ huy cho Bát Lộ Quân. Không phải là giảng dạy b́nh thường mà vừa giảng dạy, vừa di chuyển, vừa chạy giặc, vừa đánh giặc, rất vất vả, căng thẳng.

    Năm 1938, ở tuổi 30, tại vùng căn cứ Kháng Nhật Tấn Sát Kư, Hồng Thuỷ kết hôn với Trần Kiếm Qua 24 tuổi (sinh năm 1914), một đảng viên tích cực của đảng Cộng Sản Tàu, chủ tịch hội Phụ Nữ của huyện Ngũ Đài, tỉnh Sơn Tây (sau làm Viện Trưởng một Viện Giáo Dục Mẫu Giáo và chức vụ sau cùng trước khi nghỉ hưu là Phó Giám Đốc sở Giáo Dục Bắc Kinh). Một cuộc hôn nhân trong thời loạn, trai tài gái sắc, chung lư tưởng Cộng Sản - “yêu nhau là cùng nh́n về một hướng”, nhiệm vụ vẫn là trên hết. T́nh thâm nghĩa trọng nhưng tương đối ngắn ngủi - 2 mặt con, 7 năm vợ chồng (1938-1945). Hồng Thuỷ về Việt Nam công tác, lấy người khác. Người vợ, người đồng chí trong đảng Cộng Sản Tàu không tái hôn, dù cảm thấy rất cay đắng v́ bị phụ t́nh.

    5. Trung Tướng Trần Độ, sinh năm 1923, kém Nguyễn Sơn 15 tuổi, kể lại những ngày đầu tiếp xúc với Nguyễn Sơn (nguyên văn): “...Tôi thấy ngay rằng ông là bậc đàn anh, một đàn anh có tham dự cuộc Trường Chinh bên Trung Quốc. C̣n ông th́ xem xét cái này cái kia, không nói ǵ, song qua thái độ biểu hiện xem chừng ông có ư xem thường”.

    Một lần khác, cuối năm 1947, lúc Nguyễn Sơn đang làm Tư Lệnh Khu 4 (tức chiến khu 4), Trần Độ, nguyên chính uỷ mặt trận Hà Nội, làm trưởng đoàn hướng dẫn một số cán bộ văn nghê sĩ có tên tuổi như Nguyễn Xuân Khoát, Mai Văn Hiến, Nguyễn Công Hoan... đến làm công tác văn hoá, kể tiếp (nguyên văn): “...Khi tôi tới tŕnh giấy tờ, ông Sơn thấy danh sách có mấy tên nhà văn liền hẹn mời đích danh các ông, c̣n cán bộ chính trị ông không nhắc tới. Tôi liền dẫn mấy ông nhà văn vào pḥng khách, là gian đầu của cái nhà tranh vách đất, có bộ ghế mây cũng tươm tất. Tôi kéo ghế ngồi lại. Ông Sơn chào khách:

    - Hôm nay thấy có các anh văn nghệ sĩ, tôi mời mấy anh lại nói chuyện văn nghệ chơi.

    Thấy tôi cũng ngồi lại, ông chỉ vào mặt bảo:

    - Mày ngồi đây làm ǵ? Mày biết chó ǵ văn nghệ.

    Ông bổ báng như vậy, nhưng tôi cũng hiểu là lời nói thân t́nh theo phong cách của ông.

    Tôi đáp:

    - Tôi muốn ngồi nghe các anh nói chuyện để học tập.

    Ông ấy liền bảo:

    - Ừ, th́ cứ ngồi đấy...”

    Phong cách rất đặc biệt nhưng đồng thời cho thấy Nguyễn Sơn là một người rất tự tin, rất kẻ cả!

    6. Tháng 2/1946 chính quyền Tưởng phải tập trung lực lượng đối phó với với Mao nên kư hiệp định với Pháp thừa nhận quyền bảo hộ của Pháp ở Đông Dương đổi lại việc Pháp trả lại các tô giới ở Thượng Hải, Hán Khẩu, Quảng Châu và nhường lại đường sắt ở Vân Nam. Ngày 6/03/1946 Hồ Chí Minh kư thoả thuận với Pháp đồng ư cho Pháp đưa quân vào Miền Bắc Việt Nam thay thế quân Tưởng để... giải giới quân Nhật. Thực ra, chính quyền Việt Minh ở thế yếu, không kư cũng không cản được Pháp đổ bộ. Ông Hồ tạm mừng thoát nạn Tàu Tưởng và loại trừ được các đảng phái quốc gia “phản động”, chỉ c̣n phải đối phó với một địch thủ là Thực Dân Pháp. Dù vậy, lực lượng quân sự của Pháp vẫn mạnh hơn Việt Minh mấy chục lần. Việc kư kết chỉ có nghĩa đảng

    Cộng Sản Việt mua thời gian để chuẩn bị cho cuộc chiến tranh mà họ biết sớm muộn sẽ bùng nổ lớn hơn và lan tràn khắp miền Bắc.

    Trước đó, chưa kịp ngồi nóng chỗ ở Hà Nội, tháng 12/1945, Nguyễn Sơn, không phải Vơ Nguyên Giáp, được tức tốc điều động ra ngay tuyến đầu chống đại quân của Pháp đang đánh phá dữ dội để “b́nh định” phần lănh thổ phía Nam vĩ tuyến 16 - với tư cách Chủ Tịch Uỷ Ban Kháng Chiến miền Nam Việt Nam. Với chức vụ này, Nguyễn Sơn nghiễm nhiên là nhân vật số 1 của một nửa nước Việt Nam cho đến tháng 12/1946. Ngược lại chính Nguyễn Sơn, với một quân số ít ỏi, vũ khí thiếu thốn, ngân khố trống rỗng phải đối phó với gần như toàn bộ binh lực của Pháp, vào cuối năm 1946 đă lên tới con số 90,000.

    Sắc lệnh 183 bổ túc thành phần Uỷ Ban Kháng Chiến Miền Nam do Chủ Tịch Chính Phủ nước VNDCCH kư ngày 24/09/1946 có nội dung như sau:

    “Chiếu đề nghị của Chủ Tịch Quân Sự Uỷ Viên Hội và Bộ Trưởng Quốc Pḥng, cử:

    Ô. Nguyễn Sơn: Chủ Tịch Uỷ Ban Kháng Chiến miền Nam Việt Nam
    Nguyễn Văn Tây: Phó Chủ Tịch
    Phạm Văn Bạch: Uỷ Viên
    Cao Hồng Lĩnh: -
    Lê Duẩn: -
    Nguyễn Chánh: -
    Huỳnh Văn Tiểng: -

    Chủ Tịch Chính Phủ Việt Nam
    (kư tên: Huỳnh Thúc Kháng)”

    Sắc lệnh - do ông Huỳnh Thúc Kháng kư theo đề nghị của Vơ Nguyên Giáp (chủ tịch quân sự uỷ viên hội) và chắc là theo chỉ thị của Hồ Chí Minh đang bận thương thuyết một giải pháp hoăn xung với chính phủ Pháp ở Paris - cho thấy ngay cả Lê Duẩn cũng là thuộc cấp của Nguyễn Sơn vào những năm tháng ấy.

    Cuối năm 1946 ông Hồ c̣n kư một sắc lệnh khác cử Nguyễn Sơn làm Tham Mưu Trưởng bộ Quốc Pḥng (lúc đó không có ai là Tổng Tham Mưu Trưởng hay là không có chức Tổng Tham Mưu Trưởng).

    Trong khi làm chủ tịch Uỷ Ban Kháng Chiến Miền Nam Việt Nam, Nguyễn Sơn c̣n làm tư lệnh kiêm chính uỷ khu 5 và 6 thuộc miền Nam Trung Bộ gồm nhiều tỉnh Cao Nguyên như Công Tum, Đắc Lắc, Gia Lai và các tỉnh Duyên Hải như Quảng Nam, Quảng Ngăi, B́nh Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận... đang bị quân Pháp tấn công ác liệt. Từ giữa 1947 đến cuối 1949 Nguyễn Sơn làm tư lệnh kiêm chính uỷ khu 4 là vùng đất chiến lược hiểm yếu nhất nh́ của Việt Nam gồm các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng B́nh, Quảng Trị, Thừa Thiên.

    Tất cả đều là những trách nhiệm trọng yếu, nặng nề nơi đầu sóng, ngọn gió.

    7. Ở tất cả mọi nơi, Nguyễn Sơn đều nắm toàn quyền, thực thi sáng kiến của chính ḿnh, hành xử một cách rất độc lập, ảnh hưởng đến các chính sách của Trung Ương đảng Cộng Sản Việt chứ không phải ngược lại. Trong 5 năm đầu tiên trong lịch sử kháng chiến chống Pháp (1945-1950) sự đóng góp nói chung của Nguyễn Sơn rất lớn, rất quan trọng - lớn hơn, quan trọng hơn là đă được đảng Cộng Sản Việt công nhận và ghi nhận. Vậy, Nguyễn Sơn đă thực sự đóng góp cho cho cuộc kháng chiến chống Pháp như thế nào?

    Khi rời Diên An để về Việt Nam, hành lư quan trọng nhất được nhắc đến của Hồng Thuỷ/ Nguyễn Sơn là các tác phẩm thuộc loại cẩm nang chiến lược của Mao Trạch Đông mà Hồng Thuỷ/ Nguyễn Sơn đă cặm cụi dịch ra tiếng Việt từ mấy tháng trước, chẳng hạn như “Bàn về cách đánh lâu dài”, “Cách Mạng Trung Quốc và Đảng Cộng Sản Trung Quốc”... (trang 224, “Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương”). Chỉ riêng điểm này cũng có thể h́nh dung và cảm nhận được cái vai tṛ, sứ mạng mà “hoàng đế kiêm giáo chủ” Mao Trạch Đông giao cho “tướng quân kiêm đệ tử” Hồng Thuỷ thi hành ở vùng đất phương Nam hết sức thiết yếu đối với Trung Quốc: Rút tỉa những bài học từ Cách Mạng CS Tàu để áp dụng uyển chuyển, thích nghi vào Cách Mạng CS Việt, Hồng Thuỷ sẽ là lư thuyết gia, chiến lược gia, kiến trúc sư chính thi triển phép mầu “chiến tranh nhân dân kiểu Mao” chống lại các thế lực thù địch.

    “Vạn sự khởi đầu nan”, Nguyễn Sơn đáng gọi là nhà lư luận quân sự cách mạng Cộng Sản đầu tiên của Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. Ông Phạm Xanh, thuộc trường Khoa Học Xă Hội Việt Nam, tin rằng chỉ trong 5 năm ngắn ngủi công tác ở Việt Nam Nguyễn Sơn viết rất nhiều, báo và sách, nhưng ông mới chỉ t́m thấy 3 cuốn sách (không kể các sách dịch) là các cuốn “Chiến thuật”, “Dân Quân, một lực lượng chiến lược”, “Chủ nghĩa Lenin” tŕnh bày các nguyên tắc căn bản một cách sáng sủa, thực tiễn, lôi cuốn. (Ông không cho biết tại sao những tác phẩm của tác giả Nguyễn Sơn đă không được bảo quản đúng mức để bị thất lạc.)

    Áp dụng lư thuyết vào thực tế trên căn bản tri hành hợp nhất và 20 năm kinh nghiệm học tập, chiến đấu trong nội chiến Quốc-Cộng Trung Hoa, trong chiến tranh Trung-Nhật - Lấy yếu đánh mạnnh, trường kỳ kháng chiến, toàn dân đánh giặc... Nguyễn Sơn làm được rất nhiều việc trong nửa đầu tiên của cuộc kháng chiến chống Pháp ở Việt Nam:

    - Mở trường Thiếu Sinh Quân đầu tiên.

    - Mở trường Văn Hoá Kháng Chiến đầu tiên.

    - Mở trường Lục Quân tại Quảng Ngăi để gấp rút đào tạo cán bộ quân chính chỉ huy, tự ḿnh làm hiệu trưởng kiêm giảng viên.

    - Làm hiệu trưởng kiêm giảng viên trường Vơ Bị Trần Quốc Tuấn là trường đại học quân sự ở miền Bắc Việt Nam.

    - Thành lập các lực lượng dân quân song song với việc tạo dựng các lực lượng du kích, lực lượng chính quy cấp tiểu đoàn, trung đoàn.

    - Sử dụng văn hoá, văn nghệ làm vũ khí tranh đấu, đăi ngộ các văn nghệ sĩ, một cách rất đặc biệt thân t́nh, cho họ nhiều tự do sáng tác và thường xuyên giao lưu với họ. Nguyễn Sơn từng làm chủ hôn cho Phạm Duy lấy Thái Hằng ở Thanh Hoá trong chiến khu 4 và những bài hát Kháng Chiến nổi tiếng của Phạm Duy như “bà mẹ Gio Linh” đă được sáng tác trong “lănh địa” của Nguyễn Sơn. Các văn nghệ sĩ, trí thức đổ về khu 4 nhiều vô số kể. Trong “hồi kư Phạm Duy tập 2”, nhạc sĩ Phạm Duy viết: “Tướng Sơn ra đi là tôi thành một người bị bỏ quên ở chợ Neo. Vị Tư Lệnh hiện nay là Hoàng Minh Thảo và Uỷ Viên Chính Trị Trần Văn Quang không phải là người biết dùng văn nghệ sĩ...”

    - Thân dân, gần dân, hoà ḿnh với dân, chan hoà với binh sĩ, cán bộ, tác phong rất dân dă (không tiền hô, hậu ủng, quần áo xuề xoà, ra vào nơi chợ búa, đi uống cà phê, đánh cờ tướng, chơi đá banh, vào nhà nông dân lăn ra ngủ, mặc quần đùi tập chạy với bộ đội, cong ḿnh đạp xe đạp xông xáo khắp nơi, đăng đàn diễn thuyết tự biên, tự diễn, hùng biện, lôi cuốn).

    - Thường xuyên tổ chức tập trận và tổ chức đánh trận thật theo các nguyên tắc của du kích chiến (địch tiến th́ ta lùi, địch đóng quân th́ ta quấy nhiễu, địch rút lui th́ ta truy kích; nghiên cứu cẩn thận, chuẩn bị kỹ, tập trung lực lượng áp đảo, đánh bất ngờ vào chỗ yếu nhất của địch v.v...)

    - Tổ chức các Đại Hội Tập tức là những khoá rèn Cán, chỉnh Quân, hội thảo quân chính, thi điền kinh, thi bắn, đánh trận giả... dẫn đến các phong trào thi đua như chiến sĩ lập công, nông dân thi đua sản xuất, văn nghệ sĩ thi đua sáng tác...

    - “Đổi không gian lấy thời gian” tức là chấp nhận mất đất lúc đầu để bảo toàn và phát triển lực lượng. Lui quân mà không loạn, vẫn tinh thần quyết chiến, quyết thắng. Chỉ giữ những nơi quan trọng, hiểm yếu, thiết lập các căn cứ địa, các vùng giải phóng, các mạng lưới an ninh, t́nh báo nhân dân, tổ chức các hoạt động kinh tế, sản xuất, phân phối tự túc, tự cường.

    - Vùng đất lịch sử “địa linh nhân kiệt”, nơi có đồng bằng sông Mă, sông Cả, dân đông, núi rừng hiểm trở Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh thuộc quân khu 4, “vương quốc” của Tư Lệnh kiêm Chính Uỷ Nguyễn Sơn đă được củng cố thành một căn cứ địa quan trọng của Kháng Chiến chống Pháp, song song với căn cứ Việt Bắc - c̣n an toàn và bất khả xâm phạm hơn cả Việt Bắc, có khả năng chi viện mọi mặt cho các chiến trường khác, làm kiểu mẫu cho cả nước noi theo, góp phần vô hiệu hoá chiến lược đánh mạnh, thắng nhanh/ tốc chiến, tốc thắng của quân viễn chinh Pháp...


    C̣n tiếp. Bài 2: Thầy - tṛ hay đối thủ.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 21
    Last Post: 11-09-2018, 07:42 AM
  2. Replies: 64
    Last Post: 24-10-2011, 03:47 AM
  3. LM NGUYỄN VĂN LÝ kêu gọi: Cao trào chống giặc Tầu
    By Tiếng Xưa in forum Thông Báo Cộng Đồng
    Replies: 2
    Last Post: 16-06-2011, 01:43 AM
  4. Replies: 3
    Last Post: 08-04-2011, 03:28 AM
  5. Replies: 4
    Last Post: 07-03-2011, 08:57 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •